LỜI VÀNG CỦA THẦY TÔI

Nguyên Tác: O-rgyan-'jigs-med-chos-kyi-dban-po

(Kunzang Lama'i Shelung)

Bản dịch Anh ngữ: The Words of my Perfect Teacher/Patrul Rinpoche

Của Nhóm Dịch thuật Padmakara

Nhà Xuất bản Shambhala

Bản dịch Việt ngữ: Nhóm Longchenpa 2004

----o0o---- 

 

THUẬT NGỮ

 

A La Hándgra bcom pa.

Trở thành một A La Hán là mục đích cuối cùng của Thanh Văn Thừa. Nó là một loại Niết Bàn, vượt lên sự tái sinh, nhưng không đạt được Phật Quả. Nghĩa đen của từ Tây Tạng muốn nói tới bậc đã chế ngự được những kẻ thù, tức là những cảm xúc tiêu cực.

Abhidharma mngon pa

Luận Tạng, một trong Tam Tạng. Nền tảng của khoa tâm lý và luận lý học Phật Giáo. Nó mô tả vũ trụ, những loại chúng sinh dị biệt, những bước trên con đường đi tới giác ngộ, sự bác bỏ những niềm tin sai làm, v..v..

Acaryaslod dpon

                        1 - vị Thầy

2 – tương đương với Đạo sư tâm linh hay Lạt ma. Xem Đạo sư Kim Cương

Acarya Padma Slod dpon padma,

                        Đạo sư Padma, xem Padmasambhava

Adhicittasems lhag can,

                        tiền than của Garab Dorje trong các cõi trời.

Akanaistha – ‘o min,

Nghĩa đen “tối thượng.” Cõi trời hay cõi Phật tối cao. Có sáu nơi khác nhau mang tên này, từ cõi trời thứ tám của các vị thiên của Sự Thiền Định thứ Tư lên tới cõi Akanistha tuyệt đối, một cõi Phật siêu vượt mọi sự nghĩ bàn.

Aksobhyami bskyod pa

                        Đức Phật Bất Động, Đức Phật thuộc Kim Cương Bộ. Xem Năm Bộ.

Ambrosiabdud rtsi, Phạn. amrita

Nghĩa đen: sự bất tử. Chất cam lồ (rtsi) chiến thắng quỷ ma (bdud)  của sự chết. Nó là một biểu tượng của trí tuệ.

Amitabhaod dpag med

Nghĩa đen: vô số ánh sang. Đức Phật Vô Lượng Quang (A Di Đà) thuộc Liên Hoa Bộ. Xem Năm Bộ.

Amitayustshe dpag med,

                        Nghĩa đen: vô số cuộc đời. Đức Phật của sự trường thọ (Vô Lượng Thọ).

Amoghasiddhadon yod grub pa

Nghĩa đen: đấng thành tựu điều có ý nghĩa. Đức Phật Bất Không Thành Tựu  thuộc Nghiệp Bộ. Xem Năm Bộ.

Ananda – kun dga’ bo

một người em họ của Đức Phật, sau trở thành thị giả của Ngài. Ananda có công trong việc giữ gìn Giáo lý sau khi Đức Phật tịch diệt, bởi ông có thể nhớ lại mọi sự mà ông đã được nghe Đức Phật giảng dạy.

Anadagarbhabde mchog snying po

                        Danh hiệu khác của Adhicitta

Angulimalasor mo threng ba

một trong những đệ tử của Đức Phật, mặc dù đã từng giết hại chin trăm chin mươi chin người, những nhờ tịnh hoá các hành vi bất thiện của mình, Ngài đã đạt cấp độ A La Hán. Danh hiệu của Ngài có nghĩa là “Tràng hoa các Ngón tay.”

 

Anuyoga

Cái thứ hai trong ba yoga nội và thứ tám trong chin thừa, theo cách phân loại của phái Nyingmapa. Trong yoga này điểm nhấn chính được đặt trên giai đoạn toàn thiện (thành tựu), đặt biệt là sự thiền định về các kinh mạchnăng lực.

Arura và kyururaTerminalia chebula và Emblica officinalis

                        Các cây thuốc. Arura là biểu tượng của Đức Phật Dược Sư.

Aryadeva‘phags pa lha (thế kỷ thứ 2),

đệ tử nổi tiếng nhất của Nagarjuna. Ngài đã bình giảng giáo lý của vị Thầy trong vài luận thuyết về triết học Madhyamika. Xem Trung Đạo.

Asanga – thogs med (thế kỷ thứ 4)

một trong Sáu Vật Trang sức, vị sang lập phái Yogachara và tác giả của nhiều sastra quan trọng, đặc biệt là năm giáo lý mà Ngài nhận từ Đức Maitreya (Di Lặc)

Atisa – (982 - 1054)

Cũng được gọi là Dipamkara hay Jowo Atisa (jo bo a ti sha). Đạo sư và học giả Ấn Độ vĩ đại này, một trong những vị Thầy chính ở tu viện nổi tiếng Vikramasila, là một môn đồ trì giữ nghiêm cẩn giới luật tu viện. Ngài thọ nhận các giáo lý Bồ Đề tâm từ nhiều bậc Đạo sư quan trọng, và đặc biệt là từ Chúc công Suvarnadvipa (Dharmakirti), và học tập dước chân vị Thầy này ở Indonesia. Ngài trải qua mười năm ở Tây Tạng, giảng dạy và tham gia phiên dịch các bản văn Phật Giáo. Các đệ tử của Ngài lập nên phái Kadampa.

Atiyoga

Yoga cao nhất trong ba yoga nội, tột đỉnh của Chín Thừa theo cách phân loại của phái Nyingmapa. Xem Đại Viên Mãn.

Avalokitesvaraspyan ras gzigs  (Chenrezi)

một trong Tám Nam Tử Thân Thiết vĩ đại. Tinh tuý của ngữ của tất cả chư Phật, Hoá Thân của lòng bi mẫn của các Ngài.

Ấn Phẫn nộ (đe doạ)               t – sdigs mdzubs, Phạn  tarjani mudra,

                        Cử chỉ đe doạ, chỉ tay bằng ngón trỏ và ngón út.

Ba Anh em – sku mched gsum,

                        Ba đệ tử chính của Drom Tonpa: Potowa, Chengawa Puchungwa.

Ba cấp độ thanh tịnhdag pa sa gsum,

Các cấp độ (địa) Bồ Tát thứ tám, thứ chín và thứ mười, gọi như thế là vì các Bồ Tát ở các cấp độ này hoàn toàn thoát khỏi sự che chướng của các cảm xúc tiêu cực. (nyon sgrib).

Ba giới nguyệnsdom pa gsum, Phạn:  trisamvara,

Các giới nguyện Biệt Biệt Giải Thoát, các giới luật Bồ Tát và các samaya của Mật Chú Thừa.

Ba Gốc -  rtsa gsum,

Lạt Ma, cội gốc hay suối nguồn của các ân phước; Bổn Tôn, suối nguồn của các sự thành tựu; và Dakini (hay các vị Bảo trợ), suối nguồn của các hoạt động.

Ba mạn đà la – dkyil ‘khor gsum,

Các mạn đà la của thân, khẩu và ý là những hiển lộ của bản tánh nguyên sơ: các sắc tướng là Bổn Tôn, các âm thanh là thần chú và các tư tưởng là trí tuệ.

 

Ba mươi bagsum cu rtsa gsum, Phạn: Trayastrimsa,  

một cõi trời trong Dục Giới, trụ xứ của Indra và ba mươi hai bộ trưởng của ông. Xem tam giới.

Ba mươi lăm vị Phật -  sangs rgyas so lnga hoặc bde gshegs so lnga

Ba mươi lăm vị Phật Sám hối, tượng trưng cho sự hiện diện khắp nơi của chư Phật, sẵn sàng tịnh hoá chúng sinh thoát khỏi những lỗi lầm của họ trong tất cả ba mươi lăm hướng trong không gian (bốn hướng chính, bốn hướng trung gian, tám và mười sáu hướng phụ, trung ương, điểm thấp nhất và điểm cao nhất).               

Ba độc-  dug gsum

                        Ba loại cảm xúc tiêu cực gồm tham, sân và si. Xem năm độc.

Ba phương pháp siêu việt dam pa gsum.

                        Xem sự chuẩn bị, phần chính và sự kết thúc.

Ba than (kaya)sku gsum, Phạn: trikaya,

Nghĩa đen: Ba Thân: ba phương diện của Phật Quả: Pháp Thân, Báo Thân Hoá Thân.

Ba thực phẩm ngọtmngar gsum

                        đường, mật đường và mật ong.

Ba thực phẩm trắng – dkar gsum

sữa, bơ và sữa đông, theo truyền thống là những món được coi là những thực phẩm rất thanh tịnh.

Ba thờidus gsum, Phạn: trikala,

                        Quá khứ, hiện tại và tương lai.

Ba ý niệm‘khor gsum

chủ thể, đối tượng và hành động, được tri giác như có mọt sự hiện hữu chân thực và độc lập.

Bậc khám phá kho tang (Khai Mật Tạng), xem kho tàng tâm linh.

Bậc siêu phàmskyes bu dam pa,

“bậc chứng ngộ có khả năng hành động vì sự lợi lạc của những người khác ở một phạm vi rộng lớn.” DICT.

Bẩm sinh (trí tuệ, hỉ lạc) – lhan skyes, Phạn: sahaja,

Nghĩa đen: đồng sinh ra, có nghĩa là trí tuệ, sự hỉ lạc, và Niết Bàn nói chung hiện diện tiềm tàng cho dù ta kinh nghiệm sự vô minh, đau khổ và luân hồi sinh tử. Hai phương diện của một bản tánh và cùng một bản tánh thì “đồng sanh”, nhưng được tri giác như những gì đối nghịch bởi những tâm thức không giác ngộ

Bất nhiễm (hành động) – zag med, Phạn: anasrava,

                        được làm không có các ý niệm về chủ thể, đối tượng và hành động.

Bằng hữu tâm linhchos grogs,

Các đệ tử của cùng một vị Thầy, hay với những vị mà ta đã nhận giáo lý. Có những mối lien hệ hài hoà với những người như thế được coi là điều

trọng yếu, đặc biệt là trong Kim Cương thừa.

Bà la mônbram ze

                        một trong bốn đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ thời xa xưa, đẳng cấp tăng lữ.

Bà Mẹ Đen Phẫn nộ Đích thực ma cig khros ma nag mo, Phạn: Krodhakhali,

Nghĩa đen: bà mẹ sắc đen và phẫn nộ. Một hiển lộ của Samatabhadri trong than tướng Báo Thân phẫn nộ, một phương diện của Vajravarahi (rdo rje phag mo)

 

Bài ca kim cương rdo rje mgur, bài ca (mgur)

diễn tả những kinh nghiệm nội tại của một yogi, sự chứng ngộ của Ngài về bản tánh bất hoại (kim cương) tối hậu.

Bản tánh cốt tuỷ, sự biểu lộ tự nhiên và lòng bi mẫnngo bo, rang bzhin, thugs rje.

Cái thấy của Đại Viên Mãn: bản tánh cốt tuỷ của tâm và tất cả các hiện tượng là tánh Không; sự biểu lộ bản tánh đó là sự trong sang; lòng bi mẫn của nó thì rộng khắp.

Bảo sanh Như Lai (Ratnasambhava)rin chen ‘byung gnas

                        Đức Phật thuộc Bảo Sanh Bộ. Xem năm Bộ.

Báo Thân (Sambhogakaya)  - longs spyod rdzogs pa’I sku

Thân Hỉ lạc Hoàn hảo, phương diện chói sang tự nhiên của Phật Quả, chỉ được nhận biết đối với các bậc chứng ngộ cao cấp.

Bảy sự giàu có cao quý ‘phags pai’I nor bdun Phạn: saaptadhanam

niềm tin, giới luật, rộng lớn (bố thí), kiến thức, tận tâm, khiêm tốn và trí tuệ.

Bảy nhánh – yan lag bdun, Phạn: satanga

một hình thức cầu nguyện gồm bảy phần: lễ lạy, cúng dường, sám hối, hoan hỉ, cầu thỉnh các vị Thầy chuyển Pháp luân, khẩn cầu các Ngài không nhập Niết Bàn, và hồi hướng công đức.

Bảy thuộc tính của vương quyềnrgyal srid sna bdun, Phạn: saptaratna

bảy tài sản của một Hoàng Đế của thế giới, mỗi tài sản có một ý nghĩa tượng trưng. Đó là bánh xe vàng quý báu, viên ngọc như ý, nữ hoàng tôn quý, thượng thư tôn quý, voi quý, ngựa quý và vật quý nói chung.

Bahagavan (Thế Tôn)bcom ldan ‘das,

một tính ngữ của Đức Phật. Ngài từng chế ngự bốn quỷ ma, sở hữu (ldan) mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, và siêu vượt (‘das) sinh tử Niết Bàn.

Brahma (Phạm Thiên)tshangs pa.

Trong Phật Giáo Brahma không được coi là một Bổn Tôn vĩnh cửu mà như vị cai quản các vị trời của Sắc Giới.

Bhrikutijo mo khro gnyer can,

một trong những thân tướng của Tara, nữ Bồ Tát của lòng bi mẫn. Danh hiệu này có nghĩa là “Bà có một vẻ mặt trang nghiêm phẫn nộ.”

Biệt Giải thoát giới (Ba la đề mộc xoa) – so sor thar pa,

Nghĩa đen: sự giải thoát cá nhân. Các giới nguyện của sự giải thoát cá nhân là tám loại giới nguyện được dạy trong Vinaya  (Luật Tạng), từ giới nguyện đơn giản trong một ngày cho tới các giới nguyện đầy đủ của các tu sĩ thọ cụ túc giới. Xem ba giới nguyện.

Binduthig le,

Nghĩa đen: một vòng tròn, quả cầu, điểm hay giọt, nhưng cũng cùng một loại với những ý nghĩa trừu tượng hơn. Chúng tôi đã dung thuật ngữ Phạn này trong chương sự chuyển di tâm thức để nhấn mạnh sự kiện là các cấp độ ý nghĩa thì đa tạp; trong những tình huốn khác chúng tôi dịch thuật ngữ đó là tinh tuý.

Bình kho tàng vĩ đạigter chen po’I bum pa,

một trong tám dấu hiệu tốt lành. Nó tương ứng với cổ họng của Đức Phật và tượng trưng các giáo lý đáp ứng mọi điều mong muốn.

 

 

 

Bodhnath (tháp)bya rung kha shor

Được phát âm là “Jarunghashor”, một trong hai đại tháp trong thung lũng Khathmandu. Lịch sử của việc xây dựng nó gắn liền với sự du nhập của Phật Giáo ở Tây Tạng và được mô tả trong Lịch sử Tháp Jarungkhashor, một terma được Sakya Zangpo khám phá (Keith Dowman phiên dịch là Truyền thuyết của Đại Tháp, Berkeley, Nhà Xuất bản Dharma, 1973).

Bonpo bon po,

Các tín đồ của Bon, truyền thống tôn giáo thịnh hành ở Tây Tạng trước khi Phật Giáo du nhập vào xứ này.

Bồ Đề Tâm – byang chub kyi sems,

Nghĩa đen: tâm giác ngộ. Trên bình diện tương đối, nó là ước muốn đạt được Phật Quả vì sự lợi ích của tất cả chúng sinh, cũng như sự thực hành con đường của lòng từ, bi, sáu sự hoàn thiện siêu việt, v..v..cần thiết để đạt được mục đích đó. Trên bình diện tuyệt đối, nó là sự nội quán trực tiếp vào bản tánh tối hậu.

Bồ Tát byang chub sems dpa’

1 - một hiện thể quyết định đưa tất cả chúng sinh tới sự giác ngộ và đang thực hành con đường Bồ Tát.

2 - một Bồ Tát siêm phàm là bậc đã được một trong mười cấp độ của Bồ Tát.

Bồ Tát Tu viên trưởng – Danh hiệu đôi khi được biết tới của Santaraksita.

Bốn ẩn dụ - ‘du shes bzhi,

Nghĩ tưởng về bản thân như người bị bệnh, thiện tri thức như thầy thuốc, Pháp như phương thuốc, và sự thực hành giáo huấn của Ngài như phương pháp để hồi phục.

Bốn các để thu hút chúng sinhbsdu ba’I ngos po bzhi, Phạn: catuhsamgrahavastu

                        bốn cách trong đó một vị Bồ Tát thu hút các đệ tử

                        1 - rộng lượng (sbyin pa, Phạn: dana)

                        2 – nói trong một cách thế vui vẻ (snyan par smra ba, priyavadita),

3 - giảng dạy phù hợp với nhu cầu của các cá nhân (don mthun pa, samanarthata),

4 – hành xử phù hợp với những gì Ngài giảng dạy (don spyod pa, arthacarya).

Bốn che chướng -  sgrib bzhi

                        Các che chướng của

                        1 – các cảm xúc tiêu cực (phiền não chướng)

                        2 – các che chương bởi nghiệp (nghiệp chướng )

                        3 – các che chướng bởi ý niệm (sở tri chướng)

4 – các che chướng bởi các khuynh hướng quen thuộc. Xem các che chướng.

Bốn dòng đau khổ vĩ đạisdug sngal gyi chub o chen po bzhi

                        Sanh, bệnh, lão và tử.

Bốn hỉ lạc ­– dga’ ba bzhi, Phạn: caturananda,

bốn kinh nghiệm vi tế tăng trưởng của lạc vượt lên các cảm xúc bình phàm, được nối kết với sự thực hành quán đảnh thứ ba, hay quán đảnh trí tuệ.

 

 

 

Bốn hay sáu phần tantra -  rgyud sde bzhi hay drug

Cách phân loại các tantra thành bốn nhóm Kriya, Carya, (hay Upa), Yoga và Anuttarayoga (sự phân loại này thường được dung trong các phái Tân Dịch); hay thành sáu nhóm: Kriya, Upayoga, Yoga, Mahayoga, AnuyogaAtiyoga(thường dùng trong Truyền thống Cũ).

 

Bốn hoạt động  - phrin las bzhi,

bốn loại hoạt động được thực hiện bởi các bậc chứng ngộ để giúp đỡ những người khác và tẩy trừ những hoàn cảnh bất lợi: làm an bình (zhi ba), tăng trưởng (sgyas pa), kiểm soát (dbang) và phẫn nộ (drag po)

Bốn Đại Đế - rgyal chen rigs bzhi, Phạn: caturaprameya

bốn vị trời mà theo truyền thống là những vị bảo trợ của bốn phương. Cõi giới của họ là cõi thứ nhất trong sáu cõi trời trong Dục Giới. Xem ba cõi.

Bốn phẩm tính vô lượng -  tshad med bzhi, Phạn: caturaprameya

từ (byams pa, Phạn: maitri), bi (snying rje, karuna), hỉ (dga’ba, mudita), và xả (btang snyoms, upeksa) vô hạn.

Bốn quán đảnhdbang bzhi

Quán đảnh cái bình, quán đảnh bí mật, quán đảnh trí tuệ quán đảnh từ quý báu.

Bốn quỷ mabdud bzhi,

                        Xem chú thích 230. Cũng xem quỷ ma.

Bốn thiền địnhbsam gtan bzhi, Phạn: caturdhyana,

bốn cấp độ thiền định, kết quả của các thực hành này là được tái sinh trong bốn loại cõi trời trong Sắc Giới . Tuy nhiên chúng cũng có thể được dung trên con đường dẫn tới giác ngộ.

Bốn thân

Ba thân cộng thêm svabhavikakaya, ngo bo nyid kyi sku, Thân Tự Tánh, tượng trưng tính chất bất khả phân của ba thân đầu tiên

Bốn Thị kiếnsnang ba bzhi,

                        bốn giai đoạn liên tiếp trong thực hành thogal trong Đại Viên Mãn:

                        1 – dharmata (Pháp tánh) thực sự xuất hiện (chos nyid mngoon sum),

2 - sự phát triển của kinh nghiệm và các hình tướng (nyams snang gong ‘phel)

3 - phạm vi tối hậu của giác tánh (rig pa tshad phebs),

4 - sự cạn kiệt của các hiện tượng siêu việt tâm thức (chos zad blo ‘das)

Bổn Tôn Tài Bảo – nor lha,

                        một Bổn Tôn mà ta làm nguôi dịu để tăng trưởng tài bảo.

Bốn trạng thái vô sắc -  gzugs med bzhi,

bốn sự thiền định được gọi là không vô biên xứ (nam mkha’ mtha’ yas), Phạn: akasanantya), thức vô biên xứ (nam shes mtha’yas, vijnanasanantya), vô sở hữu xứ (ciyang med pa, akimcanya), và phi tưởng phi phi tưởng xứ (‘du shes med ‘du shes med min, naivasamjnasamjna); bốn cõi trời tương ứng với những thiền định này.

Ca Diếp – xem  Kasyapa

Camaradivipa – rnga yab gling,

một trong tám tiểu-lục địa trong vũ trụ học Ấn Độ thời xa xưa, phía tây của Jambudvipa (cõi Diêm Phù Đề). Đây là lục địa tây nam được ám chỉ là cõi Phật Núi Huy Hoàng Màu Đồng-Đỏ.

Các cấp độ  - xem các cấp độ Bồ Tát.

Các Cấp độ Bồ Tát (các địa)‘phags pa’I sa,

Nghĩa đen: các cấp độ siêu phàm, Phạn: bhumi. Mười cấp độ (thập địa) của sự chứng ngộ được các vị Bồ Tát đạt tới trên con đường của cái thấy (kiến), thiền định (thiền) và siêu vượt sự học. Một vài cách phân loại đã them vào những cấp độ phụ. “Những cấp độ này thì siêu phàm bởi chúng vượt xa chúng sinh bình thường.” DICT.

Các cảm xúc – xem các cảm xúc tiêu cực.

Các che chướng -  sgrib pa, Phạn:avarana,

Các yếu tố ngăn che Phật tánh của ta. Cũng xem: hai che chướng, bốn che chướng.

Các che chướng của các cám xúc tiêu cực – nyon mongs kyi sgrib pa  

Phạn:     klesavarana,

“các niệm tưởng (thù ghét, tham luyến v..v..); chúng ngăn trở ta không đạt được sự giải thoát.” DICT. Xem các che chướng.

Các che chướng của những khuynh hướng quen thuộc –

                        Bag chags kyi sgrib pa, Phạn: vasanavarana,

Các khuynh hướng quen thuộc được in dấu trên nền tảng của tất cả (tạng thức). Xem các che chướng.

Các che chướng thuộc ý niệmshes bya’I sgrib pa,  Phạn: jneyavarana

“đây là những ý niệm về chủ thể, đối tượng và hành động, chúng ngăn trở ta không đạt được sự Toàn Giác.” DICT.

Các cõi thấp- ngan song

                        Các địa ngục, các cõi của ngạ quỷ và súc sinh.

Các giáo huấn cốt tuỷ - man ngag, Phạn: upadesa,

Các giáo huấn giảng dạy các chủ đề giáo lý sâu xa nhất trong một phương pháp cô đọng và trực tiếp vì các mục đích của sự thực hành.

Các Kinh Mạch và Năng lực (các bài tập về) -  rtsa rlung gi ‘phrul ‘khor,

Các bài tập kết hợp sự quán tưởng, thiền định và các chuyển động của thân, trong đó dòng chảy của các năng lực vi tế được kiểm soát và hướng dẫn. Các thực hành này chỉ nên được nỗ lực thực hiện với sự truyền dạy và hướng dẫn đúng đắn, sau khi đã hoàn tất các sự chuẩn bị và đạt được một vài sự vững chắc trong giai đoạn phát triển.

Các kinh nghiệm (thiền định) nyams,

Các kinh nghiệm về lạc, sự quang minh, và vô niệm. Ta không nên dính mắc vào những kinh nghiệm như thế hay lầm chúng là mục tiêu cuối cùng.

Các Đại dương bên ngoàiphyi ‘I rgya mtsho chen po

những đại dương bao quanh Núi Tu Di và bốn lục địa trong vũ trụ học Ấn Độ thời xa xưa.

Các phương – Xem mười phương.

Các sự chuẩn bị -  sngon ‘dro. Xem năm trăm ngàn sự chuẩn bị.

Các sự xuất hiện (hình tướng)snang ba, xem các tri giác.

Các tướng chính và phụ - mtshan dang dpe byad

Ba mươi hai tướng chính (mtshan bzang, Phạn: mahapurusa laksana) và tám mươi tướng phụ (dpe byad, anuvyanjana) của một vị Phật.

Các tri giác – snang ba,

những gì xuất hiện trong mắt của mỗi cá nhân tuỳ theo các khuynh hướng hay sự phát triển tâm linh của họ. NT, trích dẫn Patrul Rinpoche, nói về ba loại tri giác:

1 - những tri giác sai lầm xuất hiện trong tâm thức của chúng sinh trong sáu cõi do sự hiểu biết sai lạc; chúng được gọi là các tri giác mê lầm bất tịnh của thế giới và chúng sinh.

2 – các tri giác về sự tương thuộc (rten ‘brel), các ảo giác thần bí (sgyu ma), tương ứng với tám cách so sánh về sự ảo giáo là điều ta không nhận thức như cái gì đó thật có (xem Phần Một , Chương Hai, Mục III, tiết 2.6.3); đây là những tri giác của các Bồ Tát thuộc mười địa trong trạng thái hậu-thiền định của các Ngài (rjes thob).

3 – các tri giác xác thực, toàn thiện của trí tuệ; khi ta chứng ngộ trạng thái tự nhiên của mọi sự, chúng sinh và thế giới xuất hiện như sự phô diễn của các thân (kaya) và các trí tuệ.

Các vị Bảo trợ - xem Hộ Pháp.

Các vị Bảo trợ của Ba Gia đìnhrigs gsum mgon po,

Các Bồ Tát Manjusri (Văn Thù),  Avalokitesvara (Quán Tự Tại) và Vajrapani  (Kim Cương Thủ). Ba gia đình là những vị được tôn kính thuộc về thân, ngữ và ý của Đức Phật.

Các vị Trời không tri giác  - ‘du shes med pa’I lha,

                        Các vị trời trong Cõi Vô Sắc.

Các vị trời và quỷ malha ‘dre

Nói chung ám chỉ mọi loại tinh linh khác nhau, có ích (lha) hay tai hại (‘dre)

Cái thấy (kiến)  - lta ba,  Phạn: dristi,

                        1 – quan điểm, lòng tin

2 – quan điểm chân xác, sự thấu suốt chân chính về trạng thái tự nhiên của tất cả các hiện tượng.

Cấp độ hợp nhất – zung ‘jug gi go ‘phang,

                        cấp độ của Vajradhara. Sự hợp nhất Pháp Thân Sắc Thân.

Cây Giác ngộ (cây Bồ Đề) – byang chub kyi shing

                        Cây mà ở nơi đó Đức Phật đạt được Giác ngộ.

Cây như ýdpag bsam yui shing,

loại cây kỳ diệu có gốc rễ ở cõi bán-thần nhưng kết trái trong cõi trời thứ Ba mươi ba.

Cam lồ - xem ambrosia.

Chân lý tương đốikun rdzod bden pa, Phạn: samvriti satya,

Chân lý hiển lộ bề ngoài được nhận thức và coi như thực có bởi những tâm thức mê lầm.

Chân lý tuyệt đối  - don dam bden pa,  Phạn: paramarth satya

Chân lý thực sự được nhận thức bằng trí tuệ, không có những sự tạo tác của tâm thức. Tính chất của nó thì “siêu vượt tâm thức, không thể suy lường, không thể diễn bày” (Patrul Rinpoche). Cũng xem chân lý tương đối.

Changme Rinpoche – xem Karma Chagme.

Chakshingwa, (Geshe) lcags shing ba,

                        một geshe Kadampa, đệ tử của Langri Thangpa.

Chekawa Yeshe Dorje – ‘chad kha ba ye shes rdo rje (1101 - 1175),

một geshe Kadampa nổi tiếng. Ngài đã hệ thống hoá các giáo lý của sự Tu tập Tâm thức thành bảy điểm, và làm cho chúng dễ sử dụng hơn. Xem Đại Lộ của sự Tỉnh thức, Jamgon Kongtrul, Shambhala, 1987, và Lòng Dũng cảm Giác ngộ, Dilgo Khyentse, Nhà Xuất bản Padmakara, 1992 và Snow Lion, 1993

Chengawa, (Geshe) spyan snga ba  (1038 – 1103)

đệ tử của Drom Tonpa, bắt đầu sự truyền dạy các giáo huấn khẩu truyền Kadampa.

Chenrezi – spyan ras gzigs,

                        Danh hiệu Tây Tạng của Đức Avalokitesvara.

 

Chén sọ người – thod phor, Phạn: kapala.

đỉnh của một cái sọ được một vài yogi dùng làm một cái chén trong một số nghi lễ. Nó tượng trưng cho sự vô ngã.

Chín Phạm Vi  - klong dgu,

                        Chín phân bộ của Mục Phạm Vi (klong sde) trong giáo lý Đại Viên Mãn.

Cho – gcod,

Nghĩa đen: sự cắt đứt, tiêu diệt. Phương pháp thiền định trong đó ta cúng dường than thể chính mình để cắt đứt bốn quỷ ma trong đó. Machik Labdron đã nhận các giáo lý Cho từ vị Thầy Ấn Độ Padampa Sangye và từ Lạt Ma Kyoton Snam, và truyền bá chúng trong xứ Tây Tạng.

Chogyal Pakpa – chos rgyal ‘phags pa (1235 – 1280)

một trong tám đại học giả của phái Sakya được gọi là Saya Gongma. Ngài trở thành giáo thọ của Hoàng Đế Mông Cổ Kublai Khan và quan Nhiếp Chính của Tây Tạng.

Chuông – drill bu, Phạn: ghanta. Xem vajra (kim cương).

Chủ nghĩa hư vô – chad par lta ba, Phạn: vibhava drsti,

thuyết duy vật, quan điểm phủ nhận sự hiện hữu của những đời trong quá khứ hay tương lai, nguyên lý nhân quả, và v..v..

Chủ nghĩa vĩnh cửu – rtag par lta ba, Phạn:  atmadrsti, satkayadrsti,

niềm tin nơi một thực thể hiện hữu bất diệt, ví dụ như một linh hồn. Được coi như một khuynh hướng triết học cực đoan. Xem chủ nhĩa hư vô.

Chủ nhân mặt đất – sa bdag, Phạn: bhumipati,

                        một tinh linh chiếm cứ một địa điểm.

Chúa tể của những điều Mật nhiệm – gsang ba’I bdag po,

                        một tính ngữ của Vajrapani (Kim Cương Thủ).

Con đường của cái thấy -  mthong lam,  Phạn:  darsanamarga,

Con đường thứ ba trong năm con đường. Nó được gọi như vậy là bởi trên con đường đó ta thực sự nhận ra hai loại vắng mặt của cái “ngã” (có nghĩa là vắng mặt sự hiện hữu chân thực, độc lập), ngã của cá nhân và ngã của các hiện tượng.

Con đường hợp nhất – sbyor lam, Phạn: prayogamarga,

Con đường thứ hai trong năm con đường. Trên con đường này ta tự nối kết hay tự chuẩn bị để nhận ra hai loại vắng mặt trên bản ngã.

Con đường tích tập – tshogs lam, Phạn: sambharamarga,

Con đường thứ nhất trong năm con đường hướng tới sự giác ngộ, theo Bồ Tát Thừa. Trên con đường này ta tích tập những nguyên nhân khiến có thể tiến triển tới giác ngộ.

Cờ toàn thắng – phyogs las rnam par rgyal ba’I rgyal mtshan,

Một trong tám dấu hiệu tốt lành. Nó tương ứng với thân Phật và tượng trưng cho tính chất không thể huỷ diệt của Giáo lý của Ngài.

Cõi – Xem Sáu cõi.

Cõi Brahma (Phạm Thiên) – tshang pa’I jig rten, Phạn: brahmaloka,

                        Nói chung, tất cả các cõi sắc và vô sắc.

Cõi Cực Lạc (Tịnh Độ) – bde ba can, Phạn: Sukhavati,

                        Cõi Phật ở phương Tây của Đức Phật Amitabha.

Cõi Hỉ Lạc – dga’ ldan, xem Trời Đâu suất.

Cõi Tịnh Độ Cực Lạc – bde ba can, Phạn: Sukhavati,

                        Cõi Phật của Đức Amitabha  (A Di Đà)

 

Có điều kiện – ‘dus byas, Phạn: samskrita,

được tạo nên (byas) bởi một sự kết hợp (‘dus) của những nguyên nhân và các điều kiện (duyên). “Những hành vi tích cực có điều kiện là tất cả những gì được thực hiện mà không có sự chứng ngộ tánh Không,” DKR.

Công đức – bsod names, Phạn: punya,

thiện nghiệp, năng lực được phát sinh bởi các hành vi tích cực của thân, ngữ và ý.

Cung điện Liên Hoa Quang – padma ‘od kyi pho brang,

Cung điện của Đức Padmasambhava torng cõi Phật Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ.

Cung điện Toàn Thắng – ranm rgyal pho brang,

                        Cung điện của Trời Indra.

Cuộc vận động (phong trào) thống nhất -  ris med,

Nghĩa đen: không phân biệt. Cuộc vận động tâm linh được tạo nên bởi đại lạt ma lừng danh Jamyang Khyentse Wangpo cũng như Jamgon Kongtrul Lodro Thaye, Lạt ma Mipham, Chogyur Lingpa và Patrul Rinpoche. Đặc điểm của nó là tôn trọng mọi giáo lý và trường phái Phật Giáo.

Cuộn giấy vàng – shog ser,

miếng giấy (không nhất thiết phải là màu vàng) trên đó các bản văn của các kho tàng tâm linh được ghi chép.

Cúng dường lửa – gsur,

một vật cúng dường được làm bằng cách đốt thực phẩm trên than đá. Nó được cúng dường cho chư Phật, các vị bảo trợ, tất cả chúng sinh nói chung và đặc biệt là những tinh linh lang thang và những kẻ mà với họ ta có những món nợ nghiệp. gsur trắng thông thường được chuẩn bị với ba thực phẩm trắng và ba thực phẩm ngọt.  gsur  đỏ được chuẩn bị với thịt.

Cựu dịch – snga ‘gyur,

Danh hiệu được ban cho các giáo lý đầu tiên được dịch từ Phạn ngữ và truyền bá ở Tây Tạng, là giáo lý của Cổ Phái, hay truyền thống Nyingmapa, tương phản với giáo lý được dịch và truyền bá từ thế kỷ thứ mười trở đi và là giáo lý sinh ra Truyền thống Mới (Tân Phái) của Phật Giáo Tây Tạng.

Dagpo Rinpoche – dwags po rin po che (1079 – 1153)

Cũng được gọi là Gampopa, đệ tử nổi tiếng nhất của Milarepa và là nhà sáng lập dòng tu Kagyupa.

Daka – mkha ‘gro

Nghĩa đen: di chuyển trong Pháp Giới, hay dpa’ bo, vị anh hùng. Trong Kim Cương Thừa thì daka tương đương với Bồ Tát. Giống đực tương đương với dakini.

