.
Chánh Pháp và Hạnh Phúc
Thích Minh Châu
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO –2001
--- o0o ---
14. Ý
ĐẸP VỚI MÙA XUÂN
Mùa xuân
đến như báo hiệu với chúng ta một tương lai
tốt đẹp đang đến gần, giống như vừng rạng đông báo hiệu một ngày
mới, tươi sáng đang đến gần vậy. Dù
chưa đủ xua tan màn
đêm còn sót lại, ánh rạng
đông là tín hiệu
đáng vui mừng và tin tưởng, vì nó báo
hiệu bóng tối đang lùi dần, nhường chỗ
cho ánh sáng mặt trời tỏa ấm và soi sáng muôn vật. Chúng ta
đang đón tiếp một mùa Xuân dân tộc với
một niềm tin tưởng như vậy về quê hương đất
nước chúng ta. Mặc dù còn nhiều khó khăn
cần khắc phục và vượt qua, xã hội Việt Nam
đã có những bước chuyển biến tích cực
nhằm phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức
dân tộc và nhằm hòa nhập vào trào lưu tiến bộ chung của thế giới;
và chúng ta tin tưởng một tương lai tốt đẹp
đang đến gần với con người và đất nước
Việt Nam. Đó là tín hiệu mùa Xuân đối
với mọi người Việt Nam chúng ta.
Đối với người Phật tử thì
mùa Xuân còn là tín hiệu của điềm lành,
của phước nghiệp đang đến gần, đang chào
đón chúng ta, những người làm lành,
giống như bà con và bạn hữu đang vui mừng chào
đón sự trở về của người khách viễn xứ vậy:
"Khách lâu ngày ly huơng,
An toàn từ xa về,
Bà con cùng thân hữu,
Hân hoan đón chào mừng.
Cũng vậy các phước nghiệp,
Đón chào người làm lành,
Đời này và
đời sau,
Như thân nhân đón chào".
(Pháp Cú, 219-220)
Người khách ly hương quay về xứ
sở, góp sức mình cùng xây dựng quê hương tốt
đẹp. Cũng vậy, các phước nghiệp quay về với người làm lành, gióng
tiếng nói cho cuộc sống thêm đẹp, cho đời thêm
tươi.
Hòa chung niềm vui của
đất nước đang có những chuyển biến tốt đẹp,
người Phật tử Việt Nam chúng ta càng tin tưởng và nỗ lực nhiều hơn
nữa trong nếp sống thiện, nếp sống đạo
đức và nêu cao nét
đẹp đạo đức của mình, vì chúng ta hiểu
rằng, chỉ có nếp sống thiện, nếp sống đạo đức
mới xây dựng được một xã hội tốt đẹp,
một đất nước thật sự phát triển và ổn
định. Nhân dịp này, chúng tôi muốn giới thiệu với quý vị bài kinh
"Giáo Giới Rahula", như là phương pháp sống
đạo đức của người Phật tử, mở đường cho hạnh
phúc và an lạc của tự thân, gia đình
và xã hội, một bài kinh đã
được vua A-dục cho khắc vào bia ký và
yêu cầu cả giới xuất gia và tại gia cần phải tụng
đọc và hành trì hằng ngày.
Bài kinh này (Kinh số 61, Trung
Bộ) do đức Phật giảng dạy cho Tôn giả Rahula
khi Tôn giả còn là Sa-di, đang tập sự
làm người xuất gia hành Sa-môn hạnh. Sa-môn hạnh là nếp sống chuyên
đào luyện thân tâm dựa trên pháp môn
Giới, Định, Tuệ của đức Phật. Bài kinh
được tóm tắt như sau:
Hôm ấy,
đức Phật đến thăm Tôn giả Rahula đang sống tu
tập tại ngôi rừng Ambalatthika.Tôn giả Rahula đón tiếp bậc Đạo sư của mình
với một tâm tư hoan hỷ và một vài nghi thức cần thiết như sửa soạn chỗ
ngồi, múc nước rửa chân, kính lễ bậc Đạo sư...
Rồi đức Phật, trong khi đang rửa chân, đã
dùng ảnh dụ "chậu nước rửa chân", để dạy cho
Tôn giả Rahula về hạnh không nói láo, bởi biết mà nói láo là hành
vi được xem là phi Sa-môn hạnh, khiến
Sa-môn hạnh trở nên bị kém cỏi, bị đổ bỏ, bị
lật úp, trở thành trống rỗng, giống như ảnh dụ cái chậu nước rửa
chân vậy.
Tiếp theo,
đức Phật dùng ví dụ hai con voi lâm
trận để minh họa hai nếp sống khác nhau. Thứ
nhất là nếp sống biết phòng hộ lời nói (không nói láo),
được ví cho con voi thứ nhất, biết giữ gìn
và bảo vệ cái vòi khi lâm trận, nên không quăng
bỏ mạng sống của nó nơi chiến địa, là nếp sống
đáng thực hành,
đáng học tập. Thứ hai là nếp sống
không phòng hộ lời nói (nói láo), được ví như
con voi thứ hai, không biết giữ gìn và bảo vệ cái vòi khi lâm trận,
nên cuối cùng con voi ấy đành quăng
bỏ mạng sống của mình nơi trận mạc, là nếp sống không nên thực
hành; bởi vì, khi người ta không chú ý đến
việc phòng hộ lời nói, khi người ta nói láo mà không biết tàm quý
xấu hổ thì điều đó sẽ có nghĩa là con
người ta có thể làm nhiều việc tệ hại hơn, giống như con voi lâm trận
nhưng không khéo gìn giữ, bảo vệ cái vòi của nó, con voi ấy sẽ không từ bỏ
bất cứ một hành động độc ác nào.
Sau cùng,
đức Phật lại dùng ví dụ "chiếc gương
soi" để huấn luyện cho Tôn giả Rahula phương
pháp thanh tịnh hóa ba nghiệp–thân, khẩu, ý– bằng cách xem xét và
phản tỉnh nhiều lần đối với mỗi hành
vi của ba nghiệp, trước khi làm, trong khi làm và sau khi làm, khiến cho
ba nghiệp được thanh tịnh, không rơi vào
các hành động phi pháp, phi đạo đức. Đức Phật
khuyên Tôn giả Rahula nên thực hành pháp môn này, bởi vì
đó là phương pháp tịnh hóa ba nghiệp
mà bất kỳ Sa-môn hay Bà-la-môn nào, dù ở quá khứ, hiện tại hay vị lai,
muốn trang nghiêm thanh tịnh ba nghiệp của mình
đều thực hành theo phương pháp này.
Như vậy, nếp sống
đạo đức của người Phật tử, như được mô tả
trong bài kinh Giáo Giới Rahula, là nếp sống chuyên phòng hộ và tu
tập ba nghiệp, không để cho ba nghiệp rơi vào
hành vi ác, bất thiện. Người Phật tử là người phát nguyện
đi theo con đường giác ngộ của đức Phật, do
đó, bất cứ hành vi nào chống lại sự giác ngộ, chống lại khả năng
tự hoàn thiện nhân cách giác ngộ ấy
đều được người Phật tử nhận chân và ngay lập tức tìm cách loại bỏ
nó. Nếp sống đạo đức của người Phật tử là
nếp sống biết làm điều gì và không làm
điều gì.
Không làm mọi
điều ác,
Thành tựu các hạnh lành,
Giữ tâm ý trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy. (Pháp Cú, 183)
Bài kệ trên
đã khái quát rõ một nếp sống mà người
Phật tử cần phải chọn lựa. Để tìm thấy
hạnh phúc, Phật tử không những từ bỏ các điều
ác, mà còn phải làm các điều lành,
bởi chỉ có thân làm lành, miệng nói lành, ý nghĩ lành mới có thể xây dựng
một đời sống đạo đức, hạnh phúc lành
mạnh. Nếp sống đạo đức của người Phật tử bắt
đầu từ việc bỏ ác làm lành.
Có mười hành vi thường
được nói đến trong giáo lý đạo Phật liên
quan đến ba nghiệp thân, khẩu, ý gồm:
– Sát sanh, lấy của không
cho, tà hạnh trong các dục, thuộc thân nghiệp.
– Nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác,
nói lời phù phiếm; thuộc khẩu nghiệp.
– Tham dục, sân hận, tà kiến; thuộc ý nghiệp.
Mười hành vi này, nếu làm thì
gọi là ác hay bất thiện, không làm hay từ bỏ thì gọi là thiện, và phương
pháp tịnh hóa ba nghiệp như được nói trong bài
kinh Giáo Giới Rahula chính là nếp sống tử bỏ mười
điều ác và làm mười
điều thiện này. Dĩ nhiên, người Phật
tử sẽ không bao giờ nhầm lẫn giữa hai nếp sống thiện và bất thiện bởi giáo
lý của đức Phật luôn luôn phân định rõ
ràng biên giới giữa thiện và bất thiện. Một vài
định nghĩa sau đây sẽ giúp soi sáng thái độ
chọn lựa của người Phật tử.
"Chư Hiền, thế nào là bất
thiện? Chư Hiền, sát sanh là bất thiện, lấy của không cho là bất thiện, tà
hạnh trong các dục là bất thiện, nói láo là bất thiện, nói hai lưới là bất
thiện, nói lời độc ác là bất thiện,
nói lời phù phiếm là bất thiện; tham dục là bất thiện, sân hận là bất
thiện, tà kiến là bất thiện.
Chư Hiền, thế nào là thiện? Chư
Hiền, từ bỏ sát sanh là thiện, từ bỏ lấy của không cho là thiện, từ bỏ tà
hạnh trong các dục là thiện, từ bỏ nói láo là thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là
thiện, từ bỏ nói lời độc ác là thiện,
từ bỏ nói lời phù phiếm là thiện; từ bỏ tham dục là thiện, từ bỏ sân hận
là thiện, từ bỏ tà kiến là thiện" (Trung Bộ I, Kinh Chánh Tri Kiến, số 9).
GIẢI PHÁP HAY NẾP SỐNG
ĐẠO ĐỨC
ĐƯỢC ĐỀ BẠT TRONG BÀI KINH
I. Nếp sống từ bỏ mọi
điều ác bằng cách xem xét và phản tỉnh
về ba nghiệp thân, khẩu ý.
"Này, Rahula, khi ông muốn làm
một thân, khẩu, ý nghiệp gì, hãy phản tỉnh như sau: "Thân, khẩu, ý nghiệp
này ta muốn làm; thân, khẩu, ý nghiệp này của ta có thể
đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai, thời
thân, khẩu ý nghiệp này là bất thiện,
đưa đến khổ đau, đem lại quả báo khổ đau". Này Rahula, nếu trong
khi phản tỉnh ông biết rằng thân, khẩu, ý nghiệp ông muốn làm ấy có thể
đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai, thời
thân, khẩu, ý nghiệp ấy là bất thiện,
đưa dến khổ đau, đem lại quả báo khổ đau, thời này Rahula, một
thân, khẩu, ý nghiệp như vậy ông nhất định
chớ có làm.
"Này Rahula, khi ông
đang làm một thân, khẩu, ý nghíệp gì,
ông cần phải phản tỉnh như sau: "Thân, khẩu, ý nghiệp này ta
đang làm; thân, khẩu, ý nghiệp này của
ta có thể đưa đến tự hại, hại người, hại cả
hai, thời thân, khẩu, ý nghiệp này là bất thiện,
đưa đến khổ đau, đem lại quả báo khổ đau”.
Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân, khẩu, ý nghiệp ông
đang làm ấy có thể
đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai, thời
thân, khẩu ý nghiệp ấy là bất thiện,
đưa đến khổ đau, đem lại quả báo khổ đau, thời này Rahula, ở
đây ông hãy từ bỏ thân, khẩu, ý nghiệp
như vậy.
"Này Rahula, sau khi làm xong
một thân, khẩu, ý nghiệp gì, ông cần phải phản tỉnh như sau: "Thân, khẩu,
ý nghiệp này ta đã làm; thân, khẩu, ý
nghiệp này của ta có thể đưa đến tự hại, hại
người, hại cả hai, thời thân, khẩu, ý nghiệp này là bất thiện,
đưa đến khổ đau, đem lại quả báo khổ đau”. Này
Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân, khẩu, ý nghiệp ông
đã làm ấy có thể
đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai, thời
thân, khẩu ý nghiệp ấy là bất thiện,
đưa đến khổ đau, đem lại quả báo khổ đau, thời này "Rahula, một
thân, khẩu, ý nghiệp như vậy ông cần phải lo âu, tàm quý, nhàm chán, ông
cần phải thưa lên, cần phải tỏ lộ, cần phải trình bày trước vị
Đạo sư hay trước các vị đồng Phạm hạnh có
trí. Sau khi lo âu, tàm quý, nhàm chán, thưa lên, tỏ lộ trình bày,
ông cần phải phòng hộ trong tương lai" (Trung Bô Kinh I, số 61, kinh
giáo giới La-hầu-La ở rừngAmbala).
II. Nếp sống làm các
điều lành qua việc xem xét và phản
tỉnh về ba nghiệp.
"Này Rahula, khi ông muốn làm
một thân, khẩu, ý nghiệp gì, hãy phản tỉnh như sau: "Thân, khẩu, ý nghiệp
này ta muốn làm; thân, khẩu, ý nghiệp này của ta không có thể
đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai, thời
thân, khẩu ý nghiệp này là thiện, đưa
đến an lạc, đem đến quả báo an lạc”. Này Rahula, nếu trong khi phản
tỉnh ông biết rằng thân, khẩu, ý nghiệp ông muốn làm ấy không có thể
đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai; thân,
khẩu, ý nghiệp ấy là thiện, đưa đến an
lạc, đem lại quả báo an lạc, thời này Rahula, một thân, khẩu, ý
nghiệp như vậy ông nên làm.
"Này Rahula, khi ông
đang làm một thân, khẩu, ý nghiệp gì,
ông cần phải phản tỉnh như sau: "Thân, khẩu, ý nghiệp này ta
đang làm; thân, khẩu, ý nghiệp này của
ta không có thể đưa đến tự hại, hại người,
hại cả hai, thời thân, khẩu? Ý nghiệp này là thiện,
đưa đến an lạc, đem lại quả báo an lạc”.
Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân, khẩu, ý nghiệp ông
đang làm ấy không có thể
đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai; thân,
khẩu, ý nghiệp ấy là thiện, đưa đến an
lạc, đem lại quả báo an lạc, thời này Rahula, một thân khẩu, ý
nghiệp như vậy ông cần phải tiếp tục làm.
"Này Rahula, sau khi làm xong
một thân, khẩu, ý nghiệp gì, ông cần phải phản tỉnh như sau: "Thân, khẩu,
ý nghiệp này ta đã làm; thân, khẩu, ý
nghiệp này của ta không có thể đưa đến tự
hại, hại người, hại cả hai, thời thân, khẩu, ý nghiệp này là thiện,
đưa đến an lạc,
đem lại quả báo an lạc”. Này Rahula,
nếu trong khi phản tỉnh ông biết rằng thân, khẩu, ý nghiệp ông
đã làm ấy không có thể
đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai; thân,
khẩu, ý nghiệp ấy là thiện, đưa đến an
lạc, đem lại quả báo an lạc, thời này Rahula, ông cần phải an trú
trong niềm hoan hỷ, tự mình tiếp tục tu học ngày
đêm trong các thiện pháp" (Trung
Bô Kinh I, số 61, kinh giáo giới La-hầu-La ở rừngAmbala).
Giải pháp hay nếp sống
đạo đức như được gợi ý ở các đoạn kinh trên
là hết sức căn bản và rõ ràng.
Đạo đức ở đây là
đồng nghĩa với việc bỏ ác làm lành, là
một nếp sống thiết thực có cân nhắc chọn lựa vừa thiện và bất thiện, chớ
không có mơ hồ, tưởng tượng. Bởi các nghiệp sẽ
đưa đến ác báo, khổ đau và thiện
nghiệp đưa đến thiện báo, an lạc; do đó, sống
đạo đức, bỏ ác làm lành, cũng có nghĩa là sống hạnh phúc. Có rất
nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh khái niệm hạnh phúc, nhưng
đạo Phật nhấn mạnh hạnh phúc của nếp sống bỏ
ác làm lành. Quả vậy, với tiêu chuẩn thiện ác rõ ràng, không lẫn
lộn, người Phật tử có thể quyết định số phận
khổ đau hay hạnh phúc của chính mình qua nếp sống thiện hay bất
thiện, như đức Phật đã chỉ rõ:
"Nếu với ý ô nhiểm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe, chân vật kéo". (Pháp Cú 1)
Hay là :
"Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng không rời hình". (Pháp Cú, 2)
Một vài nhận xét về bài
kinh:
Tiếp theo, chúng tôi xin trình
bày với quý vị một vài nhận xét về bài kinh vừa nêu.
Trước hết, Giáo Giới Rahula là
bài kinh căn bản giúp xây dựng nếp sống
thiện, nếp sống đạo đức, hạnh phúc cho người Phật tử. Nếp sống đạo đức của
người Phật tử là nếp sống bỏ ác làm lành. Bài kinh cần
được các Phật tử lưu tâm học thuộc lòng
nhiều đoạn, nhất là các
đoạn nói về cách từ bỏ ba nghiệp ác, thực hành
ba nghiệp thiện qua việc xem xét và phản tỉnh nhiều lần, trước khi làm,
trong khi làm và sau khi làm ba nghiệp.
Bài kinh chỉ nêu lên cách thức
quán sát và phản tỉnh về ba nghiệp thân, khẩu, ý, mà không
đề cập cụ thể các hành vi thường
đi liền với ba nghiệp. Do đó, một sự liên
kết mười thiện nghiệp hay mười ác nghiệp gắn liền với thân, khẩu, ý là hết
sức cần thiết trong khi thực hành phương pháp thanh tịnh hóa ba nghiệp
này.
– Sự xem xét và phản tỉnh về ba
nghiệp là rất quan trọng trong pháp môn thanh tịnh hóa ba nghiệp, bởi vì,
có xem xét và phản tỉnh nhiều lần thì mới
đoan chắc điều gì nên làm và điều gì
không nên làm. Có thể nói, cốt lõi của bài kinh là nằm ở chỗ này, tức là
sự xem xét và phản tỉnh về những gì muốn làm,
đang làm hay đã làm bởi thân,
khẩu, ý; vì nếu không có sự xem xét hay phản tỉnh về ba nghiệp thì không
thể có sự phòng hộ hay tu tập ba nghiệp. Tương tự, thái
độ xem xét thành thật về ba nghiệp,
thiện hay ác, là hết sức cần thiết nhằm chặn
đứng điều ác, nếu có, và nhằm khích lệ các
điều thiện đã làm.
– Thiện hay ác không dễ dàng
đến với mình nếu không do sự tích lũy
dần dần trong cuộc sống. Một cuộc đời chứa
đầy ác, ấy là do thái độ xem thường
của con người đối với các điều ác nhỏ nhặt được tích lũy lâu ngày
trong cuộc sống. Tương tự, người Phật tử chứa
đầy thiện, ấy là do thái độ biết trân
trọng các điều thiện, dù rất nhỏ, được
nuôi dưỡng lâu năm dần trong nếp sống làm lành:
"Chớ chê khinh điều ác,
Cho rằng chưa đến mình,
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người ngu chứa đầy ác,
Do chất chứa dần dần". (Pháp Cú, 121)
và:
"Chớ chê khinh điều thiện,
Cho rằng chưa đến mình,
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn,
Người trí chứa đầy thiện,
Do chất chứa dần dần". (Pháp Cú, 122)
– Tính cách thực tiễn của bài
kinh khiến chúng ta tin tưởng rằng lời dạy của
đức Phật không phải để dành riêng cho
ai, mà dành cho tất cả mọi người, cho những ai biết trân trọng và tìm thấy
lợi ích, hạnh phúc trong nếp sống thiện, nếp sống có
đạo đức. Giải pháp đạo đức được đề bạt trong
bài kinh là thiết thực và dễ dàng, liên quan
đến đời sống hàng ngày của con người
(lời nói, suy tư và hành động), do đó mọi
người đều có thể ứng dụng. – Sau cùng và cũng là
điều quan trọng hơn cả là việc ứng
dụng bài kinh vào cuộc sống hàng ngày của người Phật tử. Bài kinh nói về
nếp sống thiện, nếp sống đạo đức; nhưng đạo
đức không có ở trong bài kinh, đạo đức
chỉ có nơi những người chuyên tâm thực hành những lời kinh dạy. Do
đó, giảng nói về đạo đức là cần thiết,
nhưng quan trọng hơn vẫn là sống một nếp sống
đạo đức thực sự với sự xem xét và phản tỉnh thường xuyên về ba
nghiệp, thân, khẩu, ý của mình.
Chúng tôi vừa giới thiệu với
quý vị bài kinh Giáo Giới Rahula với giải pháp
đạo đức thực tiễn có thể giúp ứng dụng dễ dàng
vào đời sống hàng ngày của mỗi người
Phật tử chúng ta. Chúng tôi cũng đã có
vài nhận xét gợi ý nhằm giúp cho quý vị thấy rõ tầm quan trọng của pháp
môn thanh tịnh hóa ba nghiệp đối với cuộc
sống là như thế nào. Vấn đề còn
lại chỉ là mỗi cá nhân chúng ta có cương quyết thực hiện hay không mà
thôi. Tất nhiên, chúng tôi rất tin tưởng mỗi người Phật tử chúng ta
đều đang nỗ lực thực hành lời Phật
dạy, nhất là vấn đề tu dướng đạo đức là
hết sức cần thiết cho cuộc sống con người và xã hội ngày nay. Quả thật,
chúng ta cần bình tâm mà nhận ra rằng, dù đã
có những bước chuyển mình khá tốt đẹp, xã
hội Việt Nam đang tồn đọng nhiều vấn đề đòi
hỏi mỗi người Việt Nam chúng ta cần phải quan tâm nhiều hơn mới mong giải
quyết được. Nhưng điều chúng ta lo ngại nhất
là nếp sống văn hóa và
đạo đức truyền thống đang có nguy cơ
bị đẩy lùi khiến ảnh hưởng
đến các thế hệ con em của chúng ta, vì
nó làm cho con người Việt Nam vốn mất dần đi
tính chất của con người Việt Nam vốn có cội nguồn văn hoá và
đạo đức rất đặc biệt. Nguyên nhân của
vấn nạn trên là gì nếu không nói là sự thờ ơ và xem thường của con người
Việt Nam trước vấn đề đạo đức của cá nhân dẫn
đến sự thờ ơ đối với đạo đức gia đình và xã hội? Tại sao trẻ em
Việt Nam chưa ngoan? Tại sao trẻ em Việt Nam thiếu hoặc không tôn trọng bố
mẹ, thầy cô giáo? Tại sao trẻ em Việt Nam trở thành kẻ phạm pháp? Câu trả
lời thì đã có nhiều, nhưng chắc chắn
con em của chúng ta sẽ không có những sai phạm nói trên nếu như những
người lớn chúng ta đã không tỏ ra quá
buông thả trong đời sống cá nhân khiến ảnh
hường đến tâm lý hay học đòi, bắt chước của chúng? Vấn
đề đang đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn
nữa về nếp sống đạo đức và nêu cao
đạo đức của mỗi người Việt Nam chúng ta.
Chúng ta
đã từng có, trong lịch sử dân tộc,
những mùa Xuân thật sự hạnh phúc và thái bình mà tấm thảm dệt nên mùa Xuân
đó không gì khác là nếp sống thiện,
nếp sống đạo đức của một dân tộc được phát
huy cao độ. Một thoáng nhìn về quá khứ
để thấy rằng dân tộc Việt Nam chúng ta đã từng tu dưỡng
đạo đức qua nếp sống từ bỏ mười điều ác, thực
hành mười điều thiện của thân, miệng,
ý và đã từng hưởng trọn những
mùa Xuân an lành, thịnh vượng nhờ nếp sống ấy.
Đó là những mùa Xuân thời Lý, Trần.
Chúng ta từng có những ông vua bỏ ngai vàng xuất gia, kiên quyết sống
đời sống đạo đức và khuyên dạy người
dân tu dưỡng đạo đức qua nếp sống làm
mười điều thiện khiến ảnh hưởng đến đời sống
đạo đức của toàn dân và thái bình của xứ sở.
Lịch sử
đã sang trang. Thời Lý, Trần
đã lùi về quá khứ. Nhưng phải chăng
tấm gương của thời Lý, Trần đã cần thiết cho cuộc sống hiện tại của
chúng ta để suy gẫm lại nếp sống của chính mình,
giống như "chiếc gương soi" của đức Phật
trong bài kinh Giáo Giới Rahula là hết sức cần thiết
để soi lại ba nghiệp thân, khẩu, ý của mỗi
người chúng ta? Chúng tôi hy vọng mỗi người Phật tử chúng ta sẽ mang sắc bên
mình "chiếc gương soi" mà hơn 25 thế kỷ trước
đức Phật đã ưu ái trao cho Tôn giả Rahula. Và
đó là tín hiệu
đầu Xuân mà chúng tôi thân ái muốn gởi
đến.
(Bài giảng đầu Xuân Giáp
Tuất năm 1994 tại Thiền viện Vạn Hạnh)
Xem phần tiếp theo
--- o0o ---
Mục Lục
|
01
|
02
|
03
|
04
|
05
06
|
07
|
08
|
09
|
10
|
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
--- o0o ---
Vi tính: Mỹ Hồ
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-02-2004
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục