.
Con
đường
hạnh
phúc
Viên
Minh
&
Trần
Minh
Tài
--- o0o ---
Tiến
trình
giải
thoát
Nói
tới
tiến
bộ
chúng
ta
thường
liên
tưởng
đến
sự
lớn
mạnh
của
khoa
học
trong
mấy
thế
kỷ
gần
đây.
Quả
thật
nhân
loại
đã
tiến
xa
trong
lãnh
vực
văn
minh
vật
chất
và
đã
thành
công
phần
nào
trong
nỗ
lực
chinh
phục
tạo
hóa.
Nhưng
còn
tiến
bộ
tinh
thần
nhất
là
về
phương
diện
đạo
đức
thì
sao?
Con
người
đã
thực
sự
độc
lập
đối
với
những
điều
kiện
ngoại
giới
chưa?
Và
một
điều
quan
trọng
hơn
hết
đã
được
Đức
Phật
Thích
Ca
cũng
như
những
nhà
hiền
triết
Đông
Tây
ca
ngợi
là
cuộc
chinh
phục
tự
ngã,
thì
con
người
đã
tiến
bộ
đến
mức
nào?
Một
nhà
tư
tưởng
nói
:
"Tỏ
ra
mình
hơn
người
khác
chưa
phải
là
hay,
hay
hơn
hết
là
có
thể
tỏ
ra
rằng:
Hôm
nay
mình
đã
hơn
chính
mình
ngày
hôm
qua".
Sự
tiến
bộ
mà
nhà
tư
tưởng
trên
vừa
nói
là
một
sự
tiến
bộ
thật
sự
khó
khăn
nhất
mà
cũng
đáng
khuyến
khích
nhất.
Một
hôm
Đức
Phật
dạy
Đại
Đức
Ananda:
"Như
Lai
không
khen
ngợi
sự
chùn
bước
và
ngừng
nghỉ,
mà
chỉ
khen
ngợi
sự
tiến
bộ"
.
Chữ
tiến
bộ
trong
lời
dạy
này
là
nghĩa
chính
của
danh
từ
Dhamma
(Pháp)
vì
Dhamma
là
tiến
bộ
từ
thấp
kém
đến
cao
thượng,
đặc
biệt
nhấn
mạnh
đến
tiến
bộ
tinh
thần
của
mỗi
cá
nhân
trong
cuộc
chinh
phục
tự
ngã.
Đề
cập
tới
tiến
bộ
ta
phải
nói
tới
giai
đoạn.
Vậy
một
người
Phật
tử
tiến
bộ
trong
Đạo
Pháp
phải
trải
qua
những
giai
đoạn
nào
?
Bất
cứ
ai
nghiên
cứu
Đạo
Phật
cũng
đều
biết
rằng
ba
giai
đoạn
của
Dhamma
là:
Sila
(Giới),
Samadhi
(Định)
và
Panna
(Huệ).
Và
đó
chính
là
3
giai
đoạn
trong
tiến
trình
từ
Mê
đến
Giác,
từ
Phàm
tới
Thánh.
Tuy
vậy
trước
khi
bước
vào
ngưỡng
cửa
của
tiến
trình
nầy,
người
Phật
Tử
phải
trải
qua
một
thời
gian
dự
bị
để
un
đúc
đức
tin
(saddha)
vì
đó
là
một
sức
mạnh
tất
yếu
khả
dĩ
thúc
đẩy
họ
đặt
bước
chân
đầu
tiên
vào
cuộc
hành
trình
một
cách
tự
tín
và
cương
quyết.
Đức
tin
không
có
nghĩa
là
một
sự
tin
tưởng
mù
quáng,
mà
phải
là
kết
quả
của
óc
nhận
xét
và
phán
đoán,
để
có
thể
tiên
định
đâu
là
đích
cuối
cùng
của
con
đường
mà
ta
sắp
theo
đuổi.
Tiến
trình
đi
đến
Giải
Thoát
của
người
Phật
tử
được
ví
như
sự
phát
triển
của
một
hạt
giống.
Trước
hết
phải
có
sức
mạnh
cần
thiết
để
mầm
có
thể
phá
vỡ
lớp
vỏ
dày
bao
phủ
bên
ngoài
và
bắt
đầu
tiến
trình
phát
triển.
Sức
mạnh
tất
yếu
đó
là
đức
tin.
Kế
đến,
khi
đã
thoát
ra
khỏi
vỏ,
mầm
cây
bắt
đầu
nẩy
rễ
để
giúp
thân
con
đâm
cành
trổ
lá,
rễ
càng
dài
càng
vững
chắc
thì
thân
cây
càng
mau
lơn.
Rễ
ví
như
Giới,
thân
cây
ví
như
Định,
và
cuối
cùng
khi
đã
lớn
mạnh,
cây
mới
có
thể
đơm
hoa
kết
trái.
Hoa
ví
như
Tuệ
Giác
và
trái
là
quả
vị
Niết
Bàn.
Chúng
ta
đã
đề
cập
đến
đức
tin
như
một
điều
kiện
tiên
quyết
và
tất
yếu
để
bước
vào
tiến
trình
giải
thoát
tự
ngã.
Bay
giờ
chúng
ta
hãy
tìm
hiểu
ba
giai
đoạn
chính
của
tiến
trình
nầy.
1-
Giới
(Sila):
Giới
là
nền
tảng
của
tiến
bộ
tinh
thần.
Giống
như
trong
một
lớp
mẫu
giáo,
người
ta
dạy
trẻ
con
bằng
cử
chỉ,
bằng
những
hình
ảnh
cụ
thể
chứ
chưa
dùng
đến
những
danh
từ
trừu
tượng
phải
vận
dụng
cả
tâm
trí
mới
hiểu
được.
Tuy
nhiên
từ
những
cử
chỉ
vòng
tay,
cúi
đầu,
từ
những
lời
nói
thưa
dạ,
vâng...
dần
dần
các
em
hiểu
biết
được
thế
nào
là
lễ
độ.
Hình
ảnh
một
bà
mẹ
đang
ru
con
ngủ,
người
cha
lo
làm
lụng
nuôi
gia
đình...
giúp
các
em
có
thể
biết
thế
nào
là
tình
thương.
Cũng
vậy,
Giới
nhằm
cải
thiện
hành
động
và
lời
nói
cho
chân
chính
để
đưa
đến
một
tâm
hồn
trong
sạch
và
sáng
suốt.
Đối
với
hàng
Thinh
Văn
hay
Bồ
Tát,
cư
sĩ
tại
gia
hay
xuất
gia
đều
xem
giới
là
trọng.
Kinh
Bồ
Tát
Giới
viết:
Giới
như
đại
minh
đăng
Năng
tiêu
trương
dạ
ám
Giới
như
chơn
bảo
kính
Chiếu
Pháp
tận
vô
di
Giới
như
ma
ni
châu
Vũ
vật
tế
bần
cùng
Ly
thế
tốc
thành
Phật
Duy
thử
Pháp
vi
tối
(Giới
như
ngọn
đèn
lớn,
có
khả
năng
tiêu
trừ
đem
dài
tăm
tối.
Giới
như
tấm
gương
quý
báu,
soi
hết
thẩy
các
Pháp.
Giới
như
viên
ngọc
Như
Ý,
hóa
vật
để
giúp
kẻ
nghèo.
Muốn
được
mau
giải
thoát
thành
Phật,
chỉ
có
giới
là
hơn
hết).
Và
một
lần
nữa
chúng
ta
thấy
trong
Kinh
Phạm
Võng,
Giới
được
ca
tụng
như
sau:
Giới
như
minh
nhật
nguyệt
Diệc
như
anh
lạc
châu
Vi
trần
Bồ
Tát
chúng
Do
thử
thành
chánh
giác
(Giới
như
mặt
trăng,
mặt
trời
chiếu
sáng
hoặc
như
ngọc
Anh
Lạc,
vô
số
Bồ
Tát
nhờ
đó
mà
thành
Chánh
Giác).
Như
vậy
Giới
là
những
bước
đầu
tiên
trong
việc
cải
thiện
Thân,
Khẩu,
và
Ý
cho
đến
toàn
chân,
toàn
thiện,
toàn
mỹ.
2-
Định
(Samadhi):
Khi
giới
được
hoàn
hảo
thì
hành
động
và
lời
nói
được
chân
chính.
Theo
nguyên
lý
"tướng
năng
chuyển
tánh",
hình
thức
bên
ngoài
chân
chính
đưa
đến
một
nội
tâm
thanh
tịnh
và
nhờ
đó
ta
mới
có
thể
định
tâm
được.
Chế
ngự
tâm
là
một
việc
làm
khó
khăn,
vì
tâm
con
người
luôn
luôn
biến
đổi,
chỉ
trong
một
giây
lát
đôi
khi
có
cả
hàng
trăm
hàng
ngàn
ý
nghĩ
khác
nhau;
tệ
hại
nhất
là
những
niệm
bất
thiện,
như
tham
lam,
dục
vọng,
sân
hận,
tật
đố,
nham
hiểm
...
có
thể
làm
cho
tâm
điên
loạn,
mù
quáng.
Đời
sống
của
chúng
ta,
không
phải
chỉ
bị
ảnh
hưởng
bởi
những
tư
tưởng
trong
ý
thức
giới,
mà
lắm
khi
còn
bị
chi
phối
bởi
những
sinh
hoạt
của
cõi
vô
thức,
điển
hình
nhất
là
lúc
ngủ,
nhiều
giấc
chiêm
bao
đã
làm
cho
ta
hãi
hùng
kinh
sợ.
Bởi
thế
trong
kinh
Dhammapada
(Kinh
Pháp
cú),
Phật
dạy:
"Chế
ngự
được
tâm
là
quý,
vì
cái
tâm
thật
khó
kiểm
soát,
nó
không
ngừng
chạy
theo
tham
dục.
Tâm
đã
chế
phục
sẽ
đem
đến
hạnh
phúc".
Thiền
định
là
một
phương
pháp
phát
huy
sức
mạnh
tinh
thần
hiệu
nghiệm
nhất,
theo
đó
hành
giả
chú
tâm
vào
một
đối
tượng
cho
đến
khi
tâm
an
trú,
không
vọng
động.
Trong
khi
chuyên
niệm,
nhiều
thiền
giả
phát
huy
được
một
số
tịnh
quang
tâm
sở
(Sobhana
cetasika)
gọi
là
thiền
chi.
Những
thiền
chi
như
Tầm
(Vitakka),
loại
trừ
được
trạng
thái
hôn
trầm
(Thìna
middha);
Tứ
(Vicara)
hủy
diệt
nghi
hoặc
(vicikiccha);
Hỷ
(Piti)
đối
trị
sân
hận
(Vyapada);
Lạc
(Sukha)
thay
thế
trạo
cử
và
hối
(Uddhacca-Kukkucca);
Nhất
Tâm
(Ekaggata)
chế
phục
lòng
tham
dục
(Kamachanda).
Khi
các
Triền
Cái
(Nivarana)
đã
được
loại
trừ
ra
khỏi
tâm,
thì
tinh
thần
trở
nên
một
nguồn
năng
lực
vô
song,
khiến
cho
thiền
giả
có
thể
đạt
đến
mức
thần
thông
biến
hóa
dễ
dàng.
Thực
vậy,
sức
mạnh
của
tâm
còn
vĩ
đại
hơn
cả
nguyên
tử
lực
vì
nguyên
tử
chỉ
biến
đổi
được
hình
thức
vật
chất,
trong
khi
định
lực
có
thể
hủy
diệt
một
"hợp
chất"
phức
tạp
nhất
là
phiền
não
và
chấm
dứt
luôn
cả
vòng
sinh
tử
luân
hồi.
3-
Huệ
(Panna)
:
Mặc
dầu
định
lực
có
một
sức
mạnh
vô
song,
nhưng
Phật
Giáo
dùng
nó
không
ngoài
mục
đích
phát
triển
trí
tuệ.
Định
có
hai
loại:
Chỉ
(Samatha)
và
Quán
(Vipassana).
Chỉ
mà
chúng
ta
đề
cập
ở
trên
dùng
để
định
tâm.
