Hư Tâm Học Đạo
HT Thích Thiện Siêu
---o0o---
Phần 1
CHỮ TU TRONG ĐẠO PHẬT
Chắc ai cũng hiểu rằng, từ khi mới
lọt lòng ra cho đến khi hơi thở cuối cùng, trong đời thường chẳng hưởng
đặng mấy lần vui. Cơn vui vừa thoáng qua, cơn buồn đã kéo đến. Đã đành
sanh, già, chết là bốn cái đại hoạn, không ai tránh khỏi, mà những nỗi đói
nghèo áp bức, oán thù gặp gỡ, ân ái xa lìa, hoàn cảnh lôi kéo cũng đủ làm
cho chúng sanh đau khổ vô cùng.Nước mắt chảy ra ngập tràn cả đại thiên thế
giới, mà vẫn còn dâng lên mãi nếu lòng tham lam dục vọng, nơi mỗi cá nhân
cũng như toàn thể, không được vùi dập phần nào, hành vi xấu xa độc ác, ích
kỷ hại người không đặng san bằng tiêu diệt do lòng từ bi rộng lớn biết
nghĩ đến mình đến người theo công lý và chính đạo. Chúng ta chỉ ngó ngay
vào cảnh tượng ngày nay cũng thấy rõ đó là biển nước mắt đau thương bởi
cơn cuồng vọng của loài người gây tạo.Thế nên chúng ta tin chắc rằng tất
cả đau khổ chỉ có một con đường ra là mọi người biết nhìn nhau bằng cặp
mắt từ bi, hay nói một cách khác là mọi người biết tu theo đạo chính đáng
giác ngộ.
Xưa nay các bậc Thánh nhân, các vị đã giác ngộ như chư Phật, chư Bồ -tát
không vị nào mà không trải qua con dường ấy; cho đến khi dạy người, dạy
đời cũng chú trọng ở điều đó.Vậy bất luận người nào ở trong xã hội cũng
cần lấy tu làm gốc, nếu không thì tự mình đã hư hỏng, mình đã làm tổn hại
cho mình, thì mong giúp ích cho ai nữa?
Đời còn như thế, huống chi đạo Phật, một đạo chú trọng mục đích tự giác
giác tha, tự lợi lợi tha hơn cả mà lại không quan tâm đến sự tu sao được.
Phật dạy trong kinh Lăng Nghiêm rằng: “
Như
tuy lịch kiếp,
ức trì Như
Lai bí mật diệu
nghiêm, bất
như nhứt nhựt
tu vô lậu
nghiệp”.
Đại ý nói tuy nhiều kiếp học rộng nghe nhiều nhớ hết tất cả pháp
môn của hằng sa chư Phật chỉ dạy, chẳng bằng một ngày chuyên tu nghiệp vô
lậu xuất thế. Ấy là lời Phật khuyến cáo Tôn giả A-nan mà cũng là khuyến
cáo cái tai hại không tu của chúng ta vậy. Nếu chỉ học mà không tu thì
khác nào như người thuộc lòng tấm bản đồ rồi ngồi lỳ một chỗ, chẳng đến
đâu được cả.
Thế thì biết Tu la một điều cần yếu. Nhưng hiện nay, nhiều người trong
hàng Phật tử chúng ta cũng như một số đông ở ngoài vẫn còn ôm mối nghi ngờ
sai lạc. Có người nghĩ rằng Tu là một việc làm quá khó, phải xa gia đình,
xã hội để ép mình trong một khuôn khổ hẹp hòi, bít mắt bưng tai trước mọi
hoàn cảnh, vứt bỏ bao nhiêu ước mong khoái lạc mà tu hành ủy mị, hằng ngày
nghĩ tưởng đến việc gì xa xăm huyền ảo, ỷ lại thần quyền để cầu mong tương
lai trường sanh, bất tử hay hưởng quả phúc đời đời. Tu như vậy phỏng có
ích lợi gì cho ai? Giả sử tu như vậy mà thành Thánh, thành Thần, hưởng quả
phúc thì lối tu ấy cũng chỉ thích hợp với hạng người thiếu nghị lực, hạng
ông lão bà già !
Hạng người thứ hai thì trái lại, họ nghĩ rằng Tu là một việc rất hay, là
nền tảng cho nhân tâm thuần hậu, cho hòa bình an lạc, vững bền, song khi
nào hòa bình đã lan khắp, sanh hoạt được dễ dàng mới có thì giờ nghĩ đến
việc tu dưỡng, chứ nhằm lúc đao binh loạn lạc, đói khát tung hoành, chính
là lúc phải ra sức dẹp loạn an dân, nỗ lực làm lụng để vãn hồi no ấm, đợi
bao giờ tâm thần ổn định mới lo đến chuyện tu.
Những điều nghi hoặc đối với sự tu vẫn còn nhiều nữa, song tóm lại cũng
không ngoài hai điều vừa kể trên. Cũng vì như vậy, mà bây giờ hễ nghe nói
đến chữ Tu thì người ta đã tưởng tượng ngay một hình dáng yếu hèn, một
việc làm quái dị lạc hậu, không phải thời.
Xét kỹ thì hai lối tưởng đó nhiều phần không đúng, song không sai mấy đối
với hạng người mệnh danh là tu, mà kỳ thật áp dụng lầm điều không chính
đáng! Nếu bây giờ muốn bổ cứu những khuyết điểm trên đây để đem lại nhiều
lợi ích thiết thực cho khỏi phụ lòng tin Phật của chúng ta, thì tưởng cũng
nên cùng nhau tìm hiểu rõ chữ
Tu trong đạo
Phật, trước để tránh khỏi cái nạn xưng càn một
khi mình không tu chi cả, sau để khỏi bị e ngại bởi những lời mỉa mai nông
cạn có thể làm trở ngại bước đường tu tập chính đáng của chúng ta.
Lẽ dĩ nhiên là ở đây chúng ta hiểu chữ Tu trong đạo Phật, chứ ngoài lối tu
của đạo Phật ra trên xã hội nầy còn baonhiêu lối tu khác, mà tiếc vì phạm
vi bày nầy không cho phép chúng tôi đem ra bàn cãi, chỉ có thể nói đại
khái rằng các lối tu ấy đều chưa diệt tận nguồn gốc thống khổ, nên chưa
phải là phương pháp đưa người đến chỗ giải thoát an vui chơn thật.
Thế nào là nghĩa chữ
Tu trong đạo
Phật? Định nghĩa một cách tóm tắt thì
tu nghĩa là
sửa.
Xấu xa sửa lại cho tốt đẹp, tà vạy sửa lại cho chính đáng, độc ác sửa lại
cho hiền lành, mê mờ sửa lại cho sáng suốt…Như người ta thường nói ngọc
có dũa mài mới thành đồ hữu dụng, người có học tập mới trở nên người hay,
ấy đều là cắt nghĩa chữ Tu vậy.
Có nhiều người hay nói: “ Phật tức tâm, tâm tức Phật, tôi chỉ tu cái tâm
cũng đủ”. Mới nghe qua in tuồng như phải, mà xét kỹ thí đó chỉ là câu nói
bướng bỉnh để chối từ việc tu hành mà thôi.Nếu thử hỏi lại tâm vì sao phải
tu và tu bằng cách thế nào? Thì ít ai trả lời được. Thậm chí có người khi
đã biết đạo cũng như khi chưa biết đạo, cứ giữ nguyên tánh xấu xa cố cựu,
không chút gì đổi mới hay ho !
Đã đành rằng “ Tâm tức Phật” nhưng hiện nay còn làm chúng sinh thì quyết
chắc tâm của ta còn mê lầm, vọng tưởng, ích kỷ, biếng lười, chưa được như
tâm Phật: sang suốt, chân thật, rộng rãi, từ bi. Đứng về phương diện lý
tánh bình đẳng thì tâm ta không khác chi tâm Phật, nhưng đứng về phương
diện sự tướng sai biệt thì ta và Phật hai đàng mê, ngộ, khổ,vui khác nhau
như trời và vực, không thể nói suông ma có thể mong được giải thoát. Trái
lại cần phải thành thật cố gắng kiểm điểm lại mình, nghiệm xét nơi mình để
thấy rõ cái gì xấu xa, cái gì tà vạy, cái gì độc ác, cái gì mê lầm mà lần
lần sửa đổi tu hành cho đến khi hoàn toàn viên mãn. Trong lúc tu hành ấy
hễ sửa bao nhiêu điều hư quấy, tức là diệt được bấy nhiêu nguyên nhân
thống khổ. Sự khổ sẽ tách dần ra mà sự an vui lần hồi phát hiện, bao giờ
hoàn toàn thanh tịnh ấy là chứng đủ bốn đức Thường,Lạc, Ngã, Tịnh, không
bị điều chi làm hệ lụy. Cho nên kinh có câu “Nhược
năng chuyển
vật, tức
đồng Như Lai”. Như Lai hay Phật là vị đã chuyển
được mọi vật, bên trong không bị tánh tình ô nhiễm làm mờ tối, và bên
ngoài không bị hoàn cảnh sắc, thanh, danh, lợi quyến rũ chi phối. Tự mình
làm chủ mình, làm chủ hoàn cảnh.
Nếu bây giờ chúng ta muốn được an vui, thì phải tự chủ, mà muốn được tự
chủ thì cần nương theo Phật pháp để sửa đổi hành vi, tánh tình, quan niệm
hẹp hòi sai lạc đã lâu đời lâu kiếp bám chắc nơi chúng ta.
Sửa đổi hành vi tức là sửa đổi những điều độc ác của hành động và lời nói.
Thân thường hai sát hại, trộm cắp, dâm ô; miệng thường hay nói dối, dèm
pha, nịnh hót v.v…ấy là hành vi có hại mà ít ai tránh khỏi. Nếu chúng được
bồi đắp, lan rộng ra hoài thì nhân loại chúng sanh càng bị xô mau đến chỗ
tiêu diệt. Hãy xem như một nghiệp sát, mấy năm lại đây không nơi nào là
không do nghiệp sát gieo họa gớm ghê, làm cho sự sống, một điều mật thiết
quan trọng hơn cả của mọi vật, không còn chút gì bảo đảm. Đã bao giờ như
ngày nay, toàn nhân loại chỉ sống trong hồi hộp lo âu, nơm nớp sợ hãi khi
thấy mạng mình nhẹ hơn cát bụi bên vệ đường, không phút nào yên tâm với
bàn tay tàn nhẫn của nghiệp sát đang hung hăng chực chờ dọa nạt. Vậy là
chưa kể đến tai nạn các hành vi trộm cướp, nói dối v.v…cũng gieo họa gớm
ghê không kém.
Nếu ai nấy cũng nhận chân sâu sắc, các hành vi ác độc kể trên là nguyên
nhân trực tiếp gây ra đau khổ giữa người và mình – vì gieo nhân sát hại
thì hoặc cách này hay cách khác cũng phải gặt lấy kết quả bị sát hại; để
sửa đổi, tu hành diệt trừ dần đi mới mong có ngày sống đặng an toàn trong
hòa vui thân mật được.
Đã sửa đổi hành vi cũng phải sửa đổi tánh tình, vì tánh tình xấu xa mới
thật nguy hại nhiều hơn. Tham lam, sân hận, si mê, kiêu mạn, nghi ngờ là
những tâm tánh xấu xa cố cựu của chúng sanh.
Vẫn biết đã có thân thì ai lại không tham muốn sống còn, nhưng lắm người
vì chất chứa lòng tham vô đáy, điều gì hay ho đều muốn thâu góp về phần
mình, chỉ muốn đời sống của mình được vinh quang sung sướng, đầy đủ, quý
trọng hơn hết thảy mọi người, nên dù việc gì đê hèn hay độc ác mà hễ đưa
lại lợi lộc về mình thì không bao giờ từ chối,mặc ai thiếu thốn, khổ
não,kêu la, cũng không hề đoái nghĩ! Thậm chí xem tiền tài, danh vọng hơn
trăm,ngàn, ức, triệu tánh mạng sanh linh đồng loại chỉ vì tham chút lợi
danh mà làm cho đời sống nhân loại bị điêu đứng.
Niệm tham lam vô hình mà tai hại không phải ít, ở trong gia đình có một kẻ
tham – tham ăn chẳng hạn – thì sự sống của gia đình mất hòa thuận, đến
giữa xã hội hễ lòng tham nẩy nở mạnh mẽ ở đâu, thì ở đấy không sao tránh
khỏi cảnh tình xô xát thảm mục thương tâm; vì đã tham tất nhiên có sân, đã
sân thì tất nhiên tranh giành xâu xé…
Than ôi! Một tánh tham đã làm cho ai nấy cháy ruột nung gan, huống còn
thêm bao nhiêu tánh xấu xa khác nữa.
Song muốn sửa đổi tâm tánh xấu xa một cách dễ dàng đến tận gốc thì đồng
thời phải sửa đổi quan niệm hẹp hòi ích kỷ.
Tất cả sự vật đều sanh sanh, hóa hóa trên một bản thể chung cùng hòa hợp,
không có sự vật nào được tồn tại ra ngoài bản thể chung cùng ấy.Chính
chúng ta cũng phải nhờ sự liên quan hỗ trợ của tất cả mà có ra. Vậy mà
chúng sanh mê mờ, tự phân biệt, tưởng tượng chấp riêng một cái Ta, xây
ranh giới mà chắn ngang giữa mình và mọi người mọi vật, luôn luôn đặt cái
Ta ra trước, lên trên, lấy cái Ta làm định chuẩn cho mọi hành động, nói
năng, suy nghĩ. Bởi vậy nên thường bị hẹp hòi, sai lầm, khổ sở. Suy rộng
ra nào vinh, nào nhục, nào thị nào phi, không có gì là tuyệt đối. Cái vinh
của người này tức là cái nhục của người kia, cái vinh của người kia tức là
cái nhục của người này. Ở đời cũng lắm chuyện để cho ta thấy rõ trường đời
là nơi đấu tranh nhỏ hẹp ở trong sự phê phán xây nắn của cái Ta hẹp hòi
giả dối. Vậy cần phải mở mang trí tuệ thật rộng rãi, phá lần quan niệm sai
lầm chấp có bản ngã mới thấy đời rất rộng rãi để khoan hòa đối với mọi
loài, mọi vật.
Như vừa nói ở trên, đó là sửa đổi hành vi hung ác, sửa đổi tánh tình xấu
xa, sửa đổi quan niệm chấp có cái ta hẹp hòi, ấy là nói về ngăn ngừa cái
xấu, diệt trừ cái xấu, đừng để cho nó đâm chồi mọc nhánh ra hoài. Tu như
vậy có thể cho là lối tu tiêu cực, trái lại tích cực hơn là phát huy cái
tốt, khuếch trương cái tốt làm cho cái tốt càng ngày càng rộng rãi lớn
lao.
Hiện tiền nơi chúng ta không những có rất nhiều điều tà vạy ô nhiễm, mà
cũng có rất nhiều điều hay, cần nên bồi đắp, tu dưỡng, như bố thí, nhẫn
nại, khoan hòa, sáng suốt, bình đẳng, xét ra chẳng ai không có, nếu biết
cố gắng vun bồi thì không việc lợi ích gì mà chúng ta không làm được.
Tóm lại hai phương diện tu hành trên, một đàng lo diệt trừ cái tánh hại
người hại mình, một đàng lo phát huy cái tánh lợi mình lợi người. Đã nhận
thấy lòng tham lam có hại mà lo diệt bớt lòng tham là tu, diệt trừ lòng
giận là tu, diệt trừ lòng kiêu mạn, ích kỷ là tu. Trái lại, nhận thấy bố
thí là hay, chăm làm bố thí là tu, từ bi cứu vật là tu, khoan hòa rộng rãi
là tu.Cho đến bất luận hành động gì tốt đẹp, có nhiều lợi ích cho người mà
cố gắng quên mình để thực hành theo cũng đều gọi là tu cả.
Tu như vậy đâu có phải là hẹp hòi hay nhu nhược, tu như vậy đâu có phải là
việc riêng của một nhóm người nào hay của một thời đại nào. Chỉ vì có
nhiều người chưa hiểu chữ tu có một phạm vi rộng rãi đó, nên tưởng rằng tu
là việc chuyên môn của người tu sĩ, của kẻ chán đời, ẩn dật, hay của hạng
môn đồ đạo nầy hoặc đạo khác mà thôi, ngoài ra không liên quan với đại đa
số người còn đang lăn lóc,chống chọi, hoạt động sống với đời sống không xa
thực tế hơn. Ôi, đâu biết rằng cái quan niệm sai lầm ấy không khác nào cái
quan niệm của mấy người tưởng phép vệ sinh là phạm vi chuyên môn của mấy
ông thầy thuốc, hay của mấy người đã mắc bệnh truyền nhiễm.
Đành rằng phương diện điều trị thân xác có nhiều điều ngóc ngách khó khăn
mà thầy thuốc phải gia công tầm cứu, phải cần cho mình một hoàn cảnh sạch
sẽ hợp vệ sinh hơn, nhưng trong hạng người không phải là thầy thuốc mà
không cần biết vệ sinh, tự do ăn nhớp ở nhúa thì không chỉ tai hại cho
mình, còn lây sang mọi người xung quanh, khiến họ phải sống chung trong
một cảnh ngộ nguy hiểm.
Phương diện trị thân xác đã vậy, thì phương diện cải tạo tinh thần
không kém chi. Muốn diệt hết bao nhiêu tâm niệm xấu xa còn lại, và phát
huy tất cả tâm niệm tốt đẹp rộng rãi them lên lại càng rất khó, nếu không
phải là người có quyết tâm với mục đích ấy, nếu không có một hoàn cảnh
thuận tiện cho sự tu hành thì khó mong kết quả hoàn toàn. Bởi vậy, trong
đạo Phật, các vị Tăng già, các hàng tu sĩ phải xuất gia để bớt ngoại duyên
phiền nhiễu, phải ở nơi nhân tịch mới thấy rõ nguồn gốc sâu xa của tội lỗi
mà gột rữa tiêu trừ. Nhưng nếu hiểu thêm rằng không phải là chỉ mấy vị ấy
mới tu đặng, mấy vị ấy mới cần tu, mà tất cả các hạng người ở vào địa vị
nào trong thời loạn cũng như thời bình, đều có thể tu, đều cần nên tu cả;
nếu không tu tức là tự do để cho thói tham lam, bóc lột, ích kỷ hại người
đứng lên làm chủ, gây tai ương không bờ không bến.
Vậy ta có nên xem chuyện Tu là việc ngoài phận sự của mình không? Ta có
thể không nhận rõ nghĩa chữ Tu đặng không? Hãy nên nhận chân cho rõ, xem
đó là một phương châm của đời sống ngay thật mà không trao đưa cho ai cả,
chỉ tự mình gắng thực hành lấy và khuyên lơn người khác biết mà thực hành,
để cùng nhau gây nên một cảnh sống yên vui bền vững, tạo cảnh Cực lạc giữa
Ta – bà nầy. Nếu được như vậy tức là đã hiểu và đã thực hành đúng nghĩa
chữ
Tu trong đạo
Phật.
CẢM ỨNG
ĐẠO GIAO
Trên đường giáo hóa của đức Phật, Ngài đã thuyết pháp cho nhiều hội chúng
trong đó có hội Pháp Hoa. Kinh này đức Phật nói cho hàng đệ tử căn cơ cao
và đã thuần phục, trong đó có kinh Phổ Môn. Trong kinh Phổ Môn,Ngài nói
nhiều về hạnh nguyện của đức Quán Thế Âm Bồ - tá. Các đệ tử thường thường
niệm danh hiệu: Nam mô Đại từ bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn linh cảm Quán
Thế Âm Bồ- tát, tức là niệm danh hiệu đã được chỉ dạy trong kinh Phổ Môn.
Vì trong kinh đó đức Phật nói rằng: “Thiện
nam tử, nhược
hữu vô lượng
bách thiên vạn
ức chúng
sanh thọ chư
khổ não văn kỳ Quán Thế
Âm Bồ -tát,
Quán Thế Âm
Bồ - tát tức
thời quán kỳ
âm thanh giai đắc
giải thoát”. Nghĩa là: Nếu có vô lượng trăm
ngàn vạn ức chúng sinh đang lâm vào cảnh khổ não mà nghe niệm đến danh
hiệu Quán Thế Âm Bồ- tát thì Quán Thế Âm Bồ- tát liền nghe tiếng niệm đó
mà hiện đến cứu khổ cho. Sự linh nghiệm khi niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm
Bồ- tát mà từ trước tới nay,biết bao nhiêu người khi niệm danh hiệu của
Ngài, có sự linh nghiệm cảm ứng đạo giao. Nhiều người đã nhờ sức niệm danh
hiệu của Ngài mà có sự linh nghiệm như gặp lửa lửa không cháy, gặp nước
nước không trôi, gặp tai nạn thì đều qua khỏi…
Đức Phật Quán Thế Âm Bồ- tát đã có nhiều cách cứu vớt chúng sanh khác
nhau. Ở tại Việt Nam ta xưa, có một lần Ngài hóa hiện làm công chúa Diệu
Thiện, là công chúa thứ ba con của vua Diệu Trang Vương, vua Diệu Trang
Vương này có ba người con gái: Người thứ nhất là Diệu Thanh, người thứ hai
là Diệu Âm, và người thứ ba là Diệu Thiện. Hai người con gái trước đều lấy
chồng, nhưng cô con gái thứ ba thì dứt khoát không chịu lấy chồng, một mực
đòi đi tu cho được.Vua cha lấy làm khó chịu, bực tức lắm và dọa rằng:
“Được, ngươi không lấy chồng thì ta cho mi đi tu, mi ra ngoài vườn mà tu”.
Ông sai lính làm một cái chòi cho cô tu một mình nơi chỗ hẻo lánh, cực khổ
để cho cô thối chí. Nhưng Diệu Thiện không nản lòng. Kế đó không thành,
vua bèn nghĩ kế thứ hai: Một hôm ông sai đem DiệuThiện tới nơi chùa
Thanh Tước, giao cho các Ni tăng ở đó để cai quản và giám sát cô. Ông nén
cơn giận mà lẩm bẩm: “Ưng tu thì ta cho tới đó mà tu!” Ông dặn các Ni tăng
ở chùa Thanh Tước rằng phải làm thế nào ,hoặc là khuyên lơn, hoặc là hành
hạ, hoặc là khủng bố để cho Diệu Thiện trở về lấy chồng. Nếu không làm
đuợc như vậy thì ông sẽ đốt chùa.
Khi Diệu Thiện đến ở đó, các vị Ni tăng khuyên răn hết lòi, nói nhỏ nói
to, nói ngọt nói ngào để cho Diệu Thiện trở về lấy chồng. Khuyên không
được trở qua hành hạ đủ cách, bắt gánh nước suốt ngày,bắt nấu cơm phục
dịch không hở, bắt tụng kinh liên tục để cho Diệu Thiện chán nản và thối
chí mà quay trở về. Nhưng Diệu Thiện quyết tâm trì chí làm theo mọi việc
chứ không chịu trở về. Khi vua cho người tới dò hỏi, các vị Ni tăng đã
khuyên Diệu Thiện trở về được chưa? Nhưng họ thưa lại rằng không có kết
quả gì hết, nên vua sai quân lính tới phóng hỏa để đốt chùa. Trong khi vừa
ra lịnh phóng hỏa thì sấm sét ầm ầm nổi lên, mưa gió trút xuống ào ào nên
chùa không đốt được. Ông sai bắt Diệu Thiện trở về để giết nàng. Khi đem
ra giữa pháp trường để hành hình, người đao thủ phủ vừa cất đao lên chém
thì ông Hổ xuất hiện nhảy bổ vào và cắp Diệu Thiện mang đi mất. Hổ mang
đến nơi chùa Hương tích bỏ công chúa ở đó cho cô tu. Chùa Hương tích ở
miền Bắc có thờ tượng Quán Thế Ấm một phần cũng là do tích này. Khi bị bỏ
lại ở đây, cô quyết chí tu hành không xao lãng, ngày đêm kinh kệ, trong
thời gian tu hành cô thực hành hạnh từ bi của đức Phật nên sau một thời
gian thì đắc đạo.
Lại nói chuyện vua cha ở nhà khi nàng vắng mặt, phụ vương nàng bị mắc bịnh
nan y, ngứa ngáy khắp người không ai chữa khỏi. Diệu Thiện ở chùa tu hành
đắc đạo nên quán thấy cha mình bị mắc bệnh trầm kha không ai cứu chữa
được, liền hóa hiện một vị Hòa thượng để vào thăm vua. Khi vào thăm vua,
Hòa thượng đó mách rằng: Bịnh này của Ngài chỉ có đôi mắt, đôi tay của
người con hết sức chí hiếu mới có thể chữa được mà thôi. Vua liền hỏi: Làm
sao có được người con chí hiếu mà cho được con mắt, đôi tay để chữa khỏi
bịnh được, tìm đâu cho ra. Trẫm chỉ có ba người con, hai đứa con ở nhà chả
có chí hiếu gì cả, còn đứa thứ ba xét ra nó có chí hiếu thật đó, nhưng bị
hổ cắp tha mất rồi, làm sao có được. Hòa thượng nói với vua rằng: Không,
thưa đức vua, người con thứ ba tên là Diệu Thiện đó còn sống và đang
tu ở động Hương tích, nếu ngài cho người đến đó mà tìm chắc chắn người đó
sẽ hi sinh tính mạng, móc mắt, cắt tay để đem về chữa bệnh cho ngài thì
bệnh ngài sẽ khỏi. Ông vua nghe vậy liền cùng với quan quân thân hành tới
đó thì quả nhiên thấy Diệu Thiện bằng xương bằng thịt đang tu ở đây. Cha
con gặp nhau thì mừng lắm, ân cần thăm hỏi và vua cũng tỏ ý hối hận về
việc làm không đúng của mình đối với Diệu Thiện, đồng thời nói bịnh hiểm
nghèo của mình đang mắc phải.
Khi biết bịnh nan y của cha như vậy thì Diệu Thiện phát tâm móc mắt, cắt
tay để chữa bịnh cho cha. Nhờ đó mà phụ thân của nàng lành bệnh. Khi vua
cha đã lành bệnh rồi liền đi tới nơi đó để thăm con thì con đã thành đạo,
tức đức Phật Quán Thế Âm, cho nên mới có câu rằng:
Chơn
như đạo
Phật nhiệm
mầu
Tâm trung chữa
hiếu niệm
đầu chữ nhân
Hiếu
là độ được
đấng thân
Nhân là vớt
khỏi trầm
luân mọi
loài
Thần
thong nghìn mắt
nghìn tay
Cũng trong một
điễm linh đài mà ra
Ngẫm
trong bể nuớc
Nam ta
Phổ
môn có đức Phật
ba Quan Âm
Niệm
Ngài hưởng
niệm pháp
âm.
Đó là câu thơ tả về đức Phật Quan Âm Diệu Thiện. Niệm ngài thường niệm tại
tâm, tức là lời dặn dò cho chúng ta cầu khẩn tới ngài, mong ngài cứu chúng
ta tai qua nạn khỏi.
Niệm nơi miệng không bằng niệm nơi tâm là vì sao? Niệm nơi miệng vì miệng
không làm chủ được bản thân mà tâm mới làm chủ được bản thân. Tâm bắt
miệng niệm, tâm có thành thì miệng mới thành, tâm không thành thì miệng
không thành. Cho nên tâm thành thì cảm ứng đạo giao mới đầy đủ, còn tâm
không thành mà miệng niệm thì không có cảm ứng đạo giao được. Thế thì khi
niệm bằng tâm là niệm thế nào? Niệm bằng tâm là niệm một cách hồn nhiên,
chứ không phải niệm có suy tính. Ví dụ bây giờ niệm Nam mô Quán Thế Âm Bồ-
tát, con niệm Ngài, Ngài cứu cho con với.Ngài cứu cho con bằng cách nọ hay
bằng cách kia. Khi niệm Ngài mà có tính toán như vậy thì tâm không nhất,
đó là niệm bằng trí thức chứ không phải niệm bằng tâm. Niệm bằng trí thức
là sao? Ví dụ: Ta gặp một em bé mà không phải là con em của mình, nó té
ngã giữa đường, mình muốn cứu vớt nó. Nhưng khi cứu thì nghĩ đi nghĩ lại,
thôi đỡ nó lên kẻo tội, không biết con ai mà bị té như thế này. Hay có nhớ
ra thì nói: Nó là con ông A nhà bên cạnh, thôi cố gắng đỡ nó dậy kẻo tội
nghiệp. Trong khi đưa tay đỡ đứa bé dậy là đỡ với sự tính toán rằng : Nó
là đứa con ông bạn nhà hàng xóm bên cạnh, đỡ dậy một chút kẻo tội. Đó là
cách đỡ để làm phước, nhưng cái làm phước đó có sự tính toán bằng trí bằng
thức. Còn nếu khi con mìng bị té như vậy thì đưa tay đỡ liền, không có
tính toán gì cả. Khi té như vậy thì cha mẹ tự trong tâm chủ động đưa tay
ra đỡ ngay, không tính toán gì cả. Cho nên nói: Niệm Ngài thường niệm tại
tâm,tức niệm với một tâm hồn hồn nhiên, một tinh thần gắn bó chặt chẽ như
tình thương của cha mẹ dành cho con.
Khi chúng ta có một tâm hồn nhiên niệm Ngài như vậy thì Ngài cũng đem một
sức từ bi hồn nhiên mà cứu vớt để độ chúng ta và muôn loài. Còn niệm theo
cách tính toán thì không có tác dụng bao nhiêu, vì tính toán thì không
nhất tâm. Trong khi niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ - tát mà suy cách
này hay tính cách kia như vậy thì trong tâm không thuần túy nên sự cảm ứng
không đầy đủ. Nên người xưa đã khuyên: Niệm Ngià niệm ở tại tâm.
Hôm nay là ngày kỉ niệm vía đức Quán Thế Âm Bồ - tát, chúng tôi xin nhắc
lại hạnh nguyện của Ngài để cho các Phật tử biết và mong các Phật tử hãy
hướng về đức Quán Thế Âm để niệm danh hiệu của Ngài.. Ngoài ý nghĩa cứu
khổ, đức Quán Thế Âm Bồ- tát còn có nghĩa là Đại Từ bi. Ngài sở dĩ được
gọi như vậy vì Ngài luôn luôn cứu độ chúng sanh, giúp đỡ cho chúng sinh
tai quan nạn khỏi bằng một tâm lực từ bi. Nếu không có đức từ bi thì Ngài
không có cứu độ ai hết. Không từ bi thì không có sức cứu độ. Cho nên nhiều
người gọi Quán Thế Âm Bồ- tát là Quán Từ bi. Cho nên niệm Ngài là niệm Đại
Từ bi. Mà niệm Đại Từ bi thì tâm của chúng ta cũng đồng hành theo
hạnh Đại Từ bi đó, như nước có trong thì trăng mới hiện, nước không trong
thì trăng không hiện. Đức Quán Thế Âm Bồ- tát như mặt trăng, lòng của
chúng ta như hồ nước. Hồ nước có trong thì trăng mới hiện xuống, hồ nước
không trong thì bóng trăng không hiển hiện. Nước lờ mờ thì trăng hiện lờ
mờ, nước trong suốt như gương thì trăng hiện mới đẹp. Tâm của chúng ta là
nước, bóng trăng là Ngài. Tâm ta trong thì bóng Ngài hiện ra một cách toàn
diện. Đó là cảm ứng đạo giao. Như vậy là trăng không đi tới với nước mà
trong nước vẫn có trăng.
Đức Quán Thế Âm luôn luôn hiện ra cùng khắp, nơi nào Ngài cũng hiện hết,
vì thế ở phương đông, phương tây, phương nam, phương bắc cùng một lúc niệm
danh hiệu Quán Thế Âm Bồ- tát thì cũng cùng một lúc có được đức Quán Thế
Âm Bồ- tát thần thông thị hiện khắp nơi, cho nên gọi là Phổ môn. Phổ là
khắp, môn là pháp môn. Ngài dung đủ pháp môn để độ cho tất cả chúng sanh.
Phổ cũng có nghĩa khác là ngài đi đến gõ cửa khắp mọi nhà để độ chúng
sanh, không kể lớn, không kể nhỏ, không kể trai hay gái, không kể chức
quyền hay ngu dốt, không kể giàu hay nghèo, hễ có niệm cầu là có sự ứng
cảm của ngài, cho nên gọi là Phổ môn thị hiện. Ngài thị hiện đến độ cho
chúng sanh, đó là công hạnh của đức Quán Thế Âm, và đó cũng là ý nghĩa
niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm.
Hôm nay là ngày lễ vía đức Quán Thế Âm, tôi xin nhắc lại sơ lược công hạnh
của Ngài như vậy để mong các Phật tử luôn luôn chú tâm thành kính tưởng
niệm ngài bất cứ lúc nào, chưa gặp nạn ta vẫn tưởng, khi gặp nạn rồi cần
phải tưởng niệm nhiều hơn nữa để được cảm ứng đạo giao bất khả tư nghì.
Trong kinh có dạy hễ có nhơn thì có quả, chúng ta có niệm Ngài thì sẽ cảm
ứng được đạo giao nan tư nghì nơi Ngài.
Nam- mô Tầm thanh Cứu khổ Cứu nạn Linh cảm Quán Thế Âm Bồ- tát.
RỪNG LỘC
UYỂN
Sau khi đức Phật thành đạo bên cội Bồ- đề, Ngài bước ra khỏi cội Bồ- đề đi
đến với trần gian để giáo hóa chúng sanh. Trước tiên Ngài đến rừng Lộc
Uyển để hóa độ cho 5 vị Tỳ - kheo, đứng đầu là A- nhã Kiều- trần- như.
Rừng này gọi là vườn Nai { Lộc uyển}.
Như
vậy lịch
sử rừng
Lộc uyển
bắt đầu
nổi tiếng từ
khi đức Phật
đi tìm 5 ngươì
đồng tu khổ
hạnh. Chữ Lộc
uyển hay
Sarnath chính là chổ
ở của
các loài nai. Nguời
đời sau g5oi tắt
là thành Sarnath. Trong kinh tạng
Pàli thuờng
dung chữ
Migadàya hay Isipatana, có khi dung cả
hai là Migadàya và Isipatana Chữ
Sanskrit nghĩa là chổ
trú của các vị
ẩn sĩ.Sau
này Ngài Pháp Hiển
dịch là chổ
ở của
các ngài ẩn
sĩ tịnh tu. Theo sự
tích thì ở
đây còn có một
chi tiết quan trọng
là thời xưa
có một số
Bích- chi Phật
xuống {vuờn Nai} nhập
diệt trên hư
không, rồi thân thể
rơi xuống
miền đất
này. Dầu thế
nào, Isipatana cũng là một
khu vực quan trọng,
gồm cả
Migadàya { vuờn
Nai}. Các vị
tu sĩ thuờng
ở đây để
tu tập thiền
quán. Còn chữ
Migadàya nghĩa là Lộc
uyển, là chổ
Vua Ba-la-nại
để cho loài
lộc được sống
tự do, không
ai đuợc săn
bắn giết
hại. Do đó
chỗ này là
chỗ lý tuởng cho những
vị
ẩn
sĩ muốn xa lánh thành thị
về đây tụ
tập Thiền
quán.
Trong kinh có một chuyện tiền thân rất hay gọi là Nigro-dhamiga, có liên
qun đến chỗ này, và hàm nhiều ý nghĩa giáo dục,mà ngài Huyền Trang thuật
lại như sau:
Chính chổ này, ở trong một khu vườn rộng, có một ngọn tháp uy nghi còn sót
lại và là chỗ Đề- bà- đạt- đa cùng với Bồ- tát trong một kiếp đều làm vua
của loài Nai. L1uc ấy giữa một khu rừng rất lớn, có hai bầy nai,mỗi bầy có
500 con và do hai con Nai chúa nói trên chỉ huy. Một của tiền thân Bồ- tát
{đức Thích Ca}, và một đoàn khác do Đề- bà- đạt- đa cai quản. vua trong
nước Ba- lai- nại thường hay đi săn bắn khắp nơi. Một hôm Bồ- tát {Lộc
vương} đến gặp đức vua và tâu rằng: Thưa Đại vương, nếu Đại vương đốt cháy
những khu vực săn bắn của Đại vương và bắn chết những thuộc hạ chúng tôi
trong đêm tối. Chúng tôi sẽ chết thối chết ươn, trước khi mặt trời mọc và
như thế thịt chúng tôi không thể dung làm đồ ăn tươi tốt được. Vậy mong
Đại vương để cho chúng tôi, mỗi ngày cung hiến một con Nai để Đại vương
dung. Như vậy Đại vương luôn luôn có thịt tươi và chúng tôi có thể kéo dài
sự sống. Nhà vua chấp thuận lời đề nghị này, và bảo đánh xe trở về cung.
Từ đó mỗi ngày một con Nai từ một bầy đi đến chỗ Vua ở và chịu chết. Lần
lượt bầy này rồi đến bầy khác. Lúc bấy giờ trong bầy của Đề- bà- đạt- đa,
một con có mang đến lượt phải chịu chết. Con Nai này đến trước Nai chúa
của mình tức Đề- bà- đạt- đa mà tâu rằng: Dẫu tôi bằng lòng chịu chết,
nhưng chưa phải đến phiên con tôi trong bụng phải chịu chết, vậy ngài hãy
cho một con khác thay tôi, khi nào con tôi lớn, chúng tôi sẽ đem hai thân
để chịu chết. Nai chúa tức giận quát rằng: đây có ai mà chẳng biết quí
mạng sống? Con Nai cái thở dài trả lời : Nhưng tâu Bệ hạ, Bệ hạ thật không
nhân đạo tí nào, thiếu tình thương đồng loại, nếu Bệ hạ giết những gì chưa
sanh, Đề- bà- đạt- đa vẫn nhất định không nghe. Con nai này liền đến tỏ
cảnh ngộ khốn cùng của mình cho Bồ- tát nói với một giọng dịu hiền:Cao quí
thay trái tim của người mẹ thương những gì chưa được sống. Hôm nay ta sẽ
chịu chết thế cho ngươi. Vì ta không có quyền bắt buộc ai khác phải chịu
số phận này…
Rồi Nai chúa đi đến cung Vua và đặt đầu mình trên bàn đợi người đồ tể cắt
cổ ! Những người đi đường hay chuyện ấy, truyền tin cho nhau và nói rằng:
Nai chúa thật là kỳ diệu. Dân chúng cùng các quan viên vội vã đến xem. Khi
nghe tin này, Vua không tin la sự thật. Nhưng đến khi người thị vệ vào tâu
lại sự thật là thế, nhà vua mới tin. Đoạn Vua hỏi Nai chúa rằng: Tại sao
ngươi lại đến đây? Nai chúa tâu : Một con Nai có mang đến lượt phải chết,
tôi không nỡ lòng nào để một con nai chưa sinh phải chịu chết oan, nên tôi
đến thay thế cho con nai có mang ấy. Vua nghe rồi thở dài và nói rằng : Ta
thật có một thân người, nhưng không giống như con nai, trái lại con nai
này tuy mang thân nai nhưng có những điểm khác lạ hơn loài người.
Nhà Vua thương xót cảm động và tha cho Nai chúa, không bắt buộc mỗi ngày
phải nạp một con nai nữa. Vua để cả khu rừng cho loài nai ở và vì thế khu
rừng này được gọi là khu rừng của loài nai { Lộc uyển}.
Do nguyên nhân đó mà đàn nai sống từ thế hệ này sang thế hệ khác đều tự do
tự tại trong bầy đàn của nó ở trong khu rừng này. Và chính chỗ này, các vị
tu hành năng đến đó để tu tập, cho nên rừng đó gọi là rừng nai. Rừng
nai cắt nghĩa theo chữ Hán là rừng Lộc Uyển, Uyển là rừng, Lộc là nai, tức
Rừng Nai là vì lý do đó.
Trước có 5 vị Tỳ - kheo cùng tu khổ hạnh với Phật, sau thấy đức Phật thọ
thực họ nói rằng, đức Phật đã thối chí rồi nên tách riêng đến đó để tu
hành. Khi đức Phật thành đạo, Ngài đến đó trước tiên để độ cho họ. Lần
lượt từ đó trở đi trong 45 năm từ phương này đến xứ khác, từ nước nọ qua
nước kia, cứ ngày đi đêm nghỉ, gặp cơ duyên nào thì tùy theo đó mà hóa độ
cho chúng sanh thoát khỏi luân hồi sanh tử. Đó gọi là Rừng nai.
Câu chuyện trên cho ta rõ nguyên thủy tên gọi của chỗ này. Thật la xứng
hợp. Từ đó khu rừng này trở thành một địa điểm tốt đẹp, an lành của
loài Nai, cho đến thời đức Phật. Những tượng tả các sự tích trong đời sống
đức Phật đều có vẽ hai con nai hai bên, ở giữa là Pháp luân. Hiện nay còn
có một đàn nai ở sau chùa Mulagandhakuti.
Như đã nói trên, đức Phật An cư 3 tháng đầu tiên tại chỗ này, sau khi Ngài
đắc đạo, Sarnath hình như không phải là chỗ thường trú của đức Phật
và các đệ tử thân tính của Ngài. Có thể Ngài chỉ đến thăm hai hay ba lần
sau khi Chuyển Pháp luân. Nhưng các đệ tử Ngài thường đến tu hành tại chỗ
này. Điều chắc chắn là cuối thế kỷ thứ IV trước T.L Sarnath trở thành một
nơi rất quan trọng. Khi vua A- dục lên ngôi, chỗ này trở thành một điạ
điểm rất thạnh hành của Phật giáo. Vua A- dục có dựng nhiều trụ đá để kỷ
niệm, nhưng tiếc hiện nay không tìm thấy, trừ trụ đá đã nói trên kia. Sau
vua A- dục chúng ta không được biết llịch sử nối tiếpcủa Sarnath. Chỉ khi
ngài Pháp Hiển đến thăm vào thế kỷ thứ V, chúng ta mới biết được them.
Theo ngài Pháp Hiển, Sarnath là một nơi phồn thịnh. Như vậy chắc một vài
thế kỷ trước cuộc chiêm bái của ngài,chỗ đó là nơi phồn thịnh, nhưng có lẻ
thời kỳ phồn thịnh nhất là vào khoảng giữa thế kỷ thứ ba và thứ bảy {250
650 sau Tây Lịch} như những tượng đá và phần nhiều những đồ chạm khắc đều
thuộc về thời đại trên.Hầu hết những tháp chưa được đào lên đều chứng tỏ
các vật dụng dung làm chùa thápcùng các bia ký tìm được cũng đều thuộc về
thời đại này. Chỉ trừ cột trụ của vua A-dục là dựng lên vào năm 250 trước
T.L và ngôi chùa của bà Kumara Devi là dựng lên vào năm 1192 sau T.L.
Vào thế kỷ thứ sáu, Mihircula, giặc Hung nổi lên, tàn phá chổ này, nhưng
theo ký sự của Huyền Trang thì hình như vào thế kỷ thứ bảy, chổ này được
sửa sang lại tất cả, vì ngài không nói gì đến những dấu vết tàn phá. Những
thế kỷ sau, cũng không có gì đáng kể, chắc chổ ấy vẫn được thịnh vượng.
Đến thế kỷ thứ 10, Sarnath bắt đầu bị suy tàn, và dầu có nhiều Phật tử cố
gắng phục hưng, nhưng không có ảnh hưởng mấy. Bà- la- môn cành ngày cành
bành trướng mạnh, và đồ đệ Bà-la-môn giáo bắt đầu lập những đền thờ tại
chỗ này. Đến thế kỷ thứ hai, lại bị vua Mahumud Gaznavi đến cướp phá và
cuối cùng là bị ông Kutbuđdin, một tướng của của vua Mahmud Ghrori đến
cướp phá những gì còn lại của Sarnath. Từ đó Sarnath hoàn toàn bị hoàn
cảnh chi phối nên các Phật tử bỏ phế, các tháp chùa bị phá đổ, chỉ trừ hai
tháp chính nói trên.Từ thế kỷ ấy đến thế kỷ thứ 17, chúng ta không
biết gì đến lịch sử Sarnath, chắc chỗ ấy hoàn toàn bị hoang phế, dân chúng
không giám lai vãng. Năm này qua năm khác, những trận cuồng phong mang cát
bụi đến chồng chất lên, bao phủ Sarnath. Cây cối mọc lên đến nổi toàn cảnh
bị chon lấp dưới một lớp cỏ cây um tùm. Đến khi những nhà khảo cổ đến đào
bới để tìm di tích, chúng ta mới được biết đến Sarnath. Đầu năm 1834,
Tướng Makenzie đến đào lại chổ ấy gặp nhiều di tích. Rồi đến nhà khảo cổ
Alexander Cunningham, người đã phải xuất tiền riêng để đài thọ cuộc tìm
kiếm. Những vật ông ta tìm đươc cất tại Viện bảo tang ở Calcutta. Nên biết
rằng thời ấy một số tượng cùng gạch đá ở Sarnath đều đem về làm trường
Queen College, cầu Duncan và nhà ga Benarès. Chỉ một cầu Duncan cũng đã
dùng đến 48 tượng đá lắm rồi. Bắt đầu năm 1851, ông Kittoe đến đào,
tìm lên được ngôi chùa và đặt tên là chùa Kittoe. Năm 1905, Viện Bác cổ
đào lên những di tích đã được nói trên. Nhưng tất cả công nghiệp trên chỉ
khiến cho một số học giả được biết đến Sarnath, còn dân chúng nhất là Phât
tử bốn phương, không một ai nghĩ đến Phật tích quan trọng này. Phải đợi
đến khi ngài Dharmapala đến tại chổ này, vào năm 1891, mới có một cuộc
phục hưng Phật giáo thật sự. Khi ngài đến, Sarnath là một chổ đầy những
cây dại, và là chỗ nuôi súc vật, nhớp nhúa đến nổi ngài không giám đặt
chân vào. Ngài quyết định phục hưng lại chổ này. Trước hết ngài mua một
mảnh đất, do mẹ ngài bà Kakkika hewavitarne Lamtani cúng tiền, để làm chổ
dựng chùa hiện tại, rồi ngài lại mua thêm một miếng nữa do vua Raja Bhinga
cúng tiền. Ngài còn có ý định mở một lớp giáo dục tân tiến, kỹ nghệ hóa để
chấn chỉnh nông nghiệp. Nhưng các sự nghiệp của ngài phần lớn bị thất bại,
vì lúc bấy giờ dân chúng phản đối những gì mới mẻ do ngài chủ
trương. Tuy nhiên ngày nay chúng ta thấy ngài đã dựng được ngôi chùa
Mulàganhakuti, lập đuợc nhiều trường học cho dân chúng, mở nhà thương thí
v.v…Chính những công nghiệp này thức tỉnh các Phật tử tự tích cực hoạt
động mãi cho đến ngày nay và phục hồi một phần nào những hưng thịnh
ngày xưa. Ai nấy đều công nhận công trình đầu tiên của ngài Dhamapala thật
lớn lao đối với cuộc phục hưng Phật giáo ở Ấn Độ. Trên đây là những điều
mà tôi và Hòa thượng Minh Châu khi viếng thăm các Thánh tích Phật giáo nổi
tiếng ở Ấn năm 1994 nghe kể lại.
CHIẾC DÉP
CỦA ĐẠT MẠ TỔ SƯ
Nhìn hình ảnh của ngài Đạt Mạ, chúng ta thấy ngài vác một cây gậy đầu có
treo một chiếc dép. Chúng ta ai cũng đi dép hai chiếc mà tại sao ngài Tổ
lại đi một chiếc? Ngài Tổ nhìn bề ngoài có vẻ không nghiêm chỉnh gì hết
vậy? Còn một chiếc nữa ngài bỏ đi đâu rồi? Đó là chuyện tôi muốn giải
thích hôm nay sau khi có một số Phật tử đặt câu hỏi.
Sau khi ngài truyền pháp cho Huệ Khả an tâm rồi thì ngài tịch diệt. Sau ba
tháng thì có ông Tấn Công đời nhà đường thế kỷ 16 bên Trung Hoa, đi sứ ở
Tây Vức về thì thấy ngài Đạt Mạ quảy một chiếc dép trên gậy mà đi về hướng
đó. Tấn Công hỏi ngài đi đâu? Ngài nói ta về Tây. Đến khi vị sứ về triều
đình báo tin lại : Ngài Đạt Mạ tổ sư mà tôi vừa gặp, tôi hỏi ngài đi đâu
vậy? Ngài nói Ta về Tây. Ở nhà lấy làm lạ nói: Đạt Mạ tổ sư đã viên tịch 3
tháng nay, chôn cất rồi tại sao lại có Đạt Mạ tổ sư nào đi về Tây? Khi ấy
khui quan tài ra xem thì trong hòm chỉ còn một chiếc dép. Còn ngài với
nhục thân thật của ngài quảy một chiếc dép đi mất. Chính cái tượng thờ
quảy một chiếc dép là tượng của ngài đó. Câu chuyện của ngài Đạt Mạ hiện
vẫn còn mang nhiều tính bí ẩn.
Có người hỏi tôi: Vậy chuyện đó có thật không? Có phải ngài chết bỏ trong
hòm sau đó ngài ngồi dậy ra đi mang theo một chiếc dép không? Thật ra ,
nói về ý nghĩa cao siêu thì nhiều chuyện lắm. Tôi liền nói: Chuyện đó cũng
giống như chuyện hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội . Hồ Hoàn Kiếm khi vua Lê Lợi đánh
thắng quân Minh rồi, khi về đi ngang qua đó ngài vứt cái kiếm xuống hồ ,
thì bỗng có con rùa thò đầu lên ngậm cái kiếm lặn xuống nước sâu nên gọi
là hồ Hoàn Kiếm. Chuyện Đạt Mạ tổ sư cũng na ná như chuyện hồ Hoàn Kiếm
của nước ta vậy . Nhưng nếu ai nói chuyện hồ Hoàn Kiếm không thật thì sẽ
bị quần chúng lên án ngay vì nó đã đi vào lòng quần chúng rồi và được quần
chúng yêu mến giữ gìn như giữ gìn báu vật. Câu chuyện Đạt Mạ cũng đã được
Phật tử chấp nhận nên bổn phận chúng ta là phải giữ gìn nó vì đó là câu
chuyện đẹp. Truy nguyên câu chuyện đến cùng thì tôi cũng chỉ biết đến đó.
Khi Lương Võ Đế hỏi Đạt Mạ tổ sư rằng: Trẫm lâu nay đúc chuông, tạo tượng,
xây chùa thế có công đức gì không? Ngài nói : Không có phước đức gì hết.
Ngài trả lời nhhư vậy, ông Lương Võ Đế cũng bực lắm. Bây giờ giả sử chùa
hư, các thầy kêu gọi đóng góp tịnh tài sửa chùa để kiếm công đức, mà ngài
nói không có công đức gì cả. Vậy tiền của bỏ ra đều uổng cả sao. Lần sau
kêu gọi ai mà cúng.
Thật ra câu nói đó là môt câu nói có nhiều ý ẩn bên trong. Bởi ngài thấy
ông Lương Võ Đế chỉ biết cỏ cây mà không biết lõi cây. Phật pháp thậm thâm
vi diệu chứ đâu phải làm cái chuyện đúc chuông, tạo tượng, xây chùa, cúng
dường mà ông cho là đủ, nên ông cứ mê mãi trong chuyện đúc chuông, tạo
tượng…là bao hàm toàn bộ Phật pháp rồi, ngoài ra không có gì hơn nữa. Còn
Giới, Định, Huệ phải tu tập để trở thành giác ngộ thì ông không quan tâm
tới. Cho nên ngài nói câu ấy là để phá tính chấp nơi cua Lương Võ Đế.
Như vậy chúng ta phải biết Phật pháp không chỉ dừng ở nơi cái chuyện đúc
chuông, tạo tượng, xây chùa, cúng dường mà Phật pháp còn chỉ rõ con đường
giải thoát cho mọi người tu tập, để mọi người cùng được giải thoát, cùng
được giác ngộ như đức Phật. Đó là mục đích của ngài khai cho chúng sinh
ngộ nhập Phật tri kiến.
Còn chuyện đúc chuông tạo tượng là một phương tiện, một cái duyên để cho
chúng ta tích lũy thêm phước đức hầu sau này sẽ có một đời sống hạnh phúc
hơn chứ chưa phải là cứu cánh, là toàn diện của Phật pháp. Mà toàn diện
của Phật pháp vừa là làm phước vừa là tu huệ.Làm phước tu huệ viên mãn như
trong kinh nói: “
Phuớc
huệ luỡng
toàn phuơng
tác Phật” { Cả phước cả huệ đều viên mãn mới là
Phật}. chứ còn đúc chuông, tạo tượng, xây chùa, cúng dường mới là tích
phước. Nếu tích phước mà thiếu huệ cũng không khác nào như con chim một
cánh thì không bay được, hay con người một chân sao mà đi được. Nhắm vào
ông Lương Võ Đế, mà ngài nói thẳng là ông làm nhiều như vậy nhưng không có
phước đức chi hết, chứ không phải vì cái việc đúc chuông, làm chùa, tạo
tượng không có phước. Đó là ngài cố ý nói để phá cái kiến chấp của ông
Lương Võ Đế, vì ông Lương Võ Đế cho cái đó là Phật pháp rồi, không có gì
hơn nữa. Ngài cố phá cái kiến chấp hẹp hòi đó nên ngài nói không phước đức
gì hết là vậy.
Trong “
Truyền Đăng Lục”
quyển 30 có kể về Đạt Mạ Tổ sư như sau : Pháp sư { Bồ- đề- Đạt- mạ} là con
thứ ba của một vị đại vương Bà – la- môn ở Nam Thiên Trúc thuộc Tây Vức.
Thần huệ sáng thông, nghe đâu ngộ đó. Ông nuôi chí cầu pháp Đại thừa, trút
lớp áo trắng Cư sĩ, khoác lên mảnh nâu sòng , quyết làm hưng thịnh hột
giống Thánh. Thoải mái trong lòng, thông suốt thế sự, trong ngoài sáng rỡ,
đức hạnh vượt ngoài khuôn mẫu thế gian. Ông đau lòng trước cảnh suy vi của
Thánh giáo ở các nước ngoài, bèn băng núi vượt biển, qua du hóa ở Trung
Hoa nước Ngụy. Kẻ hằng tâm ai cũng tin theo, còn người thiển cận sanh lòng
chê trách. Thời ấy có hai ông Đạo Dục và Huệ Khả tuy thuộc hàng hậu sinh,
tuổi nhỏ mà tuấn tú, chí lại cao xa, duyên may gặp được Pháp sư, bèn ở đó
phụng sự nhiều năm, hết lòng tu học, chỉ mong sư chỉ bảo. Pháp sư thương
họ tinh thành bèn chỉ cho chân đạo: đây là phép an tâm, đây pháp hạnh, đây
là phép thuận vật, đây là phương tiện, đó là pháp an tâm của Đại thừa
giáo, cẩn thậnchớ hiểu lầm. An tâm, đó là phép bích quán: phát hạnh đó là
tứ hạnh: thuận vật, đó là phòng ngừa sự chê gièm; phương tiện, đó là khiến
mình đừng chấp trước, đó là sở do lược thuật lại như vậy. Phàm vào đạo có
nhiều đường, nhưng nói cho cùng không ngoài hai đường này Lý nhập và Hạnh
nhập.
a.
Lý nhập :Là nương theo giáo { kinh điển} để ngộ
vào tâm { yếu chỉ}; tin sâu rằng tất cả sinh linhđều chung đồng một chân
tánh, chỉ vì khách trần bên ngoài và vọng tưởng bên trong che lấp nên chân
tánh không hiển lộ được. Nếu bỏ vọng theo chân, tinh thần ngưng tụ trong
cái định bích quán, thì không thấy có ta và có người, Thánh phàm một bực
như nhau. Nếu một mực kiên cố không lay chuyển, rốt ráo không lệ thuộc vào
giáo, đó tức là ngầm hợp với lý, hết tâm tưởng phân biệt. Tịch nhiên vô vi
gọi là lý nhập.
b.Hạnh
nhập :Là
nói về bốn hạnh, ngoài ra các hạnh khác đều bao gồm trong ấy. Bốn hạnh là
gì?
1.Báo oán hạnh. 2. Tùy duyên hạnh. 3. Vô sở cầu hạnh. 4. Xứng pháp
hạnh.
1.Sao gọi là báo oán hạnh? Người tu hành khi gặp cảnh khổ nên tự nghĩ như vầy : Ta từ bao
kiếp trước buông lung không học, bỏ gốc theo ngọn, trôi dạt theo vật chất,
nặng lòng thương ghét, gây hại không cùng. Đời nay tu ta không phạm lỗi
nhưng nghiệp dữ gieo từ trước nay kết trái chin, điều ấy nào phải do trời
hoặc người tạo ra đâu, vậy ta đành nhẫn nhục chịu khổ, đừng nên oán trách.
Kinh nói: gặp khổ không buồn, vì sao vậy? Vì thấu suốt { luật nhân quả}.
Vậy khi tâm niệm ấy pháp ra, ấy là ứng hợp với lý mượn oán mà hành đạo nên
nói là hạnh trả oán.
2.Tùy duyên hạnh
: Chúng sanh đều do duyên nghiệp mà chuyển thành, chẳng có tội. Mọi
nỗi khổ vui đều do nhân duyên sinh. Nếu nay được quả báo tốt hưởng đủ vinh
dự, ấy là do nhơn lành thuở trước, nên nay mọi thứ được như vậy, Hễ duyên
hết thì lại hoàn không, mừng vui nổi gì? Được mất gì đều tùy theo duyên
nhưng tâm người không vì vậy mà được thêm hoặc bớt mất gì. Nếu thấu đáo
được như vậy thì gió vui chẳng động, lặng lẽ mà thuần đạo, nên nói là hạnh
tùy thuận theo duyên nghiệp vậy.
3.Vô sở cầu
hạnh:
Người đời mãi đắm mê việc gì cũng tham trước, thế gọi là cầu. Bậc trí nghĩ
lẽ chân, chuyển người thế tục, nên an tâm trụ ở vô vi, thân hình tùy nghi
mà vận chuyển, muôn vật đều là không. Có gì vui mà cầu được. Hễ có công
thì liền có hắc ám đuổi theo, ở lâu trong ba cõi khác nào như trong nhà
lửa, có thân có khổ được gì mà vui? Thông suốt được như vậy buông hết sự
vật, dứt tưởng chẳng cầu. Kinh nói còn cầu còn khổ, hết cầu mới được vui.
Xét biết không cầu mới là đạo hạnh, nên nói là hạnh vô cầu mong.
4.Xứng
pháp hạnh
: Cái lý thanh tịnh của tự tánh gọi là pháp{ tánh tịnh chi ly, mục
chi vi pháp}tin hiểu lý ấy thì mới là hình tướng hóa thành không, không
nhiễm không trước, không bỉ không thử. Kinh nói: Pháp không có chúng sanh,
hãy lìa chúng sanh cấu: pháp không có tướng ngạ, hãy lìa ngã cấu. Bậc trí
vì tin hiểu được vậy thì tùy xứng theo pháp mà hành. Bổn thể của vốn không
tham lận cho nên dầu đem thân mạng và của cải ra mà bố thí vẫn không hối
tiếc. Thấu rõ ba cái không, thì không còn ỷ lại và chấp trước. Chỉ cần gạn
trừ trần cấu, tùy nghi mà giáo hóa chúng sanh, nhưng không mắc phải hình
tướng, thế tức là tự hành, đã lợi người lại thêm trang nghiêm đạo Bồ- đề.
Bố thí đã vậy thì năm độ { Bát – nhã} khác cũng thế, vì dứt trù vọng tưởng
mà hành pháp tu sáu độ, nhưng thật không gì gọi là hành trả, nên nói là
hạnh tùy xứng theo pháp. { Theo: “Truyền
Đăng Lục” quyển 30}.
Theo “Truyền
Đăng Lục”
quyển 30 kể: Ngày kia có ông Tăng tên là Thần Quang đến viếng sư, nhiệt
thành cầu được khai ngộ phép thiền, nhưng Đạt Ma lạnh lùng không nhìn tới.
Thần Quang không vì thế mà ngã lòng, nghĩ rằng những bậc chí thánh đại
hiền ngày xưa phải trãi qua đủ thứ thiên ma bách chướng mới thành được bổn
nguyện. Đêm kia ông đứng dầm mình trong tuyết chờ Đạt –ma để ý đến cho đến
khi tuyết rơi đầm đìa chôn vùi ông đến đầu gối. Bây giờ sư mới quay đầu
lại hỏi:
-Ông muốn cầu gì?
Quang khóc bạch:
-Ngưỡng mong Hòa thượng từ bi mở cửa cam lồ, rộng độ chúng sanh.
Sư nói :
-Diệu đạo vô thượng của chư Phật phải nhiều kiếp tinh cần khó làm làm
được, khó nhịn nhịn được, hàng đức nhỏ trí cùn, lòng đầy khinh mạng há có
thể chịu nỗi nhọc nhằn lao khổ cầu pháp chân thừa sao?
Quang nghe quở bèn rút dao
bén đoạn lìa cánh tay trái đưa lên trước mặt sư. Sư biết gặp được pháp
khí, bèn nói:
-Chư Phật lúc phát tâm cầu đạo vì pháp bỏ thân, nay ông chặt tay trước mặt
ta vì muốn cầu gì?
Nói xong sư bèn đổi tên Thần Quang ra Huệ Khả, Huệ Khả bạch:
-Pháp ấn của chư Phật có thể nghe chăng?
Sư nói:
-Pháp ấn của chư Phật không thể nhờ vào người khác.
Khả bạch:
-Nhưng tâm con không an,thỉnh sư an tâm cho.
Sư nói:
-Đưa tâm ngươi đây ta an cho.
Khả bạch:
-Con kiếm mãi mà chẳng thấy tâm ở đâu cả
Sư nói:
-Thế là ta đã an tâm cho ngươi rồi đó.
SỐNG ĐẠO ĐỨC NHƯ LỜI PHẬT DẠY
Sau khi đức Thế Tôn giác ngộ, ngài suy tư có nên ra thuyết pháp bây
giờ hay chưa? Vì Ngài nghĩ: Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu sắc,
khó thấy, khó chứng, tịch mịch, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ
người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục,
ham thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái
dục thật khó mà thấy được định lý Y tánh duyên khởi pháp: thật khó mà thấy
được định lý tất cả các hành là tịch tịnh, tất cả các sanh y được từ bỏ,
ái được đoạn tận, ly dục, ái diệt,Niết- bàn. Nếu ta thuyết pháp mà các
người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta !
Cho nên đức Phật ngần ngại không muốn thuyết pháp. Phạm thiên Sahamepati
đến ân cần thỉnh cầu Phật ba lần, xin Phật thuyết pháp với lời tha thiết
rằng: Xin đức Thế Tôn hãy thuyết pháp , mở rộng cửabất tử cho chúng sanh
được nghe Pháp. Đấng Đại hung hãy đứng lên, bậc chiến thắng chiến trường,
Vị trưởng đoàn lữ khách, Đấng thoát ly nợ nần, xin Thế Tôn hãy thuyết
pháp, có người nhờ nghe Pháp sẽ hiểu diệu nghĩa và sẽ được an lạc.
Sau lời thỉnh đó, đức Phật mới rời cội Bồ- đề đi đến vườn Nai để thuyết
pháp cho 5 vị Tỳ - kheo, là những người trước đó đã cùng đức Phật tu khổ
hạnh trong 6 năm. Tại đây Ngài thuyết giáo pháp Tứ Diệu đế, đó là giáo lý
đầu tiên và là lần Chuyển pháp luân đầu tiên, mở đầu cho công cuộc giáo
hóa độ sanh của Ngài tại cõi Ta-bà này. Sau khi thuyết Tứ Diệu đế xong,
đức Phật lần lượt đi các nơi khác, tùy căn cơ của chúng sanh mà hóa độ.
Một lần, sau giờ thọ trai xong. Ngài đang nghỉ ở côi cây bóng mát, có ba
mươi thanh niên hớt hãi chạy đến thưa hỏi Ngài, rằng Ngài có thấy người
đàn bà đi ngang qua đây không? Ngài hỏi lại : Các anh là ai? Người đàn bà
đó thế nào? Các anh hỏi bà ta làm gì? Các chàng thanh niên trả lời rằng:
Chúng tôi là 30 nhạc sĩ đem theo một kỵ nữ để giúp vui, không ngờ lúc
chúng tôi đang ngủ say thì người đàn bà ấy đã vơ vét hết bạc vàng, tài sản
của chúng tôi trốn đi mất. Chúng tôi đang đi tìm người ấy. Xin ngài có
thấy thì chỉ giúp cho. Đức Phật hỏi lại : Này các chàng trai, các anh đi
tìm người đó hơn hay là các anh đi tìm chính các anh hơn, điều nào hay
hơn? Các chàng trai nhạc sư chưa hiểu hết ý nghĩa của câu Ngài hõi nên
đồng thanh xin Phật giảng rõ hơn. Đức Phật nói: Được, các anh về tinh xá,
Như Lai sẽ giảng cho các anh rõ. Cả ba mươi thanh niên kéo nhau về tinh xá
nghe Phật giảng.
Về tới tinh xá, Phật biểu họ ngồi xung quanh tịnh xá và Ngài nói với họ
rằng: Một trong số các anh lấy cây đàn nguyệt biểu diễn một khúc cho Ta
nghe coi. Vị ấy vâng lời và cầm đàn nguyệt khảy một khúc rất hay. Vừa lúc
ấy, Phật bảo: Thôi, hãy đưa cây đàn cho Ta, và Ngài liền gãy một khúc rất
thâm trầm, âm thanh tuyệt diệu, gió nhưng ngừng thổi để nghe, Thần trong
hang động đều rời khỏi chổ để ra thưởng thức. Các vị nhạc sư lấy làm kinh
ngạc. Khi Phật đàn xong họ đồng lên tiếng thưa: Bạch Ngài, chúng con lâu
nay tự coi mình là những tay thiện nghệ nhất thế gian về kỹ xảo biểu diễn
âm nhạc, nhưng so với Ngài thì tiếng đàn của chúng con như con dã can so
với tiếng rống của Sư tử. Nhân đó Ngài nói: Các anh tưởng các anh đã tự
biết các anh, nhưng kỳ thật các anh chỉ biết các anh một cách mơ hồ. Rồi
các nhạc sư yên lặng lắng nghe lời Phật dạy về chuyện vua Bát –ma-ca hy
sinh thân mình để cứu an bá tánh trong nước Ngài. Và cuối cùng Ngài
khuyên: Các con hãy dùng trí tuệ của các con để cứu vớt quần sanh ra khỏi
chốn u đồ hơn là đi tìm một cô gái vô tích sự như vậy. Khi đó các nhạc sư
đồng xin xuất gia theo Phật, sau đó cả thầy trò cùng nhau trực chỉ đến Ưu-
lâu- tần- loa.
Một lần nọ đức Phật ở giữa dân chúng Koliya một số người đến đảnh lễ đức
Phật, bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn, chúng con là những người tại gia hưởng
thọ đầy đủ các dục, sống hệ phược với vợ con, mang chuỗi ngọc,tràng hoa,
xoa son đánh phấn, xin Thế Tôn hãy thuyết pháp cho những hạng người như
chúng con. Ngài thuyết thế nào mà pháp ấy sẽ đem lại cho chúng con hạnh
phúc an lạc ngay trong hiện tại và cũng đem lại hạnh phúc an lạc cho tương
lai. Đức Phật dạy: Này các gia chủ, có 4 điều đem lại hạnh phúc ngay trong
hiện tại là:
Điều
thứ nhất
là phải đầy
đủ sự
tháo vát.Phàm làm một nghề gì để sinh sống; như làm ruộng, dạy học,
đi buôn, làm bác sĩ hay làm nhân viên nhà nước… thì phải chuyên cần, chăm
chỉ, tìm hiểu nghiên cứu sâu trong lãnh vực nghề nghiệp của mình đang theo
đuổi để cho được tinh xảo, để có thê tự mình làm và chỉ vẽ cho người khác
làm. Điêù thứ hai là đầy
đủ sự
phòng hộ.Bằng sức mạnh, bằng mồ hôi nước mắt để thu
nhập của cải một cách đúng pháp thì phải cố gắng giữ gìn phòng hộ của cải
đó đừng để vua quan tịch thu, trộm cướp mang đi, lửa cháy thiêu hủy, nước
cuốn trôi, gió thổi tan và phải dạy dỗ, căn dặn những người con thừa tự
chớ có dại dột, hoang đàng phá phách cướp đoạt.
Điều
thứ ba là phải
bảo vệ
tài sản mình kiếm
đuợc.Người
con thừa kế luôn luôn là sự mong đợi của dòng họ để trao truyền và giữ gìn
gia sản của mình trong khi mình đang sống và sau khi mình qua đời.
Nhưng nếu người con thừa kế đó không được giáo dục, cha mẹ sanh ra thì có
mà nuôi thì không hoặc nuôi thì có mà dạy thì không, để đi theo bạn bè xấu
ác, tập nhiễm những hành động phi pháp, tâm tình hoang đàng nghịch ngợm.
Đối với cha mẹ chẳng những đã không giữ gìn được tài sản để lại mà ngược
lại còn hỗn hào xấc láo, gây khổ cha mẹ nữa là khác. Muốn tài sản được gìn
giữ tất nhiên người làm cha, làm mẹ phải có bổn phận giáo dục con cái mình
ngay từ lúc tuổi còn đang nhỏ. Giáo dục con cái bằng đủ cách như cho tiền
con cái đúng pháp, dạy dỗ nó bằng lẽ phải, bằng tình thương, bằng đạo đức.
Phải để ý hướng dẫn con cái đi đến những nơi hấp thụ, được điều hay lẽ
phải, đạo đức nhân nghĩa, không nên bỏ con cái đi lêu lỏng, để cho con cái
muốn làm gì thì làm. Nhiều Phật tử chúng ta chỉ biết rằng: Đạo Phật là
hay. đạo Phật là đúng, đạo Phật là sáng suốt rồi tự một mình đi chùa lễ
Phật, còn con cái tha hồ làm gì thì làm, đi đường nào thì đi. Như thế thì
con cái là những kẻ thừa tự, có hy vọng ở nơi nó bảo vệ được tài sản của
mình không?
Điều
thứ tư
là phải gần
gũi với thiện.,
Ở xóm này hay ở xóm kia, nếu ở đó có người hiền thiện, những người có lòng
tin chính đáng, có sự bố thí rộng rãi, có đức hạnh, có trí tuệ, thì ta nên
gần gũi họ để bàn bạc, học hỏi điều hay lẽ phải về đạo đức luân thường để
mà sống theo.
Điều
thứ năm là phải
sống thăng bằng
điều hòa.Ngày nay ta thu được bao nhiêu tiền,
chi ra bao nhiêu còn lại bao nhiêu. Rồi ngày khác ta thu được bao nhiêu,
chi ra bao nhiêu, còn lại bao nhiêu tiền. Nếu thu nhập ít ỏi mà tiêu hoang
phí đàn vô bổ, thì người đó sẽ bị thiên hạ chê cười, đó là những kẻ ăn của
cải của mình mà không biết phòng xa. Ngược lại nếu thu nhập khá nhưng lại
bỏn xẻn, keo kiệt, hà tiện không giám tiêu, không giám làm việc phải, thì
người đó cũng sẽ bị thiên hạ chê cười, kẻ đó là kẻ sẽ chết đói trên đống
của cải.
Có 4 điều làm cho của cải tiêu tán và cũng chính điều đó làm cho của cải
được duy trì và phát triển, đó là :
Đam mê cờ
bạc là điều
thứ nhất,làm cho của cải đội nón ra đi mtộ cách
khoẻ khoắn. Đam mê
ruợu chè là
điều thứ hai. Đây là cách đẩy của cải ra khỏi nhà.
Đam mê sắc
dục là điều thứ
ba Đó là một cách không muốn giữ của cải trong gia đình nữa, và
giao du với bạn
ác là điều
thứ tư.
Đây là cách mời giặc về nhà để mang của ra đi. Bốn điều trên là những điều
thông thường nhưng hết sức thâm thúy, những điều thông thường này xãy ra
hàng ngày nên không ai nghĩ tới quá thông thường nên không ai sống với.
Cho nên khi giao du bạn ác mà không biết rằng mình giao du bạn ác, để
người trong gia đình mình giao du bạn ác mà không biết rằng gia đình mình
đã có người giao du với bạn ác. Thế là mở cửa để cho của cải trong nhà đi
ra. Ngược lại nếu không đam mê cờ bạc, không đam mê rượu chè, không đam mê
sắc dục, không giao du bạn ác thì của cải ta làm được sẽ được bảo trì một
cách vững vàng không bị mất mát.
Tóm lại, đức Phật dạy những điều vừa nói là những điều đem lại hạnh phúc
an vui ngay trong hiện tại. Các Phật tử chúng ta thực hành theo những lời
dạy đó thử coi, nó có được an vui hay không? Tôi đoan chắc rằng khi chúng
ta thực hành những lời dạy đó của đức Phật thì chúng ta sẽ được an vui.
Họ lại hỏi tiếp: Những pháp nào đức Phật nói ra sẽ đem lại an vui hạnh
phúc trong tương lai nếu được áp dụng.
Điều
thứ nhất
là đầy đủ
lòng tin. Chúng ta nghèo khổ bao giờ cũng ướ c ao được giàu có,
chúng ta sống trong một cái thân mạng ngắn ngủi thì bao giờ cũng ước ao
được sống lâu dài. Chúng ta thiếu từ bi ước ao được sống trong từ bi,
chúng ta dốt nát ao ước được trí tuệ sáng suốt. Chúng ta sống triền phược
ước ao được sống tự do giải thoát. Chính những ao ước đó dắt dẫn chúng ta
bước lên, đi tới cảnh giới rộng rãi, tự tại an vui. Nhưng muốn được như
thế thì phải có lòng tin. Có lòng tin đặt đúng chỗ gọi là chánh tín. Một
người học trò muốn học giỏi phải tin tưởng lời dạy của người thầy giáo,
nếu không tin tưởng ở ông thầy giáo và lời dạy của ông, thì người học trò
đó sẽ không giỏi được. Một người bệnh đến bác sĩ chữa bệnh, tin tưởng ở
người thầy thuốc, tin tưởng thứ thuốc bác sĩ cho có thể chữa lành bệnh
được. Cũng vậy, bây giờ chúng ta ao ước được Từ bi, chúng ta phải tin
tưởng vào Đấng có từ bi viên mãn đó là đức Phật. Chúng ta ao ước trí tuệ
thì chúng ta phải tin tưởng vào đức Phật là đấng sáng suốt và trí tuệ giác
ngộ như danh từ đã gọi. Phật nghĩa là giác, có thêm chữ đại giác nữa gọi
là sự giác ngộ lớn lao. Giờ chúng ta đang bị vô minh, chúng ta ao ước, mơ
ước được giác ngộ thì chúng ta phải tin vào Đấng Giác ngộ thì ta mới giác
ngộ được.Chúng ta đang sống trong triền phược, bó buộc, bó buộc ở ngoại
cảnh và bó buộc trong chính nội tâm chúng ta. Chúng ta muốn được tự tại
giải thoát thì phải tin tưởng vào Đấng Tự tại giải thoát đó là đức Phật.
Tin vào đức Phật một cách đúng đắn, tin vào lời dạy của đức Phật một cách
đúng đắn, tin vào các bậc chân Tăng xuất gia tu hành theo đạo Phật một
cách đúng đắn, đó là ba niềm tin quí báu của người Phật tử chúng ta, là
những người đang mong mỏi bước lên con đường giác ngộ giải thoát và từ bi
của đức Phật.Thứ
hai là đầy đủ
giới đức: Giới đức tức là những điều răng dạy,
những điều luật để kiềm chế thân của chúng ta đừng làm bậy, miệng của
chúng ta đừng nói bậy, tâm của chúng ta đừng nghĩ bậy, Mỗi người chúng ta
phải sửa cho được thân không làm bậy, đó gọi là giới luật, là những điều
răng dạy của Phật. Những người sơ cơ tại gia Phật tử có 5 điều răn dạy mà
đức Phật dạy cho người tại gia cố gắng giữ gìn, thì tự nhiên có đức hạnh.
Năm điều căn bản của giới tại gia tạo nên đạo đức là:
1.
Không sát sanh;
2.Không trộm
cắp; 3. Không tà hạnh
trong các dục;
4.Không nói dối;
5. Không uống
ruợu.. Đó là căn bản của đạo đức, của lẽ phải.
Chúng ta thử hỏi, ta muốn sống, người khác cũng muốn sống thì đừng vì ta
mà giết hại kẻ khác. Đó là một sự hợp tình thuận lý. Nếu giữ được cái hợp
tình hợp lý đó thì gọi là đạo đức, trái lại làm một việc phi tình phi lý
thì gọi là vô đạo đức. Không trộm cắp là biết tôn trọng của cải của người
khác trong xã hội, đó là một việc hợp tình hợp lý gọi là đạo đức. Không tà
dâm, giữ nhân cách, nhân phẩm cho đứng đắn vững vàng đó cũng là đạo đức mà
xã hội con người không thể thiếu được, Không nói dối cũng là môt cách giữ
gìn đạo đức, nhưng điều này hơi khó.
Các Phật tử lên chùa nghe các thấy khuyên đừng nói dối, đó là lời khuyên
hay và có lợi vô cùng, nhưng đến khi ra giữa chợ đời thì chịu. Một thước
vải chị bên này bán 10 ngàn, chị nọ 12 ngàn, chị kia 15 ngàn, chị khác 11
ngàn. Trong khi đó thước vải xuất xưởng đúng giá chỉ có 9 ngàn thôi. Nếu
mình nói thước vải này 10 ngàn thì người ta cho là vải xấu. Nói thách 15
ngàn đó là vải ngoại họ cho là vải tốt. Còn 11 ngàn thì cho là vải nội hóa
không ra gì, không thèm mua. Cho nên that khó nói. Như vậy mình là Phật
tử, nói thật thà thì không nên đi buôn và cũng đừng nên làm chuyện gì hết
, bởi trong giới nào cũng có sự nói láo cả,không nhiều thì ít, nhất là
trong sự buôn bán nói láo nhiều hơn ai hết. Vậy làm sao vừa giữ giới được
vừa buôn bán được? Nếu là người năng đi buôn ,các vị tìm cho một cách vừa
giữ giới được vừa buôn có lời ! Các vị có làm được không?
Tôi đã nghĩ ra cách này không biết các Phật tử có chịu không? Trong thước
vải đó, người bên này nói 12 ngàn thì mình cũng nói 12 ngàn. Đúng ra là
nói láo rồi đó, láo 3 ngàn so với 9 ngàn là giá chính thức. Nếu gặp một
người từ quê ra, cực khổ, lâu nay gom góp được 12 ngàn đồng, lên chợ mua
tưởng vải chưa trượt giá, họ tính nếu mua một thước 6 ngàn hai thước 12
ngàn thì may được 1 cái áo. Chừ nó trượt giá 12 ngàn một thước nhưng họ
cũng đàng nhắm mắt mua. Chị bán hàng bên này không đi chùa, chị không giữ
giới bất vọng ngữ, nên chị nói 12 ngàn, chị từ quê ra đồng ý mua và trả
tiền lấy vải về. Khi mua được vải đó đem về tốt xấu chị ta không thèm để
ý. Còn mình là Phật tử nói 12 ngàn và chị ta cũng đưa 12 ngàn nhưng mình
nói nhỏ với chị ta, tuy nói là nói vậy, nhưng tôi bớt cho chị 2 ngàn lấy
10 ngàn thôi. Thế là mình cũng nói láo, bán được có lời, nhưng nói láo đó
là nói láo phương tiện, không mắc tội ,không phạm giới. Đó là tôi đề nghị
như vậy để các vị tham khảo vì tôi không đi buôn, nếu còn giải pháp nào
hay hơn thì các Phật tử tìm cách suy nghĩ thêm, miễn sao buôn bán có lời
mà không mắc tôi nói láo là được.
Nói đến giới bất vọng ngữ này thì căn bản của nó là nền tảng của đạo đức.
Trong chúng ta nếu ai cũng cố gắng giữ đừng nói láo, hay có nói láo thì
nói ít ít thôi, 10 nói ra 11 chứ đừng nói ra 20, Như vậy chợ nó bớt ồn,
thì giờ bớt mất, đồ đạt của vải bán ra cũng rất mau. Còn nói
láothách nhau nhiều quá nhất định chợ sẽ ồn, bán rất chậm, vì sao? Vì một
thước vải 9 ngàn mà nói 20 ngàn nhất định họ phải trả giá thôi. Trả tới
trả lui, trả lên trả xuống…một giờ mà chưa mua được một thước vải nào và
người bán cũng không bán đuợc một thước vải nào. Đó là hậu quả của sự nói
láo quá mức, đã mất thì giờ cho mình mà còn lại mất thì giờ cho người mua
, thậm chí đôi khi xảy ra xích mích, cãi lộn rồi đánh nhau nữa. Xã hội nào
nói láo nhiều thì xã hội đó sẽ bất an. Nếu nói láo ít thì đó là một xã hội
an lạc.
Tôi thấy vì nói thách quá nhiều nên có người đi cả buổi chợ rồi quay trở
về chứ không mua đuợc gì hết. Ở nhà nghe nói một thước vải 5 ngàn, lên chợ
hỏi chỗ này 7 ngàn, chỗ kia 9 ngàn, thậm chí 11, 15 ngàn nên không mua
đuợc vải mà lại mất toi một ngày. Bên kia cũng không bán được, bên này
cũng không mua đuợc. Cho nên giới không nói láo tưởng đơn sơ nhưng đó là
căn bản của an lạc, trật tự của xã hội. Nếu một xã hội mà người nói láo
nhiều thì đâm ra mất trật tự và nguy hiểm vô cùng. Tôi ví dụ, chúng ta tới
mua vé xe, nếu họ bán thật giá thì khách sẽ mua và lên xe đi ngay,
còn nói thách thì khách sẽ đắn đo, so sánh nên chưa vội mua ngay. Đáng ra
vé xe đi 5 ngàn, bây giờ họ nói 10 ngàn nên khách phải trả giá, vô tình họ
làm mất thì giờ cho khách mà xe cũng không thể chạy được. Như vậy là
bên này kẻ mất buôn, bên kia kẻ mất bán, xã hội vì vậy mất trật tự nên
không có đạo đức. Cho nên Phật chế giới cấm nói láo là rất hay, nếu chúng
ta suy nghiệm kỹ thì lời dạy của đức Phật thâm thúy vô cùng, nếu đem áp
dụng đuợc giới không nói láo vào trong đời sống thì sẽ đem lại sự an lạc
cho xã hội ngay tức thời.
Không uống ruợu
là điêu thứ
năm: Ở giữa xã hội kinh tế thị trường này, là một người Phật tử lên
chùa mà không uống rượu, tôi nghĩ, các Phật tử chẳng qua khi nghe lời các
thầy khuyên không nên uống rượu thì dạ dạcho qua chuyện mà thôi,chứ ở
ngoài đời nói không uống rượu thì khó quá. Xã hôi ta bây giờ ở đâu đông
người là ở đó có uống rượu. Ngồi hai người họ cũng uống. Bình thường không
có người họ cũng bày ra độc ẩm. Quán nào cũng có rượu cả. Nếu Phật tử khi
lên chùa các thầy khuyên đừng uống rượu thì e cũng có người nói: Thôi thôi
các thầy ơi, các thầy cho tôi quá 70 tuổi rồi tôi sẽ nghĩ uống, chứ bây
giờ còn trẻ nghỉ uống sao được, tu cái giới này chưa đuợc, khó quá ! Thực
tình ra đức Phật dạy những giới điều như vậy, Ngaì nói chu đáo nhưng sự
thực hành bao giờ cũng từ từ, chứ không phải khuyên các Phật tử không giữ.
Tôi ví dụ: Nếu hôm trước chúng ta uống 10 lít một ngày thì bây giờ thọ
giới rồi uống 9 lít thôi. Hoặc tháng sau hay tháng sau nữa lên chùa lạy
Phật, xin Ngài cho con bữa nay uống 8 lít thôi. Tháng sau tháng sau nữa
lên lạy Phật nói, thưa Ngài cho con bữa nay uống 7 lít thôi, cứ như thế từ
từ mà bỏ. Chính đó là thọ giới không uống rượu, chứ không phải lên thọ rồi
là bỏ liền, nên các đạo hữu đừng sợ. Như thế thì ai đang uống rượu đó cũng
có thể xin thọ ngũ giới được, chứ không phải nói tôi đang uống tôi thọ
không được. Nhưng vị ấy phải có quyết tâm bỏ từ từ, như tháng này tôi bỏ
một ly, tháng sau tôi bớt một ly, cứ như thế từ từ mà bỏ dần, đó là điều
thứ nhất. Điều thứ hai là khi đã thọ giới không uống rượu thì không được
đem rượu mời nài ép người khác uống. Có nhiều khách tới nhà liền đem rượu
tới nài ép. Mời anh uống với tôi một chén cho vui. Người kia nói: Không,
tôi thọ giới rồi t6oi không uống rượu. Người kia nài nỉ: Thôi anh à, hôm
nay anh xã giới một bữa, anh cụng với tôi một ly cho vui . Như thế là mình
không biết giữ cho mình mà cũng không biết giữ cho người khác. Như vậy là
giữ giới bất ẩm tửu không trọn vẹn. Nên khi giữ thì phải giữ cho mình và
cũng giữ cho người khác nữa, chứ mình không uống mà cố ép người khác uống
một chén cho vui, vì mấy khi anh đến nhà tôi. Ép người ta như vậy thì mai
mốt làm sao ta lên chùa để thọ giới không uống rượu được, vô tình mình
chận con đường hành đạo của mình và còn chận con đường tu đạo của người
khác mà không biết. Cho nên việc chế giới của Phật thâm thúy vô cùng, mình
phải tìm hiểu và thực hành thì bản thân mình mới được thanh thản an vui.
Nếu không ý thức được như vậy, thì việc uống rượu tràn lan trong xã hộinhư
hôm nay là một tai hại rất lớn. Có biết bao nhiêu người chết vì rượu và có
biết bao gia đình tan nhà nát cửa cũng vì rượu.
Một lần có một Phật tử chở tôi bằng xe Honda tôi ngồi sau hỏi: Sao Bác,
mấy hôm rày làm ăn ra sao? Anh ta trả lời: Thưa thầy, dạ kinh tế con
không lo, nhưng khổ quá. Tôi hỏi Bác khổ chuyện gì vậy? Thưa thầy, nhà tôi
mấy đứa con nó say sưa cả ngày, đánh lộn cãi vã nhau hoài, xử mãi xử hoài,
xử một chặp tôi mệt quá, lần sau nghe la lối to tiếng là tôi phải bỏ đi
chổ khác, qua nhà hàng xóm ngồi. Như vậy là nhà mình giao cho con uống
rượu phá phách, còn mình qua nhà hàng xóm ngồi. Vậy là tại ai mà xảy ra
chuyện bất hạnh như vậy? Tại mình không giao dục con cái mình chứ không
phải khổ vì ngoại cảnh bên ngoài đem lại. Cho nên chúng ta phải ý thức cho
được lời đức Phật dạy không uống rượu là mốt điều rất hay, rất là đạo đức.
Ở ngoài xã hội chúng ta cho chuyện đó là chuyện thông thường, không quan
trọng, nhưng nhìn ra ngoài xã hội, nhìn lại trong gia đình của mình chúng
ta sẽ thấy đó là mốt điều hết sức hợp lý và rất hay. Nếu giữ được thì sẽ
đem sự hạnh phúc cho gia đình xã hội.
Điều
thứ 3 là đầy
đủ sự
bố thí.
Thường thường khi nghe nói bố thí chúng ta hay quan niệm rằng: Có của mới
bố thí chứ tôi nghèo xơ nghèo xác thì làm sao mà bố thí được. Ngày chỉ cần
đủ được hai ba bữa ăn là tốt lắm rồi chứ lấy đâu ra của mà bố thí. Như vậy
là cái bụng chưa no thì làm sao mà bố được. Khi nào no mới bố chứ, chứ giờ
đây chưa no mà biểu bố cho ai được.Thế chắc Phật dạy bố thí là dạy cho mấy
ông nhà giàu, còn hạng nghèo khổ, hạng đi ăn xin bố sao được. Có nhiều
người nghĩ như vậy nên cho Phật chỉ chú trọng mấy ông nhà giàu, chứ không
chú trọng mấy người nghèo khổ. Chứ nhà nghèo quá không đủ ăn lấy đâu mà bố
với thí.
Thật ra bố thí là một cách mở rộng lòng mình, chan hoà sự sống của mình
với người khác. Khi đã biết thu vào thì cũng phải biết thí ra. Hằng ngày
chúng ta thở vào và thở ra để mà sống. Nếu chúng ta tham lam hơi thở, hít
vào thật nhiều không tống nó ra, có được không? Chắc chắn là không được,
chết ngay. Có cho ra rồi mới hít vào được, có hít vào rồi mới cho ra được.
Từ đó suy ra, của cải cất cho nhiều để làm gì? Của cải để nuôi sống, không
khí để làm gì? cũng để nuôi sống . Vậy khi hít không khí vào cũng chỉ vừa
để nuôi sống mà thôi, nếu dư quá sẽ ngập tràn phổi cũng chết. Của cải nếu
giữ mãi mà không đưa ra, lâu ngày nó không chết cách này thì cũng chết
cách khác.
Sau giải phóng có một ông đạo hữu , tôi chắc ông này là đạo hữu nhưng cũng
ít đi chùa, không bao giờ bố thí và không nghe Phật dạy cái luật vô
thường, đến với tôi ông nói: Ôi chao thầy ơi! Thầy có cách chi thầy vẽ cho
tôi sống với, chứ tôi hoảng quá thầy ạ ! Tôi nói: sao mà hoảng quá rứa
bác? Ông nói; Thưa thầy, nhà cửa con họ lấy hết trơn. Tôi hỏi: họ lấy mấy
cái? Dạ , họ lấy 9,10 cái lận. Tôi tiếp tục hỏi: Có còn cái nào không? Dạ,
còn một cái. Còn nhà gì bác? Dạ, nhà lầu. Vậy giờ bác ở với ai? Dạ, hai vợ
chồng già thôi. Tôi nói: Ôi chao, sao bác không chịu ngó xuống mà ở. Hai
vợ chồng già rồi ở một cái nhà lầu mà bác nói hoảng. Một mai kia bác không
có gạo ăn,bác bán cái nhà ấy rồi mua một cái nhà nho nhỏ , hai vợ chồng ở
với nhau, tôi nghĩ bác sống đến 120 tuổi cũng tiêu chưa hết tiền! Khi đó
bác ta kêu lên: À, à.
Thường thường chúng ta mê lầm lắm. Trong khi mình sướng mà không biết mình
sướng, cứ nói mình khổ. Còn cái nhà lầu 3 tầng so với nhiều người còn ở
nhà tranh, thậm chí có nhiều người không có nhà , ở bụi ở bờ thì mình
sướng biết mấy mà không biết mình sướng. Cho nên khi ta biết sướng thì tự
nhiên ta sướng, nếu không biết sướng thì tự nhiên ta khổ. Khổ đó phần lớn
do mình đem tới chứ không do ai đem lại cả.
Đức Phật có một lần, Ngài ngồi yên tịnh bên gốc cây. Có người đi ngang qua
hỏi: Ngài có hoan hỷ không Ngài? Ngài nói: ta được gì mà Ta hoan hỷ.Ngài
không hoan hỷ chắc là sầu muộn hay sao mà ngồi một mình như vậy? Ngài nói:
Ta mất chi mà Ta sầu muộn. Ông ta nói: Lạ chưa, không hoan hỷ thì sầu
muộn, không sầu muộn thì hoan hỷ, chứ sao đây hoan hỷ cũng không mà sầu
muộn cũng không? Đời không có ai có chuyện là như vậy bao giờ. Ngài mới
nói: Sầu muộn chỉ đến với người có tâm hoan hỷ, hoan hỷ chỉ đến với người
có tâm sầu muộn. { Bây giờ đang đói bụng quá, sầu hết sức; có ai đem cho
một ổ bánh mì ăn thì hoan hỷ. Thế là từ trạng thái sầu muộn mà sinh ra
hoan hỷ. Hôm nay có một lượng vàng bỏ trong túi, đi ra đường nó rớt mất.
Vì có vàng la hoan hỷ lắm mà giờ nó rớt mất là sầu muộn}. Như lai là người
đã dứt hết sầu muộn rồi lấy đâu mà hoan hỷ, Hoan hỷ chỉ đến với tâm người
sầu muộn, mà đức Phật không còn sầu muộn, cho nên Ngài không sầu muộn cũng
không hoan hỷ. Nhưng chính không sầu muộn không hoan hỷ đó là một cái hoan
hỷ vượt lên trên mọi hoan hỷ và sầu muộn tầm thường đối đãi của thế gian,
đó là một cái hoan hỷ , giài thoát tự tại, cho nên đức Phật khi nào miệng
Ngài cũng mĩm cười luôn. Cười to như ngài Di-lặc hay mỉm cười như đức
Thích-ca cũng là nụ cười bao giờ cũng hoan hỷ.
Khi nào các Phật tử lên chùa hỏi đức Di-lặc. Ngài có được cái gì không mà
Ngài cười luôn như vậy? Ngài có trúng số độc đắc không mà Ngài cười hoan
hỷ như vậy? Rồi đến vỗ vỗ nơi chân đức Thích –ca hỏi Ngài có được gì không
mà Ngài mỉm cười như vậy.Nếu lên hỏi mà đức Di-lặc nói: ta không được gì
cả mà Ta vẫn vui; hay đức Thích-ca cũng không được gì cả mà Ngài vẫn cười,
vẫn hoan hỷ. Mình cũng bắt chước theo các Ngài rằng: Dù chúng ta không
được gì cả thì chúng ta cũng cứ vui vẻ. Lẻ tất nhiên, cái vui của Phật
không phải như cái vui của mình. Mình cười ha hả là trước mắt có cái vui
cho chính mình. Tuy nhiên, cái vui cái cười của mình hiện ra rồi biến mất
khiến mình lại buồn liền. Bởi vì mình đang ở trong cảnh vui vui buồn buồn
của thế gian. Cái vui cái buồn của mình không phải tự chính trong mình có
, mà nó tùy thuộc vào cái vật bên ngoài. Bây giờ nếu ai đem tới cho chúng
ta một thỏi vàng mà còn ca ngợi chúng ta nữa, rứa là chúng ta vui, nhưng
nếu chúng ta để mất thỏi vàng thì buồn liền. Như vậy là dựa theo thỏi vàng
đó mà vui mà buồn, chứ trong tâm này không có. Đó là cái vui buồn theo
ngoại cảnh.
Đức Phật không vui buồn theo thỏi vàng đó cho nên khi nào Ngài cũng mỉm
cười, cũng vui hết. Ngài biết cái buồn vui theo thỏi vàng đó là cái buồn
vui giả tạo, một cái buồn vui không bền vững, cho nên Ngài đã bỏ quốc
thành thê tử để đi tu, hầu chứng ngộ một cảnh giới không buồn không vui gì
cả, đó là Niết-bàn, nên dù cho ngồi dưới gốc cây Ngài cũng vui.
Sự bố thí mà đức Phật dạy rất thiết thực và thâm thúy lắm. Nếu tất cả
chúng ta, hằng ngày có một ý nghĩ bố thí thôi, chứ chưa phải bố thí cho ai
hết thì cũng đã có lợi rồi. Khi tâm của chúng ta nghĩ đến bố thí: Ví dụ ta
nghĩ ước gì có một đồng bạc để bố thí cho người nghèo, thì khi ấy chúng ta
sẽ không móng tâm ăn cắp ăn trộm nữa. Cho nên chỉ một việc suy nghĩ đến bố
thí cũng đã có lợi rồi, chứ chưa nói đến việc đem tiền đem bạc đi bố thí.
Khi tâm đã nghĩ đến bố thí thì sẽ không có tâm nào nghĩ đến ăn trộm
ăn cắp nữa, như thế đã là có lợi và vui rồi. Nếu không bố thí thì tâm bỏn
sẻn sẽ làm cho mình mù quáng không biết đâu là phải đâu là trái, đâu là
hay đâu là dở. Khi ấy cái gì có lợi thì ta cho là đúng, không lợi thì cho
là sai.
Có một bà già, bà này chuyên sống với tiền với bạc; nên ngày nào có tiền
có bạc đem đến thì bà vui, ngày nào không có tiền đến thì bà buồn. Khi nào
mở tủ ra mà thấy bạc chất từng chồng cao thì bà vui, còn chồng bạc lưng
lưng thì bà buồn lắm. Suốt ngày chỉ nghĩ đến tiền, nên bà tìm đủ mọi cách
để thu càng nhiều tiền càng tốt, vì vậy bà đã tìm đủ mọi mưu mô thủ đoạn,
để vơ vét tiền bạc về cho mình và không từ một thủ đoạn nào. Vì thế, nếu
có ai tới nói có lợi cho bà thì bà đãi cơm mời nước rất ân cần, còn người
nào tới quyên tiền như nói: Bữa nay trên chùa có lễ, chị nên cúng cái này
cái kia để làm phước, thì bà liền quay lưng từ chối lia lịa. Không cho mà
lại ác cảm nữa.
Bên cạnh nhà bà có ông hiền sĩ, thấy tâm bà ác quá nên anh ta tìm cách
thức tỉnh bà. Bữa nọ, anh ta qua nhà bà mượn một cái nồi nấu cơm. Anh nói,
bà ơi, mấy lúc này tôi ở một mình nên nấu cái nồi một là đủ ăn, bữa nay có
bạn bè tới thăm, nên bà cho tôi mượn cái nồi rưỡi về nấu vài hôm. Năn nỉ
đủ cách bà mới cho mượn và còn nói: Cả đời tôi chưa cho ai mượn hết, bữa
nay nể anh nên cho anh mượn, nhưng sáng mai phải đem trả sớm cho tôi. Sáng
mai anh ta đem trả nồi rưỡi và trong còn có một cái nồi con nữa. Thấy vậy
bà hỏi: Cái nồi con nầy đâu đây? Anh ta nói: Hồi hôm tôi rửa cái nồi rưỡi
định sáng mai đem trả cho bà, không ngờ ban đêm nó đẻ ra cái nồi một này.
Nghe nói vậy bà ta khoái trá nói: Phải, nồi tôi là nồi đặc biệt, bữa sau
có mượn qua đây tôi cho mượn, với lại nếu anh mượn nồi gì tôi cũng cho anh
mượn hết. Bà dặn dò như vậymấy lần nhưng lâu rồi không thấy anh ta qua
mượn, Lâu lâu bà lại cho người qua nhắc, sao không thấy anh qua mượn nồi.
Bà nhắc mãi nhắc hoài , bữa đó anh ta qua mượn.Anh xin mượn nồi rưỡi, bà
nói không có, chỉ cho mượn nồi lớn thôi chứ nồi rưỡi tôi bận rồi.
Môt hồi lời qua tiếng lại, cuối cùng anh nói: Thôi bà cho mượn cái nồi gì
cũng được.Bà đưa nồi lớn, anh nói: Nồi này to quá làm gì hết. Anh năn nỉ
bà cho mượn nồi nhỏ thôi. Bà nói, thôi cho mượn nồi ba cũng được. Khi đó
bà nghĩ thầm trong bụng. Nồi rưỡi đẻ ra nồi một thì bây giờ nồi ba nó sẽ
đẻ ra nồi em nồi một. Bà vội vàng lấy nồi cho anh ta mượn. Anh ta mang nồi
về. Khi đi ngang qua con sông cạnh nhà anh ta, anh liền vứt nồi xuống sông
rồi về nhà nằm ngủ. Bà ở bên nhà cứ thấp thỏm sao đêm nay trời lâu sáng
quá, canh một,canh hai, canh ba gà đã gáy nhưng trời vẫn chưa sáng. Bà
mong cho mau sáng để anh ta qua trả nồi. Hy vọng anh đem trả nồi ba thế
nào cũng có cái nồi nhỏ ở trong đó.
Nhưng một ngày qua vẫn không thấy anh ta đem trả. Ngày hôm sau mặt trời
vừa lên quá đọt cau mà vẫn chưa thấy anh ta trả nồi, bà nóng lòng nên chạy
qua nhà thì thấy anh ta đang vách râu nằm ngủ. Bà tới đập anh ta thì anh
ta lăn qua lăn lại mà không thấy dậy. Bà lấy que đập đập vào người khi ấy
anh ta mới dụi mắt thức dậy. Bà mắng anh ta và nói: Sao sáng nay không
thấy anh đem nồi qua trả? Anh trả lời: Ôi chán quá bà ơi! Bà hỏi anh chán
cái gì? Anh nói: Cái nồi bà hắn chết rồi. Bà nói: Anh nói hiện ngụy, có
bao giờ nghe nồi chết đâu mà sao hôm nay anh nói lạ thế! Anh buồn rầu nói
và khóc: Cái nồi nó chết nên tôi đem chôn hồi hôm rồi. Bà la lớn: Anh đừng
nói hiện ngụy. Nồi mà nồi chết, xưa nay chưa nghe ai nói chuyện đó! Anh
nói: Bà không biết sao, xưa nay đã có sanh thì có chết chứ sao. Bà dậm
chân dậm cẳng la lối, nồi của tôi đâu rồi đem về cho tôi, còn không tôi sẽ
đi kiện quan. Anh nói: Bà có đi kiện đâu thì kiện chứ hắn chết tôi cũng
chịu thôi.
Bà chạy về nằm gác tay lên trán suy nghĩ, nếu muốn đi kiện quan thì biết
viết đơn làm sao để đi kiện. Dù cho ông tiến sĩ cử nhân gì đi nữa làm sao
viết được cái đơn này mà đi kiện. Thua buồn thua kiện nên bà về nhà nằm
nghĩ. Nghĩ một hồi tinh thần hơi ổn định và nhớ lại: Khi kia mình nồi ba
cũng có, chừ lại không! Nồi rưỡi cũng có giờ lại không? Tự ai gây ra cớ sự
như thế này? Vua cũng không lấy , giặc cũng không cướp mà sao ta lại mất
nồi! Tính đi tính lại té ra mình quá tham. Tham quá hoá u mê.
Câu chuyện nghe kể có vẻ ngớ ngẩn, bây giờ một em bé 15 tuổi cũng không
tin cái nồi sanh cái nồi chết. Nhưng bà con chúng ta không tin cái nồi
sanh nhưng lại tin cục vàng nó đẻ. Một cây nó có thể sanh ra bốn cây hay
bảy cây một lần. Báo chí có nêu đây đó tỉnh này tỉnh kia, nạn chơi và bể
hụi làm cho bao gia đình tan nhà nát cửa. Tôi có một người quen hiện
bây giờ vợ bỏ chạy trốn vì sợ chủ nợ tới đòi, nên chồng phải treo bảng bán
nhà, vì sao? Đó là vì nạn chơi hụi.Vàng không đẻ một ra ba cây mà cứ ép nó
đẻ cho đến khổ. Nồi không đẻ mà cứ ép cho nó đẻ nên sinh ra khổ. Nếu có
cái tâm bố thí, không bỏn sẻn, không tham lam thì đâu đến nổi như thế.
Đức Phật dạy: Tham, sân, si là ba căn bệnh gây khổ đau cho chúng sinh.Làm
sao bớt tham, bớt sân, bớt si thì mới có an lạc. Có ba cách bố thí để đem
lại an lạc: Đó là bố thí tài vật, là cúng của, cúng tiền giúp áo giúp cơm.
Ví dụ thấy bên nhà hàng xóm có một em bè học hành giỏi, tánh nết dễ thương
nhưng nhà không đủ tiền nuôi con cho đi học thì mình tìm cách giúp
cho em đó đi học. Đó là cách bố thí thiết thực nhất.
Xưa có một người ăn xin thấy đức Phật đi ngang qua, trong lòng ưng bố thí
quá nhưng không biết lấy gì mà bố thí, đi xin còn không đủ ăn lấy đâu mà
bố thí. Người ấy chạy tới nói: Bạch Phật, con muốn cúng cho Ngài nhưng cực
quá không làm sao mà cúng cho Ngài được. Đức Phật đưa bình bát của Ngài
cho người đó và nói: Ngươi đến nơi giếng múc cho ta mốt bát nước. Khi múc
nước đem tới dâng Ngài, Ngài nói: Ngươi đã bố thí cho ta rồi đó.
Hiểu cái nghĩa bố thí rộng rãi như vậy thì bất cứ giờ nào chúng ta cũng bố
thí được hết. Đi ra đường gặp môt người đẩy xe nặng ta đến đẩy phụ cho họ
một chút cũng là bố thí, vì mình đã đem cái sức của mình giúp cho họ. Một
người nằm bệnh viện cần ít máu, mình đến cho họ vài mili máu cũng là cách
bố thí. Đó là
bố
thí nội tài.
Thứ hai là bố
thí pháp: Tức là bố thí điều hay lẽ phải, an ủi người đang khi sầu
khổ.Học hỏi giáo lý của đức Phật để đem những lời dạy đó mà truyền trao
lại cho người khác, mở mang khai sáng tâm trí cho họ cũng là một cách bố
thí. Góp tiền in kinh ấn tống cúng dường để phổ biến giáo lý của đức Phật
cũng là bố thí. Đó là bố thí tài vật. Hoặc giả tối hôm nay ở đây có nghe
giảng, có thuyết pháp, mình rủ bạn bè đi nghe để cho họ hiểu giáo lý của
đức Phật, đó cũng là một cách bố thí. Đây là bố thí pháp. Ông thầy giảng
là bố thí đã đành, người đi nghe và rủ người khác cùng đi nghe cũng là bố
thí pháp. Mình đi nghe pháp và rủ bạn cùng đi nghe tức là mình đã góp phần
bố thí pháp cho họ. Hiểu bố thí như vậy thì bất cứ lúc nào ta cũng bố thí
được cả. Không bố thí tài thì bố thí pháp, miễn rằng ta có tâm thì ta bố
thí được. Thứ ba là
vô úy thí : Là bố thí sự không sợ. Có nhiều người bình thường thì
hiền lắm, nhưng khi nói với ai thì ưa trợn mắt phồng mang nguýt nguýt làm
cho người ta khiếp vía, cốt để dọa cho những kẻ yếu bóng vía. Thế là họ đã
bố thí cái sợ chứ không phải bố thí cái không sợ.
Thế thì Phật tử chúng ta phải chú ý bao giờ miệng cũng nói ôn hòa từ tốn,
thân mật chứ không nên nói áp đảo làm cho người đối diện khó chịu. Đó cũng
là cách bố thí không sợ sệt. Giữ giới không trộm cắp cũng là bố thí không
sợ sệt. Đi tàu xe, nếu ngồi gần một người mà trước đây nghe báo đài nói
anh ta là người ăn cắp có tiếng thì mình ngồi bên cũng sợ lắm. Thành vô
tình anh ta bố thí cho mình cái sợ nên không giám ngủ, không giám đi đâu
hết. Ngược lại nếu lên trên tàu ngồi bên một người Phật tử, họ là người có
tu, rộng rãi, không bao giờ bớt xén của ai, có ai khó khăn thì liền giúp
đỡ nên lòng rất an tâm, không sợ sệt gì cả, đi đâu cũng không sợ. Sự không
sợ đó thì ai bố thí cũng được hết chứ không phải chỉ có Phật mới bố thí sự
không sợ đó mà thôi. Cho nên người ta sợ và không sợ cũng tự nơi mình. Bố
thí tài, bố thí pháp và bố thí không sợ là thế.
Điều thứ 4 là đầy
đủ trí tuệ
: Phật là giác ngộ, ngược lại chúng sinh là vô minh. Vô minh là đau khổ.
Đau khổ vì cái Ta, cái Tôi của chúng ta lớn quá, mong rằng bất cứ ai đụng
tới nó. Anh có nói với tôi thì nói tử tế, ca ngợi tôi thì được nhưngchê
tôi và nói xấu tôi là không được. Cái tôi của tôi lớn lắm. Cái tôi lớn như
vậy nhưng hỏi cái tôi ở đâu thì chỉ không ra, đến nỗi một gốc cây đến khi
thành tôi rồi là quan trọng lắm.
Khi cha mẹ mình đẻ ra thì đẻ cục thịt ra trước, nó không có tên có tuổi gì
cả. Rồi sau mới đặt cho một cái tên rất đẹp như Thúy Nga, Ngọc Bích, Lan
Hương, Thu Ba…tên nào tên nấy nghe dậy trời, kêu lên ai cũng tưởng người
đó là đẹp như tiên, nhưng thực tế chưa chắc đã đẹp. Rồi cũng có khi cha mẹ
vô tình đặt cho con một cái tên rất xấu. Thỉnh thoảng chúng ta thấy trên
báo chí, có một số người được cha mẹ đặt cho cái tên cũng xấu lắm. Khi đặt
tên đó rồi thì nó gắn chặt cả đời mình vào cái tên đó. Ví dụ: Cha mẹ đặt
cho mình tên Kèo. Mới đầu ai kêu Kèo mình cũng không để ý, nhưng sau kêu
mãi rồi mình tự nhận Kèo là mình,mình là Kèo. Một chặp nó đồng hóa hai
thành một. Khi đã đồng hóa rồi thì đi đâu nó cũng gắn chặt với mình. Nếu
lỡ một mai đi ngang qua xóm đó họ mất xe đạp, họ kêu tên Kèo ra chưởi
trong khi mình định đi xa. Nhưng đè tên Kèo nó chưởi đúng như tên mình,
khi đó mình đứng cự lại ngay. À, mụ kia, ai ăn cắp xe đạp của mụ mà mụ kêu
tên tôi ra chưởi. Hai bên cãi qua cãi lại, cãi sáng chưa xong lại để chiều
cãi, chiều cãi chưa xong mai lại cãi tiếp, nên chuyến đi xa đành bỏ dở, ăn
cũng không mà uống cũng không.
Vậy có ai trói anh đâu mà cứ đứng mãiđó, cũng không ai giam anh ta mà anh
ta vẫn cứ đợi mãi. Giả sử khi đó mấy ông công an có mặt chắc họ cũng không
dại gì sờ tới. Cứ đứng đó chưởi chưa đã, còn về kéo bà con tới chưởi nữa.
Nếu lỡ chưởi chưa xong mà hấp hối thì dặn con cái nhớ chưởi tiếp. Chưởi
cho hết sức cũng vì cái tên Kèo. Thế thì tên Kèo khi cha mẹ sinh ra có hay
không? Chắc là không có. Đã không mà chấp chặt lấy làm của mình. Vì chấp
chặt tên Kèo là mình nên khi ai đụng tới cũng không được.Hễ ai chưởi thì
phồng mang trợn mắt lên liền. Nhưng nếu có ai đó ca ngợi: Ồ, anh Kèo như
rứa nhưng sống có đạo đức lắm, lại thông minh và có lòng giúp đỡ mọi
người, mặc dù anh ta chưa giúp ai chút nào hết. Nhưng khi nghe ca ngợi là
Kèo có đạo đức, hay giúp đỡ người thì thích lắm. Khi đã chấp cái giả làm
thật như vậy rồi thì quyết sống chết với nó. Đó thật là vô minh mà không
biết, cho nên cứ sống chết với nó.
Trái lại Phật là đấng giác ngộ, Ngài không chấp ta, của ta và vì ta nên
Ngài được tự tại. Là Phật tử mình phải học cái trí tuệ của Ngài để chữa
cái bệnh vô minh đó. Thứ đến là phải biết cái luật nhân quả, bởi vì mọi sự
mọi vật giữa đời này là quay theo luật nhân nào quả ấy, giống như cây chua
thì sinh trái chua, giống lúa thì trồng lên cây lúa, giống bắp thì trồng
lên vây bắp. Như vậy thì hành động thiện thì đưa đến quả thiện, hành động
ác thì đưa đến quả ác. Ai biết được luật nhân quả là người có trí tuệ. Thứ
ba là biết được luật vô thường của vạn pháp là sự vật không đứng yên một
chổ. Không đứng yên mtộ chổ cho nên đã có ngày sanh tức phải có ngày chết.
Chứ nếu đứng một chổ chắc chắn bây giờ chúng sanh đứng chật ních cả vũ trụ
, đứng yên một chỗ chứ không đi đâu được hết. Nhưng mà luật vô thường có
sanh thì có diệt, nên chúng ta hiện còn có chổ để đi tới đi lui. Vô thường
không phải trong từng kỳ hạn mà vô thường trong từng sát na. Ví dụ : Tóc
trên đầu ta bạc từ khi nào đố ai biết được. Ai có biết tóc trên đầu mình
nó bạc vào giờ nào, phút nào không? Không biết. Lâu lâu soi gương thấy nó
bạc vài sợi mới biết tóc ta hôm nay bạc rồi, nhưng kỳ thật nó đang bạc mà
mình không thấy. Nó bạc trong từng tích tắc, trong từng ly từng tí mà cứ
ngỡ tóc mình còn xanh. Từ đó đâm ra kiêu ngạo chê tóc anh bạc, tóc tôi
xanh, tôi xanh anh bạc, nhưng kỳ thật cả hai đều đang bị lão hóa, đang bị
bạc dần, nếu hiểu rõ luật nhân quả, hiểu rõ luật vô thường, vô ngã, và
cũng còn phải hiểu rõ cái thực tánh, thực tướng của sự vật,cái sai biệt,
cái đồng nhất của sự vật nữa. Chúng ta biết sự vật đây là biết trên sự sai
khác của nó mà thôi, như cái bông này trắng, bông kia xanh, bông nọ đỏ,
bông kia cao, bông đó thấp. Người này gầy, người kia mập, cái đó dài, cái
kia ngắn…chúng ta chỉ biết cái sai biệt nọ kia như vậy thôi, chứ không
biết cái đồng nhất của vạn pháp, không biết cái bình đẳng của tất cả vạn
pháp.
Đức Phật dạy cho chúng ta, mở mắt mở lòng cho chúng ta phải nhìn đủ cả hai
phương diện: Sự sai biệt và đồng nhất của vạn pháp thì mới gọi là thấy
đúng sự vật. Ví dụ : Tôi đưa ngón tay lên, xin hỏi quí vị ngón tay này dài
hay ngắn? Có ai nói ngón tay này dài không? Có ai nói ngón tay này ngắn
không? Chắc không ai nói ngón tay này dài, ngón tay này ngắn. Nhưng nếu để
kèm vào đây một cái thước thì ta mới so sánh nói ngón tay ngắn và cái
thước dài. Để kề bên một que diêm thì ta nói que diêm ngắn ngón tay dài.
Thế là vì đem cái tâm so sánh nên người thì nói ngón tay ngắn, cái thước
dài…Khi đó anh nói ngón tay ngắn thì cho mình đúng, còn anh nói ngón tay
dài thì cho là sai, là không đúng. Ngón tay ngắn mà cứ nói dài là vô minh.
Cả hai đều nói ngón tay dài ,ngắn nên sinh ra cãi vả, có khi dẫn tới đánh
lộn nhau. Dẫu có cải vã dài ngắn gì đi chăng nữa thì ngón tay vẫn là ngón
tay. Trong khi anh nói ngón tay dài thì ngón tay cũng không dài thêm một
chút nào! Trong khi nói ngón tay ngắn thì ngón tay cũng không ngắn bớt một
chút nào. Vậy thì ngón tay không dài cũng không ngắn, nhưng vì ta vô tình
so sánh cái này qua cái khác rồi nói dài ngắn thành ra sinh sự xích mích
với nhau. Thế là chúng ta sinh sự xích mích vì cái chúng ta tạo ra chứ
không phải ngón tay dài ngắn gì hết. Cái đó trong nhà Phật gọi là
Duy thức
biến.
Do cái thức biến này, cái tướng dài ngắn này là cái thức ta biến mà ta
không biết cái thức ta biến, rồi ta chấp chặt, một bên thì nói nhất định
dài, một bên nói nhất định ngắn, hai cái nhất định đó sẽ va chạm nhau. Nếu
hiểu rằng cái dài cái ngắn đó chỉ là do thức biến, chứ ngón tay không dài
không ngắn thì hết, khi ấy ta sẽ ngồi cười với nhau, hòa thuận không ai
sinh sự với ai hết.
Do đó đầy đủ trí tuệ thì chúng ta sẽ mở mang cái tầm nhìn của mình đến sự
vật, tức là chúng ta sẽ sống được một tâm hồn rộng mở. Khi đã sống rộng mở
thì chúng ta sẽ có hạnh phúc an lạc.
Nói tóm lại, với 4 điều kiện: Đầy đủ lòng tin, đầy đủ giói đức, đầy đủ bố
thí và đầy đủ trí tuệ là sẽ đem lại hạnh phúc an lạc cho tương lai. Cộng
với đầy đủ tháo vác, đầy đủ sự phòng hộ, làm bạn với thiện và đầy đủ sự
sống thăng bằng điều độ, không đam mê rượu chè, không đam mê cờ bạc, không
đam mê sắc dục và không giao du bạn ác là những điều đem lại hạnh phúc an
lạc cho tương lai, cho hiện tại.
Đây là một bài kinh đức Phật dạy rất thâm thúy, vừa cao vừa thấp, nếu
chúng ta áp dụng vào trong cuộc sống thì sẽ đem lại hạnh phúc cho tương
lai. Hàng Phật tử chúng ta hiểu được như vậy, cố gắng thực hành lời Phật
dạy, tức nhiên chúng ta sẽ thấy mình được an lạc, dầu không được viên mãn
cũng hơn là khi chúng ta chưa biết lời dạy đó.
Các Phật tử, tất cả những điều tôi nói trong buổi giảng hôm nay đều dẫn ra
từ trong kinh đức Phật dạy. Nhưng lời dạy đó là một trong muôn ngàn lời
dạy của Ngài mà thôi. Còn biết bao nhiêu trường hợp khác đức Phật còn dạy
nhiều giáo lý thậm thâm vi diệu khác nữa, nếu chúng ta đủ cơ duyên thì
chúng ta có thể học hỏi thêm, tu tập thêm để cho mỗi ngày chúng ta thấm
nhuần được giáo lý của Phật, tự nhiên tâm hồn của ta, đời sống của ta được
sống nhịp nhàng theo lời dạy của đức Phật để được an lạc giải thoát.
Tôi cầu mong tất cả Phật tử được bồ- đề tâm kiên cố, dõng mãnh và luôn
luôn tiến bước trên đường giải thoát của đức Phật.
CHÀNG VÔ NÃO
Trong kinh Trung Bộ do Hòa thượng
Minh Châu dịch, câu chuyện về chàng Vo Não được kể như thế này:
Khi Thế - Tôn ở tại Xá- vệ rừng Kỳ - đà, tinh xá của ông Cấp- cô- độc. Lúc
ấy trong lãnh thổ Quốc vương Ba- tư- nặc nước Kiều-tát-la có tên cướp tên
Angulimala { Vô Não}, một thợ săn tay vấy máu, sát hại, bạo tàn, không có
lòng từ mẫn đối với chúng sanh. Vì nó mà các làng trở thành không làng,
các thị trấn trở thành không thị trấn. Quốc độ trở thành không Quốc độ. Do
nó luôn luôn giết người, nó mang mốt vòng hoa làm bằng ngón tay người.
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào Xá- vệ để khất thực. Sau
khi khất thực và ăn xong, trên đường trở về, dọn dẹp sang tọa, cầm y bát
và đi trên con đường thì gặp tên cướp Vô Não. Những người chăn bò, chăn
thú, người làm ruộng, khách bộ hành thấy Thế Tôn liền bạch: Thưa Sa-môn,
Ngài chớ có đi trên con đường này vì đường này có tên cướp tên Angulimala
là một thợ săn tay vấy máu, sát hại, bạo tàn, không có lòng từ mẫn đối với
chúng sanh. Muốn đi trên đường này phải có mười, hai mươi, ba mươi hay bốn
mươi người tụ họp rồi lại cùng đi . Tuy vậy đôi lúc cũng rơi vào tay của
tên cướp Angulimala. Họ ngăn hai ba lần nhưng Thế Tôn giữ im lặng và vẫn
tiếp tục đi.
Tên cướp Angulimala thấy Thế Tôn từ đằng xa đi lại liền nghĩ: Thật vi
diệu, hy hữu thay! Con đường này, cho đến mười, hai mươi, ba mươi, bốn
mươi thậm chí đến năm mươi người tụ hợp lại cùng đi, nhưng chúng vẫn rơi
vào tay của ta. Nay Ông Sa-môn này , chỉ có một mình, không có người thứ
hai cùng đi, hình như do một sự cố ý khiêu khích chăng? Vậy ta giết hại
mạng sống của Ông Sa-môn này! Nghĩ vậy tên cướp Angulimala liền lấy
kiếm và tấm khiên, đeo cung tên vào và đi theo sau lưng Thế Tôn. Rồi Thế
Tôn hiện thần thông lựclàm cho tên cướp Angulimala dầu cho đi với tất cả
tốc lực bình thường. Rồi nó suy nghĩ: Thật vi diệu, đáng khâm phục thay!
Trước đây ta đuổi theo con voi, con ngựa, chiếc xe, con nai đang chạy và
bắt kịp chúng, nay dẫu ta đi với tất cả tốc lực của ta cũng không thể bắt
kịp Sa- môn này đang đi với tốc lực bình thường.
Bất đồ nó hô: Đứng lại. Nó thưa với Thế Tôn: Hãy đứng lại, Ông Sa-môn! Hãy
đứng lại, Ông Sa-môn!
-Ta đã đứng rồi, này Angulimala.Và ngươi cũng hãy đứng lại!
Tên cướp liền suy nghĩ: Những Sa-môn Thích tử này là những người nói sự
thật và chấp nhận sự thật. Và Sa-môn này dẫu cho đang đi lại nói: “
Ta đã đứng rồi, này Angulimala ! Và ngươi cũng hãy đứng lại”.Vậy ta hãy
hỏi vị Sa-môn này xem sao.
Nguơi đi lại
nói: Ta đã đứng
rồi
Ta đứng, nguơi
nói: Sao Ta không đứng?
Sa-môn, ta hỏi về ý nghĩa này,
Sao ngươi
đứng lại,
còn ta không đứng?
Angulimala,Ta đã đứng
rồi.
Với mọi
chúng sanh, Ta bỏ
trượng, kiếm,
Còn nguời
hữu tình, không tự
kiềm chế,
Do vậy Ta đứng,
còn nguơi chưa
đứng.
Đã lâu tôi kính, bậc
Đại Tiên nhân,
Nay Sa-môn này buớc
vào Đại Lâm,
Không lâu tôi sẽ
đoạn trừ
ác pháp,
Sau khi đuợc nghe,
pháp kệ của
Ngài.
Nói xong tên cuớp
liền quăng bỏ
kiếm,
Quăng bỏ
khí giới xuống
vực thâm
sâu,
Tên cuớp
đảnh lễ,
duới chân
Thiện Thệ,
Ngay tại
chổ ấy,
xin được xuất
gia,
Đức Phật
từ bi, bậc
Đại Tiên nhân,
Đạo sư
Nhân giới,
cùng với
Thiên giới,
Ngài đã trả lời:
Thiện lai Tỷ-
kheo,
Uy đức Tỷ-
kheo, đuợc
Ngài xác chứng.
Thế Tôn với Tôn giả Angulimala là Sa-môn tùy tùng, bắt đầu du hành đến Xá-
vệ và ở đây. Bấy giờ,tại cửa nội cung của vua Ba – tư- nặc nước Kiều- tát-
la, một số đại quần chúng tụ họp, cao tiếng, lớn tiếng nói: Tâu Đại vương,
trong lãnh thổ Đại vương có tên cướp tên Angulimala là tên thợ săn bàn tay
vấy máu, sát hại, bạo tàn, không có lòng từ mẫn đối với chúng sanh. Mong
Đại vương hãy tẩn xuất nó.
Vua Ba-tư-nặc nướv Kiều-tát-la, với khoảng 500 con ngựa, sáng sớm đi ra
khỏi Xá-vệ đến tinh xá. Rồi vua xuống xe đi bộ đến đảnh lễ Thế Tôn và ngồi
xuống một bên. Thế Tôn nói với vua: Thưa Đại vương, có phải vua
Bình-sa-vương nước Ma- kiệt-đà tức giận với Đại vương, hay các người
Licchavi ở Tỳ-xá-ly hay một dịch Vương nào khác? - Bạch Thế Tôn, không
phải. Mà vì trong lãnh thổ của con có tên cướp tên là Angulimala, một tên
thợ săn bàn tay vấy máu, sát hại, bạo tàn, không có lòng từ mẫn đối với
chúng sanh. Bạch Thế Tôn, nhưng con không có thể tẩn xuất nó được.
-Thưa Đại vương, nếu Đại vương được thấy Angulimala cạo bỏ râu tóc, đắp áo
cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, từ bỏ sát sanh, từ bỏ
lấy của không cho, từ bỏ nói láo, ăn một ngày một bữa, sống Phạm hạnh, giữ
giới, hành trì thiện pháp. Đại vương sẽ làm gì, đối với Angulimala?
-Bạch Thế Tôn, con sẽ đảnh lễ, hay đứng dậy, đưa ghế mời ngồi, lo liệu bốn
sự cúng dường cho Angulimala tức là y phục, ẩm thực, sàng tọa và dược phẩm
trị bệnh. Chúng tôi bảo vệ, hộ trì đúng pháp. Nhưng bạch Thế Tôn, từ đâu
một người phá giới, làm các ác pháp lại có thể nào lại trở thành người giữ
giới biết chế ngự như vậy/
Lúc ấy Tôn giả Angulimala ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu. Rồi Thế Tôn
duỗi cánh tay mặt và nói với vua Ba-tư-nặc: Thưa Đại vương, đây là
Angulimala.
Vua Ba-tư-nặc nước Kiều-tát-la liền hoảng sợ, run rẩy, lông tóc dựng
ngược. Thế Tôn biết được vua Ba-tư-nặc hoảng sợ, khiếp sợ, lông tóc dựng
ngược, bèn nói với vua rằng: Chớ có sợ hãi, thưa Đại vương. Ở đây không có
gì đáng sợ hãi cho Đại vương. Rồi sự hoảng sợ, khiếp sợ, lông tóc dựng
ngược của vua Ba-tư-nặc được tan biến. Vua liền đến gần Tôn giả
Angulimala, thưa: Thưa Tôn giả, có phải Tôn giả là Angulimala?
-Thưa phải, Đại vương.
-Thưa Tôn giả, phụ thân Tôn giả thuộc dòng họ gì? Mẫu thân thuộc going họ
gì?
-Thưa Đại vương, phụ thân thuộc going họ Gagga, mẫu thân thuộc giòng họ
Mantani.
-Thưa Tôn giả, mong Tôn giả Gagga Mantaniputta được hoan hỷ. Tôi sẽ cố
gắng lo bốn sự cúng dường y phục, ẩm thực, sàng tọa, y dược trị bệnh cho
Tôn giả.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Angulimala theo hạnh ở rừng núi, đi khất thực mà ăn,
sống chỉ với ba y. Tôn giả Angulimala nói với vua Ba- tư nặc rằng: Thôi
vừa rồi, thưa Đại vương tôi đã đủ ba y.
Vua Ba-tư-nặc đi đến gần Thế Tôn đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên bạch
Thế Tôn: Thật vi diệu thay bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn!
Làm sao mà Thế Tôn lại nhiếp nhục được người không thể nhiếp nhục, làm cho
an tịnh được người không thể an tịnh, làm cho tịch diệt đuợc người không
thể tịch diệt.Bạch Thế Tôn, đối với con người không thể nhiếp phục với
gậy, với kiếm, Thế Tôn đã có thể nhiếp phục được với không gậy, không
kiếm. Bạch Thế Tôn, nay chúng con phải đi. Chúng con có nhiều công việc,
có nhiều trách nhệm phải làm.
-Thưa Đại vương, Đại vương hãy làm những gì Đại vương nghĩ là hợp thời.
Rồi vua Ba-tư-nặc tư chổ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu
hướng về Ngài rồi đi.
Tôn giả Angulimala, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Xá- vệ để khất
thực. Trong khi đi khất thực từng nhà một ở Xá-vệ thì thấy một người đàn
bà đang sanh đẻ, rất nguy kịch và đau đớn. Tôn giả suy nghĩ: Thật đau khổ
thay các chúng sanh! Rồi Tôn giả Angulimala sau khi đi khất thực ở Xá-vệ
trên con đường trở về liền đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Thế Tôn rồi thưa: Bạch
Thế Tôn, con vào buổi sáng đi vào thành Xá- vệ để khất thực, con thấy một
người đàn bà đang sanh đẻ, rất là nguy kịch, đau đớn, con suy nghĩ: Thật
đau khổ thay các chúng sanh! Thật đau khổ thay các chúng sanh!
-Này Angulimala, ngươi hãy đi đến Xá- vệ nói với người đàn bà ấy như sau:
Này Bà chị, vì rằng tôi từ khi sanh ra chưa bao giờ cố ý giết hại mạng
sống của chúng sanh, mong rằng với sự thật ấy, ngươi được an toàn, ngươi
sanh đẻ được an toàn.
-Bạch Thế Tôn, nếu làm vậy, thời con cố ý nói láo. Bạch Thế Tôn, con đã cố
ý giết hại mạng sống rất nhiều chúng sanh rồi.
-Vậy thì ngươi hãy đi đến nói với người đàn bà ấy như sau: Này Bà chị, vì
rằng tôi từ khi được thánh sanh, chưa bao giờ có ý giết hại mạng sống của
chúng sanh, mong rằng với sự thật ấy, ngươi được an toàn, ngươi sanh đẻ
được an toàn! – Thưa vâng,bạch Thế Tôn. Tôn giả vâng lời Thế Tôn, đến nói
với người đàn bà ấy như sau: Thưa Bà chị, vì rằng tôi từ khi được thánh
sanhnày, chưa bao giờ cố ý giết hại mạng sống của chúng sanh, mong rằng
với sự thật ấy, ngươi được an toàn, ngươi sanh đẻ được an toàn. Và người
đàn bà ấy sanh đẻ được an toàn. Rồi Tôn giả Angulimala, sống một mình,
viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, và không bao lâu tự thân
chứng ngộ A-la-hán: Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã
làm, từ nay không còn trở lui đời này nữa.
Tôn giả Angulimala buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Xá-vệ để khất thực.
Lúc bấy giờ, một cục đá do một người ném, rơi trên thân Tôn giả, rồi một
cây gậy do một người khác quăng, rơi trên thân Tôn giả, rồi một hòn sỏi do
một người khác quăng, rơi trên thân Tôn giả. Tôn giả Angulimala, lỗ đầu,
chảy máu, bình bát bị bể, ngoại y bị rách, đi đến Thế Tôn. Thế Tôn thấy
Tôn giả từ xa đi đến liền nói với Tôn giả: Hãy kham nhẫn, này Angulimala.
Nhà ngươi đang gặt hái ngay trong hiện tại quả báo của nghiệp ấy, mà đáng
lẽ ngươi phải chịu nấu sôi ở điạ ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều
ngàn năm.
Tôn giả Angulimala, sống độc cư, thiền định, cảm thọ đuợc giải thoát lạc,
và trong lúc ấy nói lên lời cảm khái sau đây:
“Ai
truớc phóng dật,
sau không phóng dật,
Sáng chói đời
nay, như trăng thoát mây,
Ai làm ác nghiệp,
nhờ thiện
chặn lại.
Sáng chói đời
nay, như trăng thoát mây.
Niên thiếu Tỷ-kheo, trung thành Phật
giáo,
Sáng chói đời nay
, như trăng
thoát mây.
Mong kẻ
địch ta,
nghe giảng
Pháp thoại !
Mong kẻ
địch ta,
trung thành Phật
giáo!
Mong kẻ
địch ta, thọ
lãnh chánh pháp,
{Thân tâm} an tịnh,san
sẻ mọi
nguời.
Mong kẻ
địch ta, từ
bậc thuyết
nhẫn,
Từ bậc
tán than vô oán hận
tâm.
Thời thời
nghe pháp, y pháp hành trì.
Một kẻ
như vậy,
không có hại
ta,
Cũng không làm hại
một nguời
nào khác,
Vị ấy
sẽ chứng,tối
thuợng tịch
tịnh,
Hộ trì mọi
nguời, kẻ
tham nguời không
Như nguời
dẫn nuớc,
huóng dẫn
nuóc chảy
Như kẻ
làm tên, uống
cong thân tên,
Như nguời
thợ mộc,
uốn nắn
cây gỗ.
Kẻ trí tự
mình, tự điều
phục mình.
Có kẻ đuợc
điều bởi gậy,
roi,móc,
Riêng Ta đuợc điều, không gậy,
không kiếm,
{ Bởi bậc
như vậy}
Ta tên Vô Hại, trước ta sát hại,
Nay đuợc
chánh danh, vì chẳng
hại ai
Truớc ta đuợc
tên, Angulimala,
Bị nuóc thác cuốn,
ta qui y Phật
Truớc tay vấy
máu, danh xưng
{Anguli} mala,
Xem ta qui y, đoạn
giây sanh tử,
Làm nghiệp như vậy
phải sanh ác
thú,
Khi lãng nghiệp
báo , không nợ
ta huởng.
Kẻ ngu vô trí, đam mê phóng dật,
Như giữ
tài sản, tối
thuợng tối
quý.
Chớ mê phóng dật,
chớ mê dục
lạc.
Giữ không phóng dật,
luôn luôn thiền
định,
Chứng đắc
đại lạc, quảng
đại vô luợng.
Thiện lai, ta đến,
không đi lạc
huớng,
Không ai khuyên ta,
theo tư
tuởng ác.
Giữa các chân lý { đuợc
khéo} giảng
dạy
Chân lý ta theo,
chân lý tối
thuợng.
Thiện lai ta đến,
không đi lạc
huớng,
Không ai khuyên ta,
theo tư
tuởng ác:
Ba minh ta chứng, Phật lý viên thành.”
Như vậy có thể nói Vô Não là một thanh niên tuấn tú, ham thần thông phép
lạ, đến học với một vị thầy ngoại đạo Sằn-dạ-xà. Hôm nọ vị thầy đi vắng,
người vợ của vị thầy đó thấy chàng thanh niên này trẻ đẹp, muốn người học
trò này tư thông với mình, nhưng người học trò đó nhất mực từ chối. Bà ta
lấy làm tức giận, thù hằn chờ cho đến khi chồng về , bà giả bộ làm ra vẻ
buồn rầu, giận dỗi. Ông thầy hỏi: Lý do gì mà bà buồn bực như vậy? Người
đàn bà ấy trả lời rằng: Ông dạy người học trò này sao mà vô lễ vô phép
quá. Khi ông đi vắng, hắn sinh tâm xấu xa muốn làm nhục tôi. Vừa nghe đến
đó ông thầy giận vô cùng, bèn nghĩ cách hại người học trò bằng cách cố
tình đưa vào cảnh tù ngục.Cách ấy như vầy: Ông hỏi người học trò: Này con,
con có muốn được thần thông phép lạ không? Chính người học trò ấy đi học
là mong được thần thông phép lạ. Bây giờ ông thầy hỏi như vậy thì học trò
hớn hở vô cùng và trả lời rằng: Thưa thầy, con mong lắm mà lâu nay chưa
được thầy chỉ dạy cho. Ông thầy liền bảo, nếu con làm theo lời ta thì ta
sẽ truyền bí quyết cho con.
“ Này con, nếu con giết được 100 người, lấy 100 ngón tay xâu thành chuỗi
mang về đây thì ta sẽ truyền bí quyết ấy cho con”. Người học trò vì ham
thích thần thông phép lạ , nên khi nghe lời dạy đó thì đâm ra mù quáng.
Hắn ta bèn đi tìm những nơi hẻo lánh, chực chờ có ai đi ngang qua thì
giết. Từ ngày này qua ngày khác, chàng hăm hở giết và tính ra đã giết được
99 người, còn thiếu một người là đủ trăm.Lúc bấy giờ bà mẹ ở nhà nghe tin
đồn về con mình là kẻ sát nhân rất khủng khiếp, và trong làng không ai
giám đi ngang các ngõ hẻm vắng vẻ. Bà mẹ của chàng Vô Não bị người ta
nguyển rủa, gièm pha ngày càng nhiều rằng con mình đi giết người, con mình
đang bị nhà vua tróc nã nên vội vàng đi tìm con. Khi cất bước ra ngõ thì
thiên hạ mách, bây giờ nó đang ở phía đường ấy, bà liền tìm tới đó. Khi
đến nơi, vừa thấy bóng bà thì Vô Não cầm dao chạy tới toan giết, thì bỗng
nhiên đức Phật hiện ra cản đường. Khi ấy chàng Vô Não bỏ mẹ mình chạy theo
đức Phật. Nhưng lạ quá, chàng thấy mình chạy thật nhanh mà sao không kịp
đức Phật, liền nghĩ: Ngài đi cách gì mà nhanh quá vậy? Tức quá, chàng liên
kêu: Này Sa-môn Cù Đàm, đứng lại. Đứng lại tôi hỏi chuyện này một tí. Kêu
hai ba lần như thế, đức Phật trả lời rằng: Không, này Vô Não, trên đường
tội ác Ta đã đứng lại từ lâu rồi, chỉ có ngươi là chưa chịu đứng lại mà
thôi.Câu nói ấy như mũi tên đâm chúng cái tam hung ác của Vô Não. Tâm Vô
Não lúc ấy như ngọn song thần xô xuống, nhưng phải vấp phải núi đá, làm
cho ngọn song đó tan vỡ đi. Tâm Vô Não hung ác bị tan vỡ trước câu
nói hiền từ của đức Phật. Vô Não là người cực thông minh và chợt thức tỉnh
trước lời nói của đức Phật, liền buông dao cuối lạy đức Phật và xin theo
Ngài đi tu. Đức Phật nhận Vô Não làm đệ tủ và đem về tinh xá để tu tập. Đó
là câu chuyện tôi tóm tắt về chàng Vô Não.
KIẾN ĐẠO,TU ĐẠO VÀ CHỨNG ĐẠO
Đức Phật dạy cho chúng ta, nhất là lớp Tăng Ni trẻ, muốn đạt đạo thì phải
đi qua ba bậc: đó là Kiến đạo, Tu đạo và Chứng đạo.Nhưng muốn Kiến
đạo thì phải có bốn điều kiện: a, Thân cận thiện hữu; b. Thính văn chánh
pháp; c. Như lý tác ý; và d. Pháp tùy pháp hành.
Thân cận hiện
hữu :
Là thân cận các bậc thiện hữu tri thức, gần gũi thầy tốt, gần gũi bạn
lành. Vì gần gũi thầy tốt thì họ mời dắt dẫn cho mình đi đúng chánh pháp,
tiến tới con đường giải thoát giác ngộ. Gần gũi bạn lành như gần gũi đèn
sáng. Còn thân cận ác hữu thì toàn nghe những điều ác chứ không nghe được
những điều thiện . Gần gũi bạn ác như đi trong đêm tối, như
gần
mực thì đen nên không được sáng. Có thân cận
thiện hữu thì mới nghe điều hay lẽ phải,, trên có chư Tôn thiền đức, trí
đức uyên thâm, từ tâm chỉ dạy cho chúng ta, xung quanh có các thiện hữu
tri thức khác giúp đỡ. Đó là một thiện duyên, một niềm vui lớn. Nếu đã có
thiện hữu tri thức giúp đỡ, thì hiện nay hay mai sau, khi ra hành đạo các
phương hy vọng chúng ta sẽ gặp được bạn tốt, bạn đồng tu. Nếu được như vậy
thật là hạnh phúc cho chúng ta có duyên lành ở trong ngôi nhà Phật pháp,
thuận lợi cho việc tu học và hoằng pháp lợi sinh.
Ở đây tội cũng xin nói thêm một ý nữa, trong kinh Pháp cú có dạy rằng: Nếu
không gặp đươc người hơn mình, không gặp được người ngang mình kết bạn,
thì thà sống một mình còn hơn kết bạn với người ngu. Người ngu ở đây là
người điên đảo, hẹp hòi, chấp ngã không thật. Những người này thì không
nên kết bạn, trái lạị nên tìm những vị thiện hữu tri thức kết bạn thì họ
mới dẫn dắt chỉ cho mình con đường giải thoát và giác ngộ.
Thời đại chúng tôi không có được diễm phúc như ngày hôm nay. Trường học
của chúng tôi không qui tụ được nhiều thành phần như cả Trung, cả Nam, cả
Bắc, cho nên khi ra hành đạo cũng lắm lúc bỡ ngỡ. Đi ra Bắc có nhiều vị là
đạo đồng, pháp đồng, hạnh đồng nhưng trên sắc tướng chưa hề gặp nhau, nên
cũng hạn chế đôi phần trong công tác Phật sự. Đi vào Nam gặp các sư, các
thầy: Đạo đồng , pháp đồng, hạnh đồng, nhưng sắc tướng chưa từng gặp nhau
cho nên ban đầu cũng bỡ ngỡ như vậy. Giờ đây có các trường, các Học viện
cả ba miền cùng học dưới một trường, một lớp, cùng nhau tranh đua để học.
Tranh đua
chứ không
ganh đua,
vì ganh đua thì dở, thấy ai hơn mình thì phải noi gương mà học, còn
nếu ai kém thua mình thì phải động viên giúp đỡ họ, luôn luôn có một tinh
thần đùm bọc và cảnh giác như thế thì các vị sẽ tiến bộ trong học tập.
Thứ hai là
Thính văn Chánh
pháp : Phải nghe Chánh pháp để học. Chánh pháp của Phật phải
lắng
mới nghe được, chứ không lắng thì không nghe
được. Khi có lắng rồi thì tâm mới tịnh. Tâm đã tịnh thì nghe câu nào lọt
vào tai câu ấy. Nếu tâm không tịnh thì nghe một câu như vậy thì vừa là
nghe tiếng pháp, vừa là nghe tiếng kèn thì vô cùng lộn xộn. Khi đã nghe
tạp nham như vậy thì câu nghe đó cũng chẳng thành chánh pháp nữa, cho nên
phải lắng là vậy. Nếu người không tin Phật thì sẽ không lắng tai nghe,
không lắng tai nghe thì sẽ không có kết quả , chánh pháp để ngoài tai. Tóm
lại, Thính văn chánh pháp là phải lắng nghe chánh pháp, nghe lời dạy dỗ
đúng chánh pháp của các vị thiện hữu tri thức, nghe chánh pháp là nghe lời
dạy giải thoát đau khổ của thiện hữu tri thức đó, chứ không phải nhe lời
buộc ràng tâm tư, cột chặt mình vào ở trong vòng nhân ngã.
Thứ ba là
Như
lý tác ý : Là tư duy đúng như lý của nó. Ví như lý vô thường. Học
lý vô thường, cắt nghĩa như thế nhưkia, như kia như nọlà vô thường, nhưng
đi ra đường thấy cục vàng trước mắt thì vô thường sao được ! Nó khó lắm.
Cục vàng nằm đó chắc ai cũng muốn lượm, muốn lấy chứ không ai từ bỏ. Nếu
không có vàng thì người ta cũng tìm cách mua, chứ nói nó vô thường mà
không mua cũng khó ! Nói đời vô thường thì thấy cái gì vô thường trước
mình phải quán trước, ví như lời khen chê. Lời nói là vô thường, khi nói
ra rồi thì nó bay mất, nhưng nếu không quán vô thường thì nó không bay
được mà còn động lại trong tâm. Ví dụ, khi nghe ai chưởi mình một tiếng
thì mình giận lắm, giận ngay khi ấy. Giận cho đến nổi năm này chưa tiêu
được thì đợi sang năm, sang năm chưa tiêu được phải đợi cho đến chết. Một
lời nói như gió thoảng qua nhưng mà nó cứ đọng lại trong lòng ta không bao
giờ mất. Vô thường là luật tự nhiên nhưng trong lòng ta chấp chặt nên nó
không vô thường, cứ khư khư giữ lấy nó như ôm chặt cục vàng, đi đâu cũng
mang lè kè nó theo. Lời khen chê như gió thoảng mà mình không quán được nó
là vô thường thì chỉ là lý thuyết suông, cho nên phải học và quán đúng
như
lý tác ý , là phải suy nghĩ đúng như lý của nó, chúng ta phải hiểu
vô thường làm sao cho đúng. Ví như quán lá còn xanh trên cây cũng là vô
thường chớ không phải chờ khi lá rụng mới biết vô thường. Tóm lại, như lý
tác ý là nghe rồi phải suy , suy cho thật hiểu, biết rằng lời dạy mà mình
đã nghe đó, trên thực tế nghe thế nào, áp dụng trong thực tế ra sao? Nói
bố thí, hiểu bố thí là như thế, suy nghĩ áp dụng vào thực tế , vào trong
mọi hoàn cảnh như đối với một người ăn xin thì như thế nào? Đối với người
gặp cảnh lâm nạn thì như thế nào? Khi mình có đồng tiền thì như thế nào?
Khi mình không có bạc thì như thế nào? Đó là những tình huống đã, đang và
sẽ xảy ra, nếu không suy tư thì không thể áp dụng cho trọn vẹn được, nên
phải như lý tác ý.
Pháp tùy pháp hành
: Khi đã như lý tác ý rồi thì phải thực hành, bởi vì Phật dạy cho
chúng ta nhiều pháp môn tu hay lắm: Một mặt quán và một mặt hành. Quán là
quán trí và hành là hành động. Chúng ta phải quán các pháp là vô thường.
Chúng ta phải thực hành giới định tuệ, thực hành bố thí, nhẫn nhục, thực
hành các hạnh tự lợi và lợi tha v.v…Tóm lại, pháp tùy pháp hành tức là làm
theo, thực hành theo điều mình đã suy nghĩ chín chắn, suy nghĩ đúng đắn,
thực hành áp dụng vào trong đời sống hàng ngày của mình. Không phải đợi
một ngày kia làm ông nọ bà kia hay là làm ông giảng sư, giáo sư mới là
hoằng pháp, mới là hành,mà chính ngay trong đời sống trong hơi thở của
mình phải an trú trong chánh pháp, đem tâm tư an trú trong chánh pháp,
hành động phải theo chánh pháp, thì chính cái đó dầu một vị tu sĩ còn nhỏ
như chú tiểu cũng đủ hoằng dương chánh pháp, chứ không đợi lớn, không phải
đợi làm Hòa thượng, Thượng tọa mới gọi là Hoằng dương chánh pháp. Vì Hòa
thượng, Thượng tọa hoằng dương chánh pháp có cách của vị HÒa thượng,
Thượng tọa. Một chú tiểu hoằng dương chánh pháp có cácnh của một chú
tiểu, miễn làm thế nào giữ được bốn điều là thân cận thiện hữu, thính văn
chánh pháp, như lý tác ý, pháp tùy pháp hành thì chúng ta sẽ sống một cuộc
sống an lành ở trong giáo pháp của đức Phật và mới khỏi phụ lòng xuất gia
của mình, khỏi phụ lòng mong mỏi của cha mẹ mình đã cho mình xuất gia và
khỏi phụ lòng bổn sư của mình cho mình học đạo.
KINH HỮU TỰ VÔ TỰ TRONG “TÂY
DU KÝ”
“…Hữu
tướng vô tuớng
vi diệu pháp môn kim phó nhữ
Ma-ha Ca-diếp.{
Ta có con mắt chánh pháp tạng thực tướng vô tướng vi diệu pháp môn, nay Ta
phó chúc cho Đại Ca- diếp}. Cũng là kinh Vô tự mà giờ đây họ không hiểu
kinh Vô tự đó cho nên họ mới dem đổi lại. Khi đổi lại lấy kinh Hữu tự đem
về, qua con sông Thông Thiên bị đò chìm kinh rơi xuống nước ướt hết phải
đem phơi. Khi phơi thì bị mất mấy tờ sau của kinh.
Chuyện phơi kinh này có ở trong truyện thỉnh kinh của ngài Huyền Tráng,
khi về thì đò bị chìm,một số kinh bị ướt và một số bị mất là chuyện có
thật trong chuyến đi thỉnh kinh của ngài.
Chuyện Tây Du của Ngô Thừa Ân cũng dựa vào chuyến đi thỉnh kinh của
ngài Huyền Tráng mà ra. Đò bị chìm và kinh bị ướt, ngài đem kinh ra phơi
và cũng bị mất mấy tờ là chuyện có thật, nên mới co chuyện kinh Hữu tự,
kinh Vô tự này.
Chuyện được kể ra cũng có nhiều ý nghĩa. Nghĩa thứ nhất cho rằng: Kinh Hữu
tự chỉ đưa ta đến một đoạn đường chứ không đưa ta vượt đến bờ bên kia { là
bờ giải thoát}. Nghĩa thứ hai nói: Phải có kinh Vô tự nữa thì mới hoàn
hảo, mới viên mãn. Như mình đọc kinh thường ngày đây là đọc kinh Hữu tự mà
nếu không ngộ được cái lý của kinh, không chứng được cái lý của kinh thì
chưa ngộ được cái lý nhiệm mầu của kinh Vô tự. Mà đó chỉ đọc được
kinh Hữu tự mà thôi. Do đó , khi đọc được kinh Hữu tự mà hữu tự thì mới
chỉ đưa mình đi một đoạn đường chứ chưa đưa mình lên bờ giác ngộ. Đợi đến
khi đọc kinh Vô tự mới hoàn toàn đưa mình lên bờ đại giác, là cái
chổ mình thật tu, thật chứng trong lòng của mình. Ví như có nhiều Phật tử
nói là vô thường, đọc trong kinh Phật cũng dạy vậy, nhưng khi nói lý vô
thường thật sự mình đã ngộ được lý vô thường chưa? hay là mình chỉ ngô qua
mạch văn tự mà thôi. Khi nào mình ngộ được cái lý vô thường trong lòng
mình thì chính cái lý vô thường đó không có chữ gì cả, không phải qua ngôn
ngữ gạn lọc và trau chuốt, mà chính mỗi người tự ngộ lấy. Đó chính là kinh
Vô tự, khi đó mình mới hoàn toàn bước lên bờ giác ngộ và giải thoát.
Trong chuyện Tây Du, khi đem kinh về có thiếu đi mấy trang sau, có nghĩa
rằng: Là phải có kinh Vô tự thì mới được viên mãn, còn kinh Hữu tự thì chỉ
mới ngang chừng đó mà thôi, tức đã đi được nữa đường, chứ chưa đi hết con
đường vượt qua bờ kia. Kinh Hữu tự nhìn bằng nhục nhãn được, chứ kinh Vô
tự phải nhìn bằng pháp nhãn, nhìn bằng huệ nhãn. Mà pháp nhãn, huệ nhãn
thì phải tu hành mới có được pháp nhãn, huệ nhãn. Có pháp nhãn, huệ nhãn
mới nhìn được kinh Vô tự. Còn nhục nhãn của mình thì mới nhìn được kinh
Hữu tự. Mà kinh Hữu tự thì ai cũng đọc được . Trái lại, kinh Vô tự thì tùy
theo từng trình độ, ai có tu thì có pháp nhãn. Tu sâu thì đọc được sâu, tu
cạn thì đọc được cạn. Ngộ sâu thì hiểu được sâu, ngộ cạn thì hiểu được
cạn, đó là kinh Vô tự.. Một vài chuyện như vậy là có thật trong chuyện kể
của ngài Huyền Tráng khi đi thỉnh kinh về.
Bây giờ tôi chuyển qua chuyện Tây Du Ký, bàn thêm về triết lý của nó một
chút, mong rằng các anh chị em cũng nên hiểu thêm ít nhiều về
nó.
Tây Du Ký là một chuyện phản ảnh việc đi thỉnh kinh của ngài Huyền Tráng,
dựa vào bộ Tây Vức Ký của ngài viết ra. Trong đó có bốn nhân vật chính và
nhiều nhân vật phụ. Bốn nhân vật chính là Tam Tạng, Tề Thiên Đại Thánh, Sa
Tăng và Bát Giái. Ngô Thừa Ân là nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc, ông chỉ
đưa ra bốn nhân vật thôi. Bốn nhân vật này tiêu biểu cho bốn cái hạnh của
bốn nhân vật chính. Bởi ngài Huyền Trang khi về Trung Quốc dịch kinh ngài
chú trọng về Pháp tướng tong, dịch các kinh điển thuộc về duy thức học,
cho nên ngài đã làm một vị Tổ xướng lên lập tong Pháp tướng Duy thức học.
Mà Pháp tướng Duy thức tức là nói cái thức của con người. Thức con
người nói cho đủ là tám thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức,
thân thức, ý thức, mạt-na thức và a-lại-da thức. Tám thức này tóm tắt tính
cách của nó còn lại bốn thứ. Năm thức đầu là năm giác quan, nó có tính
chất trực tiếp, có tính cách trực giác và hồn nhiên như nhau, rồi đến ý
thức. Anh ý thức này lôi thôi lắm , anh lanh lẹ và ngóc ngéo vô cùng trời
đất. Chuyện quá khứ vị lai hiện tại, chuyện đông tây kim cổ, chuyện hữu
hình vô hình gì anh cũng biết hết. Anh ý thức hằng ngày.Rồi đến anh mạt-na
thức là cái anh ngấm ngầm, luôn luôn chấp ta,của ta, là ta. Nói tóm là có
cái ta độc lập trong con người ta. Còn a-lại-da thức là cái anh tập chung
tất cả các chủng tử, bao nhiêu ngôn ngữ của mình hàng ngày anh đều tập
trungvào trong đó cả. A-lại-da thức có thể ví nó như cái kho để chứa hàng
hóa của chúng ta vào trong đó.
Bốn nhân vật nêu trong chuyện Tây Du nó na ná với bốn cái thức đó. Trong
đó Sa Tăng là một ông đi theo phục vụ nhưng mà vô hại, ví như tiền ngũ
thức. Tiền ngũ thức thì vô tư. Thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng chạm nhưng hồn
nhiên, không ngoắc ngéo, ví như Sa Tăng. Sa Tăng trong cuộc hành trình đó
cũng vô tư, chỉ đi theo phục vụ mà thôi. Thứ hai là ông ý thức: Lanh lẹ,
ngoắc ngéo, lên trời xuống đất chi cũng được cả, đó là ông Tế Thiên Đại
Thánh. Tề Thiên Đại Thánh là biểu hiện cho ý thức. Ông thứ ba là lôi thôi
đủ thứ; Rượu, thịt, mê gái, đắm đuối là ông Bát Giới, biểu hiện cho anh
mạt-na thức, là nguồn gốc của sự tối tăm và ô tạp. Còn Tam Tạng là một ông
vua cũng hồn nhiên nhưng mà là chủ. Ba ông kia đều dựa nơi ông hết vì ông
là chủ, cho nên Tam Tạng tiêu biểu cho đệ bát thức. Đó chỉ mới là một
phương diện, một cạnh khía về Tây Du Ký.
Tây Du Ký còn một khía cạnh nữa ta cũng nên biết. Chuyện Tây Du bây
giờ nó tràn lan khắp trongvà ngoài nước và nó là phương tiện truyền bá
Phật giáo hay nhất, nhưng có nhiều khía cạnh người ta hiểu chưa hết. Trong
đó ta thấy cuộc hành trình của ngài Tam Tạng, nếu không có Tề Thiên Đại
Thánh thì không làm gì đi tới Tây Vức để mà thỉnh kinh được. Cho nên ai
cũng phục Tề Thiên Đại Thánh nhiều khi còn chê Tam Tạng. Họ chê Tam Tạng
sao mà ngơ ngác thế, vì Đại Thánh nói chổ đó có yêu, khuyên ngài đừng đến
mà ngài cũng cứ nhào vô. Chổ đó có quỷ khuyên ngài đừng tới mà ngài cứ
nhắm mắt đi tới để bị mắc bẫy, bắt Tề Thiên Đại Thánh đi cứu mãi. Người
coi phim hay đọc tiểu thuyết họ đều thích ông Tam Tạng, thương ông Tề
Thiên. Coi Tề Thiên là cái ông lanh lẹ, đánh đông dẹp bắc, nhờ Tề Thiên mà
Tam Tạng mới được giải cứu nhiều lần. Xem toàn bộ chuyện Tây Du, tôi có
một suy nghĩ như thế này:
-Thứ nhất, khi đánh giá câu chuyện Tây Du thì chúng ta tự hỏi : Giả sử
không có Tam Tạng thì Tề Thiên có tồn tại hay không? Chắc là không. Không
có Tam Tạng thì làm gì có Tề Thiên được. Do chí nguyện đi thỉnh kinh của
Tam Tạng mới có Tề Thiên đi theo, nếu không có chí nguyện đi thỉnh kinh
của Tam Tạng thì sẽ không có Tề Thiên xuất hiện.
-Thứ hai, nó nói lên một bên là động nhưng cái động đó phải nương
nơi cái tịnh. Tam Tạng là biểu tượng cho cái tịnh, Tề Thiên là biểu tượng
cho cái tính hiếu động. Cái động đó phải nương nơi cái tịnh và cái
tịnh đó cũng phải nương nơi cái động mới tồn tại. Cái động như Tề Thiên
không thành vấn đề. Tề Thiên đâu có ý nguyện đi thỉnh kinh mà chỉ là người
đi theo hộ giá thôi. Mà tịnh như Tam Tạng thì sự việc cũng không thành, có
đi cũng không đến được. Cho nên động phải có tịnh và tịnh thì phải có
động. Chứ động không thể động không được. Toàn bộ nó nói lên cái đạo lý
sắc tức không, không tức sắc trong Bát-nhã vậy. Thành trong việc học tập,
việc tu hành, việc tổ chức đời sống hàng ngày của chúng ta luôn luôn phải
dựa theo cái lẽ đó. Động nhưng phải tịnh, động nhưng động trên cái tịnh.
Tề Thiên có động mấy nữa cũng dựa trên Tam Tạng, chứ Tề Thiên không thể
động ngoài Tam Tạng được, không thể động ngoài ý nguyện đi thỉnh kinh của
Tam Tạng. Vậy cho nên ta biết trong sự tổ chức, hành động của chúng ta
hằng ngày cũng vậy. Động nhưng phải dựa trên cái tịnh.
Vậy cái tịnh đó là gì? Là cái đạo lý, cái mục đích mà ta vừa nói trên,
phải dựa trên cái phạm trù đó thì cái động đó mới có ý nghĩa, còn không
dựa trên cái tịnh đó, mục đích, ý nghĩa của đạo lý đó thì cái động
của ta trở thành vô ý nghĩa. Nếu Tề Thiên mà động, mà hiếu thắng như vậy,
nếu không nhắm theo mục đích của Tam Tạng, thì cái động của Tề Thiên vô ý
nghĩa, đi đập bậy mà chơi chư không có ý nghĩa gì cả. Nhưng ở đây đập bậy
mà cốt theo bảo vệ Tam Tạng trừ yêu dẹp quỷ, để hướng tơí chuyện thỉnh
kinh. Chứ còn trừ ma dẹp quỷ mà chơi thì trở thành vô ý nghĩa. Đó là một
đạo lý để mà mình hiểu sâu ở trong chuyện Tề Thiên theo Tam Tạng thỉnh
kinh. Một bên Tề Thiên rất động và một bên Tam Tạng thì rất tịnh, hai thái
cực đối lập nhau, nhưng cái rất động đó phải dựa vào cái rất tịnh thì mới
có ý nghĩa. Mà cái tịnh đó phải nhờ cái động mới sống còn, còn động không
cũng không được mà tịnh không cũng không được.
Nhân nói về 4 nhân vật đặc biệt này, có câu chuyện về họ như sau: Một hôm,
thầy trò Tam Tạng đi đến một nơi đầy yêu ma quỷ quái. Tam Tạng than;
-Ngộ không ơi ! Đường xa thế này, lại thêm yêu ma quỷ quái, thú dữ rắn
độc…biết đời nào đi đến nơi về đến chốn cho được?
Nói xong tủi lòng mà khóc. Ngộ Không bèn hỏi:
-Thầy còn nhờ tâm kinh không …?
Tam Tạng bực quá nói:
-Thầy chùa mà không nhớ tâm kinh sao ! Ta tụng ngược cũng còn được.
Ngộ Không nói:
-Coi chừng à! Thầy tụng một chữ không nhớ đó !
Ngộ Năng chen vào nói:
-Vậy anh có thuộc không mà làm tang?
Ngộ Không đáp:
-Thuộc chứ sao không.
Ngộ Năng nói:
-Vậy anh giảng thử tôi nghe coi.
Ngộ Không làm thinh.
Liền khi đó Tam Tạng trực nhận ra, nói với Ngộ Năng:
-Làm thinh, vậy là nó thuộc rồi đó !
Ngộ Không được theo nói:
-Nghĩa là cứ việc làm thinh, làm thinh tới trong ruột, đi hoài chừng nào
tới thì thôi
*Thầy trò Tam Tạng thỉnh kinh về giữa đường lật ra xem thấy toàn giấy
trắng, đem lui hỏi người thỉnh được trả lời: Đó mới thật là kinh Phật {
tâm kinh vô tự} chỉ tại các ông không đủ căn cơ để học đó thôi.
Nói tóm lại, qua tiểu sử của ngài Huyền Tráng chúng ta học được rất nhiều
bài học: Đó là cái chí nguyện cao cả vì lợi ích của chúng sinh, vì truyền
bá chánh pháp, chí nguyện sắt đá. gặp bao nhiêu khó khăn gian lao không
sờn, đức hạnh khiêm tôn không kiêu căng ngạo mạn, hòa nhã và rất chí hiếu
đối với cha mẹ. Đối với đạo ngài rất trung thành, trọn tình trọn hiếu đối
với thầy tổ. Thứ ba nữa là cuộc đời của ngài đạm bạc thanh cao, một cuộc
đời bị vây bủa bao nhiêu là vinh hoa đưa tới, nhưng ngài đều từ chối hết.
Để thực hiện một mục đích cao cả mà ngài hướng tới là tuyên dương chánh
pháp mà thôi.
Cho đến giờ phút cuối cùng trước khi tắt thở ngài cũng đạm bạc. Đạm bạc
cho đến nổi dặn đệ tử khi chết chỉ lấy chiếu bó lại để đem chôn mà thôi.
Và chôn nơi chổ thanh vắng để đừng gây sự xấu xa ô uế. Vơí bao nhiêu sự
cao đẹp đó mà nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã ca tụng ngài, và ông đã viết sách
tán dương ngài như là bậc Thánh vĩ đại hơn các bậc Thánh. Chúng ta học
được nơi ngài Huyền Trang rất nhiều bài học, rất nhiều tính tịnh, rất
nhiều chí nguyện. Anh em nghe qua cuộc đời ngài như vậy rồi thì cố gắng
học được một phần nào chí nguyện của ngài, của sự thông minh, đức hạnh và
về cuộc sống đời thường của ngài đê đem áp dụng, sử sự lấy đời mình và
cũng như xử sự lấy trong công việc hàng ngày mà mình đang đảm trách hầu
dắt dìu đàn hậu tấn về sau. Vài lời trao đổi như vậy, mong anh em suy nghĩ
thêm.
ĐỂ TRỞ THÀNH TU SĨ
Ngày nay đi học các thầy cô thường đem theo các máy ghi âm nhỏ đặt lên bàn
của Giảng sư để thâu tiếng. Vì để nhiều quá nên trông rất lộn xộn. Đôi khi
đang thâu lời thầy giảng thì cũng thâu luôn giọng ca nữa, vì sao? Vì vừa
nghe giảng vừa nghe bài ca bên hàng xóm dội vào nên thâu vô luôn. Khi nghe
giảng cũng thâu và tiếng ca hát cũng thâu nên rất lộn xộn. Các thầy cô nên
biết rằng cái mấy ghi âm chỉ là phương tiện và phải xác định nó chỉ là
phương tiện giúp cho mình một phần nào trong khi cần thiết, chứ đừng
dùng nó làm phương tiện chính thức rồi bỏ sự suy tư, sự chăm chú của
mình. Nếu ỷ lại vào cái máy thì đi đâu cũng kè kè cái máy theo hết, thậm
chí vô thi cũng kè kè mang theo, để lỡ khi quên mở ra nó nhắc lại cho mà
nhớ! Vô tình mình biến nó là chủ, còn mình là khách. Như vậy dầu có học
mãi đi nữa cũng không có căn bản nếu mình cứ lệ thuộc vào cái máy.
Bây giờ tôi nói qua một phương diện khác.Lúc này các thấy cô có đèn có
quạt để học, bật công tắt lên là đèn sáng liền, muốn không sáng thì cúp
công tắc thì tối ngay. Còn thời chúng tôi học, dầu hỏa không có mà thắp,
dầu phụng cũng không có tiền để mua, chỉ thắp bằng dầu chuồng.Dầu chuồng
gần giống dầu phụng nhưng có màu đen. Muốn thắp thì lấy một cái ly, cột
một sợi thép có tim nhúng vào và treo nơi bàn để học. Đôi lúc dầu chuồng
cũng không đủ tiền để mua. Ngọn đèn dầu chuồn tỏa ra ánh sáng lờ mờ, thì
khi học phải chú ý đọc mới thấy rõ, còn không chú ý thì chỉ thấy loà loà
chớp chớp, không làm sao mà đọc cho rõ chữ. Đèn mờ mờ toả ánh sáng yếu ớt
như vậy nên muốn đọc thì phải tập chú. Có tập chú mới đọc chữ ra được. Còn
bây giờ các thầy cô đầy đủ tiện nghi quá. Mở công tắc là đèn sáng. Đèn
sáng bên kia mà bên này đọc vẫn cứ rõ. Có điều, trong cái gì cũng có cái
hay cái dở của nó. Buổi ấy đèn quá lu nên chúng tôi cố gắng tập trung để
đọc, để học, tuy vậy cũng không xuyên suốt, không quán xuyến được câu sau.
Giả sử có đèn thì mình đọc được câu sau, nắm ý câu trước thì mau thuộc
hơn. Vì đèn lu quá nên không đọc nhiều được, đó cũng là cái dở, nhưng mặt
khác cũng có cái hay là tập chú tinh thần vào đó chứ không lạc vào đâu
được. Ai đi bên cạnh mình cũng không thấy. Có làm gì trước mắt mình
cũng không hay, chỉ thấy trong phạm vi rất hẹp, ngoài ra không thấy gì cả,
cho nên cái tâm của mình không bị loãng.
Còn bây giờ điện sáng quá, đang đọc có ai đi ngang qua mình cũng liếc một
cái là thấy ngay nên dễ bị phân tâm. Cái hay la đọc nhanh, cái dở là dễ bị
phân tâm. Do đó khi các thầy cô sử dụng cái máy như thế nào thì xử dụng
ngọn đèn cũng như thế đó, đừng ham đèn thật sáng như ban ngày mới là văn
minh, không phải. Khi nào cần ánh sáng thì mở đèn, nhưng đèn vừa phải để
giúp cho mình tập trung mà học chứ đừng quá xa xỉ. Nhiều ánh sáng quá làm
cho mình tán tâm, đồng thời phí phạm của thường trú và phá hoại môi sinh.
Bây giờ lối giữ gìn môi sinh của ta là phải giữ gìn từng giọt nước, từng
ánh đèn, đó là cách giữ gìn tốt nhất. Mình dùng nước chừng nào thì lấy vừa
đủ, đừng có phí phạm. Khi cần một gáo nước mà xả ra cả thùng thì đó là phá
hoại môi sinh, vì nước đó sẽ đi ra ngoài và tiêu hết. Đèn điện đâu phải là
ánh sáng tự nhiên, nó có một chất than khí không tốt, nếu dùng đèn nhiều
cũng là phá hoại môi sinh, phá hoại kinh tế . Vì nếu dùng đèn nhiều thì
tất nhiên phải chi dụng vào cái đèn nhiều, còn các mặt khác yếu đi.Như vậy
chẳng những phá hoại môi sinh mà còn phá hoại kinh tế nữa. Vậy các thầy cô
khi nào cần dùng đèn thì dùng, khi nào không cần đèn thì tắt đi để tiết
kiệm.
Ngày xưa trong sách Nho có câu rằng: Không có việc gì mà thắp đèn cũng mắc
cái tội ăn trộm.Thắp đèn bỏ không, không dùng vào việc gì hết cũng là mắc
tội ăn trộm. Nên khi dùng phải ý thức mình dùng, dùng sao cho đúng mục
đích cũng là một cách tu. Biết thận trọng, biết dè dặt, biết tiết kiệm,
chính cái đó nó huân tập cho tính tình, cho tư cách, cho phong độ của
chúng ta. Mình rửa mặt mất một ít nước thôi mà cứ mở máy nước chảy ào ào
hàng năm bảy phút mà không tiếc. Đó là thái độ là cách xử thế không đẹp
chút nào hết. Ngày xưa có nhiều gia đình họ dạy con cháu ăn không được đổ
cơm ra ngoài, không được để thừa cơm trong chén. Các thức ăn dọn ra, thứ
nào ăn được thì ăn, không ăn được thì đừng nên phá hỏng, đó cũng là cách
tu, đó cũng là cách giữ tư cách giữ phong độ. Phong độ và tư cách tu nó
thể hiện trong công việc nhỏ nhặt hàng ngày như vậy, nhưng nó đem lại rất
nhiều lợi ích: Giữ gìn được môi trường, khỏi tổn thương kinh tế và huấn
luyện cho mình một cách sống có đạo đức. Đó là điều đơn giản nhưng các
thầy cô cần chú ý.
Về cách ăn và mặc, ở thời chúng tôi học và tu mỗi năm chỉ có một bộ áo
quần mà thôi. Đi học thì phần nhiều đi chân đất. Bây giờ có dép đi mà còn
lứa dép cho đẹp, dép ngoại chứ dép nội là không thích. Đi dép ngoại mới
bền mới đẹp và mới êm chân. Dân chúng ở thời tôi đa số đi chân đất và
chúng tôi cũng đi chân đất, chỉ có tết mới sắm được một đôi guốc gỗ. Đôi
guốc này cũng chỉ để đi làm kiểng năm ba bữa Tết chứ ngày thường cũng ít
đi.
Còn mặc thì độc nhất một bộ, cái áo tràng để đi tụng kinh thì may bằng vải
Tàu, sợi to và thô nhưng phải nhuộm bằng nước vỏ cây đà, khi nhuộm xong nó
dày y như tấm bố. Mặc vào nó cứng như bao bố. Mùa hè ở Huế trời nóng gần
40 độ, ở trần mà mồ hôi chảy ra ào ào, huống chi khi mặc áo đó vào thì
nóng bức chừng nào, nhưng cũng phải mặc. khi đi ra đường phải mặc áo chứ
vô lẽ ở trần, ở trần thì coi sao được nên đành phải mặc. Mặc vào thì quá
khổ sở nhưng vẫn phải mặc.
Vế ăn thì 4 người một tô cơm, một bát canh và một đĩa kho xào gì đó, đa số
là rau muống và chột môn. Thế mà vẫy phải ăn năm này qua năm khác.Thường
ngày ăn hai bữa cơm, ngoài ra không có gì để ăn thêm. Muốn mua một cục kẹo
cũng phải đi gần một cây số mới có bán, nhưng đa số chúng tôi đều không có
tiền để mua. So với hiện nay thì cách xa một trời một vực. Bây giờ thức ăn
đủ thứ , bán tràn lan như muốn trêu chọc mình. Sữa đã tốt, bia đã ngon rồi
, nhưng mà chưa bằng bia trộn với sữa. Khi nào mệt mệt đem bia trôn với
sữa uống thì học mau vô lắm! Đã có bia sữa lại phải có thuốc ba số nữa mới
đủ mốt. Không biết mấy điều này hay hay là dở, nếu tôi nói dở sợ mấy thầy
mấy cô nói tôi lạc hậu. Nếu nói hay thì tôi nói không được. Thôi để tùy
các thầy cô nghĩ sao thì nghĩ, tự mình xử lý lấy, chứ tôi thì hơi khó nói.
Bởi nói dở thì cho Ôn xưa quá ! Thời đại văn minh mà Ôn toàn nói chuyện
đời xưa, còn nói hay thì tôi không cho là hay được.
Bây giờ tới chuyện hút thuốc, ở đây tôi phải nói là dở. Dù có nói tôi lạc
hâụ hay u mê hay không theo kịp thời đại thì tôi vẫn nói hút thuốc là
không tốt, là điều rất húy kỵ. Ngày xưa nếu ai đó hút được một điếu thuốc
thì thiên hạ cho người đó là kẻ lớn, người đó có vẻ văn minh. Nhưng lúc
này đây ai hút thuốc thì họ nhìn với cặp mắt thương hại, là tội đồ them
thuốc, là người thiếu văn hoá, không theo kịp cái văn minh của thời đại.
Họ nói hút thuốc là độc, không có lợi gì cả, trừ một ít nhà văn, nhà thơ
họ nói có hút thuốc mới viết văn hay. Điều đó đúng hay không thì chưa ai
kiểm tra được. Nhưng nếu hút thuốc mà viết văn hay thì cụ Nguyễn Du cụ hút
cả ngày nên mới viết văn hay như vậy, chứ còn hút lơ thơ một vài điếu như
mình thì làm sao mà viết văn hay như truyện Kiều được. Nhiều khi do ít hút
thuốc nên viết dở cũng không biết chừng ! Nên nhiều người hút thêm để viết
văn cho hay như cụ Nguyễn Du mà cũng không viết được. Có viết được thì
chắc cũng không hay. Tôi ví dụ như vậy để các thầy cô hãy suy nghiệm thử
coi.
Dân Việt Nam mình đang còn cái dở là hút quá nhiều thuốc, trong đó có các
Thầy. Thầy chùa mà hút thuốc lại còn dở hơn. Thầy chùa gì mà cứ cầm điếu
thuốc huơ lên huơ xuống, phì phì thở thở trước mặt bàn dân thiên hạ coi
thật kỳ quá. Không có cái phong cách phong độ gì hết. Nhân thiên nhãn mộc,
nhân thiên đạo sư ở đâu mà lố lăng như vậy. Không phải hút thuốc nhiều mới
hóa độ được nhiều Phật tử đâu.
Tôi nghĩ, chẳng qua là quí vị chưa ý thức được vấn đề
nên chưa cải đổi được sự thèm muốn của mình mà thôi. Tôi mong các Tăng Ni
trẻ phải cải đổi bằng cách, nếu ai trước đây mỗi ngày hút 10 điếu thì giờ
đây cũng nên bỏ dần đi, làm sao một ngày hút một điếu thôi và cuối cùng
cũng nên tìm cách bỏ hẳn là tốt nhất.
Thế gian bây giờ họ hạn chế hút thuốc lắm. Những người trí thức, những
người lịch sự họ cũng rất ít hút thuốc, còn thầy chùa mình thì hút
xả láng, dở quá. Tôi có dịp đi thăm một số các nước Âu Tây, khi đi trên
tàu xe tôi thấy họ có dành một phòng để hút thuốc . Mua vé giường nằm anh
có quyền ăn, có quyền uống, nhưng không được quyền hút thuốc trong phòng.
Anh muốn hút thì đem thuốc tới phòng cách ly dành riêng cho người hút
thuốc, hút xong rồi về phòng. Tây phương họ coi những người hút thuốc phì
phèo nơi đám đông là thiếu văn hóa. Nên có những người thèm thuốc họ tự
tách đám đông đến nơi bụi cây lén hút, hút xong mới đi tiếp. Nhìn người để
xét lại mình, trong khi người đời như vậy mà mình là tu sĩ lại hút phì
phèo, thử hỏi mình là người gì trong xã hội? Thành thử việc ăn, việc học,
việc ngủ, việc sử dụng đèn, sử dụng nước, tất cả mọi thứ cái nào mình cũng
có thể tu được ở trong từng vấn đề nhỏ đó.
Nhân đây tôi có lời khuyên : Trước đây các thầy cô có hút thuốc, bây giờ
thấy không hay bỏ đi cũng là tu. Trước dùng nước một cách phí phạm, bây
giờ dùng vừa đủ cũng là tu. Trước đây dùng đèn một cách lãng phí, bây giờ
dùng đèn có mục đích vừa phải cũng là tu: trước đây bạ đâu dùng mấy thâu
nấy, không lo ghi chép bài, cứ ỷ vào cái máy nên không đến trường học thì
bây giờ hãy tự lực ghi để mà học cũng là tu. Vậy tu là gì? Tu là sửa cái
không đúng thành cái đúng, bao nhiêu cái không có lợi trở thành có lợi
v.v…đó gọi là tu.
Để trở thành tu sĩ nên có ba yếu tố: Đó là chánh kiến là một, tịnh giới là
hai và oai nghi là ba.
Chánh kiến là đối với Tam bảo mình có một niềm tin
vững chắc, tức là có thắng giải đối với Phật, đối với Pháp, đối với Tăng.
Một sự hiểu biết vững chắc không lay chuyển, tin Tam bảo, tin nhân quả đó
là chánh kiến. Nếu làm ông thầy mà không có chánh kiến thì ông đó chỉ có
hình thức mà không có nội dung. Nếu không có nội dung, không đủ oai nghi
thì không thật là ông thầy tu, bất quá đó chỉ là ông cư sĩ trọc đầu.
Thứ hai là
tịnh
giới
: Tức là giữ giới điều đã thọ theo từng cấp bậc.
Thứ ba là
oai nghi
:
Có chánh kiến , có tịnh giới đó là hai điều chủ yếu, nhưng mà phải có oai
nghi nữa mới trọn vẹn. Chứ còn làm ông thầy mà cứ lăng xăng, hút thuốc
phì phèo như vậy là không có oai nghi, mặc dầu ông không phạm giới. Nếu
nói ông hút thuốc là phạm giới thì không kết tội được, vì ông không mắc
tội phạm giới, nhưng mà phạm oai nghi.Phạm oai nghi thì chỉ khuyên ông bỏ
mà thôi. Mặc dầu có chánh kiến, có tịnh giới nhưng oai nghi không nghiêm
túc, không đàng hoàng cũng không thành một ông thầy đứng đắn. Chính cái
oai nghi đó trong luật cũng có nói, nhưng ngày xưa chưa có cái việc hút
thuốc, mà chỉ nói : Tề chỉnh trước ngoại y đương học, tề chỉnh trước nội y
đương học…{ Mặc y ngoài một cách nghiêm chỉnh nên học việc đó, mặc y trong
một cách nghiêm chỉnh nên học việc đó…, nên cầm bình bát cho thẳng mà ăn
nên học việc đó, chứ chưa nói hút thuốc hay không nên hút thuốc như thế đó
}. Nếu Phật còn sống chắc Ngài cũng chế thêm điều đó hoặc Ngài nói nên hút
thuốc như thế đó là tốt hay không tốt, tôi cũng chưa biết chắc. Các thầy
cô đoán thử coi, nếu như Phật còn thì Ngài nói nên hút hay không nên hút
như vậy !
Nhưng việc lắt nhắt như vậy các thầy cô nên biết để giữ oai nghi cho
nghiêm túc, cho ngay ngắn để học hành, đồng thời cũng để giữ phẩm giá cho
mình.
Thường thường khi chúng ta đánh giá ai đó thì ta chỉ biết đánh giá bề
ngoài họ đến với ta, chứ ở nhà ta không biết họ làm gì , lỡ họ có ăn trộm,
nói láo ta cũng không biết. Ta không hay không biết thì kết tội họ sao
được. Nhưng nếu họ đến với ta mà đi đứng thiếu oai nghi thì ta đánh giá
liền. Cũng vậy, khi đi ra đường những người xa lạ họ đâu có biết mình tu
hay không tu, mà chỉ có người ở gần mình mới biết là mình tu ra sao, có
phạm giới không, có tụng kinh không hay là đi chơi cả ngày. Chắc người
ngoài họ không biết. Nhưng nếu họ gặp và thấy mình lung lăng, cà chớn, hút
thuốc phì phèo, không giữ oai nghi thì chắc họ nói: ông thầy đó tu gì mà
tu, mặc dù ở chùa mình tu rất nghiêm túc, học hành cũng miệt mài nhưng vì
bề ngoài bê tha của mình nên họ đánh giá liền. Cho nên vấn đề oai nghi
cũng quan trọng lắm chứ không phải không quan trọng đâu. Thành gộp ba thứ
chánh kiến, tịnh giới, oai nghi đó lại được đàng hoàng, nghiêm túc thì khi
bây giờ ta sẽ trở thành một vị tu sĩ gương mẫu, một vị Tăng đáng cho mọi
người tôn kính. Các thầy các cô phải giữ cho được điều đó ngay cả
trong khi ngồi trong lớp học, trong khi ăn cơm, trong khi đi ra đường,
trong khi tiếp xúc, tôi nghĩ các thầy cô ai cũng làm được hết. Giữ được ba
điều đó thì thiên hạ sẽ đua nhau đi tìm hiểu coi ông thầy đó ở đâu tới,
học ở trường Phật học nào. Họ nói trường có quy củ nên dạy học Tăng học Ni
mới có oai nghi chánh hạnh như vậy. Chứ trước đây ông khác, nay vì vào học
trường cò quy củ, có tu nên tính đã đổi dễ thương.Trường Phật học của
chúng ta khi ấy lại có uy tín. lại có giá trị, chứ còn mình không giữ oai
nghi, học hành không nghiêm túc thì người ta sẽ đánh giá: Ồ ! Ông đó học
trường Phật học mà oai nghi không ra gì. Vô tình mình làm mất uy tín của
mình mà còn mất uy tín chung cho cả trường nữa. Nếu tính tình của mình
hung hăng, lung lăng quá thì người ta sẽ nói xấu mình đã đành, mà còn nói
xấu luôn cả trường nữa. Như thế vô tình mình làm gương xấu cho bạn bè, vô
hình chung người dở lại kéo người hay xuống vực. Như thế là người hay làm
thầy không ai biết mà chỉ biết người dở làm thầy người hay.
Các thầy cô làm sao cố gắng giữ gìn cho mình, hiữ cho đoàn thể, cho trường
lớp từ cách học, từ cách tu, từ sự giữ giới cho đến các oai nghi. Được như
vậy là chúng ta đã thực hành được cái hạnh tự lợi lợi tha, còn không thì
tự hại hại tha, mình học đã không ra gì mà còn hại người khác nữa. Mình tu
đã không ra gì mà còn làm gương xấu cho người khác không tu.
Tôi xin nói một vài cái kinh nghiệm mộc mạc như thế để thầy cô suy nghiệm
thêm. Trong hoàn cảnh nào nó cũng có cái dễ và cũng có cái khó. Không phải
hoàn cảnh nào cũng dễ hết mà cũng không phải hoàn cảnh nào cũng khó hết.
Nhưng nếu mình biết thì hoàn cảnh khó nó biến thành dễ, không biết thì
hoàn cảnh dễ nó biến thành khó. Hoàn cảnh dễ biến thành khó, ví dụ như bây
giờ có cái cát-sét thâu bài thì tối về mở nghe chắc học dễ, có ngọn đèn
sáng để học thì quá dễ nhưng nếu không biết sử dụng đúng cách thì nó
sẽ biến thành khó. Khi khó biến thành dễ nếu mình có thiếu thốn đôi chút
nhưng có tinh thần chăm học và đừng có để tâm tới nó, mà chỉ để tâm tới
việc học, để tâm tới việc tu, đừng để tâm chi tới các việc lắt nhắt thì
bao nhiêu chuyện lắt nhắt đó dù có khó cũng sẽ trở thành dễ, nó không
tương quan chi đến mình hết.
Hôm nay các thầy cô đã có duyên lành vào học trường Đại học Phật giáo này
thì nên cố gắng hết sức, cố gắng mọi mặc để cho việc học của mình đạt được
kết quả tốt, chẳng những có lợi cho mình, lợi cho nhà trường, cho Giáo hội
mà cho cả đàn em trong tương lai nữa. Bởi vì tương lai các thầy cô sẽ là
ông thầy dạy lại lớp đàn em của mình. Bây giờ mình còn là học Tăng, nhưng
mai sau là ông thầy dạy Phật pháp. Nghĩ như vậy thì mình không những chỉ
có bổn phận làm học trò mà cũng có bổn phận làm thầy nữa, chứ không phải
làm học trò mà thôi. Để xứng đáng vừa là người học trò, vừa là một ông
thầy trong tương lai, nghĩ như vậy chắc các thầy cô sẽ tiến bộ nhiều và
bốn năm học sẽ qua đi trong nháy mắt.
Gặp gỡ các thầy cô như thế này, dù lạ, dù quen,nhưng cũng đầu tròn áo
vuông, đồng tư tưởng,chí nguyện y như nhau thì chúng ta sẽ đồng thành lục
hoà, đều có sự tu hành để lo cho đạo, bảo vệ chánh pháp, lợi lạc quần sanh
như tâm nguyện xuất gia ban đầu của chúng ta vậy.
Cầu chúc anh em tinh tấn dõng mãnh để học, để tu, để tự lợi mình và lợi
người.
HƯ TÂM HỌC ĐẠO
Người xưa hay chỉ vào lớp trẻ mà
nói : Hậu sanh khả úy. Không biết các thầy cô có dính vào trong câu nói đó
không? Hậu sanh khả úy nghĩa là kẻ hậu sanh đáng sợ. Chữ đáng sợ ở đây họ
nói với cái nghĩa tốt. Kẻ hậu sanh khi nào cũng giỏi, cũng hay hơn các bậc
tiền bối của mình hết.
Nếu được như vậy thì tôi cũng hết sức mừng chứ tôi không sợ. Sợ mà
mừng và tôi cũng mong được sợ như vậy.
Tôi đeo đuổi cái nghề giáo dục Tăng Ni này từ khi ra trường cho tới bây
giờ. Có lúc dạy nhiều, lúc dạy ít nhưng đi dạy cho Tăng Ni nhiều hơn các
Phật sự khác, nên Giáo hội đã cử tôi trông coi ngành giáo dục Tăng Ni.
Chúng ta học Phật, tu Phật cốt để làm gì? Mục đích nằm đâu? Học Phật tu
Phật là cốt chuyển mê khai ngộ. Mục đích ra đời của đức Phật cũng cốt
chuyển mê khai ngộ, nghĩa là chuyển đổi cái mê lầm mà khai mở trí giác
ngộ, mục đích của Phật nằm ở chỗ đó. Vì mê lầm mà đau khổ và giác ngộ mà
an vui. Chúng sanh đau khổ là vì mê lầm, chư Phật an lạc là nhờ giác ngộ.
Vậy thì mê lầm cũng là tâm mà giác ngộ cũng là tâm. Cho nên nói chuyển mê
khai ngộ chính là chuyển cái tâm của ta vậy. Vậy thì học Phật, tu Phật cốt
là tham cứu cái bổn tâm của ta để cho ta hiểu rõ cái bổn tâm của mình, tu
tập cái bổn tâm của mình như thế nào đó, để cho cái sự mê lầm càng ngày
càng tiêu tan đi và sự giác ngộ càng ngày càng thành tựu tới. Nếu biết cho
thật nhiều, học cho thật lắm nhưng không tự biết tâm mình và cũng không
tu tập tâm mình thì chưa thể gọi là học Phật. Học Phật là cốt để chuyển mê
khai ngộ tức chuyển cái tâm mê thành tâm ngộ mà mình không tự biết
tâm mình và không tu tập tâm mình thì dầu có học thật nhiều, học đủ mọi
thứ thì cũng không gọi là học Phật được, cái học đó là cái học hý luận chứ
không phải học Phật.
Cho nên ngày xưa có ngài Thoại Nham Hòa thượng, hằng ngày ngài tự kêu rồi
tự dạ. Sáng ngài kêu: Tỉnh đó chứ? Dạ. - Phải luôn luôn tỉnh đi nghe? Dạ.
- Đừng có để mai kia mốt nọ bị vạn pháp dối gạt nghe? Dạ, dạ.
Sáng ngài cũng kêu như thế, trưa cũng kêu như thế, tối cũng kêu như thế.
Những người xung quanh lấy làm lạ, tưởng ông kêu ai và có tiếng ai dạ, té
ra khi họ rình một lát thì thấy ông tự kêu rồi tự dạ, chứ không có ai khác
cả. Thì ra đó là một cách đánh thức lòng mình, đánh thức ông chủ của mình
dậy, đừng để cho ông ngủ quên. Khi ông chủ đó ngủ quên thì tất sẽ bị ngoại
pháp xâm nhập, lấn hiếp, chi phối và nó sẽ làm rối loạn. Khi đã làm loạn
như vậy rồi, nếu mình được mong giác ngộ thì giác ngộ bằng cách nào? Khi
càng loạn càng mê lầm, đã mê lầm thì không có cách chi giác ngộ hết.
Nhưng nói về cái tâm thì bên pháp tánh nói tâm chỉ có vậy thôi. Vạn pháp
bổn hộ nhất tâm, nhất tâm bất sinh vạn pháp hưu tức. { Muôn pháp vốn từ
một tâm, một tâm không sinh muôn pháp lắng bặt}. Về bên pháp tánh nói nhất
tâm thôi, không có nhiều tâm. Nhưng có những tính tham, tính sân, tính si,
tính ngã mạn, tính cống cao hay là từ bi hỷ xả, bao nhiêu chuyện đó chỉ là
thuộc tính của tâm. Nhưng về pháp tướng Duy thức thì tâm có hai thứ: Một
thứ gọi là tâm vương và một thứ gọi là tâm sở. Tâm vương là chỉ cho sự
biết nơi mắt, sự biết nơi tai, sự biết nơi mũi, sự biết nơi lưỡi, sự biết
nơi thân, sự biết nới ý, sự biết nơi mạt –na, sự biết của a-lại-da gọi là
8 thức. Sự biết của 8 thức đó gọi là 8 thức tâm vương. Sự biết này có một
tính cách trung thực, hiện lượng, tức cảnh vật như thế nào đó biết đúng
như thế đó không thêm không bớt, mắt thấy sắc chỉ là thấy sắc, tai nghe
tiếng chỉ là nghe tiếng. Cái biết hiện lượng đó nó không nói rằng đây là
sắc xanh, đây là sắc vàng, đây là cái hoa, đây là cái quả, đây là con
người, đây là con vật, nó không nói gì nữa. Lại càng không nói đây là xấu
đây là tốt, đây là đáng ưa đây là đáng ghét, nó không nói chi tới cả, mà
nó chỉ thấy sắc là sắc, tiếng là tiếng. Mà sắc là sắc, tiếng là tiếng đó
là cái cảnh giới mà nó nhìn thấy, nó biết, nó thấy như thế, chứ thật tình
nó không có cái ý nghĩ rằng sắc không phải thanh, thanh không phải hương,
hương không phải vị, không phải xúc,nó không có cái so sánh ấy, đó là cái
biết hiện lượng của 8 thức. Nếu như tất cả chúng sinh, tất cả mọi người mà
hằng ngày sống được với cái hiện lượng đó { 8 thức} thì không có vấn đề gì
để nói hết. Sống với hiện lượng 8 thức thì con mắt của tôi nhìn cũng như
con mắt của các anh nhìn, các cô các chú nhìn không khác gì nhau hết. Cái
nhìn của tôi, cái nhìn của các cô, thấy sắc của tôi và thấy sắc của các
vị không khác nhau.
Khi chúng ta đã có một cái thấy không khác nhau thì chắc chắn không cãi
nhau, không cãi nhau thì không đập lộn nhau đến u đầu bể trán chảy máu.
Sống trong hiện lượng cảnh là thế. Sống trong hiện lượng của nhãn, của
nhĩ, của tỉ, của thiệt,của thân, của ý, của mạt-na, của a-lại –da, sống
với 8 thức tâm vương và sống trong hiện lượng cảnh đều là trung thực, đều
là bình đẳng. Nhưng tiếc rằng chúng ta ít sống trong hiện lượng cảnh, mà
lại sống vào trong cảnh đới chất, hay trong cái tâm sở là một thứ tâm khác
theo Duy thức. Ngoài tâm vương còn có các thứ tâm sở mà những tâm sở này
có 11 thứ thiện, 10 thứ trung tính và các thứ khác là bất thiện, gọi là
phiền não hay tùy phiền não tâm sở. Nếu tâm vương khi kết hợp tương ưng
với tâm sở nào, thì sẽ biến tính chất của nó theo tâm sở ấy.Nếu tâm vương
nhãn thức là trung thực, là hiện lượng nhưng khi kết hợp với tín tâm
sở thì nó trở thành cái tốt cái thiện, còn khi kết hợp với tham tâm sở thì
sẽ trở thành xấu, bất thiện. Thành thử theo Duy thức, ngoài 8 thức tâm
vương ra còn có 51 thứ tâm sở, chính trong loại tâm sở này cũng có thứ
thiện, thứ ác, thứ bất định.
Vậy nếu cần phải biết tâm, cần phải tu tâm thì tốt nhất chúng ta
phải nhìn vào trong tâm của mình, ngay trong giờ phút đó cái thức tâm
vương của mình nó tương ưng với tâm sở nào? Nếu nó tương ưng với các tâm
sở thiện, thì mình cố gắng để cho nó tương ưng, để cho nó phát triển , làm
cho nó lớn mạnh lên. Nếu nó tương ưng với tâm sở ác , thì mình phải tìm
cách ly gián nó ra, tách lìa nó ra, trừ khử nó đi, đừng để cho nó tương
ưng. Nếu thấy cái nhãn thức tâm vương của mình thấy sắc hiện lượng, thấy
sắc đó thấy là tốt, không sao hết. Như vậy thì nhìn sắc cả ngày cũng không
sao, có đi xuống chợ nhìn đủ thứ cũng không hại gì. Nhưng nếu có một anh
tham tâm sở mà tương ưng với tâm vương, thì mình phải tỉnh ngộ liền,loại
trừ nó ra ngay, xua đuổi, ly gián nó ra, đừng cho nó tương ưng với . Đó
cũng là một cách tu theo Duy thức và một cách tu để tự biết tâm mình, tu
luyện tâm mình.
Trong kinh tạng Nikàya Phật dạy: Luôn luôn tỉnh giác, khi ngồi biết mình
ngồi, khi ăn biết mình ăn, khi đắp y biết mình đắp y, khi cầm bình bát
biết mình cầm bình bát…đó là tỉnh giác. Kinh Nikàya nói một cách đơn thuần
như thế về tỉnh giác.Lối tỉnh giác đó như Thoại Nham Hòa thượng hằng ngày
tự kêu mình hãy tỉnh đi tỉnh đi …, nhưng phân biệt như trong Duy thức thì
thật rõ ràng hơn. Thấy rằng cái tâm khởi lên đó là loại tâm gì, phải biết
rồi mới lo diệt trừ nó đi. Mà khi đã biết tâm để trừ tâm, cái đó nói tu
thì bất cứ lúc nào cũng tu hết, hiểu tâm lúc nào cũng hiểu hết, tu tâm lúc
nào cũng tu hết, chứ không phải khi bước chân lên chùa tụng kinh gõ mõ mới
là tu tâm, hay thời gian ngồi tham thiền mới là tu tâm. Không phải thế.
Bởi nếu mình tỉnh giác được, nhưng tâm thiện tâm ác tương ưng với tâm
vương của mình từng giờ từng phút, lúc nào nó khởi lên thì trừ lúc đó,
cũng gọi là tu.
Thế nhưng tại sao lại có giờ công phu nhất định như vậy để làm gì? Là vì
công phu của mình còn non quá, yếu quá nên phải có cái thì giờ đó để huấn
luyện cho mình có thêm nghị lực, để bất cứ lúc nào mình cũng được thanh
tịnh, không bị ô nhiễm.
Cho nên trong đạo Phật khi nói học tức là tu, nói tu tức là học, chứ không
phải học xong mới tu hay học ba năm bốn năm ra trường sau đó mới tu. Không
phải như vậy. Không phải học xong rồi mới tu, mà chính ngay trong khi đang
học đã tu, trong tu có học, ngay cả trong khi đang học đã quyết chí đỗ,
chính ngay khi ngồi trong lớp cũng đã tu, nếu không quyết tu thì học
để làm gì !
Thường thường ngồi trong lớp học đâu có phải lúc nào chúng ta cũng đem cái
hư tâm học đạo, sáng suốt rỗng rang để mà nghe lời thầy dạy. Nếu được như
thế thì rất là quí, nhưng không phải lúc nào cũng thế, rồi nó còn
sinh ra những cái chuyện khác nữa, ví dụ ngồi học như vậy nhưng sao thấy
nó nặng nề, trầm trệ, mệt mỏi quá. Hai con mắt thì mở nhưng cái tâm hồn
như là để đâu đâu, lúc bấy giờ hôn trầm tâm sở nổi lên, nếu không
trừ diệt là bị buồn ngủ, nên ngồi giữa lớp mà ngủ gục là vì vậy. Khi đã
hôn trầm tức phải đi tới thụy mien. Hôn trầm là một tâm sở. Cho nên hành
giả ngồi thiền thường hay bị hai cái bịnh là bịnh hôn trầm và bịnh tán
loạn.
Tán loạn cũng không thiền định được mà hôn trầm cũng không thiền
định được. Hôn trầm thì sẽ ngủ gật.Nên khi học phải biết lúc nào mình bị
hôn trầm thì phải đánh thức nó dậy, đó là tu. Tránh cho được hôn trầm thì
mới học vô. Như vậy có tu mới học được. Ngoài bịnh hôn trầm còn có
bịnh trạo cử. Ngồi trong lớp học nhe thầy giảng như tâm không yên: nhổm
lên nhổm xuống, xích qua xích lại, không ngồi yên một chổ gọi là trạo cử.
Một ngọn đèn nó đứng yên một chổ thì ngọn đèn đó sẽ soi sáng, trái lại
ngọn đèn đó cứ phụt lên hạ xuống, chao qua chao lại, thì ánh sáng lòa lòa
chứ không sáng rõ được gọi là trạo cử. Ngồi không yên quay qua quay về,
đứng lên ngồi xuống cũng gọi là trạo cử.
Dẫu vậy cũng có đôi lúc nghe thầy giảng nhưng nghe với một tâm động, tâm
chao qua chao lại như ngọn đèn thì lời dạy của thầy cũng không lọt vào
trong tâm được nên gọi là trạo cử tâm sở. Biết cái trạo cử tâm sở đó để
trừ đi tức là tu. Không những trạo cử mà còn có cái tán loạn tâm sở nữa.
Ngồi trong lớp tai bên này nghe thầy giảng nhưng tai bên kia nghe nhạc,
lại còn con mắt cứ nhìn đồng hồ không ngớt, như vậy trong lúc đó có mấy
cái tâm? Một tai nghe thầy giảng là một tâm, một tai nghe nhạc là hai tâm,
hai vặp con mắt nhìn đồng hồ là ba tâm, gọi là tâm tán loạn. Tán loạn như
thế thì lời thầy giảng mới đi tới ngang ta thì nó cũng bị đánh bạt đi chỗ
khác, xê đi chỗ khác, chứ không làm sao mà lọt vào tai được hết. Nếu biết
tâm tán loạn thì khi khởi phải loại trừ nó đi, đừng cho tán loạn thêm đó
là tu. Có tu được cái tán loạn tâm như vậy htì mới học được, không
chỉ có tán loạn tâm mà còn nhiều loại bịnh khác nữa.
Nhiều khi nghe lời thầy giảng không hơn chi mình đọc sách hết. Mình đọc
sách coi bộ trong sách người ta nói thâm thúy hơn thấy giảng. Bây giờ thầy
giảng sao mà chán quá, không hay chi cả. Từ trong cái chán quá đó nếu
không tu, nó sẽ sinh ra một loại bịnh khác gọi là mạng tâm sở { ngã mạn},
khi đó ra mặt chê: Ông thầy đó giảng như vậy mà giảng, dở ẹt. Tuy không
nói lớn nhưng mà nói thầm thầm. Trong câu nói đó chẳng những thể hiện cái
tính ngã mạn mà cũng có cái ý khoe khoang. Khoe khoang với anh em xung
quanh, ta biết rồi , điều đó ta biết rồi.
Chính tôi có đi ngang qua giai đoạn học ấy, tức đã học trên ghế nhà
trường, đi con đường này nên tôi cũng biết tâm lý các thầy cô trẻ chút
đỉnh. Xin nói để các vị biết, thời ấy chúng tôi học khổ lắm, 10 năm chỉ
học với một thầy dạy mà thôi, chứ không có nhiều thầy đâu, đó là Hòa
thượng Trí Độ. Lâu lâu mới có cụ Lê Đình Thám dạy một vài bữa thôi! Dạy
toàn kinh luật chữ Hán, chứ không có Việt văn, không có Anh Văn, Pháp Văn
chi cả. Chương trình không dạy một thứ gì khác ngoài Hán văn.
Vào họ c năm đầu thì có dạy luận văn, nhưng thầy dạy luận văn hết sức đơn
sơ. Thầy bảo làm một bài luận ba phần phải cân đối nhau. Phần mở đề, phần
chánh luận, và phần kết luận. Ba phần phải cân đối nhau, chứ đừng mở đền
thật to, mà chánh luận một chút rồi kết luận rất to, không khác người có
cái đầu và hai chân, còn cái bụng nhỏ quả, thế mà không được. Phải y như
con người: cái đầu chừng nào, cái bụng chừng nào và hai cái chân chừng
nào. Đó là một bài luận, thầy chúng tôi dạy đơn sơ thế thôi. Ngoài ra
không dạy gì nhiều về văn chương hết. Chẳng những đã không dạy rồi mà đến
khi mình tìm các sách văn chương ở ngoài đời để đọc cũng không cho . Lúc
thời buổi chúng tôi học là thời buổi văn chương đang phát triển, trong đó
có nhóm Tự Lực Văn Đoàn họ in những cuốn sách như
Hồn
buớm mơ
tiên, Tôi kéo xe hay
Tắt
đèn…rất nổi tiếng. Có một số anh em tìm mua về đọc. Lâu lâu thầy đi
soát một lần, hễ thấy anh nào có các quyển sách ấy là ông lấy xé ngay tức
thì.
Có khi anh em không thuộc bài, nếu quá ba người thì coi chừng cả lớp chuẩn
bị bỏ chạy. Khi đó ông vác roi gặp đâu đánh đó. Những kỉ niệm như thế
chúng tôi bây giờ tưởng tưởng lại như mới xảy ra hồi hôm qua. Thế mà chúng
tôi đã chịu đựng trong 10 năm học. Bởi chỉ có một thầy dạy thôi, dạy toàn
chữ Hán, cứ thế mà học không được kêu ca gì hết. Lẽ tức nhiên tuổi còn
trẻ, khoảng 14 tuổi là tuổi còn thích ăn thích ngủ, nhưng từ sáng học đến
trưa, từ trưa học đến tối, nghe quen quá nên cũng đôi lúc cũng buồn ngủ.
Cho nên ra giữa lớp anh nào cũng cố tìm một chỗ khuất để ngồi, lỡ có ngủ
thì thầy không thấy, vì lớp chúng tôi học có mấy cái cột nhà khá lớn.
Chúng tôi tìm sau cột nhà mà ngồi., ai tìm được ngồi vào chổ đó là may mắn
lắm. Giả sử có ngủ gục cũng không đến nổi nào. Nhưng nếu muốn ngủ ta ở nhà
mà ngủ chứ ra ngồi làm chi? Nhưng ở nhà thì sợ ổng điểm danh làm sao mà
trốn được. Nếu có ngủ thì ngủ dôi chút chứ làm sao mà ngủ cả buồi được.
Cũng nhờ thầy dạy nghiêm khắc như vậy mà chúng tôi có được một cái học có
cơ bản. Tuy không rộng rãi, không sâu xa, nhưng nhờ đó sau này có cái cơ
sở để tiến bộ. Thứ nữa, đạo lý Phật giáo của mình có một cái huân tập.
Những em bé nằm trong nôi nó có nghe có biết chi đâu, thế nhưng tiếng hát
của bà mẹ trong lúc ru con, tiếng hát đó vẫn thấm vào trong lòng nó. Vậy
thì mình có ngủ gục đi nữa, thì tiếng giảng của ông thầy cũng lọt vào
trong óc trong tai được. Nếu không trọn một câu nhưng cũng nghe được một
ít. Như vậy dù có ngủ hai giờ thì mình cũng nghe được khúc trước khúc sau
và trong khi ngủ nghe được một ít nữa, tức là nghe hơn một giờ rưỡi, còn
ngủ chắc nữa giờ thôi. Như vậy ngủ cũng có lợi.
Lại có chuyện bàn tán: Thầy này giảng dở, thầy kia giảng hay. Theo tôi,
mình là học tăng, học ni chương trình đã đề ra thì mình học là cứ học,
nghe là cứ nghe. Người ta gọi đó là hư tâm học đạo. Còn anh mang sẵn cái
tâm tới học đạo mà cho rằng tôi hiểu rồi, đừng nói nữa, sao gọi là
hư tâm được. Hư tâm là lòng anh phải trống rỗng như thế này để anh chờ,
anh chực người ta đưa vào cho, còn anh chứa đầy trong tâm rồi thì làm sao
mà đưa vô được nữa. Giả sử ông thầy có nói điều mình học rồi, ông nói dù
có dở chín điều , nhưng chắc chắn có một điều ông nói hay. Nếu chê ông dở
đến khi ông nói điều hay đó mình không nghe được thì thật là uổng, khi ấy
ai nói lại cho. Thành thử học là học, nghe là nghe, giữ một tâm bình tĩnh
học với thái độ không có hôn trầm, không có trạo cử, không có tán loạn,
không có giải đãi. Trong khi học mà tránh các bịnh đó tức là tu, có tu như
vậy mới học được. Còn để mấy loại bịnh đó nó choáng cả thì làm sao
mà học được. Hết hôn trầm đến trạo cử, hết trạo cử đến tán loạn, hết tán
loạn đến ngã mạn, hết ngã mạn đến phóng dật thì làm sao mà học. Mỗi buổi
học từ 2 giờ đến 4 giờ mà anh đem cả lô bịnh ra dọa thì làm sao mà học vô.
Cho nên trong khi học cũng là tu chứ không phải học xong mới tu. Có tu như
vậy mới học được.
Chính chúng tôi cũng vậy, nếu nói nghe học mà chán thì 10 năm chúng tôi
học một thầy thì lại càng chán hơn. Lẽ tất nhiên kinh luật luận thì nhiều,
nhưng ý kiến của ông thầy làm sao không trùng lặp được. Nếu nói nghe mà
chán thì đức Phật còn tồn tại chắc chúng ta cũng không nghe Ngài dạy đâu.
Bộ kinh Nikàya là bộ kinh chứa toàn lời Phật dạy mà một câu lặp đi lặp lại
ba lần. Đọc cũng chán lắm. Anh em khi mới học Nikàya chắc cũng chán như
chúng tôi. Chúng tôi lúc đầu cũng có cảm tưởng như vậy. Khi chúng tôi tìm
kinh sách Đại thừa đọc thì tư tưởng sâu xa thấm thía lắm. Đọc một câu mới
hiểu được một ý còn chính ý nữa mình phải tự tìm hiểu lấy. Còn khi đọc
kinh tạng Nikàya sao mà cứ lặp đi lặp lại nên đọc hơi chán. Tuy vậy nhưng
càng đọc chừng nào tôi càng thấy thấm thía chừng đó. Đọc chừng nào thì
càng thấy cái hay, cái thâm thúy, cái ý nhị nằm trong từng câu từng chữ
của nó. Câu văn hết sức đơn giản mà cảm xúc vô cùng.
Chúng ta biết Trung luận là bộ luận rất cao siêu do ngài Long Thọ soạn.
Một bộ luận có một biện chứng pháp rất tuyệt diệu. Vậy nội dung Trung luận
nói cái gì? Đó là nói về Bát bất trung đạo: Bất sanh, bất diệt, bất thường
bất đoạn, bất nhất bất nhị, bất lai bất xuất. Đó là Bát bất trung đạo. Mới
đọc lên ngó như cao siêu lắm. Có người nghĩ chắc Phật xưa Ngài cũng không
nói được như vậy đâu. Bát bất của ngài Long Thọ nói ra và sau này chúng ta
mới hiểu được, chứ còn đối với Phật e cũng không hiểu, không nói được như
vậy đâu !
Thật ra lúc đầu chúng tôi cũng lầm như thế. Bởi vì coi trong kinh tạng
Nikàya nói ra là mình hiểu liền không có cái gì sâu sắc hất. Nhưng càng
đọc sâu càng tìm hiểu từng câu từng lời mới thấy cái sâu trong đó. Chính
Bát bất trung đạo của đức Phật nói cũng từ trong Kikàya mà ra cả. Trong đó
có chổ đức Phật dạy rằng : “Nói
thế gian là có đó là một
cực đoan,
nói thế gian
là không đó là một
cức đoan, nói thế
gian là một
đó là một cực đoan, nói thế
gian là khác đó là một
cữc đoan, xa
lìa cực đoan
Ta thuyết
pháp trung đạo”.
Chính Trung luận triển khai cái ý nghĩa đó của kinh tạng Kikàya đức Phật
dạy chứ có gì mới đâu. Cho nên trong Nikàya đức Phật dạy một câu rất ngắn
mà ngài Long Thọ về sau này triển khai thành một bộ luận rất công phu, rất
súc tích, rất sâu sắc. Bây giờ nói về các biện chứng pháp của Trung luận
thì các nhà nghiên cứu Phật học khắp cả thế giới đều than phục và không
một ai bắt bẻ được. Mới đầu chúng ta cứ tưởng đó là của ngài Long Thọ,
nhưng thật ra không phải, mà chính đó là của đức Phật nói ra. Nên trong
bài kệ của ngài Long Thọ mới vô đầu bộ luận có tán dương đức Phật như sau:
Cái Ngài nói diệu pháp nhân duyên trung đạo đó là vị thuyết pháp thứ nhất,
con xin đảnh lễ ngài. Mở đầu Trung luận Bồ- tát Long Thọ viết:
Chẳng
sinh cũng chẳng
diệt
Chẳng thuờng
cũng chẳng
đoạn
Chẳng một
cũng chẳng
khác
Chẳng đến
cũng chẳng
đi
Nói lên đuợc pháp
duyên ấy
Khéo diệt
trừ các hý luận
Con cúi đầu lễ Phật
Đã thuyết
nhân duyên cao nhất
trong các thuyết.
Qua câu nói đó ta biết ngài Long Thọ rất tôn trọng lời dạy của đức Phật và
lấy lời dạy của ngài ra để mà triển khai, chứ không phải là sánh kiến của
ngài Long Thọ. Ngài Long Thọ chẳng qua là người triển khai lời dạy của đức
Phật mà thôi. Những cái hay đó mà chúng tôi thấy đọc Nikàya, càng đọc càng
thấy thấm thía, càng đọc càng nhận thức được một cách sâu sắc giáo lý
trong các kinh điển Đại thừa. Nếu nghe qua mà chán thì không chi bằng đọc
Nikàya ! Ông thầy dạy nói có chán cũng chưa chán bằng khi đọc Nikàya, chứa
lời Phật dạy mà cứ lặp đi lặp lại một câu hai ba lần.
Tại sao mình chê thầy dạy sao chán quá. Trong những lúc mình nghe ông dạy
xem ra có vẻ tầm thường, đó cũng có cái chủ ý riêng của ông ở trong đó mà
mình chưa biết hết. Thành thật tôi khuyên các thầy cô học là cứ học, có tu
mới học thì học mới vô được. Nếu không tu mà cứ mang ra một cái phiền não
tâm sở này hay phiền não tâm sở khác, để cho nó nổi dậy trong khi ngồi
học, nhứt định không làm sao mà học được. Như vậy sẽ rất uổng cho việc học
tập. Cứ phê bình bữa nay ông thầy này dạy chán quá tôi không muốn học, bữa
khác nghe ông thầy dạy khó quá học sao vô, như rứa là chết. Khi thì chê
thầy dạy thường quá, không có kiến thức mới, khi thì than khó quá học sao
vô; khi thì dạy dài qua làm sao mà học cho kịp, nên không có khi nào học
được hết. Thành thử phải học cho hết mình, tuần tự theo thì giờ, theo bài
vở từ từ mà học, không lo được không lo mất. Nếu trong cái học mà có cái
lo thì nó choáng lòng mình nên cũng không học được.
Bây giờ các vị gặp một hoàn cảnh học hết sức thuận tiện, còn trước chúng
tôi chỉ có một thầy dạy, có nghe được thì nghe, có nhớ được thì nhớ, có
hiểu được thì hiểu, chứ ra khỏi lớp rồi thì không biết hỏi ai nữa. Hỏi
thầy thì đâu dám hỏi. Nếu trò nào cũng vô hỏi cả thì thầy làm việc cả ngày
không cho thầy nghỉ giờ nào cả hay sao? Đã thế, đêm về còn viết cả mấy
chục trang sách li ti bằng chữ Hán, dưới ngọn đèn mù mờ, viết cho kịp để
ngày mai có để mà học. Còn bây giờ anh em sướng lắm, có cái máy thu âm để
một bên, có nghe thầy giảng hay không nghe cũng được, cứ thu vô để đến tối
về nằm ngửa trên giường mà nghe, vì đã có cái máy học giúp, nghe giúp nên
không có mặt cũng chả sao. Thậm chí còn dặn bạn: Thôi anh thâu giùm tôi để
tối tôi học cũng được chứ bây giờ tôi bận đi coi đá banh rồi, có thể như
vậy lắm chứ! Chính trong cái dễ đó chưa chắc đã là hay. Thành thử có cái
phương tiện đó giúp cho chúng ta cũng tốt, nhưng chỉ giúp mà thôi, chứ nó
không làm cái việc chính thay cho chúng ta được, như việc học và suy tư
của chúng ta trong lúc nghe thầy giảng. Còn nếu mình biến nó là chủ và
mình là khách thì dở. Mở máy ra có sao nghe vậy, nhưng khi thầy viết trên
bảng thì không nghe được, nếu ỷ lại vào cái máy thu âm thì thiệt hại biết
chừng nào.
Thứ nữa, lúc chúng tôi học, thời đó đâu có âm nhạc, nếu có nghe ca thì chỉ
vài bài vọng cổ, ca nam ai nam bằng,ca xưa thôi, không thấy có buổi hòa
nhạc hay đài phát thanh phát nhạc như bây giờ. Nhờ đó nên chúng tôi không
tu cũng phải tu, không học cũng phải học vì không biết đi đâu. Còn các
thầy cô bây giờ được thuận lợi hơn, muốn tu, muốn yên tĩnh cũng không
được, bởi đài phát thanh cứ mở bên tai 24/24 giờ, hết bản nhạc này đến tin
tức nọ, âm điệu du dương nghe mùi tai dại gì mà không nghe.
Lại có một số thầy cô đang ngồi học không quên để cái máy một bên. Học thì
học, đọc thì đọc nhưng nghe nhạc thì cứ nghe, nghe cho khỏe để học cho mau
vô, để khỏi phải buồn ngủ. Như vậy cái học sẽ ra sao. Chúng ta biết rằng
đi vô nhưthế nào thì đi ra như thế đó. Vô ông ổi thì ra cũng ông ổi, vô
ông xoài thì ra cũng ông xoài, chứ vô cả ổi lẫn xoài thì ra cái gì? Khi
học mà vô lộn xộn thì ra cũng lộn xộn. Cho nên có những thầy cô học 4 năm
Đại học Phật giáo gần ra trường rồi mà Tứ đế lại lộn với Thập nhị nhân
duyên, vì khi nhe thầy giảng bài thì vừa viết bài, vừa nhớ bản nhạc mới
nghe, thật là khổ. Khi đầu vào như vậy thì đầu ra chắc chắn phải hành động
như vậy. Do đó học tập, nói năng lộn xộn thì hành động và phát biểu cũng
lộn xộn. Hai việc học và hành có liên đới với nhau. Nhiều khi trong giọng
tụng kinh cũng có ngâm nga cái giọng ca nữa, vì vừa tụng kinh vừa để cái
máy một bên làm sao không lộn xộn được.
Các thầy cô nên biết cái nào là phương tiện thì phải đặt để nó là phương
tiện, nó chỉ giúp cho mình một phần nào thôi trong khi cần thiết, chứ đừng
dùng nó làm chính thức rồi mà bỏ mất sự suy tư và sự chăm chú, sự tích
cực, sự cần mẫn của mình. Nếu cứ ỷ lại vào cái máy thì đi đâu cũng lè kè
mang theo nó, thậm chí vô thi cũng lè kè cái máy một bên, để lỡ có quên
thì nhờ nó nhắc cho. Thành vô tình mình biến nó là chủ, còn mình là khách,
là phụ. Nếu là phụ không phải là chính thì có học mãi đi nữa, cũng không
có căn bản. Cho nên tôi khuyên các thầy cô phải tự lực là chính chứ không
nên phụ thuộc quá nhiều vào máy móc trong việc tu học của mình.
Vài lời khuyên nhắc các thầy cô, mong các vị tinh tấn trong việc tu việc
học để sau này là người hữu ích cho Giáo hội, cho Học đường trên bước
đường phục vụ Đạo pháp.
Ý NGHĨA VÀ NGHI TRUYỀN
TAM QUI NGŨ GIỚI
I.Tam quy
{1}
Một người phát nguyện tin theo đạo Phật, xin thọ phép tam quy trước Tam
bảo thì được gọi là Phật tử. Tam quy là qui y Phật, qui y Pháp, qui y
Tăng. Do Phật, Pháp, Tăng dìu dắt chúng sanh ra khỏi cái khổ luân hồi, nên
chúng sanh rất quý trọng và tôn là Tam bảo.
Pháp giới tánh duyên khởi ra thế giới, chúng sanh từ vô lượng, vô số kiếp
về trước. Chúng sanh thì sanh, trụ, dị, diệt, liên tục mãi mãi. Thế giới
thì thành, trụ, hoại, không cũng liên tục, không lúc nào dừng nghỉ, như
bánh xe xoay tròn nên gọi là luân hồi.
Chúng sanh mới sanh ra thì gọi là sanh, tiềp tục tồn tại thì gọi la trụ,
chuyển biến không ngừng thì gọi là dị và cuối cùng phải chết thì gọi là
diệt. Thế giới khi còn ở thể hơi vô hình thì gọi la không, khi bắt đầu
đọng lại, cho đến thành một khối đất cứng, có cây, có cỏ, có người, có vật
thì gọi là thành, khi tiếp tục tồn tại không có sự thay đổi lớn lắm thì
gọi là trụ, khi bắt đầu tan rã không còn người, vật và cũng không còn cây
cối thì gọi là hoại, và khi trở lại biến ra hơi thì gọi là không. Thời
gian của một thế giới thành rồi trụ, trụ rồi hoại, hoại rồi không thì gọi
là một kiếp. Mỗi thế giới có một trời riêng của thế giới ấy, phạm vi giáo
hóa của một đức Phật, có hàng ngàn triệu mặt trời, tức là hàng ngàn triệu
thế giới, gồm lại thành một Phật sát. Vô lượng , vô biên Phật sát kết hợp
với nhau thành một tầng và độ hai mươi tầng như thế, chồng lên nhau thì
thành hoa tạng thế giới. Trong vũ trụ, có vô lượng vô biên hoa tạng thế
giới và các hoa tạng thế giới cách xa nhau đến mức mà con người không thể
nào tưởng tượng nổi.
Trong hàng triệu thế giới của một Phật sát, cái thì đương thành, cái thì
đương trụ, cái thì đương hoại, cái thì đã thành không, nên không thể nói
vũ trụ bắt đầu từ đâu và lúc nào thị diệt, mặc dù mỗi thế giới đều có
thành, trụ, hoại, không. Từ cõi Tứ thiền trở lên, thì không bị sự
thành,trụ,hoại, không của thế giới chi phối, nên chúng sanh ở các cõi đ1o,
có thể sống rất nhiều kiếp.
Chúng sanh luân hồi mãi mãi trong vô lượng kiếp, chịu nhiều đau khổ, nên
có người đã giác ngộ muốn tìm cách ra khỏi sống , chết. Do lòng trông mong
ấy của chúng sanh, nhiều ngoại đạo, tà giáo đã xuất hiện, lừa gạt chúng
sanh, như cho trẻ con cái bánh vẽ, hoặc bảo rằng,lên thiên đường thì sống
mãi không chết, làm cho chúng sanh chìm đắm mãi trong bể khổ. Trong những
người tìm đạo giải thoát, có một số người suy xét nơi tâm, nơi cảnh hiện
tiền, phát minh ra đạo lý nhân duyên, rồi cố gắng tu tập, đi đến diệt trừ
ngã chấp, ra khỏi luân hồi, đó là các vị Độc giác. Vô lượng vô số kiếp về
sau, có một vị Độc giác phát lòng từ bi rộng lớn, không nỡ để cho chúng
sanh bị mãi cái cảnh luân hồi, nên kiên trì hiện ra nhiều thân, trong
nhiều loại mà hóa độ cho chúng sanh. Do tâm từ bi hóa độ ấy, vị Độc giác
này, càng ngày càng phát triển khả năng độ sinh của mình, càng ngày càng
đi sâu vào bản tánh của mọi sự, mọi vật, đi đến đầy đủ công đức trí tuệ,
giác ngộ được pháp giới tánh, phát hiện rồi nhập một với Pháp giới tánh và
thành Phật đạo, đó là dức Phật Uy âm vương, đức Phật đầu tiên trong vũ trụ
vô cùng tận. Nhờ công đức hóa độ của đức Phật
Uy âm vuơng,
vô lượng vô số chúng sanh đã phát Bồ-đề tâm, tu theo Phật pháp, phổ độ
chúng sanh và thành vô lượng chư Phật, rồi mỗi đức Phật lại truyền dạy
Phật pháp, hóa độ cho vô lượng chúng sanh thành Phật độ sanh, mãi mãi như
thế cho đến ngày nay, đã có vô lượng, vô số Phật. Như thế, tất cả chư Phật
đều do tu tập mà thành, mặc dầu pháp giới tánh sẵn có, không hề thêm.
Chư Phật giác ngộ là giác ngộ cái mê lầm của chúng sanh, chúng sanh mê lầm
cái giác ngộ của Phật
Thực tế, chúng sanh chỉ là những biểu hiện của pháp
giới tánh, chỉ do pháp giới tánh trùng trùng duyên khởi mà có. Sẵn có pháp
giới tánh, chúng sanh không biết trực nhận, lại lầm nhận các thân thường
thường thay đổi, cái tâm thường thường chuyển biến là mình, lại lầm chấp
có cái ta thật, có ngoại vật thật, nên phải chịu sống rồi chết, chết rồi
sống luân hồi mãi mãi trong lục đạo. Cái mê lầm như thế, thì gọi là vô
minh, chỉ khi nào không còn ngã chấp, pháp chấp giác ngộ vô minh, và dứt
sạch vô minh thì mới nhập một được với pháp giới tánh, tức là bản lai tự
tánh. Khi nhập một được với pháp giới tánh, thì được gọi là Như Lai, vì là
bản tánh chân như, theo duyên phân biệt của chúng sanh, mà hiện ra vô
lượng thân để hóa độ, nên gọi là Như Lai. Các đức Như Lai đều bình đẳng,
không có sai khác,nhưng cái duyên của các Ngài đối với chúng sanh, lại
theo tâm phân biệt của chúng sanh mà có sai khác. Các đức Như Lai hiện ra
vô số thân, làm nhiều việc lợi ích cho chúng sanh để kết duyên. Khi nhân
duyên đã thành thục, đối với chúng sanh trong hàng ngàn triệu thế giới của
một Phật sát, thì các đức Như Lai lại hiện ra thân Phật trong tất cả thế
giới ấy để hóa độ.
Đức giáo chủ của chúng ta là đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Ngài là một ứng
thân trong vô lượng vô biên ứng thân của đức Phật Lô-xá-na. Ngài hiện
ra thân người trong cõi này với đủ các tướng phàm phu, rồi thị hiện xuất
gia cầu đạo,thị hiện tự mình tu tập, khi nhận thấy các ngoại đạo không
phải là đạo giải thoát và cuối cùng,ngồi dưới cây Bồ-đề, tự mình suy xét,
dứt sạch vô minh và thành Phật đạo. Sau khi thành Phật, đức Phật Thích-ca
Mâu-ni chu du nhiều nước, thuyết pháp độ sanh, đem những phương pháp tu
tập để tự giải thoát, để tự giác, giác tha đi đến giác hạnh viên mãn, mà
dạy bảo cho các hàng đệ tử.
Sau khi Phật nhập diệt, các đại đệ tử của Phật kết tập những lời Phật đã
dạy, thành các bộ kinh, các vị còn kết tập riêng những giới luật của Phật
đã dạy thành các bộ luật. Lại trong khi Phật tại thế và nhất là sau khi
Phật nhập diệt, nhiều vị đại đệ tử của Phật, đã có những trước tác quan
trọng hoặc phân tích hoặc quy nạp, hoặc hệ thống hóa những lời Phật dạy ,
để giúp đỡ người đời học hỏi đạo lý của Phật, đó là những bộ luận. Các bộ
kinh, bộ luật, bộ luận là ba tạng kinh điển của Phật giáo.
Trong lúc Phật còn tại thế, các đệ tử Phật, xuất gia cầu đạo, đều kết hợp
lại thành những chúng, sống theo phép lục hòa là thân hòa đồng trụ, khẩu
hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải và
lợi hòa đồng quân. Những chúng lục hoà như thế thì gọi là Tăng.
Theo quan niệm phổ thông thì đức Phật Thích-ca Mâu-ni là
Phật bảo, ba tạng kinh điển là
Pháp bảo,
và các chúng xuất gia là
Tăng bảo.
Tam bảo như thế thì gọi là trú trì Tam bảo. Những người theo đạo Phật quy
y Tam bảo, chủ yếu là quy y với trú trì Tam bảo.
Ngoài quy y với trú trì Tam bảo ra, tín đồ các pháp Đại thừa Phật giáo,
còn quy y với thập phương Thường trụ Tam bảo, nghĩa là quy y với tất cả
chư Phật trong mười phương, chứ không phải chỉ quy y với đức Bổn sư
Thích-ca Mâu-ni Phật; quy y với đệ nhất nghĩa đế, tức là với đạo lý vi
diệu nhất của Phật, chứ không phải chỉ quy y với Tam tạng kinh điển; quy y
với vô lượng chúng Bồ-tát trong mười phương, chứ không phải chỉ quy y với
trụ trì Tăng bảo hiện tiền.
Vẫn biết , chư Phật là đồng thể, quy y với một đức Phật, tức là quy y với
tất cả chư Phật, nhưng nếu chỉ quy y với đức Phật Thích –ca Mâu –ni, là
một ứng thân của đức Phật Lô-xá-na,thì khó nhận đuợc Phật là thường trụ,
luôn hiện tiền, do đó, cũng không quan niệm đúng đắn được quả vị tối cáo,
tối thượng của chư Phật.
Lại Tam tạng kinh điển tuy nhiều, nhưng phương tiện của Phật và của chư
Tổ, theo duyên thì cũng có sai khác. Có kinh điển chỉ dạy về Nhân Thiên
thừa, có kinh điển chỉ dạy về Duyên giác thừa, Thanh văn thừa, nghĩa lý
không rốt ráo và chưa phải là con đường tu hành thành Phật đạo. Về các
kinh điển Đại thừa, nếu chấp chữ nghĩa trong kinh, mà không nhận rõ ý tứ,
thì cũng chẳng khác gì nhận ngón tay chỉ làm mặt trăng mà thôi. Vì thế
người tu hành theo pháp Đại thừa, cần quy y với đạo lý chân thật, nghĩa là
quy y với Đệ nghĩa đế, đưa đến trực nhận pháp giới tánh, tức là tâm tánh
tức là bản tánh.
Trong đạo Phật chúng ta hiện nay, chỉ có Thanh văn Tăng, vì theo căn cơ
của loài người trong cõi này, chỉ có Thanh văn Tăng mới duy trì Phật pháp
được lâu dài, nhưng không phải vì thế mà không có chư vị Thập phưong
Bồ-tát, thể theo đại nguyện đại bi, luôn luôn hiện thân trong thế giới
chúng ta, để hóa độ quần sanh. Chính các vị đã hiện thân làm các vị Tổ sư,
uốn nắn những lệch lạc trong Phật giáo, sáng tác nhiều bộ luận quí báu,
chẳng những làm sáng tỏ thêm đạo lý của Phật dạy, mà lắm khi còn phát
triển và phát minh những phương pháp tu hành thích hợp với thời cơ làm cho
Phật giáo được chấn hưng, sau những thời kỳ bị suy sụp. Vì thế, ngoài Trụ
trì Tăng, tín đồ đạo Phật còn quy y với thập phương Bồ-tát Tăng là thường
trụ Tăng bảo.
Những Phật tử đã phát Bồ- đề tâm, nên còn biết Trụ trì Tam bảo cũng không
ra ngoài pháp giới tánh, tức là bản lai tự tánh của mình. Thế có nghĩa là
tuy mình quy y Tam bảo cũng là pháp giới tánh. Tam bảo cũng là pháp giới
tánh, không có Tam bảo ra ngoài tâm tánh của mình, và cũng không có tâm
mình ra ngoài Tam bảo.
Tự
tánh bản lai
không có nhiễm
ô, không có vô minh ,
đó là Phật bảo.
Tự tính bình đẳng,
không có gì sai khác, tuy biểu hiện ra tất cả các pháp thế gian và
xuất thế gian, nhưng tất cả các pháp đó, đồng thời đều chỉ là tự tánh,
đó là Pháp bảo.
Tự tánh có diệu dụng vô lượng vô biên, có hằng sa tính công đức, hiện ra
vô số thân, làm vô số Phật sự, nhưng sự thật không được một cái gì cả, đó
là Tăng bảo.
Tăng bảo trong tự
tánh như thế
là Tự tánh Tam bảo.
Nguời tu hành cần
quy y với tự
tánh Tam bảo,
để khỏi
nhận lầm
thật có Tam bảo
ra ngoài tam tánh
1.Quy
y Phật, vĩnh bất
quy y thiên thần,
quỷ, vật. Nghĩa là quy y với Phật, nguyện vĩnh
viễn không quy y với Trời, Thần, Quỷ, Vật. Ngoại đạo thường mê tín theo
các ông Trời, ông Thần, loài Ma quỷ và các loài vật thành tinh, như vây ,
đá, cọp, rắn v.v…Tín đồ đạo Phật biết trời, thần, quỷ, vật, chỉ là những
loài chúng sanh trong vòng luân hồi, nên cương quyết không theo họ mà chỉ
quy y theo Phật để được giải thoát.
Có người nói:
“Cha cũng kính, mẹ
cũng vái”, hoặc “Phật
thì xa, bản
nha thì gần”,
hoặc “Phật
cũng kính, Trời
cũng sợ”,
nói như thế là lẫn lộn giác ngộ với mê lầm, Phật với chúng sanh, Chánh
pháp với ngoại đạo.
Nên nhận rõ rằng những loài trời, thần , quỷ, vật đều mê lầm như chúng ta,
đều còn bị ràng buộc trong bản nghiệp, nên không thể hiểu biết chúng ta và
thường cũng không có quan hệ gì với chúng ta.
Song tư tưởng của chúng ta có một sức mạnh phi thường, khi tư tưởng nhiều
người tậo trung tin tưởng, thì lại có thể tạo ra những trời, thần, quỷ,
vật, và một số tác dụng, nhưng trời, thần, quỷ, vật đó sự thật chỉ là ảo
tưởng mà thôi.
Ngoài ra, khi tu hành đã khá, bắt đầu chuyển nghiệp người sang nghiệp
khác, thì chúng ta có thể cảm thông với những loài khác được, những sự cảm
thông đó vẫn không có lợi ích gì cả, vì những chúng sanh ấy, tuy khác loài
người, vẫn còn là chúng sanh, do đó, trong lúc cảm thông với nhau,họ rất
có thể lôi kéo người tu hành theo các ngoại đạo.
2.Quy y Pháp, vĩnh bất quy y ngoại đạo, tà giáo: nghĩa là quy y với Phật
pháp, nguyện vĩnh viễn không quy y với ngoại đạo, tà giáo. Ngoại đạo là
những đường lối tu hành như đạo Nho, đạo Lão v.v…không đưa đến kết quả,
giải thoát.Tà giáo là những lời dạy bảo sai lầm, trái với nhân quả, tăng
trưởng các nghiệp ác.
Phật tử chỉ nương theo Phật pháp mà thôi, không nên xem đạo Phật cũng là
một đạo như các đạo khác, không nên tìm xem kinh điển của đạo khác, khi
chưa hiểu Phật pháp, chỉ khi nào có đủ trí tuệ, phân biệt chánh tà, thì
mới nên xem qua các kinh điển ngoại đạo, để biết mà bảo vệ Chánh pháp.
3.Quy
y Tăng, vĩnh bất
quy y tổn hữu,
ác đảng:
nghĩa là quy y với
Tăng chúng đạo
Phật, nguyện
vĩnh viễn
không đi theo tổn
hữu và ác đảng.Tăng
chúng đạo Phật sống theo phép lục hòa, là thiện hữu, là thiện tri thức của
chúng sanh, còn tổn hữu là một người hoặc những người xúi dục làm những
điều tổn thương đến đức hạnh, đến thiện niệm và chánh niệm. Ác đảng là
những bè phái gây tổn hại cho đa số người, như bè lũ hại nước, áp búc giết
hại nhân dân, phục vụ cho quyền lợi bọn xâm lược nước ngoài. Phật tử chỉ
quy y với Tăng bảo, quyết không theo những tổn hữu ác đảng dù họ có khoác
áo người tu hành.
Quy y Tam bảo là ba cái nguyện mà tín đồ đạo Phật cần phải giữ trọn, thì
mới xứng đáng là Phật tử.
Vì thế, không nên truyền thọ Tam quy cho những người chưa hiểu rõ và chưa
phát nguyện. Quy y lúc còn nhỏ tuổi, chỉ là kết duyên, chưa có tác dụng
xác thực, khi đã lớn hiểu rõ và biết phát nguyện, thì nên phát nguyện
trước Tam bảo, quy y đúng theo Chánh pháp. Phật tử chúng ta còn tụng Tam
tự quy.
-Tự
quy y Phật,
đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.
-Tự
quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ
như hải.
-Tự
quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết
vô ngại.
Nghĩa là :
-Tự
mình quy y Phật,
thì nên nguyện cho chúng sanh thấu rõ đạo Phật, phát tâm Bồ-đề vô thượng.
-Tựmình
quy y Pháp, thì nên nguyện cho chúng sanh đi sâu vào đạo lý của
kinh điển, trí tuệ rộng lớn như biển.
-Tự
mình quy y Tăng, thì nên nguyện cho chúng sanh có khả năng dìu dắt
đại chúng tu tập, tổ chức đại chúng theo phép lục hòa, được vô ngại tự
tại.
Phát nguyện quy y Tam bảo có lợi ích rất lớn, vì quy y Tam bảo, tức là cải
tà quy chánh, tức là làm lành, bỏ dữ, do đó, quyết định không đoạ vào ba
đường dữ là điạ ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Điều cốt yếu là phải phát
nguyện thành thực, một lòng tin tưởng Tam bảo, không tin những ngoại đạo
tà giáo, những trời, thân, quỷ, vật cả trong những lúc hoạn nạn, bị khó
khăn, thì mới được sự lợi ích của việc quy y Tam bảo.
II.Ngũ giới (*)
Ngũ giới là năm giới cấm của người Phật tử. Một người đã phát nguey65n quy
y Tam bảo, không quy y thiên, thần, quỷ, vật, ngoại đạo tà giáo và tổn
hữu, ác đảng thì đã thành Phật tử. Nếu một đời giữ phép Tam quy này một
cách nghiêm túc, không đi theo những dị đoan, mê tín, thì cũng được hưởng
những nghiệp báo rất tốt.
Ngoài ra, những tín đồ đạo Phật, dầu là thiện nam, tức là Ưu-bà-tắc, hay
tín nữ, tức là Ưu-bà-di, phát lòng tin chắc chắn về nhân quả, nghiệp báo
và muốn tránh những điều dữ, thì nên phát nguyện giữ từ một tới năm giới
cấm của tín đồ là
bất
sát, bất đạo,
bất tà dâm, bất
vọng ngữ
và bất ẩm
tửu.
Người giữ được một giới trong năm giới, thì gọi là nhất phần Ưu-bà-tắc
hoặc Ưu-bà-di, người giữ được hai giới thì gọi là nhị phần, cho đến người
giữ được năm giới thì gọi là toàn phần Ưu-bà- tắc hoặc Ưu-bà-di. Nếu chưa
phát nguyện giữ được giới nào, thì chỉ gọi là Tam quy Ưu-bà-tắc hoặc
Ưu-bà-di.
Phật chia ra có nhiều hạnh như thế,vì biết rõ căn cơ và hoàn cảnh của tín
đồ, lắm khi không cho phép giữ đủ ngũ giới. Lại nếu thọ giới mà không giữ
thì có lỗi và mất cả lợi ích của việc giữ giới.
Nên phân tích hành tướng của các giới thật rõ, để cho các tín đồ tuỳ sức
mà thọ giới và sau đó giữ giới cho nghiêm túc.
1.Giới bất sát: Giới bất sát của
tín đồ là bất sát nhân, chớ không phải là bất sát sanh, nghĩa là tín đồ
chỉ giữ giới không giết người, chứ không giữ giới không giết các sanh vật
khác. Trước đây , nhiều người giảng nghĩa giới bất sát của tín đồ là bất
sát sanh, thế là lầm qua Bồ-tát giới, một giới rất khó giữ, dành riêng cho
những vị đã phát Bồ -đề tâm. Vẫn biết sát sanh cũng là điều ác, nhưng
trong sinh hoạt hàng ngày của tín đồ, khó mà giữ cho bất sanh được trọn
vẹn, lại có người làm nghề nghiệp bắt buộc phải sát sanh hàng ngày. Đã thọ
giới thì phải giữ trọn suốt đời. Vì tất cả mọi người, bất cứ nghề nghiệp
gì, đều phải có khả năng thành tín đồ đạo Phật, nên không chỉ định bất sát
sanh là giới của tín đồ. Chính vì giới không giết tất cả các sinhvật rất
khó giữ, nên các bậc Sa-di cũng chỉ giữ giới bất sát nhân, đối với các vị
Tỳ -kheo thì giới bất sát chia làm hai phần : giới bất sát nhân thuộc đề
tử khí, nếu phạm thì không được làm Tỳ-kheo nữa, còn giới bất sát sanh chỉ
là một giới nhẹ, nếu cố ý phạm thì phải sám hối mà thôi. Vậy thì biết,
giới của tín đồ là giới thấp nhất, chỉ có thể là giới bất sát nhân.
Tất cả các pháp của Phật dạy đều là những phương tiện hóa độ theo căn cơ
của chúng sanh, nên Phật thuyết giới lúc nào cũng có mức, vì nếu quá mức
thì trở nên có hại.
Hiện
nay, trong hàng tín đồ,
nhiều nguời thọ
Bồ-tát giới mà chưa
phát Bồ-đề
tâm, nên rốt
cuộc, chẳng
những không
giữ đuợc tâm giới
mà cũng không giữ
đuợc thân giới và khẩu
giới.Không tự
xét mà tự thọ
giới, rồi không giữ.
Như vậy thì phạm tội phỉ báng Pháp, rất có hại cho sự tu tiến.
Tín đồ đạo Phật đã thọ giới bất sát nhân, thì suốt đời phải giữ cho trọn
vẹn, tự mình không giết, không bảo người khác giết, cho đến khi thấy người
khác giết người, cũng không được tùy hỷ, nghĩa là tán than hoặc biểu đồng
tình.
Nhưng cũng có những trường hợp sau này, mà người đã thọ giới có thể giết
người, mà không bị phá giới:
a.Vô ý mà giết
nguời (vô tâm sát)
b.Theo pháp luật mà
giết nguời,
như quan tòa
theo pháp luật
mà giết nguời,
lên án tử
hình (pháp luật
sát)
c.Vì chức
vụ mà giết
nguời, như
những nguời
thi hành án tử
hình (chức
nghiệp sát)
d.
Để
ngăn chận sự
giết nguời
mà giết nguời,
như giết
quân xâm luợc,
để chúng khỏi tàn sát đồng
bào (dĩ sát chỉ
sát). Trong trường hợp này, giết người để cứu người là làm việc
thiện, là giữ giới nghiêm chỉnh.
2.Giới bất đạo: Giới bất đạo ngăn
cấm không được trộm cắp của cải người khác, hoặc lấy của cải người khác
bằng những thủ đoạn sai trái.
Giới này được phân tích như sau:
a.Bất dữ
thủ:
nghĩa là người ta không vui lòng cho mình mà cứ lấy , như trộm cướp, ăn
cắp v.v…
b.Biển trá thủ:
là phỉnh gạt, lừa dối để lấy của.
c.Uy hiếp thủ:
là chưa đến thời đã lấy của, như con lấy của cha mẹ trước khi được chia
gia tài, người công chức tự ý lấy lương trước để chi dụng v.v…
e.Phi phận thủ:
là không phải phận mình được lấy mà cứ lấy, như khi phân phối tiền của
chưa đúng tỷ lệ, chưa công bằng hợp lý, thấy có lợi cho mình là mình cứ
lấy.
g.Vô công thủ:
là không có công sức gì mà cứ lấy. Ngày xưa, thường giải nghĩa vô công thủ
là làm việc dối trá mà cứ lấy tiền công, nhưng xét cho cùng thì những
người lao động, sống bằng mồ hôi của kẻ khác, đều phạm tội vô công thủ.
Trong những trường hợp đã kể trên, người đã thọ giới hoặc tự mình lấy hoặc
bảo người khác lấy, hoặc thấy người khác lấy của mà còn tủùy thỷ thì đều
phạm giới. Còn nếu vô ý lấy lầm, hoặc theo pháp luật, vì chức vụ mà lấy,
hoặc lấy lại những vật bị trộm cắp trả cho người chủ cũ thì không phạm
giới.
3.Giới bất tà dâm: giới này ngăn
cấm, những sự dâm dục không chánh đáng, phân tích ra có những hành tướng
như phi nhận dâm, phi thời dâm, phi xứ dâm, phi nhân dâm v.v…Nhưng cốt yếu
là cấm không được làm việc dâm dục với vợ chồng người khác. Nếu tự mình
làm, hoặc bảo người khác làm, hoặc thấy người khác làm việc tà dâm mà tùy
hỷ thì phạm giới.
4.Giới bất vọng ngữ: Giới bất vọng
ngữ của tín đồ là không được vọng ngữ, nghĩa là chưa ngộ đã bảo là ngộ,
chưa chứng đã xưng là chứng. vọng ngôn ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt, là
những điều ác, không nên làm hoặc ít làm chừng nào thì tốt chừng ấy, nhưng
không quy định là giới của tín đồ, vì giới thì phải giữ suốt đời và mức
của tín đồ thì khó giữ suốt đời không phạm những điều vọng ngôn, ỷ ngữ, ác
khẩu và luỡng thiệt.
5.Giới bất ẩm tửu: Giới này ngăn
cấm tín đồ không được uống rượu. Bốn giới trước thuộc về tánh giới, do bản
chất của các điều sát, đạo, dâm , vọng là ác, nên tín đồ đã thọ giới, thì
cần phải tự ngăn mình suốt đời không được làm. Còn giới bất ẩm tửu thì
thuộc về giá giới, vì bản tính của sự uống rượu không phải là ác, nhưng nó
có thể tạo điều kiện cho người ta gây nên những điều ác. Vì thế, giới bất
ẩm tửu không cấm tìn đồ tuyệt nhiên không uống rượu mà chỉ cấm không được
vô cớ hoặc mượn cớ uống rượu, nhưng dù trong những trường hợp được uống
rượu, như trong các nghi lễ, tín đồ cũng không được uống nhiều quá, đến
say sưa. Uống rượu thường xuyên hay dẫn đến say sưa, có hại cho trí thông
minh và cho sự tu trì, nên trừ những trường hợp nhất định, nếu tự mình
uống, bảo người khác uống, hoặc thấy người khác rượu say sưa mà tùy hỷ,
thì phạm giới. Ngược lại, tín đồ đạo Phật có thể uống một ít rượu để chữa
bệnh, để chia vui cùng người khác, trong các nghi lễ là không phạm giới.
Trong lúc Phật tại thế, chỉ có rượu là chất độc làm hao tổn tinh thần, nên
cấm không được dùng nhiều và vô cớ, hiện nay thì còn nhiều chất độc khác
nguy hiểm hơn rượu, sinh ra nghiện ngập và tác hại nhiều đến trí khôn, như
thuốc phiện, cô-ca-in v.v…Theo tinh thần của giới này, thì cũng cần cấm cả
các thứ đó, như cấm rượu.
Phân tích năm giới như trên, là phân tích theo đạo lý nhà Phật, đã có lý,
có mức và cũng có lợi nữa, vì căn cơ và hoàn cảnh của tín đồ, chỉ có thể
giữ những giới thấp nhất, vì nếu đưa lên quá mức, thì tối đại đa số người
không giám thọ giới hoặc thọ giới rồi mà không giữ được trọn vẹn, mất cả
lợi ích của việc trì giới.
Hiện nay, mỗi khi có người thọ Tam quy, thì đều cho thọ ngũ giới, cả đến
những em bé ba bốn tuổi cũng thế, đó là điều kết duyên với Phật pháp, tốt
hơn là
cần
phải giảng
cho nghe truớc,
thế nào là Tam quy, thế
nào là ngũ giới,
nêu ra những lợi ích của việc trì giới, để cho người ta suy nghĩ kỹ lưỡng,
nếu
có khả năng
giữ bao
nhiêu giới
thì thọ bấy
nhiêu, chứ
không nên bảo
gánh cả một
chuyến, rồi
cuối cùng không giữ
đuợc một
giới nào cả.
Lợi ích trên đường tu hành
không phải ở
chổ thọ nhiều
giới, mà
ở chổ thọ
giới nào giữ giới
ấy cho trọn vẹn.
Một tín đồ chỉ thọ một vài giới trong Ngũ giới hoặc chỉ thọ Tam quy mà
biết phát nguyện trọn đời gìn giữ không phạm, thì sẽ nhân đó, luôn luôn
tưởng nhớ Tam bảo, luôn luôn tự xét mình và ngăn ngừa những tâm niệm không
tốt. Do đó, được nhiều lợi ích trên đường tu tập. Ngược lại, nếu thọ giới
nhiều mà giữ không nổi và chỉ phạm một giới, thì phá mất giới thể và tâm
sinh buông lửng, không tự giữ mình, không nghĩ đến Tam bảo, không nhớ đến
nhân quả, nghiệp báo, nên đạo đức càng ngày càng suy kém.
Giữ ngũ giới có lợi ích rất lớn, người giữ được trọn vẹn ngũ giới là một
người tốt, được mọi người tin cậy, là một người luôn hướng về điều thiện,
nên thường được sinh lên các cõi trời. Nếu với cái tâm trì giới hướng
thiện đó, người tín đồ còn biết niệm Phật và phát nguyện vãng sanh, thì sẽ
được vãng sanh về các cõi Tịnh độ. Dầu cho chỉ thọ một hoặc hai giới, dầu
chỉ thọ Tam quy mà giữ trọn vẹn thì nhất định cũng được trở lại làm người,
không bị sa đọa.
III. Nghi truyền Tam qui Ngũ giới
(Niêm
hương bạch
Phật)
Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi
theo đám mây hương
,
Phưởng
phất khắp
mười phương,
Cúng duờng
ngôi Tam bảo.
Thề
trọn đời
giữ đạo,
Theo tự
tánh làm lành,
Cùng pháp giới
chúng sinh,
Cầu
Phật từ
gia dộ.
Tâm bồ-đề
kiên cố,
Chí tu học
cững bền
Xa bể
khổ nguồn
mê,
Chóng quay về
bờ giác.
Đấng
Pháp vương
vô thượng,
Ba cõi chẳng
ai bằng,
Thầy
dạy khắp
trời,người,
Cha lành chung bốn
loài,
Qui y trọn
một niệm,
Dứt
sạch nghiệp
ba kỳ,
Xưng
dương cùng tán than,
Ức
kiếp không cùng tận.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện vị lai,
thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam bảo.(1
lạy
)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Sa-bà giáo chủ, đại từ đại bi Bổn sư Thích-ca
Mâu-ni Phật, Đương lai hạ sanh Di -lặc tôn Phật, Đại trí Văn thù Sư lợi
Bồ-tát, Đại hạnh Phổ hiền Bồ-tát, Linh sơn Hội thượng Phật, Bồ-tát.
(1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương cực lạc thế giới, đại từ đại bi,
A-di-đà Phật, Đại bi Quán thế âm Bồ-tát, Đại lực Đại thế chí Bồ-tát, Thanh
tịnh Đại hải chúng Bồ-tát.
(1 lạy)
Tán :
Tâm diên ngũ phận
Phổ biến thập phương
Hương nghiêm đồng tử ngộ chơn thường
Tỷ quán thiệt năng lường
Thoại ái tường quang
Kham hiến pháp trung vương
Nam mô Hương vân cái Bồ-tát
(3 lần)
Nam mô Đại bi hội thượng Phật Bồ-tát (3 lần).
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà ra ni : Nam mô hát ra đát na đá
ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đề thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà
da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca rô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số
đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất
phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà
a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đa, na ma bà dà. Ma phạt đặc
đậu. Đát diệt tha. Án. A bà lô hê, lô ca đế. Ca ra đế. Dị hê rị.Ma ha bồ
đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu
lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra.
Mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na. A ra sâm phật ra xá lị, phạt sa
phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa
ra. tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di
đế rị đà. Na ra cẩn trì. Điạ nị sắt ni na. Ba dạ ma na, sa bà ha. Tất đà
dạ, sa bà ha. Ma ha tất đà dạ, sa bà ha. tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ,
sa bà ha. Na ra cẩn trì, sa bà ha. Ma ran a ra, sa bà ha. Tất ra tăng a
mục khư da, sa bà ha. Ma ran a ra, sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, sa
bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ, sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ, sa bà
ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra da, sa bà
ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, sa bà ha. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ dạ.
Nam mô a lị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ, sa bà ha. Án, tất điện đô,
Mạn đa ra, Bạt đà da , sa bà ha.
Đại
từ bi thuơng
chúng sanh
Đại hỷ
đại xả cứu
muôn loài
Tướng tốt
chói sáng tự
trang nghiêm
Đệ tử
chí tâm qui mạng
lễ.
Nam mô Thập phương Thường trú Tam bảo (3 lần)
Hôm nay có các đệ tử phát tâm quy y Tam bảo, tức là qui y Phât , qui y
Pháp, qui y Tăng. Trước khi quy y, các Phật tử hãy trang nghiêm, chí thành
chí kính hướng lên ngôi Tam bảo để lãnh thọ phép Tam qui Ngũ giới.
Phật dạy hành cư sĩ đầu tiên nhập đạo là cần phải qui y Tam bảo và thọ trì
5 giới, có như vậy mới trở thành một người Phật tử, xứng đáng đi theo con
đường chánh đạo mà Phật chỉ dạy.
Vậy qui y Tam bảo là gì? Qui y Tam bảo là qui y Phật, qui y Pháp và qui y
Tăng. Nói chung là Tam qui: Phật là Phật bảo, Pháp là Pháp bảo và Tăng là
Tăng bảo. Chữ bảo có nghĩa là quí báu.
Người ta ở đời thường lấy vàng bạc, lấy tiền của, lấy châu ngọc làm quí
báu. Và có người lấy tích phước, lấy ruộng đất làm quí báu, và cũng có
người lấy con cháu làm quí báu. Tùy theo trình độ, tùy theo sự nhận thức
của mỗi người mà lựa chọn từng loại báu cho riêng mình. Có trường hợp,
người thì cho thứ này là quí báu, kẻ cho thứ khác là quí báu. Nhưng các
thứ báu đó đều là cái báu của thế gian, cái báu đó chỉ giúp cho ta nuôi
sống xác thân, giúp cho ta sống an lành trong hiện tại. Ví dụ : vàng là
vật quí báu ai cũng ham cũng thích cả nhưng vàng chưa chắc đã đem lại an
vui và hạnh phúc cho ta, Hằng ngày chúng t among mỏi cho có được vàng đã
là khổ, khi có vàng rồi giữ cho khỏi mất cũng khổ, khi vàng mất đi lại
càng khổ hơn, huống chi khi đi giữa một bãi tha ma, nếu họ biết mình có
vàng thì hãy coi chừng, có khi mất mạng như chơi. Đó là một sự nguy hiểm
ghê gớm, lỡ nếu bị một tên cướp nào đó quyết lấy thì nó giết mạng mình
liền để cướp vàng.
Lại có những lúc ở những nơi đói kém không kiếm ra được một bát gạo, bây
giờ đem một lượng vàng đổi lấy một lon gạo hay một lon bắp chưa chắc họ đã
đổi, thì vàng khi ấy không có giá trị bằng một bát gạo hay một lon bắp. Vì
vàng lúc ấy không thể ăn được, không thể nuôi sống được, không thể
làm cho no bụng được mà chỉ có gạo, chỉ có bắp mới có thể nuôi sống được.
Vậy cho biết vàng khi thì quí khi thì không và cái quí đó không chắc chắn
lắm. Cho nên vàng bạc châu báu tuy là quí, nhưng không chắc chắn, không
phải lúc nào cũng đem lại an vui lợi lạc cho mình cả. Có trường hợp vì
tranh giành vàng bạc mà đâm nhau gây án mạng, như vậy vì vàng mà gây tai
họa chứ không phải vàng hoàn toàn đem lại an vui.
Khi đức Phật còn tại thế, có một lần Ngài cùng A-nan đi khất thực về, đi
ngang qua một cánh đồng Ngài thấy trong bụi có một cục vàng rất to và Ngài
quay lui nói với A-nan: Rắn độc đó A-nan. Tôn giả A-nan nhìn thấy cục vàng
và thưa, dạ bạch Thế Tôn đó là rắn độc. Có một anh nông phu đi theo sau
lưng Thế Tôn không biết rắn độc như thế nào, mà hai thầy trò đức Phật,
thầy đi trước ngó vào trong bụi nói rắn độc, trò đi sau cũng nhìn trong
bụi nói rắn độc, mình phải tới đó coi thử rắn độc như thế nào? Anh ta tới
thấy một cục vàng rất lớn nằm một bên gốc cây và nghĩ rằng: chắc ngoài cục
vàng còn có một con rắn độc nằm trong đó nữa.Anh lấy cây tới rình, anh
xoi, anh đâm, anh chạy bên này bên kia xem xét cũng thấy không có con rắn
độc nào cả, mà chỉ thấy một cụ vàng thôi. Nhưng tại sao thầy trò ông Phật
nói có con rắn độc. Khi đ1o anh nghĩ: À, té ra hai ông này đi tu nên không
biết chi cả, vàng ta sờ sờ đó mà nói rắn độc, mấy ông thầy tu u mê quá,
vàng mà nói rắn độc, và anh ta lượm đem về.
Nhưng nếu đem về ban ngày thì sợ thiên hạ thấy, họ dị nghị nên phải chờ
đến tối mới đem về. Đến tối bà vợ ở nhà nấu cơm đợi sẵn mà chưa thấy chồng
về cũng hơinóng ruột, đến khi thấy chồng về mừng quá mới mắng yêu chồng:
Chà, sao ông bây giờ mới về, bị ai bắt chắc! Ông chồng nói với vợ: Chỉ có
vàng mới bắt tôi được chứ ai mà bắt được. Thế là anh đem vàng vào,
hai vợ chồng vui mừng kêu lên: Lớn quá, lớn quá, sung sướng quá. Hai vợ
chồng tối đó quên ăn, quên ngủ, không ăn cũng no, không uống cũng thấy đã
khát, không cần ngủ mà vẫn không thấy mệt, cứ tính toán: Mấy lâu nay không
có vàng thì làm lụng cực khổ, nay có vàng thì nên đổi đời một chút. Lâu
nay không có vàng đi bộ mệt quá, nay có vàng nên mua một chiếc xe mà đi,
mua một cái nhà mới để ở. Hai vợ chồng cứ tính đi tính lại mãi và sáng hôm
sau hai vợ chồng không đi làm mà sáng sớm đã đi hỏi mua nhà mua xe, chiều
cũng lại đi hỏi mua xe mua nhà ! Họ lấy làm lạ vì nhà anh từ trước tới nay
đầu tắt mặt tối, ăn bữa no bữa đói, thiếu thốn nhưvậy mà cả tuần nay không
đi làm mà cứ hỏi mua xe nhà là có vấn đề chi đây.
Họ đi báo quan, quan cho lính về bắt lên huyện để tra hỏi, và sai lính đến
xét nhà. Khi khám thì thấy trong nhà của anh ta có một cục vàng rất lớn
nên quan đã bắt anh ta giam lại. Nằm trong lao vừa lạnh vừa đói, anh mới
hồi tưởng lại, lẽ ra mình được vàng rồi thì ở nhà lầu sung sướng, có vàng
rồi thì ăn no mặc đẹp, ai ngờ được cục vàng thì lại ăn cơm hẩm cá thiu,
nằm nhà lao như thế này !
Mà nhớ lại lời đức Phật và A-nan nói mấy bữa trước và thấy cảm phục quá và
anh la lớn lên : “ Rắn dộc Thế Tôn, rắn độc A-nan” Anh cai ngục lấy làm
lạ, không biết Thế Tôn và A-nan có thù oán gì với anh ta mà anh nói Thế
Tôn là rắn độc A-nan là rắn độc.
Quan cho đòi lên tra hỏi và anh mới thuật lại câu chuyện A-nan và Thế Tôn
nói với nhau như vậy. Và anh nói tiếp: Giờ đây tôi mới tin và ngộ câu nói
của Phật và A-nan. Ngài đi ngang thấy cục vàng nói rắn độc, đệ tử Ngài là
A-nan cũng nói rắn độc mà tôi không tin, tôi nói đó là vàng chứ đâu phải
rắn độc. Tôi ở nhà dù có cực một chút cũng có cơm ăn áo mặc, bây giờ nằm
trong lao lạnh lẽo cực khổ như thế này tôi mới thấy thật là rắn độc, tôi
mới tỉnh ngộ cái lời dạy của đức Phật.
Như thế cho biết vàng đâu phải lúc nào cũng đem lại an lạc cho cuộc sống,
vàng là báu nhưng chưa thật là báu. Ngoài vàng ra, có một thứ đem lại an
lạc cho ta còn hơn cả báu nữa chính là lời dạy của đức Phật. Lời dạy của
Ngài đem lại cho mọi người an lạc, đó mới là vật báu.
Giáo pháp của Phật mở mắt mở lòng cho ta để ta thấy rỏ đâu là thiện đâu là
ác, để củng nhau xây dựng hạnh phúc an lạc cho mình và cho người, đó mới
là vật báu. Các vị xuất gia Chơn Tăng tu hành truyền bá Chánh pháp của
Phật cho chúng ta nghe đó mới thật là vật báu. Cho nên
Phật
gọi là Phật
bảo, Pháp gọi
là Pháp bảo,
Tăng gọi là Tăng bảo.
Vì là báu nên chúng ta bây giờ cũng muốn nương theo ba ngôi báu đó để tu
tập, để được an lành, cho nên mới phát nguyện qui y Phật, phát nguyện qui
y Pháp, phát nguyện qui y Tăng.
Vậy qui y là gì? Qui là trở về, Y là nương tựa, tức trở về nương tựa Phật
, Pháp, Tăng chứ không nương tựa đâu nữa. Trước đây nhiều khi cảm thấy bất
an, đi đâu ta cũng phải ra gốc cây ta vái, hay khi bị đau ta đi tìm ông nọ
bà kia để xin keo, sai đồng sai phan để trị cho ta mau lành. Trước kia cái
tâm ta hay sầu não không biết đi tìm ai để giaỉ thoát phiền não , bây giờ
đã qui y , hễ có điều gì bất trắc, hễ có điều gì phiền não thì ta hướng về
đức Phật để nương tựa, tu theo giáo lý của Ngài mà giải thoát. Thế thì
chúng ta theo Phật là theo một cách sáng suốt, chứ không phải theo một
cách mù quáng. thế gọi là qui y.
Như vậy các Phật tử đã nghe rõ, qui y Phật là thế nào, qui y Pháp là thế
nào, và qui y Tăng là thế nào.
Bây giờ trước khi qui y Tam bảo, ta cần phải sám hối để cho thân ,khẩu , ý
của chnúg ta được thanh tịnh hầu thọ lãnh giới Tam qui cho được viên mãn.
Để cho được thanh tịnh, các Phật tử hãy chấp tay đọc lời cầu xin sám hối
trước đức Phật:
Các Phật tử. (Dạ !) Trước khi muốn qui y Tam bảo, các người phải phát lồ
sám hối. Chỉ có pháp sám hối, thân tam các người mới đuợc thanh tịnh, các
người mới có thể đón nhận giới pháp cao cả của chư Phật. Vậy các người hãy
vận hết tâm thành sám hối để dút trừ tất cả tội chướng từ vô thỉ đến nay,
làm cho các người trôi lăn mãi trong sáu đường ác, chịu luân hồi quả báo.
Vậy các người hãy nói theo tôi:
Đệ
tử vốn
tạo các vọng
nghiệp
Đều
do vô thỉ
tham, sân, si
Từ
thân, miệng, ý phát sanh ra
Đệ
tử chí thành
xin sám hối
(3 lần)
Sau khi sám hối xong, bây giờ các Phật tử hãy chấp tay ngang ngực, chí
thành chí kính nói theo lời tôi hướng dẫn từng câu một để qui y Tam bảo:
1.Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Phát nguyện
Xin trọn đời
Qui y Phật
2.Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Phát nguyện
Xin trọn đời
Qui y Pháp
3.Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Phát nguyện
Xin trọn đời
Qui y Tăng
4.Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Qui y Phật
5.Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Qui y Pháp
6.Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Qui y Tăng
7.Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Qui y Phật
8.Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Qui y Pháp
9.Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Qui y Tăng
10.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Qui y Phật
Là đấng Giác ngộ hoàn toàn
Từ bi viên mãn
Cứu độ chúng sinh
Thoát vòng đau khổ.
11.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Qui y Pháp
Là lời dạy cao cả
Giải thoát của đức Phật.
12.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Qui y Tăng
Là các bậc Bồ -tát, La-hán
Các bậc Thánh tăng
Tu hành theo Phật.
13.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Qui y Phật
Là đấng Giác ngộ hoàn toàn
Từ bi viên mãn
Cứu độ chúng sinh
Thoát vòng đau khổ
14.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Qui y Pháp
Là lời dạy cao cả
Giải thoát của đức Phật.
15.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Qui y Tăng
Là các bậc Bồ-tát, La-hán
Các bậc Thánh Tăng
Tu hành theo Phật
16.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Qui y Phật
Là đấng Giác ngộ hoàn toàn
Từ bi viên mãn
Cứu độ chúng sinh
Thoát vòng đau khổ.
17.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Qui y Pháp
Là lời dạy cao cả
Giải thoát của đức Phật.
18.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Qui y Tăng
Là các bậc Bồ-tát, La-hán
Các bậc Thánh Tăng
Tu hành theo Phật.
19.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Phát nguyện qui y Phật rồi,
20.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Phát nguyện qui y Pháp rồi,
21.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Phát nguyện qui y Tăng rồi,
22.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Phát nguyện qui y Phật rồi.
23.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Phát nguyện qui y Pháp rồi,
24.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Phát nguyện qui y Tăng rồi,
25.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Phát nguyện qui y Phật rồi.
26.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Phát nguyện qui y Pháp rồi
27.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Phát nguyện qui y Tăng rồi
28.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Đã qui y Phật rồi
Đời đời kiếp kiếp
Không qui y trời thần quỉ
vật.
29.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Đã qui y Pháp rồi
Nguyện đời đời kiếp kiếp
Không qui y ngoại đạo tà
giáo
30.
Đệ tử chúng con
Hôm nay chí thành
Xin trọn đời
Đã qui y Tăng rồi
Nguyện đời đời kiếp kiếp
Không qui y thầy tà bạn ác.
Nam-mô Chứng Minh sư Bồ-tát. (3 lần)
Nhất tâm đảnh lễ thập phương thường trú Tam bảo tam bái (3 lạy)
Hồ quì hiệp chưởng. (Quì
xuống)
Các Phật tử ! ( Mô Phật)
Như vậy là các Phật tử đã qui y Tam bảo rồi, chính thức làm người con của
đức Phật, từ nay là người con chính thức trong gia đình của Phật, luôn
luôn nhớ đến Tam bảo, Phật Pháp Tăng mình đã qui y suốt đời, chứ không
phải chỉ qui y trong ngày này ngày khác, không phải qui y ở tại đây mà ở
tại chỗ khác không. Một lần qui y Phật là thành đệ tử Phật suốt đời , cũng
y như cha mẹ mình sinh mình ra tức nhiên là sinh ra suốt đời. Thành một
đời chỉ có cha mẹ sinh ra một lần chứ không có nhiều cha mẹ sinh. Khi làm
đệ tử đã qui y với Phật cũng chỉ có Tam bảo là cha mẹ suốt đời của mình,
chứ không có nhiều cha mẹ khác. Giữ cho được tam qui như vậy tức là giữ
lòng chánh tín đối với Tam bảo, có một lòng tin thẳng thắn, đứng đắn.Sau
khi qui y đức Phật còn dạy hàng Phật tử tại gia thọ trì năm điều răn cấm.
Năm điều răn cấm này là cơ bản của đời sống đạo đức. Dầu là người tại gia,
người xuất gia, người theo Phật, người không theo Phật cũng cần sống có
đạo đức. Không sống có đạo đức thì không còn nhân phẩm, không còn là
người, cho nên sống đạo đức là một điều hết sức cần thiết. Mà đệ tử của
Phật sống đạo đức là cơ bản có trong điều răn cấm.
Trước hết
là không sát sinh, vì sao Phật chế ra giới nầy? Bởi vì đức Phật dạy
rằng: Ai ai cũng sợ gươm đao, ai ai cũng sợ chết, vậy lấy lòng mình suy
lòng người chớ giết, chớ bảo giết. Vì tâm từ bi thương yêu, thương cái sự
sống của tất cả mọi người mà phát cái tâm từ bi, không giết hại trưóc hết
là đối với đồng loại, cố gắng giữ gìn không đem tâm độc ác, mưu mô hung
dữ, để mà giết hại mạng sống của kẻ khác. Tội sát sanh là tội lớn hơn bất
cứ tội gia khác, bởi tội khác chỉ làm cho người ta đau khổ, chứ tội giết
làm cho người ta mất mạng luôn. Do đó điều răn cấm trước tiên là cấm sát
sinh. Đối với mọi người phải sống một cuộc sống hiền hòa, không đem tâm
mưu hiểm mong cho họ chết để cho mình sống. Đó là không sát sinh. Đối với
hàng cư sĩ thì 1 tháng 2 ngày chay hay 4,6 ngày… đó cũng là một cách thể
hiện cái tâm từ bi không sát sinh.
Với giới không sát sinh, các người có giữ được không (Mô Phật, giữ được)
Thứ
hai là không trộm
cắp.
Trộm cắp là lấy của người khác làm của mình. Ai có của cài cũng mong giữ
cho toàn, chứ không ai muốn mất mát. Mình không muốn mất mát thì người
khác cũng không muốn mất mát, thế mà đem cái tâm gian tham lấy của người
ta là có tội. Nên cần phải giữ cái giới không trộm cắp.
Với giới không trộm cắp, các người có giữ được không? (Mô Phật ,giữ được)
Thứ
ba là không tà dâm. Đối với hàng cư sĩ thì còn có lập gia đình,
nhưng lập gia đình phải theo phép tắc, luật lệ của xứ sở đó, không được
trái với luật lệ. Làm trái với luật lệ là phạm vào tội ta dâm. Đó là điều
cấm kỵ, điều xấu, không nên làm. Cho nên người Phật tử cố gắng giữ.
Với giới không trộm cắp, các người có giữ được không? (Mô Phật, giữ được.)
Thứ
tư là không
nói dối,
không nói thêu dệt,
không nói đâm thọc,không
nói vu khống,
không nói hung dữ.
Cái miệng của mình nói ra rất dễ, nhưng nói cho tử tế, cho hiền lành rất
khó. Tục ngữ có câu:
Lời
nói chẳng mất
tiền mua,
Lựa lời
mà nói cho vừa
lòng nhau.
Cũng vì lẽ đó, giới không tu sẽ ác miệng, sẽ nói hung ác, sẽ nói thêu dệt,
sẽ nói đâm thọc, sẽ nói vu khống, những lời nói ấy chỉ đem lại sự đau khổ
cho người khác. Khi đã đem lại sự đau khồ cho người khác, chính mình cũng
sẽ mang cái quả báo đau khổ đó, không chạy đi đường nào hết. Cho nên không
nói dối, nói thêu dệt, đâm thọc, vu khống, hung dữ mà tập nói hoà thuận,
thương yêu, dịu ngọt, hiền lành, đứng đắn, đó cũng là một cách tu. Tu cái
khẩu nghiệp của mình cho được thanh tịnh.
Với giới không nói dối, không nói thêu dệt, không nói đâm thọc, không nói
vu khống, không nói hung dữ, các người có giữ được không? (Mô Phật, giữ
được.)
Thứ
năm là không được
say sưa rượu chè. Xã hội ngày nay bị cái nạn xì ke ma
túy nó làm điên đảo, nó làm tai hại, làm khốn đốn bao nhiêu gia đình. Nếu
một người Phật tử sa vào cái cảnh say sưa rượu chà xì ke ma túy thì tư
cách, nhân phẩm của mình không còn nữa thì làm sao bình tĩnh nhận ra cái
điều lành mà theo, điều dữ mà tránh. Cho nên đức Phật dạy giới thứ năm là
không được say sưa rượu chè. Nếu ở đời, còn vì cái xã giao, cái tập quán,
cái lễ nghĩa thì cũng phải hạn chế hết sức, không để cho rượu chè làm điên
đảo tâm tư.
Với giới không say sưa rượu chè, các người có giữ được không? ( Mô Phật,
giữ được.)
Đối với năm cấm giới này, các Phật tử hãy cố gắng phát nguyện đối trước
Tam bảo để thọ trì để giữ gìn để tập luyện. Thọ trì giữ gìn 5 điều cấm
giới thì sẽ sống được một đời sống có đạo đức, có nhân phẩm, tức là sống
lợi mình, lợi người, tự giác giác tha như đức Phật đã từng dạy.
Bấy nhiêu lời các Phật tử hãy gắng ghi nhờ !
Y hiáo phụng hành (Phật
tử đồng
thanh nói ).
Chí thành đảnh lễ tam bái ( 3
lạy
)
Đệ
tử kính lạy
Đức
Phật Thích-ca,
Phật
A-di-đà
Thập
phương chư
Phật
Vô thượng
Phật pháp,
Cùng thánh hiền
Tăng,
Đệ
tử lâu đời
lâu kiếp
Nghiệp
chướng nặng
nầ,
Tham giận
kiêu căng
Si mê lầm
lạc.
Ngày nay nhờ
Phật,
Biết
sự lỗi
lầm,
Thành tâm sám hối,
Thề
tránh điều dữ,
Nguyện
làm việc lành,
Ngửa
trông ơn Phật
Từ
bi gia hộ,
Thân không tật
bệnh,
Tâm không phiền
não ;
Hằng
ngày an vui tu tập,
Pháp Phật
nhiệm mầu,
Để
mau ra khỏi
luân hồi
Minh tâm kiến
tánh,
Trí tuệ
sáng suốt,
Thần
thông tự tại,
Đặng
cứu độ
các bậc tôn
trưởng ;
Cha mẹ,
anh em,
Thân bằng
quyến thuộc,
Cùng tất
cả chúng sinh,
Đều
trọn thành Phật
đạo.
KINH LÒNG BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Bồ-tát quán tự tại khi đi vào trí tuệ cùng tột sâu thẳm, soi thấy năm uẩn
đều không vượt mọi khổ ách.
Này Xá-lợi tử, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là
không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
Này Xá-lợi tử, tướng không của các pháp không sinh không diệt, không sạch
không nhơ, không thêm không bớt. Cho nên trong tánh không, không có sắc,
thọ, tưởng, hành, thức ; không có mắt, tai mũi, lưỡi, thân , ý ; không có
sắc, tiếng, mùi, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến không có ý thức
giới; không có vô minh cũng không có vô minh hết; cho đến không có già
chết cũng không có già chết hết, không khổ,tập, diệt, đạo, không trí cũng
không đắc, vì không sở dắc.
Bồ-tát nương trí tuệ cùng tột nên tâm không ngăn ngại; vì không ngăn ngại,
nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo Niết – bàn.
Chư Phật ba đời nương trí tuệ cùng tột nên chứng được Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác.
Thế nên biết trí tuệ cùng tột là thần chú lớn, là thần chú sáng lớn, là
thần chú vô thượng, là thần chú không gì sánh bằng , dứt trừ hết thảy khổ
ách, chơn thật không hư, cho nên nói câu thần chú trí tuệ cùng tột; liền
nói thần chú rằng:
Yết
đế, yết
đế, ba la yết
đế, bala
tăng yết đế, bồ
đề sa bà ha.
THẦN CHÚ THẤT PHẬT DIỆT TỘI
Li bà li bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà la ni đế, ni ha ra đế, tì lê nễ đế,
ma ha dà đế, chân lăng càn đế, sa bà ha.
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô
thượng.
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển.
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không
ngại.
Nguyện đem công đức
này,
Huớng
về khắp
tất cả
Đệ
tử và chúng
sanh
Đều
trọn thành Phật
đạo.
IV. Qui Y
(áp dụng
cho truờng hợp đặc
biệt bất
chợt khi có một
vài Phật tử
đến xin quy
y)
Nam mô thập phương thường trú Tam bảo tác đại chứng minh.
Hôm nay có các thiện nam tín nữ xin tôi qui y, thành tâm đến quì trước đài
sen Tam bảo, đảnh lễ cúng dường, phát nguyện thọ Tam qui, Ngũ giới để
thành người đệ tử Phật. Thiết nghĩ các thiện nam tín nữ này thân tuy giữa
đời, nhưng có tâm hướng về đạo. Những sợ lòng trần mê muội, chẳng rõ thế
sự như phù vân, tranh ngã tranh nhân tạo ra bao điều tội lỗi, lại e trí
mọn tối tăm, lầm tưởng vinh hoa như thiết thạch, tham danh tham lợi, gây
nên nhiều việc đảo điên. Bể nghiệp mênh mông, bờ chơn mờ mịt. Vì vậy hôm
nay xin chí thành qui đầu Tam bảo,thọ trì năm giới, cầu mong một niệm hồi
quang, muôn lành trọn đủ, sống theo hạnh người từ bi, trau dồi trí tuệ,
gọt bỏ lòng trần, vun bồi cội phúc, hiện tại thân tâm an lạc, tương lai
thoát khỏi u đồ, phước tuệ trang nghiêm, trước độ được thân mình, sau đền
báo được bốn ân, lợi lạc ba cõi. Các thiện nam tín nữ này sau khi quy y
ghi dấu ngày qui y như sau: tên…….Pháp danh……
Ngưỡng cầu Tam bảo từ bi chứng giám, gia hộ các đệ tử thiện nguyện viên
thành, đạo tâm tăng tấn.
Hôm nay chúng con tên …….
Đã được qui y Phật, thề trọn đời không qui y trời thần quỉ vật.
Đã qui y pháp, thề trọn đời không qui y ngoại đạo tà giáo.
Đã qui y Tăng, thề trọn đời không qui y thầy ta bạn ác.
Đệ tử chúng con đã qui y Tam bảo Phật pháp tăng, xin nguyện suốt đời noi
theo đức Phật, dưỡng tánh tu tâm, tránh dữ làm lành, trau dồi đức hạnh, mở
mang trí tuệ. Điều ác độc phi nghĩa không nói, việc ác độc phi nghĩa không
làm, mở rộng lòng từ, thương người giúp vật. Tu tập 5 điều giới cấm là
không sát sanh, không tà hạnh trong các dục, không nói dối, nói độc ác,
nói vu khống, không say đắm rượu chè. Thành tâm ủng hộ Phật pháp đem lại
lợi ích an vui cho mọi người mọi vật.
Ngưỡng cầu Tam bảo chứng minh từ bi gia hộ cho chúng con, soi sáng cho
chúng con, dắt chúng con từ chỗ tối, tới chỗ sáng, dắt chúng con từ chỗ mê
mờ đến chỗ ngộ đạo, từ chỗ khổ đến chỗ vui. Bao nhiêu tai chướng đều tiêu
trừ, hết thảy căn lành được thành tựu.
Ngưỡng mong mười phương chư Phật chứng minh gia hộ cho chúng con.
HỒI QUANG PHẢN CHIẾU
Đức Phật sau khi thành đạo, Ngài liền đến rừng Lộc Uyển thuyết pháp lần
đầu tiên độ cho 5 vị Tỳ-kheo, sau đó Ngài đến thôn Ưu-lâu-tần-loa để độ
cho ba anh em Tôn giả Ca-diếp, là ba nhà đạo sĩ nổi danh thời bấy
giờ, Trên đường đi, một hôm Ngài đang ngồi nghỉ trưa dưới gốc cây, thì có
một đoàn 30 thanh niên con nhà giàu có dắt vợ đi chơi, trong đó có một
thanh niên chưa vợ, anh ta thuê riêng một nàng kỹ nữ đi theo để hầu hạ .
Lúc các chành thanh niên ấy mải mê chơi đùa, ngủ nghỉ thì người kỵ nữ đó
trộm cắp hết tất cả của cải của 30 thanh niên đó rồi trốn mất. 30 thanh
niên đó hớt hải chạy đi tìm, thấy đức Phật ngồi bên gốc cây, họ quì xuống
và nói,kính thưa Sa-môn Cù- Đàm, Ngài có thấy người kỹ nữ chạy ngang đây
không? Đức Phật liền hỏi lại rằng: Người kỹ nữ ấy là gì của các anh mà các
anh đi tìm gấp như vậy? Các anh đi tìm người kỹ nữ đ1o hơn hay là các anh
đi tìm chính các anh hơn? Họ trả lời: Dạ, chính chúng tôi đi tìm chúng tôi
hơn. Phật nói: Như thế là tốt. Rồi Ngài thuyết pháp cho họ nghe.
Lời dạy cho 30 thanh niên đó của đức Phật có một ý nghĩa thâm thúy vô
cùng. Diễn rộng nó ra thì cũng có thể đặt thành những câu hỏi như thế này:
Đi tìm người kỹ nữ đó hơn hay là đi tìm chính mình hơn? Đi tìm danh vọng
hơn hay là đi tìm chính mình hơn? Đi tìm quyền quý hơn hay là đi tìm chính
mình hơn? Đi tìm rượu chè cờ bạc hơn hay là đi tìm chính mình hơn? Biết
bao sự đi tìm khác thử hỏi có sự đi tìm nào hay hơn là đi tìm chính mình!
Nếu khi không tìm được chính mình, quên mình, mình bị tha hóa vào rượu
chè, ma túy, bị tha hóa vào cờ bạc, vào danh vọng, quyền lợi, chức tước
thì khi ấy con người sẽ mất hết nhân tính, mất hết đạo đức. Khi đã mất
nhân tính và đạo đức thì người không thành người, liệu của cài vật chất
danh vọng khi ấy có thể đem lại lợi phúc cho họ không? Cũng vì lẽ quên
mình, không biết đi tìm lại chính mình, cho nên chúng ta thấy xung quanh
chúng ta, trước mắt chúng ta, bên tai chúng ta đã xảy ra bao nhiêu chuyện
xấu xa đau khổ, đáng thương tâm lắm.
Khi tôi đang còn ở chùa Hải Đức, Nha Trang , có một chuyện xảy ra như thế
này: Một người con trai trong gia đình đó sắp sửa tới ngày đi cưới vợ, ông
cha thấy con mình để một cái đầu tóc bờm xờm, gái không ra gái, trai
không ra trai, ông bảo con: Con ơi, hãy đi cắt tóc cho sạch sẽ vì ngày mai
là ngày cưới của con rồi. Nhắc lần thứ nhất nó không nghe, lần thứ hai nó
giả lơ và bỏ đi nằm ngủ. Chiều lại thấy nó đang ngủ, ông liền lấy kéo tới
cắt bớt tóc cho nó gọn ghẽ. Đến khi thức dậy, nó sờ đầu tóc của mình bọ
cắt ngắn liền hỏi mẹ: Mẹ, ai đã cắt tóc của con? Mẹ nó trả lời: Chính cha
con cắt cho con đó. Nó hỏi: Ba con đâu rồi? Mẹ nó nói: Ba con đang làm
trên rẫy. Nó hầm hầm xách một khúc cây lên rẫy đánh cho ông mấy hèo và
chưởi vào mặt cha nó rằng: Ai bảo ông cắt tóc tôi? Ai cho phép ông cắt tóc
tôi?
Rồi gần đây trong tờ báo CA, Cửu Long xuất bản ngày mồng 5 tháng 3 năm
1989 có đăng một chuyện cũng đáng thương tâm và đau xót như thế này: Một
anh chàng đang làm Hiệu trưởng trường phổ thông cơ sở ấp Hạnh Đông A, tỉnh
Cửu Long tên là Nguyễn Bình Tâm, con của ông Nguyễn Bình An. Anh ta thấy
ông Nguyễn Bình An hôm đó ngồi uống cà phê ở quán, anh đi về nhà bảo thằng
em tới lôi cổ ông cha về. Đứa em tới kéo cha về. Ông cha vừa mới bước vô
cửa thì anh ta đá, thoi và kéo ông vô trong nhà lấy dây cột cổ trói nơi
cột nhà. Trước đó đã có một lần, anh cũng hành hung ông cha như vậy, ông
sợ quá bỏ chạy và nhảy xuống sông để trốn.
Mới năm ngoái đây, có một Phật tử chở tôi đi Honda, tôi ngồi sau hỏi rằng:
Lúc này nhà anh ra sao? Gia đình có vui vẻ không? Đạo hữu đó thưa rằng: Dạ
thưa thấy, kinh tế nhà con không lo gì cả, nhưng mà con rất khổ. Tôi hỏi
vì sao mà khổ? Đạo hữu đó trả lời: Vì mấy đứa con của con nó say sưa rượu
chè liên mien. Một lần say như vậy, anh em nó cãi nhau, đập lộn nhau, con
khuyên cũng không được, can cũng không xong, dọa nó cũng không sợ, đuổi nó
cũng không đi, cho nên hễ mỗi lần anh nó cãi lộn to tiếng là con thấy xấu
hổ và bỏ qua nhà hàng xóm ngồi.
Bao nhiêu chuyện đó từ đâu mà ra? Tự vì đạo đức bị sút kém, vì một số vọng
ngoại quên mình. Họ ham đi kiếm danh mà không tự kiếm mình. Ham đi tìm lợi
mà không tự tìm lại chính mình. Ham đi tìm tiền tài của cải một cách phi
pháp, rượu chè cờ bạc bê tha mà không tìm tự chính mình, cho nên mới xảy
ra như thế. Nếu như chúng ta hôm nay, không theo Phật, không học Phật,
không hồi quang phản chiếu để nhìn lại mình, tìm lại chính mình, thì chúng
ta cũng sẽ bị những thứ huyển hóa trên ôi kéo đi, khi ấy chúng ta không
còn là chúng ta nữa, không còn là người , giữ được đạo đức nữa.
Nhiều chuyện thương tâm phi đạo lý xảy ra lúc này lúc kia, chỗ nọ chỗ khác
cũng đều như vậy cả. Cho nên đức Phật luôn luôn khuyến nhắc cho chúng ta
phải hồi quang phản chiếu, Hồi quang phản chiếu là đem ánh sáng của mình
nhìn lại nơi chính mình , hiểu mình ngay trong từng suy nghĩ, từng giờ
từng phút rằng: mình là con người thiện hay mình là con người ác, mình là
con người tham lam ích kỷ hay là con người hỷ xả từ bi.Mình là một con
người kiêu căng ngạo mạn hay là một con người biết khiêm tốn kính nhường;
mình là người bất hiếu bất để hay là một người con có hiếu để. Nếu mỗi một
ngày, mỗi một giờ chúng ta tự hồi quang phản chiếu lại mình, hỏi lên những
câu hỏi như vậy, tự nhiên chúng ta thấy rằng: Chúng ta hiện tại đang như
thế nào? Nếu bất hiếu thì làm sao trở thành người có hiếu. Nếu đang kiêu
căng ngạo mạn thì làm sao trở thành một người biết khiêm tốn kính nhường.
Nếu là một người tham lam bóc lột thì làm sao trở nên một người hỷ xả từ
bi. Có nhìn lại chính mình như vậy mới thấy mình, có thấy mình thì mới sửa
được mình, mới tu tâm dưỡng tánh để trở thành một người tốt. Còn không tìm
được chính mình, không thấy được mình, thì có những lúc mình hay mà vẫn
cho là dở, những lúc mình dở mà vẫn cho mình hay.
Thật tình bất cứ ai trong tâm cũng đều có Phật, đều có chúng sanh, đều có
ma, đều có thánh. Khi tâm chúng ta nghĩ điều lành, nghĩ những điều từ bi
hỷ xả thì đó là Phật, trái lại, khi tâm chúng ta nghĩ điều giant ham, bóc
lột thì đó là ma, đó là chúng sanh. Ma và Phật , Phật và ma trong lòng của
tất cả mọi người đều có. Trong lòng ai cũng có ma có Phật, nhưng ai biết
phát huy Phật tánh thì người đó trở nên Phật, còn ai cứ ôm giữ lòng tham,
sân, si, mạn, tật đố, phát huy cái tâm hạ cấp của chúng sanh thì người đó
là ma. Ma không có một hình thức nào khác mà chính con người ta là ma. Cho
nên có những người đang tử tế hiền lành như vậy, nhưng thoáng chốc họ lại
sân, si, nổi nóng, giận dữ, giương mi trợn mắt, khi đó chúng ta sẽ nói
người đó giống con ma, người đó giống cọp. Khi họ nói người đó là ma, là
cọp thì thế là con người đó đang ở trong cảnh giới cọp, đang ở trong cảnh
giới ma, mặc dầu họ là người, nhưng thực chất tâm hồn của họ đang là
cọp đang ở trong cảnh giới cọp, tâm hồn họ là ma đang ở trong cảnh giới
ma. Nếu tâm hồn của chúng ta hằng ngày ở trong cảnh giới ma như vậy thì
chúng ta làm thế nào gọi là mình hay, gọi là mình tốt được. Cho nên khi ta
là ma phải biết ta là ma, khi ta là Phật phải biết ta là Phật, khi chúng
sanh biết là chúng sanh, có như thế chúng ta mới cố gắng phát huy cái Phật
tính để diệt trừ bóng ma đi. Nếu không như vậy nhiều khi chúng ta
lấy ma làm phật, lấy Phật làm ma, lẫn lộn rồi sống một đời trong vô minh,
điên đảo, quanh quất trong sanh tử luân hồi, trong danh lợi ,trong quyền
thế mà thôi.
Thành thử, cái tự biết mình là một điều hết sức cần thiết, khi đã biết
mình như vậy thì mới rõ được mình trong giờ phút này là ai, tâm ta đang
nghĩ gì, đang nghĩ điều tốt hay đang nghĩ điều xấu, đang nghĩ điều tham
lam ích kỷ hay đang nghĩ điều từ bi hỷ xả, đang nghĩ những điều thù hằn
nhỏ mọn hay đang nghĩ tới một tâm rộng lớn như vô ngã vị tha. Có thấy tâm
ta đang nghĩ gì như vậy chúng ta mới tự thấy được ta, biết được ta, đó là
tự giác. Nên đức Phật dạy: Cái đạo lý của Ngài không có gì xa lạ hết. Ngài
chỉ dạy cho chúng sinh một cái đạo lý tự giác mà thôi. Nếu khi nào ta tự
giác được thì khi đó ta là Phật, khi nào ta không tự giác được khi ấy ta
là ma, là chúng sanh. Giáo lý của đức Phật vô thượng vô biên, nhưng chung
qui cũng chỉ để dạy cho tất cả chúng sanh tự giác là chính.
Xưa có ngài Thoại Nham Hòa thượng, cứ mỗi ngày sáng ,trưa, chiều ngài đều
tự kêu và tự dạ. Ngài kêu rằng: Này ông chủ, rồi ngài tự dạ. Ngài tiếp tục
kêu, này ông chủ, dạ. Thức tỉnh đi nghe.Dạ. Đừng để mai kia mốt nọ bị đời
lừa gạt nghe. Dạ, dạ. Hằng ngày tự kêu và tự dạ. Tự kêu ông chủ rồi tự dạ.
Chính ông chủ đó là mình. Nhưng mà ông chủ đó phải kêu, phải thức tỉnh để
khỏi mê ngủ, nếu không kêu, không thức tỉnh ông chủ đó sẽ ngủ quên mất.
Khi đã ngủ quên chính là khi mê muội, khi mê muội thì sẽ bị danh lôi cuốn,
lợi lôi cuốn, quyền lực lôi cuốn, cờ bạc rượu chè lôi cuốn, thế là khổ.
Khi đã bị những thứ đó lôi cuốn rồi tự nhiên chúng ta không tỉnh giác và
sẽ bị bất hiếu, trở nên bất mục, trở nên phi đạo đức, trở nên hung ác, trở
nên giant ham, trở thành mọi thứ xấu xa.
Cho nên tự biết mình, tìm lại chính mình, tự giác ngộ lấy mình, đó là một
điều căn bản của những người tu Phật, đến với đạo Phật. Qui y Tam bảo, đến
với chùa chúng ta học lấy cái đạo lý tự giác đó. Khi học được đạo lý tự
giác đó rồi, chúng ta mới cởi bỏ tất cả những cái gì không phải là giác
ngộ, chúng ta nên bỏ đi. Sân hận không phải là giác ngộ chúng ta bỏ đi, si
mê không phải là giác ngộ, chúng ta bỏ đi, kiêu căng ngạo mạn không phải
là giác ngộ, chúng ta bỏ đi. Tham quyền tham lợi, bóc lột lấn hiếp không
phải là giác ngộ, chúng ta bỏ đi. Chúng ta ý thức được rằng: Chúng ta muốn
sống thì người khác cũng muốn sống như chúng ta, nên chúng ta đừng chà đạp
lên sự sống của người khác để tô bồi cho sự sống của mình. Chúng ta muốn
gia đình của chúng ta được hạnh phúc thì cũng biết rằng gia đình của người
khác cũng cần hạnh phúc như chúng ta, thì chnúg ta cũng đừng chà đạp lên
hạnh phúc của người khác để bồi đắp cho hạnh phúc của gia đình mình. Có tự
giác như thế chúng ta mớiđi trên con đường giác ngộ và giải thoát của đức
Phật.
Đến với đức Phật, học theo Phật đ1o là điều quí báu nhất. Nhưng nếu không
thực hiện theo lời Phật dạy, không có một tâm niệm từ bi thì sự đến với
Phật của chúng ta cũng thiếu sự ích lợi. Khi đã giác ngộ rồi thì chúng ta
mới giác tha được, chưa tự giác thì không giác ngộ cho ai được cả.
Chư Tăng và các vị tiền bối của chúng ta, nhìn thấy chính trong tâm của
mỗi người đều có điều tốt, điều xấu. Trong hàng thanh niên con em của
chúng ta cũng có người có tâm xấu, cũng có người có tâm tốt. Người có tâm
xấu thì nhiều, người có tâm tốt thì ít, sợ rằng con cháu của chúng ta bị
sa ngã, cho nên các vị tiền bối đã phát huy đạo đức bằng cách thành lập
những cơ sở Khuông hội Phật giáo, niệm Phật đường để cho các hàng nam nữ
cư sĩ Phật tử, dầu lớn dầu bé, những người có tâm hướng thượng, hướng
thiện, muốn đi theo con đường giải thoát từ bi của đức Phật, đến đó để học
hỏi và tu trì.
Các vị tiền bối cũng không quên các lớp trẻ như thanh thiếu niên là rường
cột của gia đình, của quốc gia xã hội, rường cột cho cả thế giới nhân loại
nữa,nếu những hàng thanh thiếu niên đó không được giáo dục, chỉ vẽ, không
được hướng dẫn theo con đường đạo đức thì họ sẽ trở nên như một ông
Hiệu trưởng mà tôi vừa nói trên, xách cổ cha về mà đánh, mà trói cha vào
gốc cây không biết chừng. Những lớp thanh niên đó sẽ như những anh chàng
chuyên uống rượu để gây khổ cho gia đình, những thanh niên đó sẽ như anh
chàng sắp cưới vợ mà cầm đùi đi đánh cha, khi cha lo lắng và cắt tóc của
mình cho sạch sẽ.
Hàng tiền bối của chúng ta sợ con em của họ bị sa ngã, trở nên những con
người xấu xa như thế, nên mới lập nên Gia đình Phật tử, rồi tiến lân lập
Gia đình Phật hóa phổ để giáo dục cho con em Gia đình Phật tử chúng ta
sống cách nào cho phải đạo, sống cách nào cho nên người, sống cách nào để
xứng đáng là người Phật tử.Khi đã là một Phật tử xứng đáng thì đồng thời
cũng chính họ là một công dân xứng đáng , một người biết yêu nước thương
dân. Khi ra làm việc biết đặt quyền lợi chung trên quyền lợi riêng, đặt
quyền lợi tổ quốc lên trên quyền lợi cá nhân hẹp hòi nhỏ mọn.
Ý nghĩa của gia đình Phật tử là tạo môi trường giáo dục cho con em của
chúng ta nhằm vào mục đích: Trước tiên là thực hiện nếp sống đạo đức xã
hội, sau đó mới học theo hạnh từ bi giải thoát của đức Phật. Trong những
đạo lý mà đức Phật dạy cho chúng ta và hàng Phật tử cần phải học, phải tu
và phải thực hành cho viên mãn là phải hiếu thuận đối với cha mẹ. Nếu một
người con bất hiếu thì người con đó không thể nói là làm lợi ích cho xã
hội, cho ai được cả. Bởi chính cha mẹ mình sinh mình ra, có ơn đối với
mình mà mình đã bất hiếu, đã phụ bạc, thì đối với người khác làm sao có
thể trở nên tốt lành được. Cho nên hiếu là một hạnh lành đứng đầu trong
muôn hạnh lành. Sự hiếu kính đối với hàng Phật tử chúng ta có một ý nghĩa
rất quan trọng. Muốn trở thành một người có hiếu, các bậc tiền nhân đã dày
công giáo dục qua nhiều thế hệ mới có như ngày hôm nay. Cái gương của ngài
Mục-kiền-liên là một trong số đó. Tôn giả Mục -kiền-liên, ngài là tấm
gương cho chúng ta noi theo để mỗi năm trong ngày Rằm tháng bảy, ngày chư
Tăng Tự tứ, chúng ta đến chùa làm lễ để cầu siêu độ cho tiền nhân của
chúng ta, để báo hiếu cho cha mẹ của chúng ta.
Các Phật tử từ trước tới nay chắc cũng đã hiểu đức Mục -kiền-liên là ai và
cứu độ mẹ như thế nào. Ngài là một vị Đại đệ tử của Phật trong thời đức
Phật còn tại thế, tu hành đắc lục thần thông. Ngài dùng huệ nhãn tìm xem
mẹ mình đã qua đời cách đây mấy năm, hiện giờ đang sống trong cảnh giới
nào? Khi thiền quán thấy được mẹ mình đang ở trong cảnh giới ngạ quỉ, đói
khổ vô cùng. Thương mẹ, ngài liền đi xin cơm đem về dâng cho mẹ ăn. Khi
ngài vừa đưa bát cơm cho mẹ, bà mẹ ngài giành lấy, một tay che cơm, một
tay bốc ăn. Che cơm là vì bà ta vốn là một người ích kỷ, bỏn sẻn, thấy cơm
thì sợ người chung quanh giành, sợ người xung quanh đến giựt cho nên lấy
tay che. Một tay bốc cơm đưa lên miệng để ăn thì cơm đó liền hóa thành
lửa.
Vậy lửa đó là lửa gì? Lửa đó chính là lửa của sự bỏn sẻn, của sự tham lam
gây ra. Nếu lúc ấy bà phát một t6am từ bi hỷ xả, bà nghĩ người xung quanh
đói cũng như mình đói, nên bố thí bằng cách cho họ ăn một ít, mình ăn một
ít, đừng lấy tay che lại, thì cơm đó đã hóa ra muôn vạn chén cơm khác, khi
đó bà ăn được người khác cũng ăn được. Nhưng tiếc rằng: Tâm bỏn sẻn của bà
quá nặng nề, bà lại che cơm lại, cho nên cơm đó lại biến thành lửa mà
chính bà cũng không ăn được.
Đức Mục-kiền-liên đã thể hiện một tấm gương hiếu hạnh nhưng cứu mẹ mình
không được, liền về bạch lại với Phật. Đức Phật dạy rằng: Tội của mẹ ngươi
nặng lắm, một mình ngươi không thể cứu đuợc, bây giờ ngươi hãy cầu sức chú
nguyện của chư Tăng sau ba tháng An cư, đạo đức sâu dày chú nguyện cho thì
mới chuyển đổi tâm lực của mẹ ngươi, may ra bấy giờ mẹ ngươi mới thoát
khỏi địa ngục.
Do đó, đối với hàng Phật tử chúng ta lấy ngày Rằm tháng bảy, ngày chư Tăng
Tự tứ làm ngày báo hiếu đối với tiền nhân, đối với cha mẹ. Đức
Mục-kiền-liên đã thể hiện một tấm gương hiếu hạnh trong hiện thời của
ngài. Và cũng là tấm gương cho người sau noi theo mà báo hiếu cho cha mẹ
quá cố.
Trong qua khứ ngài Mục-kiền-liên cũng là một người con chí hiếu. Có một
kiếp nọ, cha mẹ ngài chỉ sinh được một mình ngài. Ngài nghĩ: cha mẹ ta chỉ
sinh ra được một mình ta thì ta phải báo hiếu thế nào cho tròn công ơn
sinh thành dưỡng dục đối với cha mẹ, nên ngài dứt khoát không chịu lấy vợ,
ở độc thân suốt đời để phụng dưỡng cha mẹ. Nhưng cha mẹ một mực khuyên
lơn, bắt buộc, đòi hỏi, thậm chí hăm dọa bắt con phải lấy vợ cho
được. Vì nể lời cha mẹ, sợ song thân buồn nên ngài đành phải lấy vợ.
Khi cưới vợ về, ngài mới dặn dò vợ rằng: Khi nào tôi ở nhà thì tôi hầu hạ
cha mẹ, khi tôi đi vắng thì bà ở nhà phải hầu hạ cha mẹ thế cho tôi. Bà
phải hết sức hết lòng hậu hạ cha mẹ một cách đàng hoàng, kính trọng cha mẹ
như khi tôi còn ở nhà vậy.
Lúc đầu bà vợ nghe lời, một khi chồng ra đi thì bà vợ ở nhà cũng hầu hạ
cha mẹ chồng rất chu đáo, tươm tất, lễ nghĩa và trung thành lắm. Nhưng
người con dâu đâu có tình thương đối với cha mẹ chồng bằng người con ruột
đối với cha mẹ, cho nên hầu một thời gian bà vợ sinh ra nản. Khi đã nản
rồi thì khi thấy mặt cha mẹ chồng càng trở nên bực bội, mỗi chút mỗi thấy
chướng, lâu ngày bà dâu đó cũng muốn tìm cách thoái thác không hầu cha mẹ
chồng nữa.
Một hôm bà dâu nghĩ ra một kế. Chiều nay chắc chắn chồng mình về, khi
chồng về bà lấy nước đổ khắp phòng. Chồng về hỏi vợ mình tại sao nhà cửa
nhớp nhúa như thế này? Người vợ trả lời: Ông bà chướng quá tôi chịu không
nổi. Ở nhà khi thì đòi nước, tôi bưng lên thì chê nóng chê lạnh, hất đổ
ướt cả nhà như vậy đó. Giờ thì tôi không chịu nổi nữa. Người chồng khuyên
vợ rằng, bà nên cố gắng chịu đựng một chút, già cả ai cũng hay chướng, đó
là chuyện bình thường. Bà nên nguôi giận bỏ qua để hầu hạ cha mẹ giúp tôi
đi làm ăn kiếm tiền về nuôi gia đình.
Lần sau chồng đi xa bà tìm một kế khác. Lần này bà cũng đợi chồng đi làm
về, bà lại vung vãi cả cơm cả canh ra giữa sàn nhà để cho vấy
bẩn, nhớp nhúa. Người chồng về nhà thấy vậy hỏi vợ tại sao nhà nhớp nhúa
như thế. Bà nói: Ông đó, bà đó chướng quá tôi chịu không nổi, tôi hầu
không được. Tôi bưng cơm lên cho ông bà ăn thì lại chê sớm chê muộn rồi
hất cơm đổ ra như vậy đó, tôi chịu không được. Bà vợ cứ đờn mãi bên tai
chồng như vậy nên ngài Mục-kiền- liên cũng phải xiêu lòng.
Từ đó ngài rắp tâm làm khổ cha mẹ bằng cách nghĩ ra một kế như sau: Một
hôm ngài nói với cha mẹ rằng: Cha mẹ nay đã già còn sống không bao nhiêu
ngày nữa, tuổi đã gần đất xa trời, nay con sẽ đưa cha mẹ về thăm từ đường
họ hàng một chuyến, để có nhắm mắt đi nữa cũng khỏi ân hận. Cha mẹ nghe
lời vui vẻ lắm.
Ngài liền thuê một chiếc xe chở cha mẹ già về quê. Khi đến một quãng đường
vắng ngài mới nói với cha mẹ rằng: Đoạn đường này nhiều kẻ ăn trộm ăn cướp
nó hung dữ lắm, thôi cha mẹ ngồi trên xe cầm cương hờ để con nhảy xuống xe
con phòng vệ. Nhưng không phải ý của ngài là nhảy xuống xe để đi theo
phòng vệ mà dã tâm làm tên ăn cướp, lấy cây quất lại cha mẹ đang ngồi
trong xe. Càng quất vào lưng cha mẹ chừng nào ngài càng kêu: Chướng quá,
chướng quá, đã hết chướng chưa, hết chướng chưa !
Nhưng cha mẹ trong khi bị quất roi vào mình đau như thế, không nghĩ tới
mình mà vẫn nghĩ tới con rồi kêu; Con ơi, con ơi lo chạy cho mau kẻo hắn
đánh chết. Khi ngài nghe kêu những tiếng con ơi con ơi như vậy thì xúc
động trong lòng. Nhớ lại những tiếng con ơi, con ơi mà cha mẹ đã ru mình
trong bao ngày trước. Ngài nghĩ thầm trong bụng, cha mẹ trong khi bị đánh
đau khủng khiếp như vậy mà vẫn không nghĩ tới mình, không kêu con ơi cứu
cha mẹ với, mà chỉ nghĩ tới con thôi.
Từ đó ngài ngộ ra rằng, tình thương của cha mẹ quá sâu sắc, trong cảnh
khốn cùng như thế mà vẫn quên mình để nhớ tới và lo lắng cho con thôi, làm
cho lòng ngài thêm xúc động. Ngài liền cho xe dừng lại và lên xe đưa cha
mẹ về nhà, ăn năn sám hối với cha mẹ, xin cha mẹ bỏ qua những lỗi lầm của
mình. Từ đó ngài cho người vợ về với cha mẹ nàng và ngài suốt đời ở vậy để
phụng dưỡng cha mẹ cho đến khi cha mẹ chết. Chính ngài là người con chí
hiếu, nhưng trong một lúc thiếu suy nghĩ cũng bị mê man, cũng bị lời mê
hoặc của vợ mà trở nên bất hiếu với cha mẹ.
Cho nên muốn làm người con có hiếu, thì cũng phải nhìn lại mình, phải luôn
luôn tâm niệm rằng: Mình là người con hiện tại đối với cha mẹ mình có hiếu
hay không có hiếu? Trong hiện tại mình đã nghe lời ai mà bất hiếu với cha
mẹ mình chưa? Nghe lời bạn ác, nghe lời rượu chè mà bất hiếu bất hòa với
cha mẹ và anh chị em mình không? Nếu một lúc nào đó tự tìm lại mình như
thế, tự nhiên chúng ta thấy rõ được chúng ta.
Khi đã thấy rõ chúng ta là người có hiếu hay bất hiếu, nếu biết ta là
người bất hiếu thì phải bỏ sự bất hiếu đó đi. Nếu ta đang là người có hiếu
thì cố gắng bồi dưỡng cái đạo tâm hiếu để cho viên mãn. Thực hiện được đạo
hiếu đó, cũng là thực hiện được sự tu hành, là con đường tiến tới giải
thoát. Đó cũng là ý nghĩa rất thiết thực khi hành Phật tử chúng ta đến
chùa , học Phật, niệm Phật, tụng kinh. Sự học Phật, niệm Phật tụng kinh
của chúng ta, do đó nó có mang một ý nghĩa đạo đức sâu xa lắm, vô hình
nhưng rất lợi ích. Sự lợi ích về mặt đạo đức, lợi ích về mặt đạo lý, về
mặt giác ngộ, là kho tang tâm linh còn quí báu hơn vàng hơn bạc nữa.
Nếu có vàng có bạc mà thiếu đạo đức thì vàng bạc đó không đem lại sự lợi
ích an vui và hạnh phúc.Nếu có danh vọng mà thiếu đạo đức thì danh vọng ấy
cũng không đem lại hạnh phúc lâu dài. Nếu có nhà cao cửa rộng mà thiếu đạo
đức thì nhà cao cửa tốt đó cũng không đem lại hạnh phúc. Cho nên đức Phật
đem lại cho chúng ta một kho tàng đạo đức , một kho tàng hạnh phúc, đó là
cái ơn của đức Phật đối với chúng ta và cả nhân quần xã hội nữa.
Biết như vậy thì các Phật tử luôn luôn tinh cần học đạo, tìm hiểu đạo,
tụng kinh cho nhiều. Các Phật tử cũng đừng có quan niệm sai lầm rằng: Tụng
kinh là bi quan, là yếm thế, là tiêu cực. Trong số báo của tỉnh Thừa Thiên
ra ngày 24 tháng 4 năm vừa rồi có một người làm bài thơ như thế này:
Ngày ngày nhà sư
cầu kinh niệm
Phật
Mong cho mau đến
cảnh Niết-bàn
thoát tục
Dẫu
không cho đời
viên đạn làm nên bạo
lực
Vẫn
cho nguời điều
thiện trong
tâm.
Một người ở ngoài đạo mà nhận xét sâu sắc về sự tụng kinh niệm Phật như
vậy. Sự tụng kinh đó dầu không cho đời viên đạn làm nên bạo lực, vẫn cho
người điều thiện trong tâm. Vần thơ ca ngợi đó là tiếng chuông nhắc cho
chúng ta, là Phật tử hãy luôn hướng tâm hồn mình đi vào con đường thiện,
đó là cách để chúng ta tìm lại chúng ta, giác ngộ lấy tâm chúng ta. Khi
tâm chúng ta đã giác ngộ thì chúng ta sẽ an lạc, sẽ được giải thoát. Tâm
chúng ta đã giác ngộ thì chúng ta sẽ có một đời sống đạo đức, một đời sống
đem lại sự an vui cho mình, cho người, chứ không phải đem lại sự khổ não,
sợ hãi, buồn thảm cho mọi người.
Mục đích của Gia đình Phật tử là giáo hóa con em Gia đình Phật tử, cũng
như mục đích lập Khuông, lập Hội, lập chùa tụng kinh niệm Phật đều cũng
tập trung đến sự giác ngộ, hiểu lấy mình để giác tha. Tự giác giác tha là
viên mãn, để trở thành người ngộ học Phật. Dầu trong hiện tại chúng ta
chưa viên mãn được nhiều, nhưng cũng học được hạnh của Phật để trở nên một
người tốt, một người Phật tử chơn chánh. Khi đã là một Phật tử chơn chánh
rồi thì sẽ trở nên một người công dân tốt, có lợi cho mình,lợi người, lợi
nhà lợi nước.
Hôm nay tôi có bấy nhiêu lời như vậy để trao gởi đến quí Phật tử, các em
Gia đình Phật tử, trông mong các Phật tử, các em Gia đình Phật tử luôn
luôn giữ vững đạo tâm tu hành để tiến bước trên con đường của chư
Phật, để khỏi phụ công ơn dắt dẫn của các bậc tiền bối, các đạo hữu của
chúng ta đã xây dựng từ trước.
TỪ BI TRONG ĐẠO PHẬT
Nói đến đạo Phật, thì ai cũng hiểu rằng đạo Phật là đạo từ bi, vì đạo Phật
lấy hai chữ ấy làm mục đích, nêu là cơ sở cho một đạo đầy đủ cả sự sáng
lạn và cao quí hơn các học thuyết khác. Nhưng lắm người còn lầm ý nghĩa
hai chữ ấy với chữ
bác ái của
Mạc Tử, của Gia Tô hay lòng nhân ái của thế gian, nghĩa là chỉ khuyên
người ta làm lành tránh dữ mà thôi. Hoặc có kẻ cho
từ
bi nghĩa là vô tri giác như cây đá, phải chẳng biết,trái cũng chẳng
hay, hơn nữa là như nhược không làm được điều gì có chí khí can đảm.
Những lối bác ái hoặc nhân ái kia in tuồng như từ bi, song xét kỹ đó chỉ
là lối thương yêu có hạn lượng đối với một xã hội hay một đồng loại mà
thôi. Còn từ bi của đạo Phât không có bờ bến, không hạn cuộc trong đồng
loại, trong thời gian không gian. Vì vậy nên đạo Phật cũng gọi là đạo
từ bi vô thượng,
vượt hẳn các học thuyết, đạo lý của thế gian.
Kinh có câu:
“Từ năng dữ
lạc, bi năng
bạt khổ”, nghĩa là đức từ của Phật ban cho chúng
sanh mọi điều vui, đức bi của Phật cứu vớt chúng sanh thoát ly các điều
khổ.
Chúng ta thấy từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội, không người nào là
không thương yêu, nhất là bà mẹ thươngyêu con dại, phải chịu bao nhiêu
điều đắng cay khổ sở vì con, mà không bao giờ có lòng chán nản; ngoài loài
người, nhiều loài cầm thú, lắm khi vì lòng thương con quá nặng mà phải
chết oan vì lưới bẫy, vì thuốc độcv.v…Nhưng đó chỉ là lòng thương đối với
con mình nên không sánh được với lòng tự bi của Phật là coi tam giới như
thân phần, coi mọi loài chúng sanh như con một. Vì vậy nên cũng gọi Phật
là Tam giới đạo sư, Tứ sanh từ phụ.
Phật, Bồ-tát, từ vô lượng kiếp trước đã phát Bồ-đề tâm, trên y cầu Phật
đạo, dưới hóa độ chúng sanh, trong giây lát, trong thánh năm không lúc nào
xao bỏ lòng từ bi cả, vì rằng từ bi là chánh nhân , là căn bản của Phật
quả, còn chúng sanh là trợ duyên, là cảnh duyên để thành tựu đạo quả Chánh
giác.
Vì vậy nên Phật thường căn dặn Bồ-tát muốn thành tựu Phật quả trang nghiêm
thì trước phải phát Bồ-đề tâm . Bồ-đề tâm như trên đã nói là phát tâm
thượng cầu hạ hóa, mà thượng cầu hạ hóa ấy là gốc của lòng từ bi mà ra.
Bồ-tát trong hằng ngày tu hành lục độ cũng gốc ở lòng từ bi mà ra. Bồ-tát
vì xem thấy mình và tất cả chúng sanh, đều có tánh sáng suốt thành Phật,
tánh ấy vẫn trong sạch không tham lam, không độc ác, không hờn giận, không
lười nhác, không tán loạn, không ngu si, song vì chúng sanh để cho các
tánh tham lam, hờn giận v.v…làm ô nhiễm, làm cho khổ mãi trong luân hồi,
nên chính Bồ-tát tu lục độ cũng vì lòng từ bi muốn mình và chúng sanh đồng
thanh Phật đạo.
Từ bi của Phật không đồng với lòng thương ô nhiễm của thế gian, không hạn
cuộc vào thời nào, cảnh nào và cao thượng hơn cả là vì có ba lối từ bi sau
này: 1.Chúng sanh duyên từ, 2.Pháp giới duyên từ, và 3.Vô duyên từ.
-Thế nào là
Chúng sanh duyên từ?
Chúng sanh duyên từ
là lòng từ bi của Phật, do sự đau khổ, lòng cầu nguyện của chúng
sanh mà cảm ứng Phật, tuy coi chúng sanh đồng như con một, dù thân, dù sơ,
dù quá khứ, dù hiện tại, vị lai, vẫn không có chi là không bình đẳng, song
đức từ ấy chỉ theo duyên của chúng sanh mà phát, vì rằng lòng từ bi của
Phật ví như mặt trăng vẫn chiếu tất cả, không phân biệt nơi nào, song nơi
nào có nước mới có mặt trăng hiển hiện. Phật cũng như bà mẹ hiện hằng
thương nhớ chúng sanh, thấy chúng sanh càng đau khổ thì càng muốn cứu vớt,
song vì căn duyên có khác, nên kẻ được thấm nhuần ơn từ bi, còn kẻ thấy
Phật muốn xa, không đủ thiện căn thì chưa được gặp Phật, nên trong kinh
Lăng Nghiêm đã nói:
“Thập phương
chư Phật,
lân niệm chúng sanh, như
mẫu
ức
tử, tử
nhược
ức mẫu,
như mẫu
ức thời,
mẫu tử
lịch sanh, bất
tương vi kiến”,
thì đủ rõ chúng sanh duyên từ của Phật.
-Thế nao là
Pháp giới
duyên từ?
Pháp giới duyên từ
là Phật không duyên cơ cảm mà hoá độ như trên, mà Ngài chỉ duyên
nơi toàn thể pháp giới mà lợi hóa chúng sanh. Toàn thể pháp giới, chính
Phật và chúng sanh vẫn đồng một thể ấy, nên chúng sanh còn khổ thì Phật
chưa hoàn toàn Niết-bàn, chúng sanh chưa thoát luân hồi, là còn vào sanh
tử để hóa độ. Đó là duyên toàn thể pháp giới mà hiện đức từ bi hóa độ vậy.
-Thế nào là
Vô duyên từ? Vô duyên từ
là ngoài hai món duyên trên ra, Phật còn có món vô duyên từ; Ngài
đã dày công tu hành được bất tư nghì vô tác diệu dụng, nên không luận
chúng sanh nào, thời gian nào Ngài không cần duyên theo tâm niệm chúng
sanh, không cần duyên theo thể tánh pháp giới. Ngài không cần tác ý, không
rời chân như mà hiện làm Phật sự nên gọi là vô duyên từ.
Hai chữ từ bi của đạo Phật, cao thượng như vậy, lòng từ bi yêu thương
chúng sanh, cứu vớt chúng sanh thoát ngoài vòng sanh tử, rất khác hẳn với
lòng thưoơg của người đời, chỉ thương giúp những người đồng loại, đồng
dòng giống với mình; hơn nữa là lòng thương của người đời lắm khi gây
những ân oán nặng nề, chẳng biết lúc nào thoát khỏi vòng sanh tử, chính
lòng từ bi của Phật đã cứu vớt lòng thương của người đời ra khỏi vòng
thương yêu chật hẹp.
Nói tóm lại,
từ bi là cội gốc của tất cả pháp lành của tất
cả hạnh Bồ-tát của chư Phật. Ngoài đức từ bi thì không lấy gì làm căn cơ
cho Phật tử tu hành Phật đạo và ngoài hai chữ từ bi thì không lấy gì làm
mục đích cho Phật giáo. Từ bi là mục đích của Phật giáo, người Phật từ há
lại không cố gắng noi theo gương Phật để làm tỏ rạng mục đích ấy sao.
1943.
Vài nét về
TRƯỜNG AN NAM PHẬT HỌC
Trường An Nam Phật học là một trường do các Ngài đại đức Tăng già và các
cư sĩ thiện tín Trung kỳ chung nhau gây dựng để dạy vẽ các học sinh có đạo
tâm xuất gia tu học đào tạo nên những bậc Tăng tài đủ học vấn và đức hạnh
hầu mong chấn hưng Phật giáo sau này …Cái ý niệm ấy và công việc ấy là
công việc lợi tha to tát. Chúng ta không thể quên nhãng được. Song hữu vi
pháp đều là biến thiên mà cái trường An Nam Phật học này cũng không khỏi
điều thay đổi mà hóa thành một trang lịch sử. Trang lịch sử của trường An
Nam Phật học tuy chưa trải qua bao năm nhưng sự thay đổi không phải
ít và sự chép lại nó cũng không phải dễ dàng. Bởi vì trong thời kỳ đầu
tiên và trung gian của nó là thời kỳ chúng tôi còn thơ ấu không được dự
biết sự gì cả, biết chăng chỉ là những cái đã có ra bề ngoài chứ không làm
sao biết cái nguyên nhân trong công việc ấy được. Nên nay chép lại đây
cũng là chép một vài phần có biết, có thấy, còn nhớ và vài điều có
giấy chép lại để lại mà thôi, nếu muốn cho thật đúng thì chỉ trông mong
những bậc từ trước tới nay đều có chức qun hệ đối với nhà trường đem sự
thật mà chép lại mới hoàn toàn. Đây chỉ kể năm mà kể sơ lược lai lịch
trường.
Năm 1935 (2488) bắt đầu trường Phật học thành lập. Bên Tăng già thì có
thầy trù trì Trúc Lâm (Giác Tiên) và đệ tử Ngài là thầy Thích Mật Khế
v.v…Bên cư sĩ thì có ông Lê Đình Thám v.v… hợp sức nhau gây dựng trường
tại chùa Quang Công (gần Diệu Đế bây giờ) . Sự học hành lúc này chỉ sơ sài
mỗi ngày vài ba giờ học quốc ngữ do thầy Mật Thể chỉ vẽ, coi việc ăn uống
và xem sóc học sinh thì có thầy trù trì Quang Công trước, tiền ăn lúc này
chỉ do thầy Mật Khế và một số ít người giúp đỡ, tuy vậy mà học sinh không
lấy gì ăn uống cực lắm , vì số học sinh chỉ độ trên 10 người mà thôi, ấy
vật giá rất rẽ. Ở đây từ thánh giêng qua độ tháng 7-8 An Nam là học sinh
phải dời lên chùa Trúc Lâm, nên sự học hành và ăn uống không phải còn như
cũ, lúc này sự học có chương trình cần mẫn hơn, một vài danh từ Phật pháp
Tăng từ đây mới biết mườn tượng, vì sự giáo thọ lúc này đều do thầy Đốc
Giáo (hiện giờ) chuyên môn dạy bảo, ngoài ra còn có thầy giáo Chí làm kiểm
khan, các thầy ở chùa Trúc Lâm đều coi phần kiểm điểm học sinh, sự ăn ở
cũng đều nhờ các thầy sắp đặt, học sinh lúc này nhiều hơn, học sinh ngoài
đến học phải nộp mỗi tháng 200 phận phí, cuối 1935 này đã có kỳ thi tấn
ích rồi sau mới nghỉ tết.
Năm 1938. Sự học đã có chương trình nhất định không còn thay đổi nữa,
nhưng ăn ở còn chưa nhất định, vì chùa Trúc Lâm là một chùa tư mà nước độc
không thể lập một ngôi trường vĩnh viễn được, nên quý thầy Trúc Lâm, Đốc
Giáo cùng thiện tín bàn định dời ra chùa Báo Quốc. Trong năm 1936 sau khi
nghỉ nắng ở Túy Vân ba tháng là di trường về chùa Báo Quốc, nhưng chùa này
cũng là chùa của một môn phái trong Chư Sơn không thể tự do kiến thiết vẽ
vang được, chỉ mượn ở tạm trong các nhà trống của chùa. Đưa trường về Báo
Quốc chủ động ở Ngài Trúc Lâm Giác Tiên, như có cái thư Ngài gởi cho Ban
Trị Sự Phật học Huế.
Huế
07-09-36
Kính trình Ban Trị
Sự Hội
Phật học
Huế.
Tôi đã đem học
trò gởi tại
chùa Báo Quốc,
nay tôi xin trình Hội
biết, tôi có
nhờ mấy
Ngài hội
viên sau này giúp tôi về
việc học trò, các Ngài
ấy
đã bằng lòng
cả:
M.M Lê Đình Thám, Cao Xuân Xang, Nguyễn
Thị Hựu,
Nguyễn Hữu
Khác, Bữu
Bát v.v…
Giám đốc Trường
Tiểu Học
Giác Tiên
Nên sự ăn ở lúc này đều do mấy ông hội viên ấy giúp đỡ, có thầy giáo
Nguyễn Văn Cảnh làm thầy đã làm kiểm sát trước khi về Túy Vân trở lại vẫn
thường coi ngó…
Năm 1947, sự học hành vẫn một mình thầy Đốc Giáo tiếp tục dạy bảo nhưng
còn sự nhắc nhở thì hội có yêu cầu Ngài Hòa thượng Tâm Khoan là tự chủ làm
chánh và Ngài Từ Quang, Vạn Phúc, Báo Quốc làm Phó Giám đốc vào ngày 1
tháng 1 năm 1937, sau lại có Ngài Hải Đức làm Chánh Giám đốc thế Ngài Tâm
Khoan, sự ăn uống thì mỗi thánh phạn phí 2đ nhờ các bà trong Hội thay đổi
coi ngó việc ăn mỗi người mỗi tháng các bà đều tận tâm giúp đỡ cho đến
cuối năm.
Năm 1938-PL.2501. Qua năm này chẳng những coi ngó sự ăn uống đổi mà thầy
Kiểm khan cũng đổi. Vì thiếu nhơn duyên nên thầy Kiểm khan Ngô Cảnh về
Touranne, từ sự học hành cho đến sự ăn uống của học sinh một mình thầy Đốc
Giáo xem sóc, nhưng sự ăn ở cũng vẫn như trước nghĩa là chỉ ké với chùa,
học sinh phải ăn ngủ chật vật, thiếu chổ để học , thiếu nơi mà nằm, nên
Hội đã thương lượng với Môn phái Báo Quốc xin lập thêm nhà trường trên đất
vườn chùa các Ngài bằng lòng.
Kế đến ngày 27-11 năm ấy (1938) Môn phái và Hội viên nhóm tại chùa Báo
Quốc làm lễ đặt viên đá đầu tiên cho trường, từ đây mới xây dựng nên một
ngôi trường đầu tiên có cả lớp học và phòng ngủ (hiện còn bây giờ). Tuy
vậy, song ở giữa hội và trường chưa có một quy tắc nhất định rõ ràng, nên
qua 21.Dicembre 1938, đã nhóm nhau bổ cứu việc lập quy tắc sau này:
1.Chương trình và học phí mỗi học đẳng.
2.Cách thức nhập học, thôi học và biệt xuất học sinh.
3.Qui lệ học sinh lưu trú và học sinh ngoại trú.
4.Cách thứ thì tấn ích hằng năm và thi thành chung
5.Phương tắc quản lý các Phật học trường
6.Phận sự học sinh đối với Hội.
7.Phận sự Hội đối với ân nhân các trường
8.Cách thức mở các Phật học trường các Tỉnh Hội và Hội đã đọc một bản điều
lệ tại trường chiều 25-12-38, đại khái nói luật lệ của mỗi Học Tăng phải
giữ và bổn phận thầy Đốc, thầy Kiểm khan trong trường, việc này rốt cuộc
chỉ thực hành một đôi phần mà thôi, chưa thành gì lắm, cuối năm lại có kỳ
thi có thể gọi là kỳ thi rất kỷ trong các kỳ thi tấn ích…
Năm 1939 ( Ngày 5 tháng 12 Mậu Dần) có một lễ phát phần thưởng rất long
trọng tại giảng đường ấy là ngày trước khi trường nghi ăn tết để phấn khởi
tâm tu của học sinh, qua năm sau cũng vẫn đông đủ và sự học có sắp đặt
thêm. Có dạy môn triết lý ( Cao Xuân Huy). Môn Toán ( Trần Đăng Khoa). Môn
Khoa học ( Lê Đình Thám). Môn Địa Dư ( Tráng Liệt) nhưng chỉ học được một
vài bữa là giải tán.
Sau kỳ nghỉ nắng năm ấy học sinh một lần thay đổi nhiều, có những an hem
học đã lâu mà bỏ đi cả…Sau đây Hội có mời thầy Nghè và đến làm Kiểm khán
và sự tu học cnũg có phần thay đổi, trong mỗi thánh có bốn anh em
tập tu Bát quan trai trong hai rằm và mùng một, nên sự bỏ ăn buổi chiều,
ăn thế lại buổi mai cũng manh nha từ đây…
Năm 1940 Bắt đầu năm 1939 cho đến nay các Ngài Đại đức đều mắc việc,
Trường không có ai Giám đốc cả mà thầy Kiểm khán Nghè tạm cũng nghỉ, thay
lại có thầy Trừng Mạnh Trình là Kiểm khán, sự ăn học thì vẫn thường theo
chương trình mà tấn tới, đến cuối năm là đến kỳ thi lên lớp trung học, kết
quả cũng lấy được vài mươi Học Tăng Trung học.
Năm 1941,1942, từ đầu năm 1941 trở đi trường trở nên một lớp Trung học và
Sơ học cho đến năm 1942 là ngày thành chung Trung học và thi bước qua Đại
học, kết quả chỉ có được 6 anh em đủ số điểm dự vào chính thức, còn các
anh em khác đều dự bị để chờ kỳ thi khác…
Năm 1943, 1944. Đầu năm 43 là trường đã có nên một lớp Đại học, và sự y áo
của trong trường cũng bắt đầu thay đổi bỏ đồ mực, đồ đà cho đến ngày nay,
nhưng trong trường còn thấy khuyết một Ngài Giám đốc nên cuối năm 43 Hội
toàn kỳ đã yêu cầu Ngài Yết-ma chùa Tường Vân (Tịnh Khiết) làm Giám đốc
cho trường để dạy thêm học sinh trong phần tu tập…
Tóm lại, cái tên An Nam Phật học trường không đến nỗi mất sự thật lắm, mà
trái lại có hệ thống nhiều, có thực hiện nhiều, dù nó không khuếch trương
rộng rãi, phải sống một cách khó khăn mà được nhắc qua cũng không khỏi có
phần mừng thầm, song nghĩ lại cũng khỏi lo ngại, vì cái tiếng Chấn hưng
Phật giáo chưa thấy có sự gì đáng gọi là việc tin cậy vững vàng nên trong
đoạn văn kể trên đây chưa có điều gì vẻ vang đáng chú ý, chỉ trông mong
ngày tương lai mà tô điểm thêm vào.
(Ngày
9-10-1944,PL.2507 )
[1]
“Phật
học thuờng
thức” của
cụ Tâm
Minh Lê Đình Thám.
*
“Phật học
thuờng
thức” của cụ
Tâm Minh