Dakini – mkha’ ‘gro ma,

Nghĩa đen: di chuyển trong Pháp Giới. Nguyên lý nữ được kết hợp với trí tuệ. Thuật ngữ này có vài cấp độ ý nghĩa. Có những dakini thông thường là những hiện thể với một mức độ năng lực tâm linh nào đó, và các dakini trí tuệ là những bậc hoàn toàn chứng ngộ. Xem ba gốc.

Damchen – dam chen (rdo rje legs pa)

                        Một vị Hộ Pháp, bị Đức Padmasambhava buộc phải tuyên thệ.

Darsaka – mthong ldan,

Danh hiệu khác củaAjatasatru, nam tử của Vua Bimbisara (Bình Sa), vua xứ Magadha (Ma Kiệt Đà) và là vị bảo trợ quan trọng nhất của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mặc dù ông đã giết hại thân phụ mình, về sau ông ăn năn và tịnh hoá các hành vi tiêu cực của mình tới mức đạt được cấp độ của một vị Bồ Tát.

Dharmakaya – chos sku,

Nghĩa đen: Pháp Thân. Phương diện tánh Không của Phật Quả. Nó có thể được dịch như thân tướng của chân lý, chiều kích tuyệt đối.

Dharmata (Pháp tánh) – chos nyid,

 “bản tánh trống không.” DICT.

Dharmodgat – chos ‘phags,  

“Pháp Siêu phàm,” vị Bồ Tát mà Sadaprarudita thọ nhận giáo lý về trí tuệ siêu việt.

Diêm Phù Đề (Jambudvipa) – dzam bug ling,

lục địa phía nam, một trong bốn “lục địa” chính trong vũ trụ học của Ấn Độ thời xa xưa, là nơi chúng ta sinh sống. Trong một vài tình huống danh hiệu này ám chỉ miền Nam Á, và trong các tình huống khác nó ám chỉ thế giới trong một ý nghĩa thông thường.

Dipamkara –

                        Pháp danh của Atisa.

Doha

một bài ca trong đó một thành tựu giả (ví dụ như Ngài Saraha hay Virupa) diễn tả sự chứng ngộ của Ngài.

Dòng biểu tượng của các Vidyahara – rig ‘dzin brda yi brgyud,

Dòng truyền dạy các giáo lý bằng phương tiện là những cử chỉ hay biểu tượng.

Dòng Lắng nghe của chúng sinh bình thường – gang zag snyan brgyud,

Dòng truyền dạy mà vị Thầy cần phải sử dụng ngôn từ và đệ tử lắng nghe những lời lẽ ấy, hơn là sự truyền dạy giáo lý bằng tâm-truyền-tâm hay dùng các biểu tượng.

Dòng Tâm truyền của các Đấng Chiến Thắng – rgyal bad gongs brgyud,

                        Dòng truyền dạy giáo lý tâm truyền tâm.

Drikung Kyobpa – ‘bri gung skyob pa (1143 – 1217)

                        vị sáng lập Tu viện Drikung và phái Drikung Kagyu.

Drom Tonpa – ‘brom ston pa,

được gọi  là ‘brom ston rgyal ba’I ‘byung gnas (1005 – 1064), đệ tử  Tây Tạng chính của Atisa, một trong những vị Thầy đầu tiên của phái Kadampa và là vị sáng lập Tu viện Radreng (rva sgreng) (thường được phiên âm là “Reting”).

Druk Pema Karpo – ‘brug padma dkar po  (thế kỷ thứ 16),

Drukchen Rinpohe thứ 3, Đạo sư và tác gia vĩ đại của phái Drukpa Kagyu và là vị sáng lập Tu viện Sangak Choling.

Đà ra ni – gzungs,

thần chú được ban phước bởi một vị Phật hay Bồ Tát, nó có năng lực cứu giúp chúng sinh. Có nhiều trong các sutra (Kinh), thường khá dài.

Đại Ca Diếp – ‘od srung chen po,

một trong những đệ tử Thanh Văn xuất sắc nhất của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và là vị lãnh đạo trong số những người đầu tiên biên soạn Abhidharma. Sau khi Đức Phật tịch diệt, Ngài trở thành Giáo Chủ đầu tiên của Giáo Pháp, được giao phó trọng trách hộ trì Giáo lý và Tăng Đoàn.

Đại Thành tựu giả - grub chen,

                        một yogi đã đạt tới sự thành tựu siêu việt.

Đại Thừa – theg pa chen po, Phạn: Mahayana,

thừa (cỗ xe) của các Bồ Tát, đại là bởi nó nhắm tới Phật Quả viên mãn vì sự lợi lạc của tất cả chúng sinh.

Đại Viên Mãn – dzogs pa chen po,

Tên khác của Atiyoga, tột đỉnh của chín thừa. Viên Mãn có nghĩa là tâm thức, trong bản tánh của nó, bao gồm một cách tự nhiên mọi phẩm tính của ba thân: bản tánh của nó là tánh Không, Pháp Thân: biểu lộ tự nhiên của nó là sự trong sáng, Báo Thân, và lòng bi mẫn của nó thì trùm khắp, Hoá Thân. Đại có nghĩa là sự viên mãn này là điều kiện tự nhiên của mọi sự. AT: sự đại toàn thiện. Giáo lý của Đại Viên Mãn được phân loại trong ba phần: phần tâm (sems sde), phần Pháp Giới (klong sde), và phần giáo huấn cốt tuỷ (man ngag gi sde). Cũng xem Dẫn nhập.

Đàm – bad kan,

                        một trong ba thể dịch theo y khoa Tây Tạng. Cũng xem gió, mật.

Đạo sư Kim Cương – rdo rje slod spon, Phạn: vajracarya,

“Đạo sư tâm linh, bậc giới thiệu ta với một mạn đà la của Mật chú thừa và          ban những giáo huấn giải thoát.” DICT.

Đạo Sư Quý báu xứ Oddiyana – o rgyan rin po che,

                        một trong những danh hiệu của Đức Padmasambhava (Liên Hoa Sanh).

Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm -  ‘phags pa thugs rje chen po,

một trong những danh hiệu được tặng cho Đức Avalokitesvara (Chenrezi), Bồ Tát của lòng bi mẫn.

Đấng Chiến Thắng – rgyal ba, Phạn: jina

                        một vị Phật.

Đấng Toàn Giác – kun mkhyen chen po,

                        Danh hiệu được biết tới nhiều của Ngài Longchenpa.

Đấng Tuyên Thuyết Giáo Pháp bằng Giọng Nói Du Dương Vô Tận – sgra dbyangs mi zad pa sgrogs pa

                        Danh hiệu một vị Phật.

Đề Bà Đạt Đa – lhas byin,

một anh em họ của Đức Phật mà sự ganh tị của ông đã ngăn cản ông không rút ra được bất kỳ lợi ích nào từ các giáo lý.

Đệ tử cư sĩ – dge bsnyen, Phạn: upasaka,

người trì giữ các giới nguyện quy y và năm giới nguyện khác (hay chỉ một vài giới nguyện trong số đó): không sát sanh, không nói dối, không trộm cắp, không tà dâm, và không dùng chất gây say. Nó là một trong tám loại giới nguyện Pratimoksa (Biệt Biệt Giải Thoát).

Đi nhiễu – skor ba

Hành vi tôn kính trong việc đi bộ theo chiều kim đồng hồ, tập trung và với sự tỉnh giác, xung quanh một linh vật, ví dụ như một điện thờ, tháp, núi thiêng, hay ngôi nhà, và thậm chí con người, của một vị Thầy tâm linh.

Địa ngục – dmyal ba, Phạn: naraka,

một trong sáu cõi, trong đó ta kinh nghiệm nỗi khổ mãnh liệt. Trong cõi địa ngục ta thường kinh nghiệm những hậu quả của các hành vi hơn là tạo nên những nguyên nhân mới.

Đối tượng hay thể chất samaya – dam tshig gi rdazas,

đối tượng hay thành phần thiết yếu đối với hay để nâng cấp những thực hành Kim Cương Thừa.

Đức Phật thứ Hai – sangs rgyas gnyis pa,

                        một tính ngữ của Padmasambhava.

Gampopa – sgam po pa, xem Dagpo Rinpoche.

Gandharva – dri za,

Nghĩa đen: người ăn mùi hương. Tinh linh sống bằng các mùi hương. Cũng được dùng cho chúng sinh trong trạng thái trung gian.

Garab Dorje – dga’ rab rdo rje,

Danh hiệu Tây Tạng thì nổi tiếng hơn các danh hiệu bằng Phạn ngữ của Ngài là Pramudavajra, Prahevajra, Surativajra hay Prajnabhava. Bậc Thầy đầu tiên mang thân tướng con người trong dòng truyền thừa Đại Viên Mãn.

Garuda – khyung,

một con chim thần thoại có kích thước rất lớn có thể bay ngay khi trứng nở, tượng trưng cho trí tuệ nguyên sơ. Năm màu trong thân nó đôi khi tượng trưng cho năm trí tuệ. Nó là địch thủ của các naga (rồng), và được miêu tả với một con rắn trong mỏ của nó, tượng trưng cho việc tiêu diệt các cảm xúc tiêu cực.

Gelugpa – dge lugs pa,

một trong các trường phái chính của Truyền thống mới, được ngài Je Tsongkhapa (1357 – 1419) sáng lập và lúc đầu được gọi là Gandenpa theo tên trụ xứ của Ngài, tu viện Ganden.

Geshe – dge bshes,

thiện tri thức. Thuật ngữ thường dùng cho một vị Thầy Kadampa. Về sau nó được dùng để chỉ một tiến sĩ triết học trong phái Gelugpa.

Ghost – ‘dre,

                        Tinh hồn của người chết hay tổng quát hơn nữa, tinh linh hoạ hại.

Giai đoạn phát triển – bskyed rim, Phạn: utpattikrama,

“yoga thiền định qua đó ta tịnh hoá bản thân về các dính mắc quen thuộc của ta với bốn loại của sự sinh ra và trong đó ta thiền định về các sắc tướng, âm thanh và tư tưởng có bản tánh của các Bổn Tôn, thần chú và trí tuệ.” DICT.

Giai đoạn toàn thiện (thành tựu) – rdzogs rim, Phạn: sampannakrama.

1 – “với các đặc điểm” (mtshan bcas), đó là sự thiền định về các kinh mạch và năng lực của thân được quán tưởng là một thân kim cương.

2 – “không có đặc điểm” (mtshan med), đó là giai đoạn thiền định trong đó các sắc tướng được quán tưởng trong giai đoạn phát triển được tan hoà và ta an trụ trong kinh nghiệm về tánh Không.

Giác tánh – rig pa, Phạn: vidya,

trạng thái nguyên sơ của tâm, tươi mới, bao la, chói người, và siêu vượt niệm tưởng.

Gió

                        1 – xem năng lực.

                        2 - một trong ba thể dịch theo y khoa Tây Tạng. Cũng xem mật, đàm.

Gotsangpa (Gonpa Dorje) – rgod tshang pa mgon po rdo rje (1189 – 1258)

Đạo sư Kagyupa, đệ tử của Tsangpa Gyare, vị sáng lập một nhánh của phái Drukpa Kagyu và của nhiều tu viện.

Guru Rinpoche – guru rin po che,

                        Danh hiệu phổ thông nhất của Đức Padmasambhava ở Tây Tạng.

 

Guru yoga – bla ma’I rnal ‘byor,

                        sự thực hành hoà trộn tâm ta với tâm vị Thầy.

Gyalse Rinpoche – rgyal sras rin po che,

Nghĩa đen: Nam tử Quý báu của các Đấng Chiến Thắng. Một danh hiệu được ban cho Thogme Zangpo (1295 – 1369), một Đạo sư vĩ đại của các truyền thống Nyingma và Sakya và tác giả của Ba mươi bảy Yếu tố của một Thực hành Bồ Tát (rgyal sras lag len).

Gyelgong – rgyal ‘gong.

                        một loại tinh linh hiểm ác.

Hai Bậc Siêu Việt – mchog gnyis,

                        Gunaprabha (yon tan ‘od) và Sakyaprabha (sha kya ‘od).

Hai chân lý – bden pa gnyis,

                        Chân lý tuyệt đối chân lý tương đối.

Hai che chướng – sgrib gnyis,

Các che chướng của những cảm xúc tiêu cực (phiền não chướng) và các che chướng thuộc ý niệm  (sở tri chướng). Cũng xem các che chướng  và bốn che chướng.

Hai mươi lăm đệ tử - rje ‘bang nyer lnga,

Các đệ tử Tây Tạng vĩ đại nhất của Đức Padmasambhava. Tất cả các Ngài đã đạt được sự thành tựu siêu việt. Những vị nổi tiếng nhất là Vua trisong Detsen, Yeshe Tsogyal, Vairotsana.  Nhiều Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng là các Hoá Thân của hai mươi lăm đệ tử này.

Hai mươi mốt Genyen – dge bsnyen nyer gcig,

một nhóm tinh linh bị Đức Padmasambhava  khuất phục và trở thành các vị Hộ Pháp.

Hai mục đích – don gnyis,

mục đích, lợi ích hay hạnh phúc (rang don) của riêng ta và mục đích, lợi ích hay hạnh phúc của những người khác (gzhan don). Thường được hiểu trong ý nghĩa tối hậu của mục đích cho bản thân đạt được nhờ sự chứng ngộ tánh Không, Pháp Thân, và mục đích cho những người khác nhờ lòng bi mẫn hiển lộ như Sắc Thân.

Hai sự tích tập – tshogs gnyis, Phạn: sambharadvaya,

sự tích tập công đức (bsod nams, Phạn: punya) và sự tích tập trí tuệ (ye shes, jnana).

Hành giả chai lì – chos dred,

Nghĩa đen: “con gấu Pháp.” Người không bị Giáo Pháp điều phục, người hiểu biết Pháp nhưng không thực hành nó, khiến tâm thức họ trở nên chai cứng..” DICT. Người chỉ có sự hiểu biết trí thức mà không có chút kinh nghiệm nào, nhưng cho rằng mình thấu suốt toàn bộ Giáo Pháp.

Hành vi tích cực – dge ba, Phạn: kusala

“Những gì tạo nên hạnh phúc” (Dudjom Rinpoche). AT: hành vi lợi lạc, đức hạnh.

Hành vi tiêu cực – sdig pa hoặc mi dge ba, Phạn: asubha.

“Những gì tạo nên đau khổ” (Dudjom Rinpoche). AT: hành vi ác hại, việc làm không lành mạnh, điều xấu.

Hỉ Lạc Hiển Lộ - mngon par dga’ ba, Phạn: Abhirati,

                        Tên của một kiếp và của cõi Phật của Đức Phật Aksobhya (Bất Động).

Hiền Kiếp – bskal pa bzang po, Phạn: bhadrakalpa,

kiếp hiện tại, được gọi là hiền (tốt lành) bởi nó là một kiếp trong đó một ngàn vị Phật xuất hiện.

Hộ Pháp – chos skyong, Phạn: dharmapala.

Các vị Hộ Pháp bảo vệ giáo lý không bị suy vi và sự truyền dạy nó không bị quấy nhiễu, xuyên tạc. Đôi khi các Hộ Pháp là Hoá Thân của chư Phật và Bồ Tát, và đôi khi là những tinh linh, các vị trời hay quỷ ma đã bị điều phục bởi một Đạo sư tâm linh vĩ đại và bị buộc phải tuyên thệ.

Hoá Thân (nirmanakaya) – sprul sku

Thân tướng của sự hiển lộ, phương diện của Phật Quả hiển lộ bằng lòng bi mẫn để cứu giúp chúng sinh bình thường.

Hơi ấm (dấu hiệu) – drod rtags,

một dấu hiệu cho thấy sự thực hành đang bắt đầu tiến triển. (Khi một ngọn lửa tạo nên nhiệt thì có nghĩa là nó đã bắt đầu cháy tốt.) Thành ngữ này không đặcbiệt nói tới một kinh nghiệm về thân nhiệt.

Huynh đệ và tỉ muội kim cương – rdo rje spun,

Các hành giả cùng một Thầy, hoặc cùng với những vị ta từng nhận lãnh các giáo lý Kim Cương Thừa. Xem các bằng hữu tâm linh.

Indra (Đế Thích) – brgya byin,

                        Vua cõi trời thứ Ba mươi ba.

Jamgon Kongtrul (Vĩ đại), Lodro Thaye – ‘jam mgon kong sprul blo gros mtha’yas

(1813 – 1899) là một vị Thầy vĩ đại của phong trào không-bộ phái cùng với Jamyang Khyentse Wangpo, chịu trách nhiệm sưu tập vài tuyển tập vĩ đại gồm các giáo lý và thực hành từ mọi truyền thống, kể cả Kho tàng các Giáo lý được Phát hiện lại (rin chen gter mdzod).

Jetsun Mila – re brtsun mi la (1040 – 1123),

Yogi và thi sĩ vĩ đại của Tây Tạng mà tiểu sử và các bài ca tâm linh của Ngài nằm trong số những tác phẩm được yêu quý nhất trong Phật Giáo Tây Tạng. Một trong những đệ tử xuất sắc nhất của Marpa, Ngài ở trong số các Đạo sư vĩ đại nhất vào lúc khởi nguyên của Phái Kagyupa.

Jigme Lingpa – ‘jigs med gling pa  (1729 – 1798)

Xem dẫn nhập của sách này. Ngài được coi là một Hoá Thân hợp nhất của Vimalamitra, Vua Trisong Detsen và Gyalse Lharje. Patrul Rinpoche thường được coi là Hoá Thân về ngữ của Jigme Lingpa.

Jowa và Sakya – jo shag rnam gnyis,

Jowo Mikyo Dorje và Jowo Sakyamuni, hai pho tượng của Đức Phật được đưa sang Tây Tạng thật trang trọng bởi các công chúa xứ Nepal và Trung Quốc mà Vua Songtsen Gampo kết hôn vào thế kỷ thứ 7.

Jowo – jo bo,

Nghĩa đen: chúa công. Một danh hiệu thường được người Tây Tạng sử dụng đối với học giả Ấn Độ Atisa.

Jowo Rinpoche – jo wo rin po che,

một pho tượng tượng trưng cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lúc 12 tuổi, trong điện Jokhang ở Lhasa.

Jungpo – ‘byung po,

                        một loại tinh linh hiểm ác.

Kadampa – bka’ gdams pa,

Phái thứ nhất trong các trường phái thuộc Truyền thống Mới, tuân theo các giáo lý của Ngài Atisa. Phái này nhấn mạnh vào lòng bi mẫn, học tập và giới luật thanh tịnh. Giáo lý của nó được tiếp nối bởi tất cả các trường phái khác, đặc biệt là phái Gelugpa. Phái Gelugpa cũng được gọi là phái Tân Kadampa.

Kagyupa – bka’ brgyud pa,

một trong những trường phái của Truyền thống Mới, nó tuân theo giáo lý được Dịch giả Marpa đem từ Ấn Độ sang Tây Tạng và được truyền dạy tới Ngài Milarepa. Phái này có vài nhánh.

Kapala – ka pa la,

                        một cái chén được làm bằng đỉnh sọ người.

Karma Chagme – karma chags med (thế kỷ 16)

Lạt ma nổi tiếng của phái Kagyupa, người hợp nhất giáo lý của phái Ngài với giáo lý phái Nyingmapa và là giáo thọ của vị khám phá kho tàng Namcho Mingyur Dorje.

Karmapa -  kar ma pa,

Danh hiệu của những đại Lạt ma thuộc phái Kagypa mà dòng truyền thừa Hoá Thân của các Ngài bắt đầu từ Dusum Khyenpa (1110 – 1193). Các vị Karmapa là những tulku đầu tiên được công nhận ở Tây Tạng.

Kasyapa (Ca Diếp) – ‘od srung,

vị thứ ba trong một ngàn vị Phật trong kiếp hiện tại, vị Phật xuất hiện trước Đức Thích Ca Mâu Ni.  Kasyapa cũng là tên của một trong những đệ tử Thanh Văn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Katyayana –

vị A La Hán Ấn Độ là một đệ tử của Đức Phật và ghi chép lại một phần của Abhidharma (A tì đàm).

Kaya (Thân) – sku, xem ba thân, bốn thân, năm thân.

Kết quả của các hành vi – las rgyu ‘bras, Phạn: phala.

                        Xem nghiệp (karma).

Kết quả quy định -  dbang gi ‘bras bu,

Tác dụng của các hành vi lên hoàn cảnh trong đó ta sống trong một đời tương lai.

Kết quả viên mãn – rnam smin gyi ‘bras bu, Phạn: vipakaphala,

thời điểm một hành động có kết quả cực đại, ví dụ như một sự tái sinh trong địa ngục.

Kêu gọi vị Thầy từ xa – bla ma rgyang ‘bod

                        một loại cầu nguyện khao khát vị Thầy tâm linh của ta.

Khampa Lungpa -  khams pa lung pa (sgang kha’kya yon tan) (1025 – 1115)

                        Một Lạt ma Kadampa, một trong những đệ tử chính của Drom Tonpa.

Kharak Gomchung, (Geshe) -  kha rag sgom chung,

một Lạt ma Kadampa sống vào thế kỷ thứ 11, đệ tử của Geshe Potowa. Danh hiệu của Ngài có nghĩa là “Tiểu Thiền giả xứ Kharak,” và Ngài nổi tiếng bởi tánh kiên trì và sự áp dụng nghiêm cẩn giáo lý. Ta được biết rằng Ngài đã thọ nhận giáo lý Đại Viên Mãn và thành tựu thân cầu vồng.

Khatvanga

                        một chĩa ba với nhiều vật trang sức có tích chất tượng trưng.

Kho tàng – xem kho tàng tâm linh.

Kho tàng tâm linh – gter ma

Các giáo lý, cùng những pho tượng và những đồ vật khác đã được cất dấu bởi Đức Padmasambhava, Yeshe Tsogyal và những vị khác trong đất, đá, các hồ và cây cối, hoặc ngay cả trong những địa điểm vi tế hơn chẳng hạn như không gian hay tâm vì sự lợi ích của các thế hệ tương lai, và sau đó được phát hiện lại bằng những cách thế phi thường bởi những Hoá Thân các đệ tử của Đức Padmasambhava, là những bậc khám phá kho tàng (những vị Khai Mật Tạng).

Không chỉnh sửa – ma bcos pa, Phạn: naisargika,

để trong trạng thái nguyên sơ của nó, không có những vận dụng hay tạo tác.

Không chiến đấu – ‘thab bral, Phạn: Yama,

Tên của một cõi trời trong Dục Giới, được gọi như thế là bởi nó cao tới mức các vị trời ở đó không phải chiến đấu với các bán-thần. Xem ba cõi.

Khu, Ngok và Drom –

Ba đệ tử chính của Atisa. Danh hiệu đầy đủ của các Ngài là Khuton Tsondru, Ngok Lekpai Sherab, và Drom Gyalwai Jungne (Drom Tonpa).

Khuynh hướng – xem  các khuynh hướng quen thuộc.

Kiếp (Kalpa) – bskal pa.

Một đại kiếp, tương ứng với một chu kỳ hình thành và hoại diệt của một thế giới, được phân ra thành tám mươi kiếp trung gian. Một kiếp trung gian bao gồm một kiếp nhỏ trong đó thọ mạng v.v..tăng trưởng và một kiếp nhỏ trong đó thọ mạng suy giảm.

Kila -  phur ba,

Bổn Tôn phẫn nộ, phương diện hoạt động của tất cả chư Phật, một hiển lộ của Vajrasattva. Sự thực hành liên quan tới Bổn Tôn này được đặt nền trên bốn phương diện của Kila, đó là các phương diện vật thể nghi lễ, lòng bi mẫn, Bồ Đề tâm và trí tuệ-tỉnh giác.

Kim cương –

                        Có các phẩm tính của vajra (kim cương).

Kim Cương Hỉ - bzhad pa rdo rje,

                        Danh hiệu khác của Garab Dorje.

Kim Cương Hoan Hỉ - dgyes pa rdo rje,

                        một danh hiệu của Garab Dorje.

Kinh (Sutra) – mdo

một bản văn súc tích do Đức Phật thuyết; một trong Ba Pitaka. Xem Tam Tạng (Tripitaka).

Kinh mạch – rtsa, Phạn: nadi,

Các kinh mạch vi tế trong đó năng lực vi tế (rlung, Phạn:prana) lưu thông. Các kinh mạch chính bên trái và phải chạy từ lỗ mũi tới dưới rốn, ở đó chúng hợp thành kinh mạch trung ương.

Kinh mạch trung ương – rtsa dbu ma, Phạn: avadhuti

trục giữa của thân vi tế. Sự mô tả chính xác của nó thay đổi tuỳ theo thực hành đặc biệt. Nó tượng trưng cho trí tuệ bất-nhị.

Krisnacarya – nag po spyod pa,

                        một trong tám mươi bốn Đại Thành tựu giả của Ấn Độ.

Kriya (yoga) – bya ba,

Cái thứ nhất trong ba tantra ngoại, cái thứ tư trong chín thừa. Trong loại thực hành này điểm nhấn chủ yếu được đặt trên cách hành xử và sự tinh sạch đúng đắn bên ngoài.

Ksatriya – rgyal rigs,

một trong bốn giai cấp của hệ thống xã hội Ấn Độ thời xa xưa, giai cấp của các vị vua và chiến sĩ.

Kusa – kusha

một loại cỏ được coi là tốt lành, bởi Đức Phật đã an toạ trên một tấm nệm làm bằng loại cỏ này khi Ngài đạt được Giác ngộ.

La Sát – srin po,

                        một loại tinh linh hiểm độc ăn thịt người.

Lạc (kinh nghiệm) – bde stong,

                        đại lạc được kinh nghiệm mà không có sự bám luyến, như trống không.

Lạt ma – bla ma, Phạn: guru

1 - vị Thầy tâm linh, được giải nghĩa là sự trái ngược của bla na med pa, “không có gì siêu việt.”

2 - thường được dùng rộng rãi để chỉ các tu sĩ hay yogi Phật Giáo nói chung.

Lakhe – gla khe

                        loại cây có vỏ ngọt.

Langri Thangpa, (Geshe) – glang ri thang pa (1054 – 1123)

Geshe phái Kadampa, đệ tử của Geshe Potowa, tác giả của Sự Tu Tập Tâm thức trong Tám Bài Kệ và là vị sáng lập Tu viện Langthang.

Lễ lạy – phyag ‘tshal ba

                        Cử chỉ tôn kính, trong đó trán, hai bàn tay và hai đầu gối chạm đất.

Lingje Repa – gling rje ras pa (1128 – 1188)

                        vị sáng lập phái Drukpa Kagyu.

Lỗ mở Brahma – tshang pa’i bu ga, Phạn: brahmarandra,

                        điểm ở trên đỉnh đầu nơi kinh mạch trung ương chấm dứt.

Longchenpa – klong chen rab ‘byams pa (1308 – 1363),

Cũng được gọi là Bậc Toàn Giác hay Vua Pháp, một trong những Đạo Sư tâm linh và học giả phi thường nhất của phái Nyingmapa. Ngài đã biên soạn hơn 250 luận thuyết hầu như bao trùm mọi lý thuyết và thực hành Phật Giáo cho tới Đại Viên Mãn, mà Ngài ở trong số những Đạo Sư vĩ đại nhất diễn giảng nó. Trong những luận thuyết vẫn còn lưu truyền là các tác phẩm nổi tiếng: Bảy Kho Tàng (mdzod bdun), Nyingtk Yabzhi (snying tig ya bzhi), Bộ ba Sự Nghỉ Ngơi (ngal gso skor gsum), Sự Giải Thoát Tự Nhiên (rang grol skor gsum), Bộ ba Sự Xua Tan Bóng Tối (mun sel skor gsum) Các Tác Phẩm Đa Tạp (gsung thor bu).

Luân xa – ‘khor lo, Phạn: cakra,

một trong những trung tâm năng lực ở những điểm khác nhau trên kinh mạch trung ương, từ đó toả ra những kinh mạch nhỏ vi tế đi tới mọi phần trong thân thể.

Luật (Vinaya) -  ‘dul ba

một trong Tam Tạng (Ba Pitaka), gồm có những giáo lý về giới luật và đạo đức học của tu viện nói chung.

Lúc khởi đầu –

Chúng tôi đã dùng từ này để dịch ye trong các thành ngữ như ye nas,  “ngay từ lúc bắt đầu” hay ye dag “thanh tịnh từ lúc khởi đầu.” Tuy nhiên phải hiểu rằng từ này không nói tới một giây phút đầu tiên của sự khởi nguồn hay sáng tạo trong quá khứ xa xôi, mà đúng hơn nó nói tới sự kiện là bản tánh thanh tịnh đã luôn luôn hiện diện một cách nội tại (vô thuỷ).

Machik Labdron – ma cig lab sgron (1031 – 1129)

một đệ tử của Padampa Sangye, Bà trở thành bậc trì giữ các giáo huấn về thực hành Cho của vị Thầy.

Madhyamika – dbu ma’i lam, xem Trung Đạo.

Maha (yoga)

Cái đầu tiên trong ba yoga cao cấp theo cách phân loại Giáo Pháp thành chín thừa. Trong yoga này, sự nhấn mạnh chủ yếu được đặt trên giai đoạn phát triển (bskyed rim)

Mahamudra – phyag rgya chen po

Nghĩa đen: Đại Ấn. Đại Ấn có nghĩa là dấu ấn của bản tánh tuyệt đối trên mọi sự, và mọi hiện tượng thuộc về mạn đà la trí tuệ. Thuật ngữ này có thể được dùng để chỉ rõ giáo lý, thực hành thiền định hay sự thành tựu siêu việt.

Mahayana – theg pa chen po, xem Đại Thừa.

Mạn đà la – dkyil ‘khor,

                        Nghĩa đen: trung tâm và chu vi.

1 - Thế giới với cung điện của Bổn Tôn ở trung tâm, như được quán tưởng trong thực hành của giai đoạn phát triển.

2 -  Thế giới lý tưởng được quán tưởng như một vật cúng dường.

Mạn đà la bảy điểm – mandal so bdun ma,

                        mạn đà la gồm có Núi Tu Di, bốn lục địa, mặt trời và mặt trăng.

Maitreya (Di Lặc) – byams pa,

Đức Phật sắp xuất hiện, vị thứ năm trong kiếp hiện tại. Ngài cũng là một trong Tám Nam Tử Thân Thiết Vĩ Đại.

Maitriyogi – byams pa’i rnal ‘byor pa

                        Một trong ba vị Thầy chính của Atisa.

Mamo – mamo, Phạn: matrika, một loại dakini.

Mandarava –

một dakini, con gái của Vua xứ Zahor ở Ấn Độ. Một trong năm đệ tử và phối ngẫu chính của Padmasambhava và một trong những vị giữ chính yếu giáo lý của Ngài.

Mandhatri – nga las nu,

một Hoá Thân trước của Đức Phật, vị đã trở nên đầy uy lực nhờ năng lực của công đức trong quá khứ, nhưng bị mất năng lực bởi một vài tư tưởng xấu ác.

Mani –

                        thần chú của Đức Avalokitesvara (Chenrezi), om mani padme hum.

Manjusrimitra – ‘jam dpal bshes gnyen

Đạo sư thứ hai trong nhân loại thuộc dòng truyền thừa Đại Viên Mãn, một đại học giả của Nalanda và đệ tử của Garab Dorje.

Màn trướng quý báu – rin po che’i gdugs,

một trong tám dấu hiệu tốt lành, nó tương ứng với đầu của Đức Phật và tượng trưng cho sự che chở khỏi các hành vi tiêu cực.

Mara – bdud,

quỷ ma, xem chú thích 230; kẻ quyến rũ nói chung, những gì gây chướng ngại cho thực hành tâm linh và sự giác ngộ.

Marpa – lho brag mar pa (1012 – 1097)

Đạo sự và dịch giả vĩ đại Tây Tạng, đệ tử của Drogmi, Naropa, Maitripa và các đại thành tựu giả khác. Ngài mang nhiều tantra từ Ấn Độ về Tây Tạng và phiên dịch chúng. Các giáo lý này được truyền xuống Milarepa và các đệ tử khác của Ngài, và là nền tảng của giáo lý dòng Kagyu.

Mật – mkhris pa

một trong ba chất dịch của thân thể, sự mất quân bình của nó tạo nên những loại bệnh tật khác nhau. Cũng xem gió, đàm.

Mật Chú Thừa – gsang ngags kyi theg pa,

một nhánh của Đại Thừa, thừa này sử dụng các kỹ thuật đặc biệt của các tantra để việc đeo đuổi con đường giác ngộ vì tất cả chúng sinh được nhanh chóng hơn.

Mâu Ni (Muni) -  thub pa

                        Nghĩa đen: Đấng Vĩ Đại. Một tính ngữ của một vị Phật.

Melong Dorje – me long rdo rje (1243 – 1303)

đại thành tựu giả Tây Tạng, vị Thầy của Kumaradza, thầy của Longchenpa.

Milarepa – xem Jetsun Mila.

Một trăm Âm – yig brgya,

thần chú của Đức Vajrasattva (Kim Cương Tát Đoả), tượng trưng cho tinh tuý của Một trăm Gia đình.

Một trăm Gia đình – rigs brgya

                        bốn mươi hai Bổn Tôn hoà bình và năm mươi tám Bổn Tôn phẫn nộ.

Mười hai loại giảng dạy trong Tam Tạng – sde snod bcu gnyis

Nghĩa đen: mười hai Tam Tạng, cũng gọi là Mười hai Nhánh Ngữ Tuyệt Hảo (gsung rab yan lag bcu gnyis). Mười hai loại giảng dạy do Đức Phật ban giảng tương ứng với mười hai loại Kinh: khế kinh (mdo sde, Phạn: sutra), trùng tụng (dbyangs bsnyan, geya), thọ ký (lung bstan, vyakarana), phúng tụng (tshigs bcad, gatha), tự thuyết (ched brjod, udana), nhân duyên (gleng gzhi, nidana), bản sanh (skyes rab, jataka), vị tằng hữu (rmad byung, adbhutadharma), luận nghĩa (gtanbabs, upadesa), thú dụ (rtogs brjod, avadana), bản sự (de ltar byung, itivrittaka), và phương quảng (shin tu rgyas pa, vaipulya).

Mười hai phẩm tính của việc tu tập viên mãn (hạnh đầu đà) – sbyangs pa’i yon tan bcu gnyis, Phạn:  dvadasadhutaguna

mười hai thực hành khổ hạnh của các Thanh Văn Phật Độc Giác, chẳng hạn như ngày ăn một bữa, sống ở nơi cô tịch, chỉ sở hữu ba y tu viện, v.v..

Mười Hai Tiếng Cười Kim Cương – rdo rje gad mo bcu gnyis

                        một giáo lý của Đại Viên Mãn.

Mười phương – phyogs bcu,

                        bốn phương chính, bốn phương trung gian, điểm cao nhất, điểm thấp nhất.

Mục Kiền Liên (Maudgalyayana) – mo’u ‘gal gyi bu,

một trong hai đệ tử Thanh Văn nổi tiếng nhất của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài được cho là bậc có các năng lực thần thông vĩ đại nhất.

Nada –

được định nghĩa là chos nyid kyi rang sgra, âm thanh tự nhiên của Pháp Tánh (dharmata). Trong âm hum nó được tượng trưng bởi một ngọn núi lửa nhỏ trên vòng tròn ở đỉnh, biểu tượng cho trạng thái giác ngộ, tinh tuý duy nhất, giác tánh tỉnh thức. Naga (Long, Rồng) – klu, một sinh loài giống như rắn sống ở sâu trong nước hay dưới mặt đất. Mặc dù có các năng lực kỳ diệu, họ được xếp vào loài súc sinh. Xem ba cõi.

Nagarjuna (Long Thọ) – klu sgrub (thế kỷ thứ 1-2)

Đạo sư Ấn Độ, một trong Sáu Vật Trang Hoàng. Ngài giảng dạy giáo lý Trung Đạo và biên soạn nhiều luận thuyết triết học và y học.

Nalanda –

Nơi sinh trưởng gần Rajagriha của đệ tử của Đức Phật là Ngài Xá Lợi Phất, là nơi về sau trong thời của các vị vua Gupta (thế kỷ thứ 5) trở thành một trong những trung tâm tu học vĩ đại nhất của Phật Giáo Ấn Độ. Nó bị phá hủy khoảng năm 1200.

Namcho Mingyur Dorje – gnam chos mi’gyur rdo rje

                        một vị khám phá kho tàng (khai mật tạng) ở thế kỷ 16.

Nanda – dga’bo

một người em họ của Đức Phật, về sau trở thành một trong những đệ tử xuất sắc của Ngài.

Naropa ­– ­na ro pa (1016 – 1100)

học giả và thành tựu giả Ấn Độ, đệ tử của Tilopa và Đạo sư của Dịch giả Marpa.

Năm Bộ - rigs lnga, Phạn: pancakula

Phật, Kim Cương, Bảo Sanh, Liên Hoa và Nghiệp Bộ. Năm Bộ Phật tượng trưng cho thực tánh của mọi sự. Ví dụ như, Năm Đấng Chiến Thắng là thực tánh của năm uẩn, Năm Phối Ngẫu của các ngài là thực tánh của năm yếu tố (năm đại), và năm trí tuệ là thực tánh của năm độc, và v.v..

Năm con đường – lam lnga, Phạn: pancamarga

Năm giai đoạn liêntiếp trong con đường đi tới giác ngộ: các con đường tích tập, hợp nhất, thấy (kiến), thiền định, và con đường siêu việt sự học.

Năm khoa học (Ngũ minh) – rig gnas lnga, Phạn: pancavidya

                        Năm nhánh của sự học tập mà một pandita phải thông suốt:

                        1 - chế tạo các đồ vật (gzo rig gnas, silpavidya),

                        2 – tu sửa các sự vật (bao gồm y khoa; gso ba’i rig gnas, cikitsavidya),

                        3 - ngữ văn (sgra’ rigs gnas, Sabdavidya),

                        4 - luận lý học (gtan tshigs kyi rig gnas, hetuvidya) và

                        5 - triết học (nang don rig gnas, adhyatmavidya).

Năm năng lực – xem năng lực

Năm độc – dug lnga,

                        Năm cảm xúc tiêu cực

                        1 – si, gti mug, Phạn: moha (AT: sự vô minh, lầm lạc)

                        2 – tham, ‘dod chags, raga (AT: dục vọng)

                        3 – sân, zheee sdang, dvesa (bao gồm sự thù ghét, giận dữ, v.v..)

                        4 – ganh tị,  phra dog, irsya,

                        5 – kiêu ngạo, nga rgyal, mana.

Năm samaya thưởng thức -  dang du slang ba’i dam tshig lnga

Năm samaya phụ thuộc trong Đại Viên Mãn. Chúng đề cập tới sự vui hưởng năm loại thịt và năm chất cam lồ, những chất thể được các hành giả Mật Thừa sử dụng mà thông thường được coi là bất tịnh hay bị cấm kỵ.

Năm sự suy hoại – snyigs ma lnga

                        Đó là sự suy hoại của

                        1 – thọ mạng

                        2 – các cảm xúc tiêu cực (năm độc tăng trưởng)

                        3 – chúng sinh (khó có thể giúp họ)

                        4 - thời đại (chiến tranh và nạn đói kém phát triển)

                        5 – quan niệm (các niềm tin sai lạc lan tràn).

Năm sự toàn thiện – phun sum tshogs pa lnga

                        vị Thầy, giáo lý, nơi chốn, các đệ tử và thời gian toàn thiện.

Năm thân (kaya) – sku lnga, Phạn: pancakaya,

ba thân được thêm vào Thân Kim Cương Bất Biến (mi ‘gyur rdo rje’i sku, Phạn: vajrakaya) Thành ngữ cũng có thể ám chỉ năm Bộ Phật: thân, ngữ, ý, các phẩm tính và hoạt động.

Năm tội có quả báo tức thời – mtshams med lnga, Phạn: pancanantariya

                        1 - giết cha hay

                        2 - giết me hay

                        3 - giết một vị A La Hán;

                        4 – gây sự chia rẽ trong Tăng Đoàn;

                        5 – làm một vị Phật chảy máu với sự ác ý.

Những người mắc phạm một trong năm hành vi này bị tái sinh lập tức trong địa ngục Đau khổ Tột cùng sau khi chết, mà không kinh qua trạng thái trung gian.

Năm tội lỗi gần như trọng tội (như năm tội bị quả báo tức thời) ­– nye ba’i mtshams med lnga

                        1 – hành xử bất tịnh với một nữ A La Hán;

                        2 - giết hại một vị Bồ Tát;

                        3 - giết hành giả đang tu tập hướng tới cấp độ siêu việt;

                        4 - trộm cắp tài sản của Tăng Đoàn;

                        5 – phá huỷ một stupa (tháp).

Năm trăm ngàn sự chuẩn bị - ‘bum lnga

Năm thực hành chuẩn bị theo truyền thống: quy y, Bồ Đề Tâm, Kim Cương Tát Đoả (Vajrasattva), mạn đà la và guru yoga, mỗi thực hành được thực hiện một trăm ngàn lần.

Năm trí tuệ - ye shes lnga

Năm phương diện trí tuệ của Phật Quả: trí tuệ của Pháp Giới tuyệt đối (Pháp Giới Thể Tánh Trí, chos dbyings kyi ye shes, Phạn: dharmadhatujnana), trí tuệ như tấm gương (Đại Viên Cảnh Trí, mee long gi ye shes, adarsajnana), trí tuệ bình đẳng (Bình Đẳng Tánh Trí, mnyam nyid kyi ye shes, samatajnana),  trí tuệ phân biệt (Diệu Quan Sát Trí, so sor rtog pa’i ye shes, pratyaveksanajnana), và trí tuệ hoàn toàn thành tựu (Thành Sở Tác Trí, bya ba grub pa’i ye shes, krityanusthanajnana). Xem năm bộ.

Năng lực – rlung, Phạn: prana, vayu,

Nghĩa đen: gió. Đặc tính của nó là “nhẹ và chuyển động.” Tâm được mô tả như cưỡi trên rlung giống như một kỵ sĩ trên lưng ngựa. Năm loại rlung khác nhau điều chỉnh các chức năng của thân:

                        1 – năng lực đi lên (gyen rgyu)

                        2 – năng lực triệt thoái (thur sel)

                        3 – năng lực nồng nhiệt (me mnyam)

                        4 – năng lực toàn-khắp (khyab byed)

                        5 – năng lực duy trì sự sống (srog ‘dzin).

Nền tảng-của-tất cả - kun gzhi, Phạn: alaya

Hình thức ngắn gọn của kun gzhi mam par shes pa, tạng thức, tâm thức nền tảng trong đó các khuynh hướng quen thuộc được tàng trữ. Nó là nền tảng cho những thức khác. Đôi khi, trong một vài giáo lý, kun gzhi được dùng cho bản tánh nguyên thuỷ, sự thuần tịnh nguyên sơ (ka dag).

Nghiên cứu – thos pa,

Nghĩa đen: sự lắng nghe. Theo truyền thống, lắng nghe giáo lý là cách thức chính yếu để học tập ở Tây Tạng. Trước khi nghiên cứu một bản văn, điều quan trọng là nhận lãnh sự truyền dạy qua tai bằng cách thực sự nghe Pháp ngữ của vị Thầy. Như thế, “nghiên cứu” không chỉ là việc đọc một văn bản.

Nghiệp (Karma) – las

Chúng ta thường thích nói “kết quả của các hành động.” “những hành động và kết quả của chúng” hay “nguyên lý nhân quả.” Theo nghĩa đen Nghiệp có nghĩa là “hành động,” nhưng thường được dùng rộng rãi để chỉ kết quả do các hành vi trong quá khứ tạo nên (las kyi ‘bras bu, Phạn: karmaphala).

Nghiệp chướng (các che chướng do các hành vi trong quá khứ) – las kyi sgrib pa, Phạn: karmavarana

Các che chướng được gây nên bởi các hành vi tiêu cực. Xem các che chướng.

Nghiệp lực – las kyi rlung,

Năng lực được quyết định bởi nghiệp của ta, đối nghịch với ye shes kyi rlung, năng lực kết hợp với trí tuệ.

Nguồn mạch của điều tốt lành – dge ba’i rtsa ba, Phạn: kusalamula,

những hành vi tích cực giống như các gốc rễ (rtsa ba) của công đức hay điều tốt lành (dge ba).

Nguyên lý nhân quả - las rgyu ‘bras,

Nghĩa đen: hành vi, nhân và quả..Tiến trình bằng cách đó là mỗi hành vi tạo ra một kết quả tương ứng. Xem Nghiệp.

Nguyện Ước Vô Biên – mos pa mtha yas

một vị Phật vị lai, vị cuối cùng trong một ngàn vị Phật sẽ xuất hiện trong Hiền Kiếp hiện tại này.

Nhị nguyên – gnyis ‘dzin

Nghĩa đen: sự bám chấp vào hay thấy có hai, Quan niệm về “ta” và “người”.

Như Lai – xem Tathagata.

Như thị - de bzhin nyid, Phạn: tathata

                        “bản tánh của mọi sự, tánh Không.” DKR.

Những Cấp độ Siêu phàm – xem Các Cấp độ Bồ Tát.

Những cảm xúc tiêu cực -  nyon mongs pa, Phạn: klesa,

“các hiện tượng trong tâm tấn công thân và tâm và đưa dẫn tới các hành vi ác hại, gây nên một tâm trạng đau khổ trong tâm thức.” DICT. AT: các cảm xúc đau buồn, những đam mê, những phiền não. Từ đồng nghĩa với độc (dug). Xem năm độc.

Những Hồ Tràn Đầy Vĩ Đại -  rol pa’i mtsho chen,

“bảy hồ bao quanh Núi Tu Di, trong đó các Long Vương sinh sống và nô đùa.” DICT.

Những khuynh hướng quen thuộc – bag chags, Phạn: vasana

những kiểu thức quen thuộc của tư tưởng, ngôn ngữ hay hành vi được tạo nên bởi những gì ta từng làm trong những đời quá khứ. AT: những tập quán, thiên hướng, những sự tiêm nhiễm.

Những thiền định thế tục –

những sự thiền định tập trung không đưa tới giác ngộ mà chỉ dẫn tới sự tái sinh trong các cõi trời. Xem bốn thiền định.

Nhục kế - gtsug tor, Phạn: usnisa,

                        chỗ nhô lên trên đầu một vị Phật, một trong ba mươi hai tướng chính.

Niết bàn (Nirvana) – mya ngan las ‘das pa

Trạng thái siêu vượt sự đau khổ. Ý niệm về Niết Bàn không giống nhau trong Thanh Văn Thừa, Đại Thừa Kim Cương Thừa.

Nội quán sâu xa – lhag mthong, Phạn: vipasyana

                        “nhìn với con mắt trí tuệ bản tánh riêng biệt của các sự việc.” DICT.

Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ - zings mdod dpal ri

một cõi Phật do Đức Padmasambhava hiển lộ, Ngài tới đó khi rời Tây Tạng và hiện vẫn an trụ ở đó.

Núi Tu Di (Meru) – ri rgyal po ri rab

ngọn núi vĩ đại, đỉnh núi rộng lớn hơn chân núi, bốn lục địa của thế giới được bố trí quanh núi, phù hợp với khoa học vũ trụ học của Ấn Độ thời xa xưa.

Nyingmapa – xem Truyền thống Cũ.

Oddiyana – o rgyan

một xứ sở dakini là nơi sinh của Đức Padmasambhava. Theo một vài tài liệu thì nó được xác định ở giữa Afghanistan và Kashmir ngày nay. Nó cũng là nơi sinh của Garab Dorje. Việc dùng từ “Oddiyana” gắn liền với các danh hiệu chẳng hạn như “Đấng Vĩ Đại”, “Đức Phật Thứ Hai,” “Đạo Sư Vĩ Đại,” và v.v.. luôn luôn ám chỉ Đức Padmasambhava.

Orgyenpa (Rinche Pal) -  o rgyan pa rin chen dpal (1230 – 1309)

một đại thành tựu giả của truyền thống Drukpa Kagyu, đệ tử của Gotsangpa. Ngài du hành khắp nơi, thăm viếng Oddiyana, Bodhgaya và Trung Hoa. Trong số các đệ tử của Ngài có Karmapa Rangjung Dorje, Kharcheupa và Dawa Senge.

Ô nhiễm (hành vi) – zag bcas, Phạn: sasrava

                        được làm với ba ý niệm về chủ thể, đối tượng và hành động.

Padampa Sangye – pha dam pa sangs rgyas (thế kỷ 1 – 2 )

Thành tựu giả Ấn Độ lập nên giáo lý của phái Shijepa (zhi byed pa). Ngài là Đạo sư của Machik Labdron, Ngài đã trao truyền cho Bà giáo lý Cho. Ngài đã du hành tới Tây Tạng vài lần.

Padma –

Danh hiệu mà Đức Padmasambhava ám chỉ chính mình. Danh hiệu có nghĩa là “hoa sen.”

Padma Thotreng -  padma thod phreng rtsal

Nghĩa đen: Padma đeo vòng hoa sọ người. Một trong những danh hiệu của Đức Padmasambhava.

Padmasambhava xứ Oddiyana -  o rgyan padma ‘byung gnas

Đạo Sư-sanh-từ-Hoa Sen xứ Oddiyana, Đức Liên Hoa Sanh, thường được gọi là Guru Rinpoche. Trong triều đại của Vua Trisong Detsen, Đạo Sư vĩ đại đã chế phục các thế lực xấu ác chống đối lại việc truyền bá Phật Giáo ở Tây Tạng, phổ biến giáo lý Phật Giáo thuộc Kim Cương Thừa ở đất nước đó và cất dấu vô số kho tàng tâm linh vì sự lợi lạc của những thế hệ tương lai. Ngài được tôn kính như Đức Phật thứ hai mà sự xuất hiện của Ngài đã được vị thứ nhất là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tiên đoán, để ban dạy các giáo lý đặc biệt của Kim Cương Thừa.

Palmo (ni cô) – dge slong ma dpal mo

Ni cô Ấn Độ nổi tiếng đã truyền bá sự thực hành Nyung-ne (ăn chay-một ngày và giữ giới im lặng) và đạt được thành tựu siêu việt nhờ thực hành của Đức Avalokitesvara.

Palyul (tu viện) –dpal yul

                        một trong sáu đại tu viện của phái Nyingmapa.

Pandita -

một học giả, bậc uyên bác trong năm khoa học truyền thống (xem: năm khoa học). Đặc biệt được dùng để ám chỉ các học giả Ấn Độ.

Phật – sangs rgyas

“Đấng đã tẩy trừ (sangs) bóng tối của hai che chướng và phát triển (rgyas) hai loại toàn trí (sự thấu suốt bản tánh của các hiện tượng và sự thấu suốt vô số các hiện tượng.) DICT.

Phật Độc Giác – rang sangs rgyas,

“bậc đạt được sự chấm dứt luân hồi mà không cần sự trợ giúp của một vị Thầy tâm linh. Bằng cách nghiên cứu bản tánh của căn nguyên tương thuộc, Ngài chứng ngộ sự vắng mặt của sự hiện hữu thực sự của cái ngã và chứng ngộ-một-nữa sự vắng mặt sự hiện hữu thực sự của các hiện tượng.” DICT.

Phật tánh – de gshegs snying po, Phạn: tathagatagarbha

tiềm năng của Phật Quả hiện diện trong mỗi chúng sinh. AT: cốt tuỷ của Phật Quả.

Pháp – chos

Thuật ngữ này có một số ý nghĩa khác nhau. Trong ý nghĩa rộng lớn nhất thì nó có nghĩa là tất cả những gì có thể được thấu suốt. Trong bản văn này thuật ngữ Pháp được dành riêng để chỉ giáo lý của Đức Phật. Nó có hai phương diện: Pháp của sự truyền dạy (lung gi chos), đó là những giáo lý thực sự được ban truyền, và Giáo Pháp của sự chứng ngộ (rlogs pa’i chos), hay các trạng thái trí tuệ, v.v.. là những gì đạt được nhờ việc áp dụng giáo lý. Nó thường được ám chỉ là “Pháp Siêu Việt” bởi nó giải thoát chúng sinh khỏi sự đau khổ. Pháp (Dharma) hay chos cũng có thể chỉ đơn giản có nghĩa là “các hiện tượng.” Khi có ý nghĩa này thì nó được dịch theo nghĩa hẹp.

Pháp Giới – chos dbyings, Phạn: dharmadhatu

AT: sự phát triển của thực tại. Từ quan điểm của cái thấy chứng ngộ, mọi hiện tượng xuất hiện như sự phát triển của tánh Không.

Pháp Luân – chos kyi ‘khor lo, Phạn: dharmacakra

biểu tượng của Phật Pháp. Chuyển Pháp Luân có nghĩa là giảng dạy Giáo Pháp. Trong đời Ngài, Đức Phật đã ban ba loạt giáo lý chính yếu, chúng được nhắc tới là các cuộc chuyển Pháp Luân lần thứ nhất, thứ hai và thứ ba.

Pháp-Vương Toàn Giác – tính ngữ của Longchenpa.

Phối ngẫu -     

1)      yum, nữ Bổn Tôn được miêu tả trong sự hợp nhất với một nam Bổn Tôn (yab). Bà tượng trưng cho trí tuệ bất khả phân với phương tiện thiện xảo, được tượng trưng bởi nam Bổn Tôn. Các Ngài cũng tượng trưng cho Pháp Giới của tánh Không thì bất khả hân với giác tánh.

2)      Gsang yum, nghĩa đen: bà mẹ bí mật. Vợ của một đại Lạt ma.

Phương tiện thiện xảo – thabs, Phạn: upaya

                        hoạt động tự nhiên, vị tha phát sinh từ trí tuệ.

Pitaka – xem Tam Tạng (Tripitaka)

Pitaka, (thứ tư) – sde snod bzhi pa, pitaka của Mật Chú Thừa.

 

Potowa, (Geshe) – po to ba (1031 – 1105),

một trong Ba Anh em, ba đệ tử nổi tiếng của Drom Tonpa (vị sáng lập phái Kadampa).

Preta – yi dvags,

                        AT: tinh linh đói khát, tinh linh, quỷ đói.

Puchungwa, (Geshe) – phu chung ba, một trong Ba Anh em.

Purnakasyapa – od srung rdzogs byed

                        một Đạo sư thủ lãnh tirthika vào thời Đức Phật.

Quán đảnh – dbang bskur, Phạn: abhiseka

Nghĩa đen: trao truyền năng lực. Sự cho phép nghe, nghiên cứu và thực hành giáo lý Kim Cương Thừa. Việc này xảy ra trong một buổi lễ có thể hết sức phức tạp hoặc hoàn toàn đơn giản. Xem Bốn quán đảnh.

Quán đảnh bí mật – gsang dbang.

Quán đảnh thứ hai, “quán đảnh tịnh hoá những ô nhiễm của ngữ, khiến ta có thể thiền định về các kinh mạch và năng lực, có thể trì tụng các thần chú, và gieo trồng hạt giống để đạt được ngữ kim cương và Báo Thân.” DICT.

Quán đảnh Cái Bình – bum dbang

Quán đảnh thứ nhất “tịnh hoá các ô nhiễm của thân, khiến ta có thể thiền định về giai đoạn phát triển và gieo trồng hạt giống để đạt được thân kim cương và Hoá Thân.”

Quán đảnh kết quả - ‘bras bu’i dbang

                        Quán đảnh xảy ra vào lúc đạt được sự giác ngộ viên mãn.

Quán đảnh ngôn từ quý báu – tshig dbang rin po che

Quán đảnh thứ tư “quán đảnh tiệt trừ những ô nhiễn của thân, ngữ, ý và các khuynh hướng quen thuộc, khiến ta thiền định về Đại Viên Mãn tự nhiên và gieo trồng hạt giống để đạt được trí tuệ kim cương và Thân Tự Tánh.” DICT.

Quán đảnh trí tuệ - shes rab kyi dbang

Quán đảnh thứ ba “tịnh hoá các ô nhiễm của tâm, làm cho ta có khả năng thiền định về giai đoạn toàn thiện và gieo trồng hạt giống để đạt được tâm kim cương và Pháp Thân.” DICT.

Quy y -            1) skyabs yul  đối tượng ở đó ta quy y

                        2) skyabs ‘gro sự thực hành quy y

Repa Shiwa O – ras pa zhi ba ‘od

                        một trong những đệ tử chính của Milarepa.

Rinchen Zangpo – rin chen bzang po  (958 – 1055)

dịch giả nổi tiếng nhất trong cuộc truyền bá Phật Giáo lần thứ hai ở Tây Tạng, khi Truyền thống Mới bắt đầu.

Risi – drang srong

1)      nhà hiền triết, ẩn sĩ, thánh nhân, đặc biệt là những hiền triết nổi tiếng của thần thoại Ấn Độ, là những vị có sự trường thọ và những năng lực thần thông vĩ đại.

2)      tên của một chòm sao.

Ruộng công đức – tshogs zhing

Tiêu điểm, hay đối tượng của việc cúng dường, sùng mộ, cầu nguyện, lễ lạy, v.v.. của ta, qua đó ta có thể thực hiện các tích tập công đức và trí tuệ cần thiết. Thuật ngữ thường hàm ý một tiêu điểm được quán tưởng của sự thực hành chẳng hạn như các Bổn Tôn quy y, vị Thầy trong Guru Yoga, v.v.. Việc thực hành và các hành vi tích cực của ta được hướng tới một hiện thân như thế của Phật, Pháp và Tăng đem lại cho chúng ta một năng lực to lớn hơn nữa.

Sa di – dge tshul, Phạn: sramanera

một sa di giữ giới ít hơn một vị sư thọ cụ túc giới (dge slong, Phạn: bhiksu, Tỳ kheo)

Sadprarudita – rtag tu ngu,

một vị Bồ Tát mà danh hiệu có nghĩa là “Luôn luôn khóc”, vì lý do Ngài rơi lệ khi tìm cầu giáo lý trí tuệ siêu việt.

Sắc thân (Rupakaya) – gzugs sku

                        Thân của Sắc tướng, nó bao gồm đồng thời Báo Thân Hoá Thân.

Sakyapa – sa skya pa

Một trong các trường phái của Truyền Thống Mới do Ngài Khon Konchok Gyalpo sáng lập (1034 – 1102).

Samantabhadra (Phổ Hiền) – kun tu bzang po

1)      Đức Phật nguyên thuỷ (Adibuddha), Đấng không bao giờ rơi vào mê lầm, Đức Phật Pháp Thân hiện thân là một nhân vật trần trụi, sắc dương xanh đậm như bầu trời, trong sự hợp nhất với Samantabhadri, như một biểu tượng của giác tánh-tánh Không, bản tánh thuần tịnh, tuyệt đối luôn luôn hiện diện và không bị ngăn che. Suối nguồn của dòng truyền dạy tantra của phái Nyingma.

2)      Bồ Tát Samantabhadra (Phổ Hiền), mộ trong Tám Nam Tử Thân Thiết Vĩ Đại, mà qua năng lực của sự thiền định, Ngài nổi danh về phương htức trong đó Ngài gia tăng bội phần thật kỳ diệu, những sự cúng dường mà Ngài thực hiện.

Samaya – dam tshig,

Nghĩa đen: hứa nguyện. Mối liên kết thiêng liêng giữa vị Thầy và đệ tử, và giữa các đệ tử với nhau trong Kim Cương Thừa. Từ Phạn ngữ samaya có thể có nghĩa là: sự thoả thuận, cam kết, quy ước, giới luật, ranh giới v.v..Mặc dù có nhiều sự bắt buộc chi tiết, samaya cốt yếu nhất là coi thân, ngữ và ý của vị Thầy là cái gì thanh tịnh.

Samsara – ‘khor ba,

Vòng luân hồi trong đó ta không ngừng bị xô đẩy bởi những cảm xúc tiêu cực và nghiệp lực của những hành vi của ta từ một trạng thái tái sinh tới trạng thái khác.

Samvarasara – bde mchog snying po

                        một trong những danh hiệu của Manjusri (Văn Thù).

Samye – bsam yas,

Tu viện đầu tiên ở Tây Tạng, trong thung lũng Tsangpo miền đông nam Lhasa, được xây dựng trong thời Vua Trisong Detsen. Tên này có nghĩa là “không thể nghĩ bàn.”

Samye Chimpu – bsam yas mchims phu,

Tên của một quần thể tu viện ở sườn núi trên Tu viện Samye, nơi nhiều Đại Đạo sư Phật Giáo đã đạt được thành tựu.

Sang Rinpoche – bla ma zhang rin po che (brtson ‘grus grags pa) (1121 – 1193)

                        một đại lạt ma Kagyupa, vị sáng lập phân phái Tsalpa Kagyu.

Sanh từ Hoa Sen (Liên Hoa Sanh), xem Padmasambhava.

Sankara – bde byed,

Ví dụ về một người mà dục vọng và sự thù ghét của ông ta mạnh mẽ tới nỗi giết chết mẹ mình. Ông hối hận và sau khi tịnh hoá những hành vi tiêu cực của mình, ông đã được tái sinh ở cõi trời.

Santaraksita – zhi ba mtsho

Cũng được gọi là Bồ Tát Tu viện trưởng. Vị Pandita (học giả) Ấn Độ vĩ đại của Đại Thừa này là tu viện trưởng của Đại Học Phật Giáo Nalanda và là tác giả của một số các luận giảng triết học, chẳng hạn như Vật Trang hoàng của Trung Đạo (dbu ma rgyan, Phạn: Madhyamakalmkara-karika). Ngài được Vua Trisong Detsen mời tới Tây Tạng để hiến cúng địa điểm của tu viện Tây Tạng đầu tiên ở Samye và cho thọ giới những tu sĩ Tây Tạng đầu tiên.

Santideva – zhi ba lha (thế kỷ thứ 7)

Thi sĩ vĩ đại và đại thành tựu giả Ấn Độ, bậc đã làm kinh ngạc các tu sĩ của tu viện Nalanda của Ngài bằng bài kệ nổi tiếng về sự thực hành Bồ Đề tâm, Bodhicaryavatara (spyod ‘jug), hay Bồ Tát Đạo.

Saraha – sa ra ha,

                        đại thành tựu giả Ấn Độ, tác giả của ba giáo khoá doha.

Sarvanivaranaviskambhin – sgrib pa rnam sel

một trong Tám Nam Tử Thân Thiết Vĩ Đại của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Sastra – bstan bcos, một bình giảng về giáo lý của Đức Phật.

Sattvavajra – sems dpa’ rdo rje, một danh hiệu được ban cho Vajrapani.

Sáu cõi hiện hữu – ‘gro drug, Phạn: sadgati

Sáu cách thế hiện hữu được tạo nên và bị thống trị bởi một độc tố đặc biệt trong tâm: các cõi địa ngục (sân), cõi ngạ quỷ (bủn xỉn), cõi súc sinh (si mê), cõi người (tham muốn), cõi bán thần hay A tu la (ganh tị), và cõi trời (kiêu ngạo). Chúng tương ứng với các tri giác mê lầm được tạo nên bởi nghiệp (karma) của chúng sinh và được nhận thức như thật có. Người ta cũng nói năm cõi, tính chung chư thiên và bán thần vào một cõi.

Sáu loại chúng sinh – ‘gro drug, xem sáu cõi hiện hữu.

Sáu thức – rnam shes tshogs drug, Phạn: sadvijnanakaya,

Nghĩa đen: sáu sự tập hợp của thức, nghĩa là sự tập hợp của một đối tượng giác quan, của một giác quan và của một thức. Chúng là nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, xúc thức và ý thức.

Sáu toàn thiện siêu việt (sáu ba la mật) – pha rol tu phyin pa drug, Phạn: sad paramita:

bố thí siêu việt (dana-paramita), giới luật siêu việt (Sila-paramita), nhẫn nhục siêu việt (virya-paramita), thiền định siêu việt (dhyana-paramita), và trí tuệ siêu việt (prajna-paramita). Cũng xem sự toàn thiện siêu việt.

Sáu Vật Trang Hoàng – rgyan drug,

Sáu luận sư vĩ đại của Phật Giáo: Nagarjuna (Long Thọ), Aryadeva (Thánh Thiên), Asanga (Vô Trước), Vasubandhu (Thế Nhân), Dignaga (Trần Na) và Dharmakirti (Pháp Xứng).

Savaripa – sha ba ri pa hoặc ri khrod dbang phyug

một trong tám mươi tư đại thành tựu giả của Ấn Độ. Ngài là thợ săn ở một bộ tộc vùng đồi núi xứ Bengal, và đã cùng hai người vợ trở thành các đệ tử của Nagarjuna.

Shapkyu – zhabs kyu

Nghĩa đen: chân móc. Một dấu hiệu có dáng của một cái móc được đặt dưới một phụ âm để tượng trưng cho âm u.

Sharawa – shara ba (yon tan grags) (1070 – 1141),

                        Danh hiệu của một geshe Kadampa, đệ tử của Geshe Potowa.

Shubu Palgyi Senge – shud bu dpal gyi seng ge

                        một trong hai mươi lăm đệ tử của Padmasambhava.

Siddhi (thành tựu) – dngos grub, xem sự thành tựu.

Smrtijnana – (thế kỷ 10 – 11)

Đạo sư và pandita (học giả) Ấn Độ nổi tiếng, người góp phần vào việc phiên dịch sang tiếng Tây Tạng và sửa chữa một vài tantra và luận giảng. Ở Tây Tạng, cái chết của Ngài đánh dấu sự chấm dứt của giai đoạn Cựu Dịch.

So, Zur và Nub – so zur gnubs,

họ của ba Đạo sư vĩ đại là những bậc trì giữ lúc ban đầu của dòng truyền thừa Nyingma Kahma (sự truyền dạy dài từ Đạo sư sang đệ tử của giáo lý Nyingma, tương phản với Terma, hay những kho tàng tâm linh ẩn dấu, về sau được khám phá, đôi khi sau một thời gian rất dài). Tên họ của các Ngài là So Yeshe Wangchuk, Zur Shakya Jungne và Nub Chen Sangye Yeshe.

Songtsen Gampo – srong btsan sgam po (617 – 698)

Vua Tây Tạng thứ 33 và một trong ba Vua Đạo (Pháp Vương) vĩ đại. Chính trong thời của Ngài mà những ngôi chùa Phật Giáo đầu tiên được xây dựng.

Sri Simha  - dpal gyi seng ge (thế kỷ thứ 4)

vị Thầy nhân loại thứ ba trong dòng truyền dạy Đại Viên Mãn, đệ tử của Manjusrimita.

Srona (Sronajat) – gro byin skyes

một người chơi đàn vina sau trở thành đệ tử của Đức Phật và đạt được khả năng viếng thăm các cõi khác, đặc biệt là các cõi ngạ quỷ.

Stupa (tháp) – mchod rten

Nghĩa đen: sự hỗ trợ cho việc cúng dường, tượng trưng cho tâm Phật. Đài kỷ niệm tiêu biểu nhất, thường có một đáy vuông rộng lớn, phần giữa tròn, và một phần trên lớn hình nón mà tận cùng là một mặt trời và mặt trăng. Stupa thường chứa xá lợi của những bậc chứng ngộ. Kích thước của chúng biến đổi từ những mô hình đất sét nhỏ xíu tới những stupa rộng mênh mông tại Borobodur ở Indonesia và Bodha ở Nepal.

Sugata – bde bar gshegs pa

Nghĩa đen: đạt được hạnh phúc: một vị Phật, Đấng Thiện Thệ. “Đấng sử dụng con đường hạnh phúc của Bồ Tát Thừa, đạt được kết quả hạnh phúc: Phật Quả viên mãn.” DICT.

Sunaksatra – legs pa’i skar ma

Anh em họ của Đức Phật, là người mặc dù trải qua hai mươi lăm năm làm thị giả của Đức Phật và thấu hiểu tất cả giáo lý của Ngài, những vẫn không thể thấy được bất kỳ phẩm tính tốt nơi Ngài. Ông chết không lâu sau khi rời Đức Phật và bị tái sinh làm một ngạ quỷ.

Suvarnadvipa (Chúa công) ­–gser gling pa

một Đạo sư Phật Giáo Dharmakirti, sống ở Sumatra vào thế kỷ thứ 10. Atisa coi Ngài như bậc quan trọng nhất trong các vị Thầy. Từ Ngài, Atisa thọ nhận giáo lý Bồ Đề tâm.

Sự an định (chỉ) – zhi gnas, Phạn: samatha,

Căn bản của mọi sự thiền định. “Sự xao lãng tâm thức bởi những đối tượng khác được làm an định(zhi), tâm an trụ (gnas) không xao động trong sự thiền định.” DICT.

Sự bám chấp – ‘dzin pa

Nghĩa đen: nắm giữ, cũng có nghĩa là có một sự tin tưởng. Vì thế “chấp ngã” cũng có thể được hiểu là “sự tin vào một cái Tôi.”

Sự bình đẳng – mnyam pa nyid, Phạn: samata.

                        mọi sự cùng có bản tánh của tánh Không.

Sự cạn kiệt của các hiện tượng trong chân tánh – chos nyid zad pa

một trong bốn thị kiến hay kinh nghiệm trên con đường Thogal. “Mọi hiện tượng được tịnh hoá trong mạn đà la của tinh tuý vĩ đại duy nhất, mọi sự được tạo tác bởi tâm thức đều bị cạn kiệt trong chân tánh. Thậm chí cũng không bám chấp vào chân tánh.” DICT.

Sự chấp ngã – xem sự bám chấp

Sự chuẩn bị, phần chính và sự kết thúc – sbyor dngos rjes gsum

                        Ba phương pháp siêu việt cho bất kỳ thực hành nào:

1)      bắt đầu bằng cách kiểm soát xem ta có động lực bi mẫn hay không,

2)      thực hành mà không có các ý niệm duy vật, và

3)      chấm dứt bằng cách hồi hướng công đức cho sự giác ngộ của tất cả chúng sinh.

Sự chuyển di – ‘pho ba

1)      di chuyển từ nơi này sang nơi khác, sự di chuyển tâm thức (sau khi chết).

2)      thực hành để hướng dẫn sự chuyển di tâm thức vào lúc chết.

Sự Giác ngộ - byang chub, Phạn: bodhi

sự tịnh hoá (byang) mọi che chướng và sự chứng ngộ (chub) tất cả các phẩm tính.

Sự giải thoát – thar pa, Phạn: moksa

1)      sự tự do thoát khỏi samsara (luân hồi sinh tử), là một vị A La Hán hay một vị Phật.

2)      đôi khi, bsgral las byed pa, sự thực hiện hành động giải thoát, một thực hành để giải thoát tâm thức của chúng sinh hiểm ác vào một cõi Phật. Cũng xem chú thích 75.

Sự Rộng lượng – sbyin pa, Phạn: dana, nghĩa đen: bố thí.

Sự thành tựu

1)      dngos grub, Phạn: siddhi. “Kết quả mong muốn và đạt được nhờ thực hành các giáo huấn.” DICT. Những thành tựu thông thường có thể chỉ là những năng lực siêu nhiên, nhưng trong quyển sách này thuật ngữ “thành tựu” luôn luôn ám chỉ thành tựu siêu việt, là sự Giác ngộ.

2)      sgrub pa. Trong bối cảnh của sự trì tụng các thần chú, xem sự tiếp cận và thành tựu.

Sự thuần tịnh nguyên sơ – ka dag,

bản tánh của Phật Quả, hiện diện trong tất cả chúng sinh, sự thuần tịnh của bản tánh đó không bao giờ bị hư hoại.

Sự tiếp cận và thành tựu – bsnyen sgrub,

Hai bước trong các thực hành liên quan tới sự trì tụng một mantra (thần chú). Trong bước thứ nhất, các hành giả tiếp cận Bổn Tôn mà họ đang quán tưởng bằng cách trì tụng thần chú của Bổn Tôn. Trong bước thứ hai, họ đủ quen thuộc để tự đồng nhất với Bổn Tôn.

Sự toàn thiện siêu việt – pha rol tu phyin pa, Phạn: paramita

Sáu phương pháp tu tập trong Bồ Đề tâm thực hành. Chúng siêu việt bởi được đi kèm bởi trí tuệ của tánh Không. Cũng xem sáu toàn thiện siêu việt.

Sự tịnh hoá hai nhánh – dag pa gnyis

sự thuần tịnh nguyên thuỷ (rang bzhin ye dag), là Phật tánh trong mọi chúng sinh, và sự thuần tịnh từ mọi sự ô nhiễm ngẫu nhiên (blo bur phral dag). chỉ duy một vị Phật là cũng có loại thuần tịnh thứ hai này.

Sự trì tụng kim cương – rdo rje bzlas pa

sự trì tụng các thần chú trong sự phối hợp với việc hít vào, nín hơi và thở ra.

Sự trích xuất các chất tinh tuý – bcud len

một phương pháp khiến ta có thể chỉ dùng những chất thể hay yếu tố nào đó với một lượng ít ỏi, mà không phải dùng thực phẩm thông thường.

Sự trong sáng (kinh nghiệm) – gsal nyams

                        một trong ba loại kinh nghiệm trong việc thiền định. Xem kinh nghiệm.

Sự trong sáng, tăng trưởng và thành tựu – snang mched thob

                        Ba kinh nghiệm xảy ra liên tục vào lúc chết.

Sự trở thành – srid pa

tiến trình của luân hồi sinh tử. Từ Tây Tạng thường được dùng trong ý nghĩa của “sự có thể,” và là kết quả của tất cả những ý niệm là những gì ta phóng chiếu lên thực tại và những gì trở thành thế giới huyễn hoá mà chúng ta tri giác. Nó thường được dùng như từ đồng nghĩa với samsara (luân hồi sinh tử), đối nghịch với zhi ba, sự an bình của Niết Bàn.

Sự tu tập ba nhánh – bslab pa gsum, Phạn: trisiksa

giới (tshul khrims, sila), định (ting nges ‘dzin, citta) và trí tuệ (shes rab, prajna).

Tam Bảo – dkon mchog gsum, Phạn:triratna, Phật, Pháp tăng đoàn.

Tam giới –

1)      khams gsum, Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Thế giới thứ nhất bao gồm chúng sinh ở các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người và bán thần, cùng một vài cõi trời. Hai thế giới kế tiếp là các cõi trời với một kinh nghiệm tinh tế là kết quả của một vài loại thiền định mãnh liệt (xem những thiền định thế tục)

2)      Đôi khi được dùng để dịch sa gsum, Phạn: tribhvana, nghĩa đen là ba cấp độ: phía trên mặt đất (sa bla), trên mặt đất (sa steng) và bên dưới mặt đất (sa ‘og); được gọi là cõi trời, cõi người và cõi rồng.

Tam Tạng (Tripitaka) – sde snod gsum

Ba tuyển tập (tạng) Giáo lý của Đức Phật, Sutra (Kinh), Vinaya (Luật), Abhidharma (Luận). Đôi khi giáo lý Kim Cương Thừa được coi là pitaka (tạng) thứ tư. Tripitaka có nghĩa là “ba cái giỏ” được gọi như thế là vì trước tiên Kinh điển được chép lại trên những trang sách bằng lá cây cọ, được tập hợp lại và chứa trong những cái giỏ (rổ).

Tangka – thang ka  tranh cuộn Tây Tạng.

Tangtong Gyalpo – thang stong rgyal po (1385 - 1509)

Thành tựu giả Tây Tạng nổi tiếng, đã du hành khắp Trung Hoa, Tây Tạng và các quốc gia miền đông khác, xây dựng nhiều chùa chiền và các cây cầu kim loại và sáng lập các tu viện tại Derge và những nơi khác.

Tantra – rgyud

bản văn được đặt nền trên sự thuần tịnh nguyên thuỷ của bản tánh tâm, kết quả của nó là sự chứng ngộ bản tánh đó. Các bản văn gốc của giáo lý Vajrayana (Kim Cương Thừa).

Tantric –         có liên quan tới các Tantra, liên quan tới Vajrayana.

Tara – sgrol ma,

nữ Bồ Tát sanh ra từ một giọt nước mắt của Đức Avalokitesvara; sự hiển lộ nữ tánh của lòng đại bi.

Tathagata (Như Lai) – bde bzhin gshegs pa

                        Đấng đã đạt được chân tánh một vị Phật

Tám dấu hiệu tốt lành – bkra shis rtags brgyad

Tám biểu tượng (tương ứng với các bộ phận khác biệt của thân Phật): nút vĩnh cửu, hoa sen, màn trướng, ốc xà cừ, bánh xe, cờ, bình và cá vàng.

Tám hành vi sai lầm – log pa rgyad

1)      chỉ trích điều tốt

2)      Khen ngợi điều xấu

3)      Làm ngưng trệ sự tích tập công đức của một người đức hạnh

4)      Làm náo động tâm thức của người có lòng sùng mộ

5)      từ bỏ vị Thầy tâm linh

6)      từ bỏ Bổn Tôn

7)      từ bỏ huynh đệ và tỉ muội kim cương

8)      phỉ báng một mạn đà la.

Tám mối quan tâm thế tục – ‘jig rten chos brgyad, Phạn: astalokadharmah

những bận tâm bình thường của những người không chứng ngộ không có một nhãn kiến tâm linh trong sáng. Đó là: được và mất, vui thú và đau khổ, khen và chê, vinh và nhục.

Tám Mộ-địa Vĩ đại – dur khrod chen po brgyad

những địa điểm khủng khiếp mà các dakadakini  tụ hội. Trong ý nghĩa sâu xa thì chúng tương ứng với tám thức (rnam shes brgyad)

Tám mươi Thành tựu giả

1)      tám mươi (hay tám mươi tư) đại thành tựu giả của Ấn Độ cổ xưa mà cuộc đời các Ngài được Abhayadatta thuật lại (xem Các Sư tử của Đức Phật, Emeryville, Nhà Xuất bản Dharma, 1979)

2)      tám mươi thành tựu giả xứ Yerpa ở Tây Tạng, các đệ tử đạt được những thành tựu siêu việt của Đức Padmasambhava.

Tám Nam Tử Thân Thiết Vĩ Đại – nye ba’i sras chen brgyad

Các vị Bồ Tát chính yếu trong đoàn tuỳ tùng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: Manjusri (Văn Thù), Avalokitesvara (Quán Tự Tại), Vajrapani (Kim Cương Thủ), Maitreya (Di Lặc), Ksitigarbha (Địa Tạng), Savanivaranaviskambhin, và Samantabhadra (Phổ Hiền). Mỗi vị thực hiện một vai trò đặc biệt để cứu giúp chúng sinh. Các Ngài tượng trưng cho trạng thái thuần tịnh của tám thức.

Tám thiên nữ cúng dường ­– mchod pa’i lha mo brgyad

Nữ Thần Sắc Đẹp (sgeg mo ma, Phạn: Lasya), Nữ Thần các Tràng Hoa (phreng ba ma, Mala), Nữ Thần Bài Ca (glu ma, Gita), Nữ Thần Nhảy múa (gar ma, Nrtya) Nữ Thần Các Bông Hoa (me tog ma, Puspa), Nữ Thần Trầm Hương (bdug spos ma, Dhupa), Nữ Thần Nhiệt Đăng (snang gsal ma, Aloka) và Nữ Thần Hương Thơm (dri chab ma, Gandha). Trong mạn đà la của các Bổn Tôn Báo Thân hoà bình, tám thiên nữ cũng là những phối ngẫu của tám Bồ Tát (xem Tám Nam Tử Thân Thiết Vĩ Đại), và tượng trưng một cách tôn kính cho trạng thái thuần tịnh của bốn đối tượng của giác quan (sắc tướng, âm thanh, mùi hương, và mùi vị) và của bốn phương diện của tư tưởng (thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai và thời gian không xác định).

Tánh Không – stong pa nyid, Phạn: sunyata,

                        sự vắng mặt của sự hiện hữu thực sự trong mọi hiện tượng.

Tà kiến – log lta, Phạn: mithyadristi

AT: niềm tin sai lạc, đặc biệt là một quan điểm sẽ dẫn ta tới những tiến trình hành động gây nên đau khổ hơn nữa.

Tân Dịch – xem  Truyền Thống Mới.

Tăng đoàn – dge ‘dun.

Theo nghĩa rộng nó ám chỉ tất cả những hành giả của Phật Giáo. Nó có thể có một ý nghĩa giới hạn hơn phù hợp với văn cảnh, ám chỉ những Tu sĩ, A La hán, Bồ Tát, v.v..

Tenma – rten ma bcu gnyis

mười hai nữ Bổn Tôn địa phương phát nguyện bảo vệ Giáo Pháp trước sự hiện diện của Đức Pamasambhava.

Thanh Văn (Sravaka) – nyan thos,

một môn đồ của Thừa nguyên thuỷ của Phật Giáo có mục đích được giải thoát khỏi đau khổ của luân hồi sinh tử như một A La Hán. Không giống như các môn đồ của Đại Thừa, các Thanh Văn không khao khát sự Toàn Giác vì lợi ích của tất cả chúng sinh.

Thanh Văn Thừa (Sravakayana) – nyan thos kyi theg pa

                        Thừa của các Thanh Văn.

Thành tựu giả - grub thob

Nghĩa đen: bậc đã đạt được thành tựu. Một số đã đạt được kết quả của thực hành Mật Thừa.

Thành tựu siêu việt – mchog gi dngos grub, xem sự thành tựu.

Thành tựu thông thường – thun mong gi dngos grub,

Các năng lực siêu nhiên phát sinh từ sự thiền định, không dành riêng cho Phật Giáo mà cũng phổ biến đối với những con đường khác. Xem thành tựu.

Thân Tự Tánh (Svabhavikakaya) – ngo bo nyid kyi sku

Thân của Bản tánh Cốt tuỷ; thân (kaya) thứ tư, phương diện của sự bất khả phân của Pháp Thân, Báo Thân Hoá Thân

Thân, ngữ, ý, các phẩm tính và hoạt động – sky, gsung, thugs, yon tan, phrin las,

Năm phương diện của Phật Quả. Đôi khi được ám chỉ như năm thân (kaya). Cũng xem năm gia đình.

Thần chú (Mantra) – sngags

sự hiển lộ của giác ngộ siêu việt trong hình thức các âm thanh. Các âm tiết trong các sadhana của Mật Chú Thừa bảo vệ tâm thức hành giả thoát khỏi những tri giác phàm tục và khẩn cầu các Bổn Tôn trí tuệ.

Thần diệu Hỉ Lạc – ‘phrul dga’, Phạn: Nirmanarata,

một cõi trời trong Dục Giới (ở cấp độ thứ năm của các vị Trời Dục Giới) trong đó các vị trời có thể tạo nên một cách thần diệu bất cứ những gì họ

cần. Xem ba cõi.

Thế giới Bất khả phân – mi ‘byed ‘jig rten

                        thế giới của chúng ta, phạm vi hoạt động của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Theurang – the’u rang

một loại tinh linh xuất hiện giống như một người lùn nhỏ bé chỉ có một chân.

Thích Ca Mâu Ni – sha kya thub pa

Đức Phật của thời đại chúng ta, Ngài sống vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên.

Thiền định – bsam gtan, Phạn: ghyana,

sự thâm nhập thiền định, một trạng thái của tâm không có bất kỳ sao lãng nào. Mặc dù nó quan trọng đối với các thực hành thiền định của Phật đạo trong mọi cấp độ, nhưng tự nó không đầy đủ mà phải kết hợp với động cơ và cái thấy đúng đắn. Cũng xem bốn thiền định.

Thiền định – sgom pa

để tâm nghỉ ngơi trên một đối tượng của sự suy niệm hay quán chiếu, hoặc duy trì sự trôi chảy của cái thấy xác thực.

Thiện tri thức – dge ba’i gshes gnyen, Phạn: kalyanamitra

                        một từ đồng nghĩa của vị Thầy tâm linh.

Thừa (Cỗ xe) – theg pa, Phạn: yana

                        Phương tiện để du hành trên con đường đi tới Giác ngộ.

Thực nghĩa – nges don, Phạn: nitartha,

Cách diễn tả trực tiếp chân lý từ quan điểm của những bậc chứng ngộ. Cũng xem ý nghĩa thích hợp.

Tiệc cúng dường – tshogs kyi ‘khor lo, Phạn: ganacakra

một nghi lễ trong đó ta ban phước, cúng dường và dùng thức ăn và nước uống như chất cam lồ trí tuệ.

Tiến trình Suy hoại – thim rim

một chuỗi hiện tượng xảy ra lúc chết; sự suy hoại của các đại, và ba kinh nghiệm được gọi là sự trong sáng, tăng trưởng và thành tựu.

Tilopa – ti lo pa

                        một trong tám mươi đại thành tựu giả của Ấn Độ. Vị Thầy của Naropa.

Tingdzin Zangpo (Nyang) – myang ting ‘dzin bzang po (thế kỷ thứ 9)

đại thành tựu giả Tây Tạng, đệ tử của Vimalamitra (từ vị này Ngài nhận toàn bộ giáo lý Tâm-yếu) và của Đức Pamasambhava. Ngài được coi là người Tây Tạng đầu tiên đạt được thân cầu vồng của sự chuyển di siêu việt (‘ja’ lus ‘pho ba chen po), thành tựu vĩ đại nhất của Đại Viên Mãn.

Tình nhân của những Vì Sao – skar ma la dga’ ba,

Danh hiệu của một Bồ Tát. Ngài là một điển hình của người mà sự khao khát ích kỷ của mình đã khiến Ngài tích tập công đức mặc dù Ngài mắc phạm điều mà thường được coi là một hành vi tiêu cực.

Tính sáng tạo của giác tánh – rig pa’irtsal

                        Năng lực bẩm sinh và tự nhiên của giác tánh để hiển lộ các hiện tượng.

Tinh tuý – thig le, Phạn: nghĩa đen: giọt.

“Tinh tuý hay chủng tử của đại lạc; trong các kinh mạch có nhiều loại, thanh tịnh hay suy hoại.” DICT. Thuật ngữ thig le có một số ý nghĩa khác nhau phù hợp với tình huống và loại thực hành.

Tirthika – mu stegs pa

một người đề xướng những quan điểm triết học cực đoan chẳng hạn như thuyết hư vô thuyết vĩnh cửu. Thường được dùng cho các trường phái tư tưởng triết học và tôn giáo ở Ấn Độ đối lập với Phật Giáo.

Tịnh Độ - dag pa’i zhing

một nơi hay thế giới được hiển lộ bởi một vị Phật hay Đại Bồ Tát nhờ các phẩm tính tự nhiên của sự chứng ngộ của Ngài. Ở đó chúng sinh có thể tiến bộ trên con đường đi tới Giác ngộ mà không rơi vào những cõi thấp.

Tịnh Độ Cực Lạc – bde ba can, Phạn: Sukhavati,

cõi Phật của Đức Amitabha (A Di Đà).

Tịnh Quang – ‘od gsal, Phạn: prabhasvara,

Phương diện tự nhiên, chói ngời (hay thấu suốt) của bản tánh tâm – hay giác tánh.

Tịnh Quang của giây phút nền tảng – gzhi dus kyi ‘od gsal,

“bản tánh của tâm thức tất cả chúng sinh, thanh tịnh từ vô thuỷ và chói ngời tự nhiên; sự tương tục nền tảng (của giác tánh), tiềm năng của Phật Quả.” DICT. Nó có thể được một vị Đạo sư chứng ngộ “giới thiệu” cho một đệ tử, là người sau đó củng cố và phát triển kinh nghiệm đó bằng những sự thực hành sâu xa của Đại Viên Mãn. Chúng sinh bình thường chỉ tri giác nó trong một tia chớp vào lúc chết.

Toà Kim Cương – rdo rje gdan, Phạn: Vajrasana

địa điểm ở Ấn Độ (tên hiện nay là Bodha Gaya) nơi tất cả chư Phật trong kiếp này sẽ đạt được Giác ngộ.

Toàn Giác – rdzogs pa’i byang chob, Phạn: sambodhi, Phật Quả viên mãn.

Tonpa (Geshe) (1005 – 1064), danh hiệu khác của Drom Tonpa.

Torma – gtor ma

một lễ vật, thường được nặn từ bộ mì và bơ, nó có thể là biểu tượng của một vị Bổn Tôn, một mạn đà la, một vật cúng dường, hay đôi khi một vũ khí để chiến đấu với các thế lực tiêu cực.

Torma nước – chu gtor

                        một vật cúng dường làm bằng nước, sữa và các loại hạt.

Tối thượng – ‘og min, Phạn: Akanistha, xem Akanistha.

Trạng thái tự nhiên – gnas lugs, Phạn: prakriti

                        Nghĩa đen: cách thức an trụ. “Bản tánh hay điều kiện của mọi sự.” DICT.

Trạng thái trung gian – bar do, Phạn: antarabhava

thuật ngữ được dùng cho những giai đoạn kinh nghiệm khác nhau giữa cái chết và sự tái sinh kế tiếp, với một sự giải thích rộng lớn hơn bao gồm các trạng thái tâm thức khác nhau trong cuộc đời. Bốn trạng thái trung gian được phân biệt là:

1)      trạng thái trung gian tự nhiên của đời này (rang bzhin skyes gnas bar do)

2)       trạng thái trung gian của lúc chết (‘chi khai’i bar do)

3)      trạng thái trung gian của thực tại tuyệt đối (chos nyid bar do)

4)      trạng thái trung gian của sự trở thành (srid pa’i bar do); hay để tạo thành sáu trạng thái trung gian, hai trạng thái đặc biệt nữa được thêm vào trạng thái thứ nhất;

5)      trạng thái trung gian của giấc mộng (rmi lam bar do)

6)      trạng thái trung gian của sự tập trung thiền định (bsam gtan bar do)

Trạng thái trung gian của sự trở thành – srid pa’i bar do

trạng thái trung gian trong đó nghiệp lực xô đẩy ta tới sự tái sinh kế tiếp trong luân hồi sinh tử. AT: trạng thái trung gian của những sự có thể, trạng thái trung gian của sự hiện hữu.

Trạng thái trung gian của thực tại tuyệt đối – chos nyid bar do

trạng thái trung gian trong thực tại tuyệt đối hiển lộ như những sắc tướng thuần tịnh của phương diện hoà bình và phẫn nộ, phù hợp với các khuynh hướng cá nhân của riêng ta.

Trakpa Gyaltsen – grags pa rgyal mtshan (1147 - 1216)

một trong năm đại học giả của phái Sakya, bậc được gọi là Sakya Gongma.

Tri giác thanh tịnh – dag snang

“tri giác về toàn thể thế giới và những gì được chứa đựng trong đó như một cõi Phật thuần tịnh, như sự phô diễn của các thân (kaya) và các trí tuệ.” DICT.

Tripitaka – xem Tam Tạng

Trisong Detsen – khri srong sde’u btsan (790 - 844)

vị vua thứ 38 của Tây Tạng, vị thứ hai trong ba vị Vua Đạo (Pháp Vương) vĩ đại. Nhờ nỗ lực của Ngài mà các Đại Đạo sư từ Ấn Độ tới và thiết lập Phật Giáo thật vững chắc tại Tây Tạng.

Trí tuệ - shes rab, Phạn: prajna

khả năng thấu hiểu đúng đắn, thường là với cảm thức đặc biệt của sự thấu suốt tánh Không. AT: trí tuệ phân biệt. Cũng xem trí tuệ nguyên sơ.

Trí tuệ minh hoạ - dpe’i ye shes,

Trí tuệ đạt được nhờ thực hành tâm linh là thứ được dùng như một que chỉ

giới thiệu trí tuệ nguyên sơ.

Trí tuệ nguyên sơ – ye she, Phạn: jnana

“sự thấu suốt (shes pa) luôn luôn hiện diện từ vô thuỷ (ye nas), giác tánh, sự quang minh-tánh KHông, an trụ tự nhiên trong dòng tâm thức của tất cả chúng sinh.” DICT.

Trống sọ người nhỏ - thod pa’i da ma ru

                        trống nhỏ có hai mặt làm bằng hai đỉnh sọ người.

Trời – lha

Chúng sinh ở một trong sáu cõi, bị chế ngự bởi tánh kiêu ngạo. Để tránh sự nhầm lẫn chúng tôi đã dịch lha là “Bổn Tôn” khi nó có nghĩa là một vị Phật hay Bổn Tôn Trí Tuệ.

Trời Đâu Suất – dga’ ldan

Cõi (cấp độ thứ tư) của các vị trời thuộc Dục Giới, trong đó Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhận một tái sinh cuối cùng trước khi xuất hiện trong thế giới này. Hiện tại Đức Maitreya (Di Lặc), Đức Phật tương lai, đang an trụ trong Trời Đâu Suất giảng dạy Đại Thừa. Xem ba cõi.

Trời Tịnh Quang – ‘od gsal gyi lha, Phạn: Abhasvara

                        cấp độ cao nhất của các vị trời thuộc Thiền định Thứ Hai (trong Sắc Giới).

Trung Đạo – dbu ma’i lam, Phạn: madhyamika        

Giáo lý về tánh Không được Nagarjuna giảng trước tiên và được coi như nền tảng của Mật Thừa. “Trung” có nghĩa là nó vượt lên các quan điểm cực đoan của chủ nghĩa hư vô và chủ nghĩa vĩnh cửu.

Truyền thống Cũ – rning ma pa,

Cổ Phái, những môn đồ của các giáo lý đầu tiên của Mật Chú Thừa được truyền bá ở Tây Tạng bởi Đại Đạo sư Padmasambhava vào thế kỷ thứ tám. Paltrul Rinpoche thuộc trường phái này.

Truyền thống Mới – gsar ma pa

Các môn đồ của các tantra được phiên dịch và truyền bá từ thời đại của dịch giả Rinchen Zangpo (958 - 1055) trở đi. Nó chỉ tất cả các trường phái của Phật Giáo Tây Tạng ngoại trừ phái Nyingmapa, hay Truyền thống Cũ.

Tsampa – tsam pa

bột mì làm bằng lúc mạch nướng hay các loại hạt khác. Một loại thực phẩm chính ở Tây Tạng.

Tu viện trưởng – mkhan po

Nói chung có nghĩa là những vị ban các giới nguyện tu viện. Danh hiệu này cũng được ban cho một người đã đạt một cấp độ cao trong sự thấu suốt Giáo Pháp và đảm trách việc giảng dạy nó. Nó cũng có thể chỉ là danh hiệu được ban cho nhà sư cao tuổi nhất trong một kỳ nhập hạ truyền thống.

Tulku – sprul sku

từ Tây Tạng được dịch từ nirmanakaya (Hoá Thân) trong Phạn ngữ, cũng được dùng như một danh hiệu tôn kính và thuật ngữ thông thường đối với những Hoá Thân được công nhận của các Lạt ma, là những vị thường được tìm ra khi còn thơ ấu và được dạy dỗ để kế tục dòng truyền thừa và trong nhiều trường hợp, kế thừa tu việc của các vị tiền nhiệm.

Tư thế kim cương – rdo rje dkyil krung, Phạn: vajrasana,

                        Tư thế thiền định với chân xếp chéo và bàn chân đặt trên đùi.

Tư thế đang bước – mnyam pa’i dor stabs

thế đứng với cả hai chân nhưng bàn chân phải hơi nhóm tới (tượng trưng cho nhiệt tâm cứu giúp chúng sinh).

Tư thế vương giả - rgyal po’i rol stabs

                        thế ngồi với chân phải duỗi nửa chừng với chân trái kéo vào.

Tư tưởng – rnam rtog, Phạn: vikalpana

Nói chung bất kỳ điều gì phát khởi trong tâm trong một cách thế nhị nguyên.

Tử Thần – ‘chi bdag, Yama.

Tỳ Lô Giá Na – xem Vairocana.

Vairocan (Tỳ Lô Giá Na) – rnam par snang mdzad,

                        Đức Phật thuộc Phật Bộ. Xem năm bộ.

Vairotsana – bai ro tsa na,

dịch giả vĩ đại nhất của Tây Tạng và là một trong bảy tu sĩ đầu tiên được thọ giới ở Tây Tạng. Ngài là một trong những đệ tử chính của Đức PadmasambhavaSri Simha.

Vaisakha – sa ga zla ba

Tháng thứ tư trong âm lịch Tây Tạng. Đức Phật đản sanh, đạt được Giác ngộ và nhập Niết Bàn vào ngày mười lăm trong tháng đó.

Vaisravana – rnam thos sras

một trong Bốn Đại Đế (cõi trời của Ngài là cõi thứ nhất trong Dục Giới), vị bảo vệ của phương Bắc và vị trời tài bảo.

Vajra (Chày Kim Cương) – rdo rje,

AT: kim cương, sét kim cương. Sự biểu tượng của trí tuệ bất biến và bất hoại có thể xuyên thấu mọi sự. Pháp khí tượng trưng cho lòng bi mẫn, phương tiện thiện xảo, giác tánh. Luôn luôn được kết hợp với chuôn, dril bu, Phạn: ghanta, biểu tượng của trí tuệ, tánh Không. Đối với hình tướng của chày kim cương xin xem hình minh hoạ Vajrasattva cầm chày kim cương trong tay phải và chuông trong tay trái.

Vajra Yogini – rdo rje ‘rnal ‘byor ma, một hình thức Báo Thân nữ của Đức Phật.

Vajra dhara (Kim Cương Trì) – rdo rje ‘chang,

Nghĩa đen: bậc trì giữ kim cương. Trong Truyền thống Mới, Ngài là Đức Phật nguyên thuỷ, nguồn mạch của mọi tantra. Trong Truyền thống Cũ, Vajradhara tượng trưng cho nguyên lý của vị Thầy như bậc trì giữ giác ngộ của giáo lý Kim Cương Thừa.

Vajradhatvisvari – rdo rje dbyings ‘phugs ma,

một trong những vị Phối ngẫu của chư Phật trong Năm Bộ.

Vajrapani (Kim Cương Thủ) – phyag na rdo rje

                        một trong Tám Nam Tử Thân Thiết Vĩ Đại

Vajrasattva (Kim Cương Tát Đoả) – rdo rje sems dpa’

vị Phật hiện thân Một Trăm Gia đình. Thực hành Vajrasattva và sự trì tụng thần chú của Ngài thì đặc biệt hữu hiệu để tịnh hoá các hành vi tiêu cực. Trong dòng truyền thừa Đại Viên Mãn, Ngài là Báo Thân Phật.

Vajrayana (Kim Cương Thừa) – rdo rje theg pa, xem Mật Chú Thừa.

Văn Thù (Manjusri) – ‘jam dpal dbyangs

một vị Bồ Tát thập địa. Ngài hiện thân cho sự thấu suốt và trí tuệ của tất cả chư Phật.

Vidyadhara (Trì Minh Vương) – rig ‘dzin

bậc trì giữ sự thấu suốt. “Bậc trì giữ các Bổn Tôn, thần chú, và trí tuệ đại lạc bằng những phương tiện sâu xa.” DICT. Trong truyền thống Nyingmapa có bốn cấp độ vidyadhara:

1)      hoàn toàn thuần tục (rnam smin)

2)      làm chủ thọ mạng của đời mình (tshe dbang)

3)      mahamudra (Đại Ấn, phyag chen)

4)      thành tựu tự nhiên (lhun grub)

Viên ngọc như ý – yid bzhin nor bu, Phạn: cintamani

một viên ngọc tuyệt diệu được tìm thấy trong các cõi trời hay rồng đáp ứng mọi ước muốn của ta.

Vikramasila –

một trong những Đại Học Phật Giáo nổi tiếng ở Ấn Độ, bị phá huỷ vào thế kỷ thứ 12.

Vimalamitra – dri med bshes bnyen

một trong những Đạo sư Phật Giáo Ấn Độ uyên bác nhất. Ngài tới Tây Tạng vào thế kỷ thứ 9, ở đó Ngài giảng dạy rộng rãi, biên soạn và phiên dịch nhiều bản văn Phạn ngữ. Tinh hoa của giáo lý của Ngài được gọi là Vima Nyingtig, một trong các giáo lý Tâm-yếu của Đại Viên Mãn.

Vina -              một nhạc cụ Ấn Độ có dây.

Vipasyin – rnam par gzigs

                        vị thứ nhất trong sáu vị Phật xuất hiện trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Virupa

một trong tám mươi tư đại thành tựu giả của Ấn Độ. Một nguồn mạch giáo lý quan trong của truyền thống Sakyapa.

Vị Thầy gốc – rtsa ba’ibla ma

1)      vị Thầy tâm linh chính yếu, hay đầu tiên mà từ Ngài ta nhận các quán đảnh, các bình giảng và giáo huấn cốt tuỷ.

2)      vị Thầy đã giới thiệu với ta bản tánh của tâm

Vô ngã – bdag med, Phạn: anatman, nairatmya

sự vắng mặt của sự hiện hữu độc lập hay nội tại của bản thân ta hay của các hiện tượng bên ngoài (chos kyi bdag med)

Vô-hành –

Hành động mà không có sự khái niệm hoá, xuất phát từ trạng thái chứng ngộ mà người hành động (tác nhân), hành động, và đối tượng được hành động hoàn toàn không có thực chất.

Vô-niệm (kinh nghiệm) – mi rtog pa’i nyams, Phạn: avikalpa, nirvikalpa

một trong ba loại kinh nghiệm thiền định. Một trạng thái an tĩnh trong đó không có các niệm tưởng. Xem các kinh nghiệm.

Vô-trụ Niết Bàn – mi gnas pa’i myang ‘das

sự Toàn Giác, siêu vượt cả sinh tử lẫn Niết Bàn, không “trụ” trong cái nào trong hai trạng thái trên.

Vua Hoàn Vũ – ‘khor lo sgyur ba’i rgyal po, Phạn: cakravartin

1)      một vị vua cai quản một hệ thống thế giới

2)      một hoàng đế.

Vua, Thần dân và Bằng hữu – rje ‘bangs grogs gsum,        

                        Vua Trisong Detsen, đại dịch giả Vairotsana và dakini Yeshe Tsogyal.

Vui hưởng những Hoá Thân của Người Khác – gzhan ‘phrul dbang byed,

Phạn: Paranirmitavasavartin, cấp độ thứ sáu và là cấp độ cao nhất của các vị trời trong Dục Giới, trong đó các vị trời vui hưởng các sự việc được tạo nên thật phi thường bởi những trời khác. Xem ba cõi.

Vũ trụ gồm một tỉ thế giới – stong gsum, Phạn: trisahasra

một vũ trụ gồm có một tỉ thế giới giống như thế giới của chúng ta và tương ứng với phạm vi hoạt động của một vị Phật.

Xá Lợi Phất (Sariputra) – sha ri’i bu

một trong hai đệ tử Thanh Văn nổi tiếng nhất của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Xứ biên địa – mtha’ ‘khob

                        một miền nơi giáo lý không được biết tới.

Yaksa (Dạ xoa) – gnod sbyin, một loại tinh linh.

Yama – gshin rje, Tử Thần.

Yamantaka – gshin rje bshed, thân tướng phẫn nộ của Manjusri (Văn Thù).

Yeshe Tsogyal – ye shes mtsho rgyal

phối ngẫu huyền nhiệm và đệ tử vĩ đại nhất của Đức Padmasambhava. Bà phụng sự Ngài thật hoàn hảo và trợ giúp Ngài truyền bá giáo lý, đặc biệt là cất dấu những kho tàng tâm linh để sau này khám phá lại vì sự lợi lạc của các đệ tử tương lai.

Yidam – yidam, Phạn: devata, istadevata

một Bổn Tôn tượng trưng cho sự giác ngộ, trong hình tướng nam hay nữ, hoà bình hay phẫn nộ tương ứng với bản tánh riêng biệt của ta. Yidam là cội nguồn của những thành tựu. Xem ba gốc.

Yoga – rnal ‘byor

sự thực hành, nghĩa đen: một phương pháp để hợp nhất (‘byor) với trạng thái tự nhiên (rnal ma)

Yogi hay yogini – rnal ‘byor pa hoặc ranal ‘byor ma

                        những người thực hành yoga, một hành giả tâm linh.

Ý nghĩa thích hợp – drang don, Phạn: neyartha.

Ý nghĩa thích hợp ám chỉ các giáo lý có ý định dẫn dắt chúng sinh không chứng ngộ tới chân lý của thực nghĩa.

Ý niệm hay sự quan hệ thuộc ý niệm – dmigs pa

                        bất kỳ khái niệm nào về một chủ thể, đối tượng và một hành động.

 

 

----o0o---

 

Mục Lục > 1-1 > 1-2 > 1-3 > 1-4> 1-5 >1-6

 2-1 > 2-2 > 2-3 > 2-4 > 2-5 > 2-6 > 3-1

 

----o0o---

Vi tính: Tường Tâm

Trình bày: Diệu Tường

Cập nhật: 01-2008

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

Mùa Vu lan 律的大篆 大悲咒的威力有多强 禅と世界文化のオンライン講座 tong nguồn gốc của khổ đau cổ Gánh çƒ¹ä½ ç テス យក សច ត តអប រ យ Ð Ð Ð ï½ ç å æžœå žå¾ 大学生申请助学金的申请理由怎么写 墓 購入 願力的故事 bẠgiå 人生是 旅程 風景 nhÃƒÆ 心经全文 六因四缘五果的来源和作用 hãy Tình 佛法怎样面对痛苦 青瓷周传雄歌曲主要想表达什么 túm 忿怒相 塩谷八幡宮 课程表鼓励孩子的话 CẠæˆåšæ năm điều Mách bạn địa chỉ quán cơm chay ngon ในรายาใ 8คมนา Dấu hiệu và một số cách phòng tránh 佛观音 สโตร ส รา 義交 æåŒ ç½ åˆ¹å ³ Gio Do Co xuan