Giống
như
nước
được
để
yên
hay
lọc
kỹ
trở
nên
trong
suốt,
tâm
an
trụ
sẽ
phát
sinh
trí
tuệ.
Tuy
nhiên,
ở
đây
chúng
ta
lưu
ý
đến
loại
thiền
thứ
hai
là
Quán,
một
phương
pháp
phân
tích
đặc
biệt
của
Phật
Giáo
theo
đó
hành
giả
phải
luôn
luôn
chuyên
niệm
(Sati)
và
giác
tỉnh
(Sampajanna)
để
ghi
nhận
một
cách
trung
thực
(yoniso
manasikara)
các
diễn
biến
của
hiện
tượng
giới
như
hiện
tượng
sinh
vật
lý,
hiện
tượng
thọ
cảm,
hiện
tượng
tâm
giới
và
hiện
tượng
pháp
giới
(thân,
thọ,
tâm,
pháp).
Khi
chúng
ta
ghi
nhận
một
cách
giác
tỉnh
như
thế
các
hiện
tượng
sẽ
tự
phân
tích
thành
một
chuỗi
động
tác
nối
liền
bằng
một
mối
dây
liên
hệ
nhân
quả,
y
như
lúc
ta
nhìn
kỹ
một
khúc
phim
chiếu
bóng.
Như
vậy
tuệ
tổng
hợp
phát
sinh
nhờ
Chỉ,
tuệ
phân
tích
phát
sinh
do
Quán.
Và
cuối
cùng
cả
hai
biến
thành
trực
giác
để
trực
nhận
chân
lý,
giác
ngộ
và
giải
thoát.
Đạo
Phật
đặc
biệt
chú
trọng
đến
trí
tuệ
và
xem
đó
như
bước
tiến
cuối
cùng
trên
đường
giải
phóng
tự
ngã.
Tiến
trình
Giới-Định-Huệ
được
thực
hành
nhanh
hay
chậm
còn
tùy
thuộc
vào
ý
chí
của
mỗi
người,
ý
chí
đó
phát
khởi
dưới
hai
hình
thức
là
tinh
tấn
(viriya)
và
nhẫn
nại
(khanti)
.
Thật
vậy
nếu
thiếu
cố
gắng
và
kiên
trì
thì
tiến
trình
sẽ
bị
ngưng
trệ
và
gẫy
đổ
hoàn
toàn.
Trong
kinh
điển
Pali,
tiến
trình
giải
thoát
được
khai
triển
theo
thứ
tự
luận
lý
như
sau:
-
Giới
(Sila)
-
Bất
hối
(Avippatisara)
-
Hoan
(Pamojja)
-
Hỷ
(Piti)
-
Thư
thái
(Passaddhi)
-
Lạc
(Sukkha)
-
Định
(Samadhi)
-
Như
tướng
tri
kiến
(Yatha-bhuta-nana
dassana)
-
Ly
dục
(Viraga)
-
Giải
thoát
(Vimutti).
Giới
trong
sạch
thì
tâm
không
có
điều
hối
tiếc
(Bất
hối),
tâm
không
ân
hận
tất
được
vui
vẻ
và
dần
dần
bước
qua
các
giai
đoạn
vi
tế
hơn
là
Hỷ,
Thư
thái,và
Lạc.
Lạc
kiến
cho
tâm
không
Trạo
Cử
và
đưa
đến
an
tịnh,
sáng
suốt,
nhờ
đó
có
thể
thấy
được
tướng
của
vạn
hữu.
Khi
chân
tướng
đã
phô
bày
thì
không
còn
tham
ái
tức
là
giải
thoát.
Tóm
lại
tiến
trình
của
Pháp
qua
Giới-Định-Huệ
được
chuẩn
bị
bằng
đức
tin,
và
thực
hiện
bằng
ý
chí
tinh
tấn,
nhẫn
nại
liên
tục
cho
đến
bao
giờ
được
hoàn
toàn
giải
thoát
ra
khỏi
vòng
sanh
tử
luân
hồi.
--- o0o ---
|
Mục lục | |
Phần
kế |
--- o0o ---
Trình bày
: Nhị Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục