.
CUỘC HÀNH TRÌNH ĐI
ĐẾN KIẾP SAU
Thích Nguyên Tạng
Thượng tọa Pende Hawter, sáng lập viên Dưỡng Đường
Tiếp Dẫn Karuna để chăm sóc người sắp lâm chung ở thành phố Brisbane, tiểu
bang Queensland, Úc Đại Lợi, đã thực hiện cuộc phỏng vấn các bậc Lạt Ma
Tây Tạng tên tuổi như đức Dalai Lama thứ 14, Dilgo Khyentse Rinpoche,
Kirti Tsen-shab Rinpoche, Garje Khamtul Rinpoche, và Geshe Lamrimpa, những
người có đủ tư cách nói về tiến trình hấp hối, chết và tái sinh của con
ngườị. Cuộc phỏng vấn được thực hiện vào tháng 5 năm 1995 tại tỉnh
Dharamsala, miền Bắc nước Ấn Độ.
GIÚP ĐỠ CHO NGƯỜI
HẤP HỐI
Hỏi: Xin Quý Ngài cho biết cách tốt nhất để người thân có thể giúp đỡ cho
người đang hấp hối và người vừa qua đời ?
-
Dalai Lama : Khi gặp người đang hấp hối tuyệt đối tránh quấy rầy họ. Đặc
biệt là không làm cho họ nổi giận hoặc khóc lóc để họ sanh tâm quyến
luyến. Ngược lại, phải nhắc nhở để họ hành trì, tu tập vào giờ phút cuối,
ví dụ như quán tưởng hình ảnh của chư Phật, các vị thầy đức hạnh, Chúa
Jesus, hoặc một lời dạy nào đó tùy theo tín ngưỡng của họ. Nếu người ấy
không theo một tôn giáo nào, nên giúp đỡ cho họ chết trong thanh thản và
yên bình.
Khi người ấy trở nên hôn mê, nếu là hành giả tu tập, nên nhắc nhở pháp
môn mà họ công phu thường ngày, đặc biệt là lúc họ sắp ra đi. Kế đó tụng
kinh cầu nguyện. Nếu thân nhân muốn tốt cho người đang hấp hối thì tự tụng
niệm hoặc cung thỉnh chư tăng về nhà để cầu nguyện cho họ. Trường hợp
không có chư Tăng tiếp dẫn, người thân trong gia đình có thể tụng thần chú
Om mani padme hum, hoặc những thần chú khác mà họ biết, để tiếp dẫn cho
người chết. Sau tang lễ, gia đình tiếp tục thọ trì, tụng niệm đến ngày thứ
49 cho hương linh dễ dàng tìm lối tái sinh vào cõi lành.
Công việc mai táng thi hài còn tùy nghi theo mỗi nền văn hóa hay tập tục
của người chết, điều này không mấy quan trọng, bởi vì một khi thần thức
(consciousness) đã thoát thân thì xác chết ấy cũng giống như một đống đất.
Tại một làng không theo Phật giáo thuộc miền Nam Ấn Độ, tập quán của họ là
chôn cất thi hài rồi trồng cây lên mộ. Đây là một cách để chấm dứt việc ô
nhiễm không khí (air pollution) từ hỏa táng bằng củi đuốc, một tập tục
thường thấy ở Ấn Độ, điều này còn tránh đi việc hủy diệt cây rừng, một tài
nguyên quý giá của quốc gia. Đây là một phương pháp tốt mặc dù nó không
bằng như ở phương Tây nơi dùng điện để hỏa táng.
-
Garje Khamtul Rinpoche : Đối với người hấp hối và người vừa chết, cách tốt
nhất mà bạn muốn giúp đỡ là phát khởi lòng bi mẫn của chính bạn hướng đến
với người sắp lâm chung. Lòng thương yêu và bi mẫn của bạn rất có lợi ích
cho người hấp hối, vì nó phát khởi từ lòng bạn nên bạn dễ dàng tỏ bày cho
người ấy lòng bi mẫn vô điều kiện mà người sắp chết rất cần. Lòng bi mẫn
thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối
nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong
tương lai. Một điều quan trọng khác là bạn đừng xa lánh và bỏ người đang
hấp hối một mình. Chết là sự thật và là một nỗi sợ hãi ghê gớm nhất đối
với con người. Do đó, bạn nên ở bên cạnh họ, hoặc cầm tay họ nói lời an
ủi, hoặc nhìn vào mắt họ với niềm cảm thông. Thân thể cũng có ngôn ngữ yêu
thương của nó, hãy sử dụng nó đừng sợ hãi vì e rằng họ hôi hám, dơ bẩn
hoặc sợ họ bắt mình theo, nếu bạn thể hiện được những cử chỉ trìu mến như
thế, thì bạn sẽ đem lại cho người sắp lâm chung niềm an lạc lớn nhất ở
cuối cuộc đời họ.
Khi bạn chắc chắn người ấy đã chết, bạn vẫn duy trì lòng bi mẫn vô bờ của
bạn và cùng với mọi người ở bên cạnh tử sàng mà tụng lớn danh hiệu chư
Phật như Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà hoặc danh hiệu 35 vị Phật
v.v... Nếu bạn niệm Phật với lòng bi mẫn vô biên của bạn sẽ giúp cho người
lâm chung một bước đường tái sinh.
-
Kirti Tsenshab Rinpoche : Có hai hạng người cần xem xét ở đây. Thứ nhất là
người có tín ngưỡng. Thứ hai là người không theo một tôn giáo đặc biệt
nào. Nếu người hấp hối là một Phật tử thì chúng ta tụng kinh và niệm Phật
tiếp dẫn siêu độ cho họ. Nếu người ấy không theo tín ngưỡng nào thì điều
tốt nhất để giúp đỡ họ là khuyên họ nghĩ đến những người tốt và những điều
tốt đẹp nhất trên cuộc đời. Khi một người đang hấp hối và trong giờ phút
bối rối ấy, không gì tốt hơn là đem lại cho họ cái cảm giác bình an và ấm
áp của lòng người, cảm giác này rất có ích cho tâm thức của họ.
Tôi sẽ giải thích chi tiết về những gì để giúp đỡ hai hạng người này. Đối
với người theo đạo Phật, chúng ta có thể gợi cho họ hồi hướng về những gì
mà họ từng quy y và tu tập. Chúng ta có thể nhắc cho họ nhớ về Bồ đề tâm,
tỉnh thức tâm, thanh tịnh tâm và sự tập trung thiền định... Điều này rất
có lợi cho một Phật tử. Đối với người không có đạo, chúng ta có thể khuyên
họ suy nghĩ rằng : "Cầu mong cho mọi người được hạnh phúc, cầu mong cho
mọi sinh linh được an vui, cầu nguyện cho mọi chúng sanh thoát khỏi những
khổ sầu của họ". Những ý tưởng muốn sự tốt đẹp đến với người khác, rất có
ích cho người hấp hối.
Đối với Phật tử lúc sắp chết, nên nhắc cho họ nhớ về công hạnh của chư
Phật, nhớ về hình ảnh của một vị Phật nào đó, có thể đặt một ảnh Phật
trong phòng của họ... Điều này rất có ích và là điều kiện giúp cho vong
linh tái sinh vào đất tịnh.
Ngay sau khi người ấy chết, điều rất quan trọng cần lưu ý là không được
đụng chạm đến thi hài của họ để cho tiến trình chết không bị gián đoạn,
tiến trình này chỉ chấm dứt khi thân trung ấm (Bardo/Intermediate state)
hoàn toàn thoát ra khỏi thân xác. Ở Tây Tạng, người thân phải đợi 48
tiếng đồng hồ sau mới tiến hành tang lễ.
-
Geshe Lamrimpa : Nói chung, khi đã xác định người ấy sẽ chết, điều quan
trọng là phải hoàn thành mọi ước nguyện của họ. Nếu họ tỏ ra luôn luôn
giận dữ thì chúng ta nên làm cách nào để ngăn chặn cơn giận của họ, giữ
cho họ luôn ở trạng thái thanh thản và yên bình. Nên tránh gây ồn ào và di
chuyển đi lại thường xuyên bên người ấy. Nếu người hấp hối quá quyến luyến
người thân, vợ (hoặc chồng), cha mẹ con cái, thì tốt nhất không cho những
người thân này đến gần tử sàng. Hãy cố gắng làm điều này để chấm dứt lòng
luyến ái của người hấp hối. Nếu xác định chắc chắn rằng họ sẽ chết, thì
chúng ta nên cho họ những thức ăn uống về những thứ mà họ đòi hỏi để họ
vui lòng và thỏa mãn, ngay cả thức ăn được kiêng cữ trong thời gian điều
trị. Tuy nhiên, không được cung cấp độc dược và thức ăn có thể đe dọa đến
mạng sống.
Nếu chúng ta cố gắng nói pháp cho người hấp hối nhưng họ không thích
nghe, thì tốt hơn hết là đừng nói, vì điều này tạo cho họ có ác cảm đối
với Chánh pháp. Nếu họ nghĩ như vậy thì đời sau họ sẽ không thích gần gũi
với Phật pháp.
Tương tự, nếu họ thích ăn uống mà mình không làm thỏa mãn ước muốn của họ,
điều này làm họ giận dữ và là nguyên nhân khiến họ đọa vào loài ngạ quỷ
(hungry ghost).
Nếu một người tin tưởng vào sự giúp đỡ của người khác và cũng là người
từng giúp đỡ kẻ khác trong đời này, chúng ta nên nhắc cho họ nhớ về công
hạnh tốt của họ và chúc mừng họ về việc tốt mà họ đã làm. Việc này làm tâm
họ vui và họ sẽ tái sinh ở một nơi đầy hạnh phúc. Nếu chúng ta giúp cho
ước nguyện của người hấp hối hoàn thành, thì họ sẽ rất mãn nguyện. Điều
này ngăn ngừa lòng tham ái, giận dữ, quyến luyến và những tâm tà kiến khác
của người hấp hối nổi lên, vì thế sẽ giúp họ không đọa vào cõi xấu mà tái
sinh vào cõi lành.
Đối với Phật tử và người từng thọ trì một pháp môn nào đó thì thật là
thuận lợi nếu họ được chúng ta nhắc lại mười điều Phật dạy trước khi chết
như sau :
1. Không nên khởi niệm tham đắm chấp thủ mọi dục vọng ở đời nàên cố
gắng và tránh hướng tâm ái luyến đến người thân của mình, vì dẫu đời sau
có gặp lại thì cũng phải chia lìa. Trong thời điểm hấp hối, ta phải bỏ tất
cả mọi thứ lại phía sau. Ta cũng không nên chấp đắm tấm thân của mình, vì
lúc chết ta phải rời bỏ nó. Ta không luyến tiếc các thứ như thức ăn, áo
quần, nhà cửa, vì những thứ ấy cuối cùng cũng từ bỏ ta.
2.
Ta nên phát khởi lòng bi mẫn và thương yêu đối với mọi chúng sanh.
3.
Ta nên đoạn tận mọi phẫn uất và thù hằn, nếu không thì nó sẽ làm hại ta
trong kiếp sau.
4.
Tất cả các giới pháp mà mình thọ trì nấu đã vi phạm thì phải cố gắng sám
hối cho thanh tịnh trước khi chết.
5.
Ta phải phát tâm dõng mãnh trong đời vị lai sẽ thọ trì và giữ giới pháp
thanh tịnh.
6.
Ta phải cảm thấy đau xót về những ác nghiệp mà mình đã gây tạo cho người
khác trong đời này và phải sám hối để dễ dàng tái sanh.
7.
Ta phải nhớ đến những công đức mà mình đã làm trong đời này, về những công
đức của người khác đã làm và phát tâm sẽ tiếp tục làm trong vị lai.
8.
Ta nên nghĩ đã đến lúc mình phải ra đi để đến đời sau, không có gì sợ hãi
cả, vì đó là quy luật tự nhiên có sinh ắt có tử.
9.
Phải quán thấy mọi sự vật hiện tượng đều do nhân duyên sinh và cũng do
nhân duyên ma hoại diệt.
10. Ta phải quán thấy rằng mọi sự vật hiện tượng đều vô ngã để ta vượt
thoát khỏi sầu và đạt được sự an lạc.
-
Dilgo Khyentse Rinpoche : Cách tốt nhất để giúp cho người hấp hối là lời
nói và hành động của mình phải được thúc đẩy bởi lòng từ bi. Nếu có thể
thì cung thỉnh Lama đức hạnh đến để làm pháp chuyển đi tâm thức
(transference of consciousness) cho người hấp hối. Pháp này Tạng ngữ gọi
là Powa, được xem là một pháp tu đặc biệt có giá trị và hiệu quả nhất để
giúp cho người hấp hối. Bạn quán tưởng hình ảnh đức Phật ở trên đầu người
hấp hối. Quán tưởng những tia sáng chiếu rọi vào người sắp lâm chung làm
sạch bản thể của họ, và quán thấy họ tan thành ánh sáng, hòa nhập vào ánh
sáng của chư Phật. Việc chuyển di tâm thức có thành công hay không là còn
tùy thuộc vào sức thiền định của người đang thực hiện pháp tu nàháp tu
đặc biệt này không những dành cho người sắp chết mà còn có thể giúp tịnh
hóa và chữa lành bệnh cho người còn sống. Các vị Lama vẫn thường dùng pháp
này để cầu an thọ mạng cho người già yếu. Một số vị thầy cho rằng nên thực
hiện pháp chuyển di tâm thức vào khoảng ngừng lại giữa hơi thở vào và hơi
thở ra. Nhiều người khác thì nói rằng nên thọ trì pháp này càng nhiều càng
tốt sau khi người đó chết để hộ trì cho thân trung ấm của họ dễ dàng tái
sinh.
Theo giáo nghĩa của Luật Tông thì nên hỏa táng thi thể càng sớm càng tốt
sau khi chết. Nhưng theo Mật Tông thì tốt nhất là đừng di dời thân thể sau
khi chết trong vòng ba ngà/span>
Hỏi : Người sắp lâm chung rất đau đớn về thể
xác và hải hùng với nỗi sợ chết. Phương pháp nào tốt nhất để giúp họ vượt
qua nỗi sợ hải đó ?
- Garje Khamtul Rinpoche : Ở phương Tây
người ta thường dùng thuốc Á phiện hoặc thuốc an thần để giảm nỗi đau thể
xác của người hấp hối và giúp cho họ chết trong bình an. Tuy nhiên theo
Phật giáo thì con người cần phải chết một cách đầy đủ ý thức, có sự tự chủ
và tỉnh táo càng nhiều càng tốt. Vì thế cần phải kiểm soát sự đau đớn để
nó không thể che mờ ý thức của người sắp lâm chung, đó là điều kiện cốt
yếu của việc làm giảm sự đau đớn về thể xác.
Thứ hai, làm gì để giúp người sắp chết vượt
qua nỗi sợ chết? Trước hết, bạn phải thật bình tĩnh và chính bạn cũng
phải vượt qua trước nỗi sợ ấhi giúp đỡ người hấp hối, bạn cần phải để ý
mỗi phản ứng của chính bạn, vì phản ứng của bạn sẽ phản chiếu trên phản
ứng của người sắp chết và nó sẽ góp phần rất lớn vào sự an ủi của họ hay
tàn phá họ. Khi niệm Phật tiếp dẫn, bạn cần chú ý trấn an người hấp hối
rằng trong giờ phút cuối cùng ngày họ sẽ đối mặt với vô số những cảnh
tượng hãi hùng khác nhau mà lâu nay họ chưa từng biết, và điều đó khiến
cho họ vô cùng sợ hãi. Tuy nhiên, bạn phải đảm bảo chắc chắn rằng những ảo
ảnh đó là không có thật, chúng chỉ là sản phẩm từ ảo giác của người hấp
hối. Nếu có thể trao cho họ chuỗi ngọc Mani, hoặc một xâu chuỗi hạt của
các thầy đức hạnh sẽ giúp đỡ cho họ vượt qua nỗi sợ hãị (Chuỗi hạt ở đây
là biểu tượng năng lực của bậc đạo sư).
Hỏi : Đối với người không phải là Phật tử,
cũng không theo một tín ngưỡng nào, chúng ta phải làm gì để giúp họ ?
- Garje Khamtul Rinpoche : Đối với một
người không tin hoặc không biết gì về đạo Phật, chỉ cho họ viên ngọc Mani
cũng như an ủi và giải thích cho họ biết những cảnh tượng rùng rợn mà họ
sắp thấy trong chốc lát chỉ là những ảo ảnh trong giấc mộng chứ không thật
có. Nhờ sự dặn dò trước này mà họ sẽ vượt qua nỗi sợ hãi khi hấp hối.
KHI NÀO THẦN THỨC
CỦA NGƯỜI MỚI RA KHỎI THỂ XÁC ?
Hỏi : Ở phương Tây, dấu hiệu thông thường của
cái chết là chấm dứt hơi thở và tim ngừng đập. Còn theo Phật giáo việc này
diễn biến ra sao ?
- Kirti Tsenshab Rinpoche : Có lẽ có hai
hạng người cần xem xét ở đâ Thứ nhất, những người trẻ tuổi hoặc những
người đã nằm chờ chết trong một thời gian dài. Hạng người này tâm thức rất
tinh tế và thần thức của họ sẽ không lưu lại trong thể xác lâu, có thể chỉ
một ngày thôi. Thứ hai là những người mạnh khỏe và cái chết đến nhanh,
thần thức của họ lưu lại trong thể xác đến ba ngà/span>
Những cái chết khác như chết bất đắc kỳ, chết
vì tai nạn hay vì bạo lực. Chẳng hạn hai người đánh chém nhau, một người
trong số đó chết đột ngột, thì thần thức của họ không lưu lại trong thể
xác lâu. Nói chung mọi người tùy thuộc vào tâm thức nặng hay nhẹ của mình
mà thoát ra khỏi thân xác sau khi chết.
- Geshe Lamrimpa : Khi hơi thở dứt và tim
ngừng đập, nó chỉ rõ rằng phần thô của thần thức đã tan mất. Tuy nhiên có
nhiều trường hợp, phần tinh tế của tâm thức còn lưu lại trong xác thân
người ấy hàng tuần lễ, thậm chí có lúc cả tháng. Nhưng hầu hết là phần
tinh tế tâm thức rời khỏi thể xác trong ba hoặc bốn ngày, trong thời gian
này thi hài không bốc mùi hoặc thối rữa.
- Garje Khamtul Rinpoche : Chưa thể xác
định rằng một người bình thường chết thần thức của họ rời khỏi xác trong
ba ngày sau đó. Nhiều người lưu lại lâu hơn, nhưng một số người khác thì
trụ lại thời gian ngắn hơn. Có nhiều ví dụ điển hình trong số các vị Lama
Tây Tạng. Như đức Lama Ling Rinpoche, thầy dạy học của đức Dalai Lama,
thần thức của ngài đã trụ lại trong xác thân cả tuần lễ sau khi viên tịch.
Ở trong cộng đồng người Tây Tạng, những trường hợp tương tự vẫn thường xảy
ra.
Tóm lại, việc hỏa táng hoặc tiến hành tang lễ
hay di chuyển thể xác tốt nhất phải đợi ba ngày sau. Tuy nhiên, ngày nay
điều này khó thực hiện được vì người ta sợ ô nhiễm, do vậy, nên làm phép
chuyển di tâm thức trước khi động đến thể xác của quá cố.
Hỏi : Trường hợp của những người chết vì bệnh
quá nặng như ung thư và Aids (Sida) thần thức của họ có thoát xác nhanh
hơn không ?
- Garje Khamtul Rinpoche : Điều này không
chắc chắn lắm. Việc thoát xác sớm hay muộn không thực sự tùy thuộc vào
người chết bị tai nạn hay bị bệnh nặng, mà tôi nghĩ rằng việc ấy có liên
hệ mật thiết đến thiện và ác nghiệp của người mất. Ví dụ, đối với một
người tu tập theo pháp Dzogchen hay một pháp nào khác thì sau khi chết họ
tiếp tục quán tưởng Tánh không và thần thức của họ duy trì lại trong thể
xác rất lâu, cho dù họ không thể luyến ái tấm thân ngũ uẩn này.
Hỏi : Các ngài có thể cho biết khi nào thì
thần thức rời khỏi thể xác ? Những dấu hiệu nào cho chúng ta biết rõ điều
này ?
- Kirti Tsenshab Rinpoche : Một lần nữa
chúng ta lại thảo luận về hai hạng người thoát xác sau khi chết. Bây giờ
tôi sẽ không đề cập đến hạng người có thần thức lập tức thoát xác sau khi
chết mà chỉ nói đến hạng người có phần tinh tế thần thức lưu lại trong thi
thể nhiều ngàgười ta nói rằng trước khi thần thức người ấy thoát ra khỏi
xác thì trên thi thể họ sẽ có một điểm nóng được tụ lại duy nhất có màu đỏ
hoặc màu trắng, điểm nóng tụ lại ở đâu thì thần thức sẽ thoát ra ở chỗ đó.
Ví dụ, nếu điểm nóng hội tụ ở đỉnh đầu thì chúng ta tin rằng người ấy sẽ
tái sinh vào cõi lành, điểm nóng tụ lại ở bàn chân thì chắc chắn người ấy
sẽ đọa vào hạ giới. Dấu hiệu cho biết khi thần thức thoát xác sẽ có một ít
máu chảy ra ở lỗ mũi hoặc tinh dịch thoát ra từ bộ phận sinh dục.
Tuy nhiên, có một số người không thấy dấu
hiệu này, đó là những người chết đột ngột vì tai nạn hay bị bệnh tim. Dấu
hiệu này chỉ tìm thấy ở những người có tiến trình chết chậm và lâu.
- Geshe Lamrimpa : Hầu hết người nào bị
chết vì bệnh nặng thì khi thần thức rời khỏi thể xác đều có dấu hiệu máu
hoặc chất nước vàng chảy ra từ lỗ mũi hoặc bộ phận sinh dục. Khi thần thức
thoát ra thì thể xác mới có mùi hôi. Đức Dalai Lama thứ 14 từng nói chuyện
với các bác sĩ nổi tiếng ở phương Tây về vấn đề thần thức rời khỏi thể xác
khi bệnh nhân tắt thở. Các bác sĩ đã trắc nghiệm và nói rằng họ đã thấy
một làn khói trắng nhỏ thoát ra từ một điểm nào đó trên thân của người
chết. Kết quả này được kiểm tra bằng máy móc và phân tích thể xác một cách
cẩn thận.
Những dấu hiệu như giọt máu hoặc nước vàng
đều xảy ra đối với những người chết vì bệnh nặng. Tuy nhiên, thi thể người
ấy thường được di chuyển quá nhiều trước khi thấy những dấu hiệu này, vì
vậy những trường hợp như thế tuyệt đối không bao giờ xảy ra. Ở Tây Tạng,
theo tập quán truyền thống phải giữ thi thể trong ba, bốn hoặc bảy ngày
ngõ hầu giúp cho thần thức có đủ thời gian để thoát xác. Trong thời gian
chờ đợi này, các lễ kỳ siêu cho người quá cố được tiến hành một cách
nghiêm mật.
- Garje Khamtul Rinpoche : Bạn có thể biết
khi thần thức thoát xác từ sự biến đổi của thi thể. Khi thần thức còn lưu
lại trong thể xác thì bạn cảm thấy người ấy chưa chết thật sự, nước da của
họ còn tươi và sáng lạ thường, giống như họ đang nằm ngủ. Nhưng một khi
thần thức đã thoát xác thì lập tức ta thấy thi thể thay đổi khác liền,
nước da khô, tái xanh đi và bắt đầu có mùi hôi. Lúc ấy, bạn mới có cảm
giác đó là một xác chết chứ không phải là một người nữa.
Những kinh nghiệm về làn khói hoặc giọt máu
xuất ra khi thần thức thoát xác không phải lúc nào cũng nhìn thấy được,
chúng ta chỉ nhìn thấy ở một số ít người. Trong số những người này, khi
thần thức thoát xác, chất nước vàng chảy ra từ lỗ mũi và ở hạ bộ. Có một
vị Lama cao cấp chết và khi thần thức thoát xác, lỗ mũi của ngài liền chảy
ra hai dòng chấ dịch lỏng, một bên thì màu đỏ còn bên kia màu trắng.
Hỏi : Có đúng là cho đến khi thần thức thoát
xác, thi thể mới bắt đầu có mùi hôi và có dấu hiệu thối rữa ?
- Garje Khamtul Rinpoche : Sự thật đúng như
thế.
Hỏi : Khi một người chết nhưng thần thức vẫn
còn ở lại trong thể xác. Như vậy người ác có cảm giác gì không nếu bị
người khác đụng chạm đến họ ?
- Geshe Lamrimpa : Ho sẽ không có cảm giác
gì cả. Khi phần khô của thần thức tan mất thì người ấy không còn cảm giác
nữa. Đối với các vị Lama chứng đắc và người Phật tử có tu tập, khi chết,
phần tinh tế thần thức còn lưu lại trong thể xác, thì họ có thể ở trong tư
thế ngồi thiền, đến khi thần thức thoát xác, thi thể của vị ấy mới ngã
xuống.
Mấy mươi năm trước, khi những người Tây Tạng
đầu tiên đến tạn tại tỉnh Buxa của Ấn Độ, tại một Phật học viện của Phật
giáo Tây Tạng nọ, có hai vị tăng đánh nhau và một người chết. Sau đó, vì
sự vụ này mà chính quyền Ấn và người dân địa phương chỉ trích rất gắt gao
đối với người dân Tây Tạng, họ nói rằng các tu sĩ Tây Tạng chỉ biết chém
giết nhau mà thôi. Về sau có một Lama đức hạnh tên là Gyari Rinpoche, đến
từ tu viện Gender ở Tây Tạng, vị này đã viên tịch tại Ấn với tư thế ngồi
kiết già trong bảy ngày; Người Ấn được mời đến chứng kiến cái chết lạ
thường của vị Lama này và họ cố gắng giật mạnh khăn trải giường để làm cho
thi thể của ngài ngã xuống, nhưng ngài vẫn ngồi thẳng như pho tượng, dù
trải qua bảy ngày nhưng thể xác của ngài vẫn không có mùi hôi. Sau sự kiện
này, quan điểm của họ về các Tăng sĩ Tây Tạng đã thay đổi hẳn, họ không
còn phê bình, chê bai nữa và họ để cho các vị muốn làm gì thì làm.
Hỏi : Nếu đụng chạm và di chuyển thi thể
trước khi thần thức thoát xác có ảnh hưởng gì đến tâm thức của người chết
không ? ở bệnh viện, sau khi người hấp hối ngừng thở và tim hết đập, còn
nhiều thủ tục khác chi phối đến tử thi. Sự can thiệp này có hại cho thần
thức người chết không ?
- Kirti Tsenshab Rinpoche : Trước hết, nếu
đó là một người tinh thông có năng thiền định, họ cố gắng luyện tập thiền
định sau khi trút hơi thở, nếu ta lắc mạnh thi thể của họ vào lúc họ ở
trong tạng thái thiền định thì sẽ quấy rầy đến tiến trình tập trung thần
thức của họ. Do đó, tốt nhất là đừng nên đụng chạm đến thể xác họ trong
thời điểm ấy. Ngay cả một người thường (người không có tu tập) cũng không
được đụng đến thi thể của họ cho đến ba ngày sau. Nếu một người đang ngủ
say, nhưng ta lắc mạnh thì họ sẽ thức giấc ngay, người chết ở đây cũng
vậy, khi chạm đến họ, không có tác hại gì cho thể xác, nhưng có hại rất
lớn đến thần thức của họ.
Thêm vào đó, nếu chúng ta buộc phải thay tấm
khăn trải giường và nệm từ giường của người vừa chết cho sạch sẽ thì cũng
nên thao tác nhẹ nhàng. Tương tự, nếu người chết còn mở mắt và hả miệng,
thì yêu cầu một người thân trong gia đình đến trước tử thi bày tỏ lòng
kíng trọng cuối cùng rồi giúp họ khép mắt và miệng lại để trông dễ nhìn
hơn. Đối với những người bị dị tật, tay chân cong quẹo, lúc tẩm liệm phải
kéo thẳng ra dễ dàng đưa vào quan tài. Nhưng mỗi cử chỉ đối với người chết
đều phải nhẹ nhàng và phải ba ngày sau khi người ấy trút hơi thở cuối
cùng.
Hỏi : Có lợi ích gì khi chúng ta chạm hoặc
kích thích trên đỉnh đầu của người hấp hối và người chết, đặc biệt là
người tắt thở ?
- Garje Khamtul Rinpoche : Khi một người
vừa chết, chúng ta có thể sờ chạm vào đỉnh đầu của họ, đó là vùng huyệt
đạo tốt nhất để thần thức thoát ra mà ngài Lama Je Tsong Khapa gọi là
"chiếc cổng vàng". Do đó, bạn nên kích thích vào vùng đỉnh đầu, nếu thần
thức của người chết thoát ra ngoài bằng đường này thì chắc chắn họ sẽ thác
sinh vào cảnh giới an lành.
Nhưng nếu thần thức thoát ra các đường ở hạ
bộ, từ lỗ rốn trở xuống, người ấy sẽ thác sinh vào ác đạo, như cõi ngạ quỷ
hay loài cầm thú. Vì thế, người Tây Tạng không bao giờ tiếp xúc phần hạ bộ
của thi thể người chết, nếu ta chạm vào chỗ nào của họ thì thần thức sẽ tụ
lại chỗ ấy mà thoát ra ngoài.
- Dilgo Khyentse Rinpoche : Tiếp xúc vào
đỉnh đầu của người hấp hối được xem như là đang làm phép "chuyển di tâm
thức" cho họ. Thực hiện phép này không phải là một vấn đề đơn giản, phải
làm cẩn thận để giúp cho thần thức của người hấp hối tập trung ở đỉnh đầu,
chỗ mái tóc giáp nhau, gọi là cửa Brahma. Nếu đầu của người ấy không bị
sói thì chúng ta phải nhổ năm ba sợi tóc bên trên cửa ấy và dùng ngón tay
trỏ cạo nhiều lần vào chỗ ấy, việc làm này nhằm giúp cho thần thức của
người chết biết chỗ mà thoát ra ngoài. Kỹ thuật này cũng thường giúp cho
chất nước vàng chảy ra từ cửa ấy, dấu hiệu đó chứng minh cho phép chuyển
di tâm thức đã thành công.
THỜI GIAN TỪ LÚC
CHẾT CHO ĐẾN LÚC ĐI TÁI SINH (ĐẦU THAI)
Hỏi: Sau khi thần thức rời khỏi thể xác và
bước vào giai đoạn thân trung ấm giữa đời này và cuộc sống kế tiếp, phải
mất bao lâu trước khi thần thức này gá vào một bào thai mới ?
- Kirti Tsenshab Rinpoche : Thời gian kéo
dài trung bình để một người đi tái sinh vào một cơ thể mới là bảy tuần lễ.
Cứ sau bảy ngày thì thân trung ấm chết đi và rồi tái sinh lại trong một
thân trung ấm khác cho đến khi nó bắt được liên lạc với cha mẹ tương lai
mới đi tái sinh. Tuy nhiên có nhiều người sau khi chết chỉ mất hai giây họ
đã đi tái sinh vào cảnh giới khác.
Lý do tại sao thần thức phải chịu đựng trong
tiến trình trung gian sinh và tử giốnh như ma quỷ này ? Vì do nghiệp thiện
và ác của người ấy gây tạo đời trước sẽ quyết định dẫn dắt họ đến nơi
thích hợp, do đó phải cần có thời gian nhất định để tìm kiếm cho một đời
sống tương lai.
- Dilgo Khyentse Rinpoche : Bốn mươi chín
ngày là thời gian dành chung cho tất cả mọi người, nhưng có một số người
khác cứ vất vưởng trong thế giới trung ấm này một thời gian rất lâu, có
lúc đến bảy năm mới đi tái sinh. Nếu trường hợp họ bị kẹt lại trong thế
giới trung gian này, họ sẽ trở thành ma quỷ. Thông thường khi một người
đang hấp hối, chúng ta đọc kinh cầu nguyện hoặc nhắc nhở, họ đều nghe
thấy, thậm chí người bất tỉnh cũng thế. Đối với vong linh trong cõi trung
ấm cũng có khả năng nghe, cảm nhận và hiểu được khi chúng ta đọc sách "Tử
thư Tây Tạng" (Tibetan Book of the Death) để cảnh tỉnh họ. Vì thế, trong
bảy tuần lễ đầu sau khi chết là thời gian rất quan trọng để cho người sống
làm mọi việc có thể giúp sức tái sinh cho người chết.
Còn thần thức của những bé chết trước khi
sinh (bị sẩy thai), trong lúc sinh hoặc tuổi còn nhỏ, sẽ đi qua các trạng
thái trung ấm một lần nữa và nhận thấy một hiện hữu khác. Cha mẹ của họ
cũng có thể tạo phước (meri-forious acts) để hồi hướng công đức cho vong
linh hoặc thực hiện các pháp dành cho người chết như thọ trì thần chú Kim
cương Tát đỏa một trăm âm (Hundred - syllable mantra of vajrasattva Helve
norg), đủ túc số 100 biến, cúng dường đèn, bố thí, phóng sinh các loài
vật... để giúp cho thần thức của hài nhi đó được nhẹ nhàng và dễ dàng tìm
lối tái sinh.
- Geshe Lamrimpa : Không thể xác định thời
gian chính xác là bao lâu. Nếu một người không phải tái sinh vào cõi người
thì họ liền thác sinh đến cõi khác chứ không qua giai đoạn thân trung ấm.
Nhưng nói chung một người có thể ở trong cõi trung ấm trung bình là 49
ngày, có người ở một ngày, bốn ngày và có khi bảy ngày... Trong thời gian
trụ lại trong trung ấm thân, vong linh tìm kiếm một đời sống tương lai khế
hợp với nghiệp của mình để tái sinh.
- Gerje Khamtul Rinpoche : Đối với một số
người thời gian dài nhất là bảy tuần lễ, nhưng có một số khác chỉ ở trong
thân trung ấm ba ngày. Phần lớn mọi người đều phải đầu thai sau hai mươi
mốt ngày.
Không phải ai chết cũng qua giai đoạn thân
trung ấm. Có một số người tu tập chứng ngộ, có một đời sống phạm hạnh và
lợi lạc, khi chết họ trực tiếp tái sinh vào cảnh giới tốt lành chứ không
qua giai đoạn trung gian này. Một người phạm tội ngũ nghịch (giết cha mẹ,
phá hoại chánh pháp...), hoặc có một đời sống tiêu cực, ác độc... thì sẽ
đọa liền vào địa ngục, hoặc một cõi xấu nào đó chứ không qua giai đoạn
thân trung ấm.
QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT
GIÁO VỀ VIỆC TỰ SÁT
Hỏi :Xin cho biết quan điểm của Phật giáo về
vấn đề tự sát ?
- Kirti Tsenshab Rinpoche : Đối với người
Phật tử, tự giết mình là một tội rất lớn. Vì sao ? Bởi vì có được thân
người là một trong những điều khó và làm bị thương hoặc hủy diệt thân ấy
là một điều sai lầm rất lớn. Tự tử thường bắt nguồn từ kết quả của những
cơn nóng giận. Chỉ có giận dữ người khác mà không làm gì được nên trở lại
giết chết mình. Đối với một người không theo đạo Phật cũng thế, tự tử là
một hành vi đáng trách và tội lỗi. Sau khi chết, thần thức của họ không có
một nơi nào khác là phải lao theo nghiệp ác của mình. Vì thế chúng ta phải
nghĩ cách làm thế nào để giúp họ vượt qua những cơn khủng hoảng tinh thần
và nỗi khổ đau của họ. Ở trong tình trạng rối loạn, bế tắc và tuyệt vọng,
cơn khủng hoảng trầm trọng này có thể đẩy con người đến chỗ tự sát.
- Garje Khamtul Rinpoche : Nhà Phật cho rằng
tự tử là một điều tồi tệ nhất mà con người có thể làm. Đây là một hành
động tiêu cực khiến cho thần thức của kẻ ấy gặp khó khăn trong việc tái
sinh. Theo truyền thống của Phật giáo Tây Tạng thì có hàng trăm vị nam và
nữ thần ở trong thân của chúng ta, nếu phạm vào tội tự sát, đồng thời ta
cũng giết cả họ. Còn theo Phật giáo Đại Thừa thì dưới chân của mỗi sợi tóc
thì có hàng ngàn tế bào sống khác ..., khi ta giết ta thì đồng thời ta
cũng hủy diệt chúng.
- Geshe Lamrimpa : Theo Phật giáo tự tử là
một hành vi tiêu cực và là nguyên nhân khiến cho thần thức của người ấy
rơi rớt vào cõi xấu.
- Dilgo Khyentse Rinpoche : Khi một người tự
tử, thần thức của họ thường phải đi theo nghiệp xấu của mình, rất có thể
họ sẽ bị một ác ma bắt lấy và chiếm đoạt sinh lực. Để giúp cho những người
này, các vị thầy có năng lực phải làm nhiều lễ cầu siêu đặc biệt như năm
cuộc lễ và những nghi thức khác để siêu độ thần thức cho người chết.
Hỏi: Trong thời gian chiến tranh tại Việt
Nam, có nhiều Tăng sĩ đã tự thiêu, với động cơ là làm cho thế giới chú ý
đến nỗi khổ đau chiến tranh ở VN. Việc tự thiêu của họ phải chăng là hành
vi tiêu cực ?
- Geshe Lamrimpa : Các vị Bồ Tát được phép
thực thi một số hành vi mà người thường cho đó là tiêu cực. Tuy nhiên,
theo Phật giáo Nguyên thủy thì phản đối hành động này, vì thế tự tử luôn
được xem là hành vi tiêu cực trong truyền thống này. Nếu bạn phân tích kỹ
hơn, xem động cơ khiến các vị Tăng này tự thiêu là gì thì chúng ta mới
phán quyết là tiêu cực hay tích cực. Trong một bộ kinh của Phật giáo có
ghi lại câu chuyện về một vị Tỳ kheo trẻ bị một phụ nữ ép buộc phải lấy bà
ta. Vị này biết rõ rằng nếu mình chịu lấy thì sẽ phá bỏ giới luật ; mặt
khác, nếu không chịu lấy bà ta sẽ vu khống rằng mình đã có những hành vi
tồi bại. Vì thế, để giải quyết tình cảnh bế tắc này mà không phạm giới, vị
ấy quyết định tự kết liễu đời mình. Suy nghĩ như thế rồi, vị ấy giả vờ
đồng ý và nói với bà ấy đợi một chút. Vị ấy vào phòng trong, đóng cửa và
tự đâm vào cổ họng mà chết. Trước khi tắt thở, vị ấy kính lễ mười phương
Tam Bảo và nói rằng : "Vì tôn kính Tam Bảo và gìn giữ giới hạnh mà con
quyết định từ bỏ thân này".
Trong kinh nói đây là hành vi tích cực và có
công đức. Nếu trường hợp các Tăng sĩ Việt Nam vì động cơ muốn cứu vãn
Chánh pháp của đất nước họ không lún sâu vào chiến tranh, vì một động cơ
cao cả như thế thì hành vi tự thiêu của họ không thể cho là tiêu cực mà
phải được xem là hành vi của các vị Bồ Tát.
Hỏi: Quan điểm của Phật giáo như thế nào về
việc chấm dứt mạng sống trước khi người ấy chết ? Bệnh nhân yêu cầu để cho
họ chết tự nhiên bằng cách không dùng thuốc hay những phương pháp y học
nào đó vì họ quá đau đớn về thể xác và tinh thần trong khi việc điều trị
không mang lại kết quả.
- Garje Khamtul Rinpoche : Trong trường hợp
này rõ ràng bạn muốn đem lại lợi ích cho người khác, chấm dứt sự đau đớn
của họ. Tuy nhiên, cần phải xem xét cẩn thận chứ đừng nên hành động thiếu
suy nghĩ, bởi vì giết một mạng người là một tội ác, vì vậy, dù đau đớn dữ
dội, thay vì để cho họ chết thì cố gắng dùng hết khả năng để điều trị cho
họ, có thể cho họ uống thuốc giảm đau hoặc thuốc an thần chẳng hạn. Mặt
khác, nên nhớ rằng thân người rất khó khăn mới có được. Do vậy, các nhà
chữa bệnh phải suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định việc này.
- Geshe Lamrimpa : Người ta nên tiếp tục chữa
trị để giữ mạng sống cho họ. Nếu người ấy chết với trạng thái tâm giận dữ,
bất an, tiêu cực hay hôn mê thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc đầu
thai và sẽ gặp bất lợi cho đời sống tương lai của họ. Tuy nhiên, nếu cho
họ uống thuốc để rút ngắn mạng sống thì cũng không thích hợp.
Hỏi : Đôi khi họ muốn được chết thì sao ?
- Geshe Lamrimpa : Họ muốn chết trước thời
hạn, bởi vì họ không chịu đựng nổi sự đau đớn ngay trong đời này. Nhưng họ
đâu biết rằng nỗi khổ đau ấy họ vẫn phải đối mặt trong đời sau, vì thế,
tốt hơn hết nên giúp họ điều trị.
- Dilgo Khyentse Rinpoche : Sử dụng máy móc
để kéo dài mạng sống của một người không còn cơ may lành bệnh là điều vô
lý và hãi hùng. Tốt hơn cứ để cho họ chết một cách tự nhiên trong bầu
không khí yên bình. Khi sử dụng máy móc mà không có hy vọng hồi phục cho
người bệnh thì không phải là tội ác để chấm dứt việc điều trị bằng máy. Rõ
ràng không cần thiết để kéo dài sự sống nhân tạo cho họ. Theo cái nhìn của
nhà Phật, thì chúng ta nên làm bất cứ điều gì có thể để trợ giúp cho người
ấy đối phó với sự xuống tinh thần trong giờ phút đau đớn và sợ hãi, đem
lại cho họ niềm bình an vào phút cuối của cuộc đời.
VẤN ĐỀ HIẾN TẶNG
THỂ XÁC
Hỏi : Ở phương Tây, hiến tặng những bộ phận
trong cơ thể người vừa chết là việc bình thường, việc này có ảnh hưởng hay
làm trở ngại gì cho thần thức của người chết không ?
- Dilgo Khyentse Rinpoche : Việc hiến tặng
thi thể ấy là một điều tốt, bởi vì nó phát khởi từ động cơ làm lợi lạc cho
người khác với lòng bi mẫn chân thật. Và một khi nó là ước nguyện cuối
cùng của người chết thì tuyệt nhiên không có ảnh hưởng hoặc có hại gì cho
thần thức của họ khi họ rời bỏ thể xác. Trái lại, việc làm tích cực này sẽ
góp phần tạo thiện nghiệp cho người ấy trong đời sống vị lai.
- Garje Khamtul Rinpoche : Nếu một người
muốn hiến tặng thi thể của họ thì nên lấy những bộ phận cần thiết ấy sau
khi người đó chết. Điều này không có gì ảnh hưởng đến tiến trình thần thức
thoát xác và tái sinh của họ.
Hỏi : Có nhiều trường hợp nếu các bộ phận của
thi thể được lấy đi mà thần thức của họ chưa rời khỏi thể xác thì sao ?
- Dilgo Khyentse Rinpoche : Điều này tùy
thuộc vào lòng bi mẫn và ước nguyện của người chết. Nếu người ấy đã từng
bày tỏ nguyện vọng bố thí lớn lao đó một cách chân thành, thì có thể lấy
đi những bộ phận cần thiết ngay cả trước khi tim ngừng đập, cũng không có
hại gì cho thần thức.
- Garje Khamtul Rinpoche : Như tôi đã nói
trên, thần thức sẽ rời khỏi thể xác khi ta đụng chạm đến thi hài của họ,
chẳng hạn như ta kích thích vào vùng đỉnh đầu để chỉ dẫn cho thần thức
thoát ra. Một khi thần thức đã ra rồi thì bạn có thể lấy đi những thân
phần cần thiết. Do đó, nên lưu ý giúp người chết làm phép chuyển di thần
thức trước khi lấy những thân phần của họ.
Hỏi : Còn phương pháp đông lạnh (Cryonics)
thi hài sau khi chết thì sao ?
- Dilgo Khyentse Rinpoche : Việc ấy hoàn toàn
vô nghĩa, không đem lại một lợi ích nào. Thần thức người ấy không thể quay
lại thi thể một khi người ấy đã chết thật sự.
CHUẨN BỊ CHO CÁI
CHẾT
Hỏi : Phương pháp nào tốt nhất để chuẩn bị
cho cái chết ?
- Dilgo Khyentse Rinpoche : Phương pháp tốt
nhất để chuẩn bị cho cái chết của mỗi người là nên tu tập tâm linh trong
suốt cuộc đời mình.
- Kirti Tsenshab Rinpoche : Một lần nữa tôi
phải đề cập đến hai hạng người, thứ nhất là tín đồ theo đạo Phật, thứ hai
là những người không có đạo.
Đối với hạng người thứ nhất đã từng quy y và
tu học theo Chánh pháp, khi họ biết rằng cái chết đang đến với họ thì đó
là thời gian giúp họ tinh tấn hơn trong việc tu tập của mình.
Đối với hạng người thứ hai, chưa hề nghĩ gì
về con đường đạo trong cuộc đời họ, nên khuyên họ cố gắng phát khởi tâm
đạo, tâm đạo ở đây nghĩa là suy nghĩ về điều tốt, nghĩ và cầu mong điều
tốt đến với người khác. Đây là cách tốt nhất dành cho những người không có
đạo chuẩn bị cái chết.
- Garje Khamtul Rinpoche : Giống như ta đi
đến một nha sĩ, đó là điều không ai tránh khỏi, việc cuối cùng cũng phải
xảy ra, chết cũng thế, vì vậy có gì tốt đẹp bằng nếu ta bắt đầu suy nghĩ
về nó ngay bây giờ. Để biết rõ về cái chết ta nên hỏi các bậc thầy của
mình, những người có kiến thức về cái chết, các ngài sẽ cho chúng ta biết
con người sẽ chết như thế nào. Nếu ta có những hiểu biết như thế, ta thật
sự không sợ chết và nó sẽ giúp đỡ ta rất nhiều.
- Geshe Lamrimpa : Nếu một người đang chuẩn
bị một nơi tái sinh hạnh phúc thì sẽ loại bỏ tham sân si và tịnh hóa mười
ác nghiệp nếu đã phạm phải trong quá khứ, bày tỏ sự hối tiếc và lập nguyện
không vi phạm giới pháp trong tương lai. Đây là lời dạy chung cho tất cả
mọi chúng sinh. Đối với một người đã thọ giới để tu hay một hành giả Mật
giáo, họ phải sám hối và tịnh hóa tất cả giới luật và lời phát nguyện mà
họ đã phá bỏ.
Mặt khác, nếu muốn đời sau giàu sang thì
phải thực hành pháp bố thí, muốn được hạnh phúc thì phải giữ giới hạnh,
muốn được trường thọ nên tránh sát sinh, muốn được ngưỡng mộ và tôn kính
phải tu pháp nhẫn nhục. Muốn giải thoát thì tu tập sáu hạnh của Bồ Tát,
v.v... Nói chung, nếu chúng ta loại bỏ hết ác nghiệp, tịnh hóa hết tất cả
nghiệp chướng và hướng đến hành vi công đức, tạo cho ta có một sức mạnh hỷ
lạc về nội tâm. Khi cái chết đến với ta, chính năng lực công đức và giới
hạnh ấy sẽ tiếp sức cho ta đi tới một đời sống khác an toàn và hạnh phúc.
Đó là cách tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết của mọi người.
Hỏi : Phật giáo có một vài phương pháp thiền
quán niệm về cái chết và tiến trình chết. Loại thiền này có lợi ích gì ?
- Dilgo Khyentse Rinpoche Theo triết học của
Phật giáo, phương pháp thiền quán tưởng về cái chết là nhắm vào mục đích
để ta ý thức được cuộc đời là vô thường và ta sẽ trở nên quen thuộc với
những diễn biến khác nhau về cái chết mà con người sẽ phải đi qua. Điều đó
rất có ích. Trong pháp tu này, hành giả biết rõ những dấu hiệu xảy ra
trong tiến trình đưa đến cái chết như sự suy yếu của sáu giác quan, và sự
tan rã dần của thân tứ đại... Rồi tiếp đó, ta cũng nhận ra rằng khi ta tái
sinh vì sự hỗn hợp giữa tinh cha, huyết mẹ và thần thức của ta ; một lần
nữa, ta lại thấy cái chết đến với ba thứ này, tiến trình sinh tử này không
dứt cho đến khi ta giác ngộ. Theo triết học Phật giáo Tây Tạng thì luyện
tập quán tưởng về cái chết là một pháp tu rất quan trọng.
VỊ THA LÀ TRÁI TIM
CỦA PHẬT GIÁO
Hỏi :, Nhờ Phật giáo mà ở phương Tây trong
những năm gần đây có sự phát triển rất nhanh về phong trào thiết lập những
Tiếp Dẫn Đường để chăm sóc cho những người sắp lâm chung. Các ngài có nghĩ
rằng chúng ta có thể đem lại lợi lạc cho người chết không ?
- Garje Khamtul Rinpoche : Tôi cho rằng phong
trào này rất tốt bởi vì người phục vụ và người được chăm sóc đều biết rõ
mình cuối cùng cũng đi đến cái chết, do đó khi còn sống trên đời này họ cố
gắng làm mọi điều tốt đẹp và nhất là giúp đỡ những người sắp lâm chung.
Giống như khi bạn đi máy bay, biết rằng bạn đang ở trên không trung và có
cảm giác sợ hãi. Nhưng khi bạn thấy xung quanh có đủ tất cả những tiện
nghi để giúp đỡ bạn thì bạn cảm thấy như mình đang ở nhà, bạn cảm thấy
hạnh phúc về điều đó. Tóm lại, tôi thấy rằng các Tiếp Dẫn Đường ở phương
Tây rất tốt, vì nó giúp cho người sắp lâm chung cảm thấy an toàn, tự tin
và không sợ hãi nữa.
- Kirti Tsenshab Rinpoche : Ý tưởng thành lập
các dưỡng Đường Tiếp Dẫn cho người sắp lâm chung là biểu trưng cho lòng bi
mẫn vô biên của chúng ta đối với người sắp chết. Đây là một phong trào rất
tốt mà tôi cho rằng phát triển nhiều Trung tâm thêm chừng nào tốt chừng
ấy. Ở phương Tây xưa nay không quan tâm đến vấn đề tu tập tâm linh, nên
người sắp chết rất cần sự nâng đỡ về tinh thần ở cuối đời, điều này giúp
cho họ có một sức mạnh nội tâm để vượt qua nỗi hãi hùng của cái chết.
Cuối cùng, trái tim của Phật giáo là lòng vị
tha, nghĩ đến người khác và giúp đỡ cho họ. Chúng ta phải nỗ lực nhiều hơn
nữa để có thể đem lại sự an ủi, nâng đỡ tinh thần cho họ mà xã hội đã một
thời bỏ rơi và thiếu quan tâm.
Từ đáy lòng mình, tôi muốn nói lời cảm ơn
Thầy (người thực hiện cuộc phỏng vấn này là sáng lập viên một Tiếp Dẫn
Đường ở Úc Đại Lợi) rất nhiều và tôi phải nói rằng Thầy đừng nghĩ rằng
mình đang cô đơn với việc làm này. Vì tất cả những gì mà Thầy đang làm
hiện nay là đại diện cho một đường hướng hoạt động của Phật giáo trong
thời hiện đại. Chư Phật, Bồ tát và các vị Thiên thần Hộ pháp luôn ủng hộ
và luôn ở phía Thầy.
Tổng Hợp
theo Mandala tháng 9/1997
---o0o---
Vi tính: Ngọc Dung
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-12-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục