NỀN TẢNG LUÂN LÝ CHO
NHÂN LOẠI
-ooOoo-
MỤC ĐÍCH CỦA ĐỜI
SỐNG LÀ GÌ?
Con người là quả vị cao nhất trên
cây tiến hóa. Chính con người phải nhận định được vị
trí của mình trong thiên nhiên và hiểu được ý nghĩa thực
sự của đời sống.
Muốn biết mục đích
của cuộc đời, bạn phải nghiên cứu nó qua kinh nghiệm và
tuệ giác của bạn. Rồi, bạn sẽ tự mình khám phá ra ý nghĩa
thực sự của đời sống. Bạn có thể nhận được những
lời hướng dẫn, nhưng bạn phải tạo các điều kiện để
sự nhận định phát xuất từ nơi bạn.
Có một số điều
kiện tiên quyết để khám phá mục đích của cuộc đời. Trước
tiên, bạn phải hiểu bản chất của con người và bản
chất của đời sống. Tiếp theo, bạn phải giữ tâm bạn bình
thản và khách quan trong việc chọn một tôn giáo. Khi bạn
hội đủ các điều kiện đó, câu trả lời bạn tìm kiếm
sẽ đến giống như con mưa phùn từ trên trời rơi xuống.
HIỂU RÕ BẢN CHẤT
CỦA CON NGƯỜI
Con người có thừa đủ
khả năng trong tay để lên đến mặt trăng và khám phá
những điều kỳ diệu của vũ trụ, nhưng con người chưa
thể đào sâu việc nghiên cứu bên trong, nội tâm của mình.
Con người chưa hiểu được làm thế nào cho tâm phát triển
hết tiềm năng để có thể thấu triệt được bản chất
thực sự của mình.
Cho đến bây giờ, con
người vẩn nằm trong vô minh. Con người chưa hiểu được mình
thực ra là gì và cái gì mong đợi nơi mình. Kết quả con người
giải thích sai lầm mọi điều và hành động theo sự giải
thích lầm lẫn ấy. Phải chăng tất cả toàn bộ văn minh
của chúng ta đều xây dựng trên sự giải thích sai lầm này
sao? Sự thất bại trong việc tìm hiểu cuộc sống dẫn con người
đến việc khoác trên mình một lý lịch sai lầm của một cái
ngã ích kỷ cao ngạo, và cho là đúng cái không đúng hay cái
không đúng là đúng.
Con người phải nỗ
lực vượt khỏi vô minh để tiến đến hiểu biết và giác
ngộ. Tất cả các vĩ nhân đều là con người sanh ra từ lòng
mẹ, nhưng họ đã nỗ lực làm việc để trở thành vĩ đại.
Hiểu biết và giác ngộ không thể rót vào tâm con người như
rót nước vào bồn. Đức Phật cũng phải trau dồi rèn
luyện tâm ý để hiểu được bản chất thực sự của con
nguời.
Con người có thể giác
ngộ - thành Phật - nếu người đó tỉnh dậy từ mê mờ
tạo ra bởi vô minh trong tâm của chính mình, và trở thành hoàn
toàn tỉnh giác. Phải hiểu rằng cái mà người đó có ngày
nay là kết quả của một số không kể siết những gì đã
lập đi lập lại trong tư tuởng và hành động trong quá
khứ. Con người không phải đã được làm sẵn mà đã không
ngừng tiếp diễn trong tiến trình tiến hóa và thay đổi. Đó
là đặc tính của vô thường mà tương lai tùy thuộc, vì đó
có nghĩa là con người tự mình có thể rèn đúc tính tình và
vận mạng của mình qua sự lựa chọn các hành động, nói năng
và tư tưởng của mình. Đương nhiên con người trở thành tư
tưởng và những hành động mà tự mình chọn lựa áp dụng.
Con người là quả cao nhất trên cây tiến hóa. Chính con người
phải hiểu được vị trí của mình trong thiên nhiên và
hiểu được ý nghĩa thực sự của đời mình.
HIỂU RÕ BẢN CHẤT
CỦA ĐỜI SỐNG
Hầu hết con người
không thích đối đầu với những sự thật của đời sống
và ưa tự ru ngủ vào cảm giác an toàn giả tạo bằng những
giấc mơ và tưởng tượng êm đềm. Họ sai lầm lấy bóng làm
thật. Họ thất bại không hiểu được đời sống là bấp bênh,
cái chết mới là điều chắc chắn. Một cách để hiểu đời
sống là phải nhìn thẳng và thấu hiểu cái chết, cái chết
chẳng qua chỉ là một kết liễu tạm thời cho một cuộc
sống tạm thời. Nhưng đa số không thích nghe ngay cả đến
tiếng "chết". Họ quên rằng chết sẽ đến, dù thích
hay không thích. Suy nghĩ đến cái chết với một thái độ chính
đáng giúp cho một người có can đảm và bình tĩnh cũng như
có tuệ giác về bản chất của kiếp sống.
Ngoài việc hiểu về
cái chết, chúng ta cần phải thấu rõ hơn đời sống của chúng
ta. Chúng ta sống một cuộc sống không bao giờ được êm suôi
như chúng ta mong cầu. Thông thường, chúng ta hay gặp khó khăn
và trở ngại. Chúng ta không nên sợ hãi vì sức thâm nhập vào
bản chất thực sự, vào các khó khăn và trở ngại ấy, có
thể cung cấp cho chúng ta một tuệ giác sâu sắc về đời
sống. Thế giới hạnh phúc trong của cải, xa hoa, địa vị
cao sang trong đời sống mà mọi người mong cầu chỉ là ảo
tưởng. Sự kiện về việc bán thuốc ngủ, thuốc an thần,
về con số trường hợp phải điều trị tại các viện
thần kinh và mức độ tự tử gia tăng rất nhiều trong thế
giới vật chất hiện đại thừa đủ để chứng minh chúng
ta phải bỏ qua các lạc thú vật chất thế tục để đi tìm
hạnh phúc thực sự.
SỰ CẦN THIẾT CÓ
MỘT TÔN GIÁO
Muốn hiểu mục đích
thực sự của đời sống, ta thường được khuyên là nên
chọn lựa và tuân hành một hệ thống luân lý đạo đức có
thể giúp ta tránh được các hành vi tội lỗi, khuyến khích
làm điều thiện, thanh tịnh hóa tâm ý. Đơn giản chúng ta
gọi hệ thống này là tôn giáo.
Tôn giáo là biểu
hiện của con người đấu tranh: tôn giáo là sức mạnh vĩ đại
của con người, dẫn con người đến sự tự chứng ngộ. Tôn
giáo có sức mạnh biến đổi một con người tiêu cực thành
một con người có nhiều đức tính tích cực. Tôn giáo thay
đổi kẻ đê tiện thành người cao thượng, kẻ ích kỷ thành
người hào phóng, kẻ tự hào thành người khiêm tốn, kẻ kiêu
ngạo thành người nhẫn nhục, kẻ tham lam thành người nhân
đức, kẻ ác thành người hiền, kẻ chủ quan thành người
khách quan. Tuy không hoàn toàn, nhưng tôn giáo nào cũng mong
muốn cải tạo đời sống con người. Từ thời thượng cổ,
tôn giáo đã là cội nguồn của cảm hứng văn hóa và mỹ
thuật. Mặc dù nhiều hình thức tôn giáo đã xuất hiện
suốt chiều dài lịch sử, một số đã bị mai một và quên
lãng nhưng tôn giáo nào lúc đương thời cũng đóng góp vào
sự tiến bộ của loài người. Cơ Đốc Giáo giúp văn minh Tây
Phương phát triển, và ảnh hưởng suy kém của tôn giáo này
được đánh dấu chiều hướng đi xuống của tinh thần Âu
Mỹ. Phật Giáo đã văn minh hóa một phần lớn Đông Phương
trước đây rất lâu nay vẫn hãy còn là một lực lượng
mạnh mẽ, và trong thời đại kiến thức khoa học này, càng
ngày càng bành trướng, và gia tăng ảnh huởng. Phật Giáo không
hề có một đối nghịch nào với kiến thức hiện đại ở
bất cứ điểm nào, mà còn bao quát và siêu việt tất cả
mọi kiến thức theo một đường lối mà từ trước tới nay
chưa có một hệ thống tư tưởng nào thực thi giống như
thế. Người Phương Tây tìm cách chiếm đoạt vũ trụ cho
cứu cánh vật chất. Phật Giáo và các triết gia Đông Phương
nỗ lực đạt đến sự hòa hợp vói thiên nhiên hay sự
thỏa mãn về tinh thần.
Tôn giáo dạy con người
cách lắng đọng các giác quan và làm tâm ý an lạc. Bí
quyết của sự trấn an giác quan là loại bỏ tham dục, gốc
rễ của của những xáo trộn của chúng ta. Có được hạnh
tri túc là điều rất quan trọng. Con người càng tham đắm
của cải bao nhiêu thì lại càng khổ sở bấy nhiêu. Của
cải không đem lại hạnh phúc. Hầu hết những người giàu có
trên thế giới ngày nay đều đau khổ cả về vật chất
lẫn tinh thần. Tất cả tiền bạc mà họ có cũng không thể
mua được giải pháp cho những vấn đề của họ. Vậy mà
những người nghèo khi đã học được hạnh tri túc lại có
thể an hưởng cuộc sống vui vẻ hơn là những người giàu có
như vần thơ sau:
"Kẻ
có nhiều lại càng tham đắm
Ta tuy nghèo nhưng chẳng tìm thêm.
Họ thực nghèo dù của nhiều hơn,
Ta giàu có tuy không tích giữ,
Họ nghèo, ta giàu, họ xin, ta thí,
Họ thiếu, ta đủ, họ héo hon, ta vui sống".
ĐI TÌM
MỘT MỤC ĐÍCH CHO ĐỜI SỐNG
Mỗi người đều có
mục đích sống khác nhau. Nghệ sĩ hướng mục đích của đời
mình vào những kiệt phẩm sẽ mãi được lưu lại ngàn sau
khi đã mệnh một. Khoa học gia mong muốn khám phá định
luật nào đó, phát minh lý thuyết mới, hay sáng chế máy móc
mới. Chính trị gia mong muốn trở thành thủ tướng hay tổng
thống. Một nhân viên trẻ thừa hành mong muốn trở thành giám
đốc điều khiển một công ty quốc tế lớn. Nhưng khi bạn
hỏi người nghệ sĩ, khoa học gia, chính trị gia, và nhân viên
trẻ thừa hành tại sao họ lại nhằm vào các mục tiêu như
vậy, họ sẽ trả rằng những thành quả đó cho họ mục đích
để sống và làm cho họ hạnh phúc. Mọi người đều hướng
về hạnh phúc trong cuộc sống, nhưng kinh nghiệm cho thấy
mục tiêu mong ước khó mà đạt được.
CHỨNG NGHIỆM
Một khi chúng ta
chứng nghiệm được bản chất của đời sống (qua đặc tính
bất-toại-nguyện, vô thường, vô ngã) cũng như bản chất
của lòng tham ái của con người, và các phương tiện để đạt
thỏa mãn, chúng ta sẽ hiểu lý do tại sao hạnh phúc tìm
cầu của nhiều người thật khó nắm được chẳng khác gì
nắm bắt ánh trăng trong bàn tay. Họ cố gắng tìm hạnh phúc
qua thu thập tích lữy. Khi thất bại trong việc tích lữy
của cải, địa vị, quyền thế, danh vọng, trong tìm cầu
lạc thú từ sự thỏa mãn giác quan, họ héo hon và đau khổ,
thèm muốn được như những người khác đã thành công.
Tuy nhiên cả đến khi
họ được toại nguyện về những thứ mong cầu, họ vẫn đau
khổ vì bây giờ họ lại sợ mất những gì đã có, hay lại
muốn có thêm nhiều của cải, địa vị, quyền thế, và
lạc thú nhiều hơn nữa. Lòng tham dục của họ hầu như
chẳng bao giờ được thỏa mãn. Cho nên hiểu biết được
bản chất đời sống thật quả là thiết yếu để chúng ta
không lãng phí quá nhiều thì giờ vào những việc không thể
làm được.
Vậy nên tôn giáo
trở nên quan trọng vì tôn giáo khuyến khích hạnh tri túc và
thuyết phục con người đừng nên chú trọng đến những đòi
hỏi của nhục dục và cái ta. Trong một tôn giáo như đạo
Phật, con người được nhắc nhở chính mình là kẻ thừa
kế nghiệp của mình, và là chủ tể số phận của mình.
Muốn đạt hạnh phúc nhiều hơn, người đó phải chuẩn bị
đi trước những lạc thú phù du ngắn ngủi. Dù một người
không tin có kiếp sống sau khi chết, người đó cũng thừa
hiểu để biết rằng phải sống một cuộc sống lương
thiện, cao quý trên trái đất, vui sống trong an lạc và hạnh
phúc ngay đây và lúc này, cũng như thể hiện các hành động
đem lợi ích cho chính mình và đem hạnh phúc cho người khác.
Sống một cuộc sống tích cực và lương thiện trên trái đất,
tạo hạnh phúc cho chính mình và người khác như thế hẳn
tốt hơn là sống một cuộc sống ích kỷ chỉ biết thỏa mãn
cái ta và lòng tham của mình.
Tuy nhiên nếu một người
tin tưởng có đời sống sau khi chết, theo Nghiệp Luật, người
đó sẽ tái sanh phù hợp với phẩm chất của những hành động
của mình. Một người có nhiều hành động thiện, người đó
sẽ sinh vào những hoàn cảnh tốt đẹp, giàu sang và thành đạt,
đẹp đẽ và cường tráng, sức khỏe tốt, và gặp thầy
tốt bạn hiền. Những hành động lương thiện cũng dẫn con
người tái sanh lên cảnh trời và những bình diện cao hơn,
trong khi những hành động bất lương dẫn đến những cảnh
giới đau khổ. Khi một người thấu đáo định luật của
Nghiệp, người đó sẽ nỗ lực tránh những hành động xấu
xa, và trau dồi các hành động thiện. Hành động như vậy,
người đó được lợi lạc không những ngay trong đời sống
hiện tại, mà còn về nhiều kiếp sau.
Khi ta thấu hiểu bản
chất của con người, thì một số chứng nghiệm quan trọng
sẽ sanh khởi. Ta sẽ thấu triệt được rằng không giống như
một hòn sỏi hay một cục đá, con người có một tiềm năng
sung mãn để vun bồi trí tuệ, từ bi, và tỉnh thức - và người
đó sẽ được chuyển hóa do sự tự phát triển và tiến
bộ này. Ta cũng hiểu rằng không dễ dàng gì được sanh làm
nguời, đặc biệt hơn nữa không dễ dàng gì lại có duyên
được nghe Phật Pháp. Hơn nữa, ta lại hiểu rõ rằng đời
sống vô thường, cho nên phải nỗ lực tu tập Giáo Pháp
trong khi đang được ở trong hoàn cảnh thuận tiện. Ta chứng
nghiệm được rằng thực hành Giáo Pháp là một tiến trình
giáo dục suốt đời giúp mình giải tỏa tiềm năng thực
sự bị chôn vùi trong tâm do vô minh và tham dục.
Căn cứ vào chứng
nghiệm và hiểu biết ấy, ta sẽ càng cố gắng có chánh
niệm hơn nữa về nội dung và cách thức mà ta suy nghĩ, lời
nói và hành động. Ta sẽ xét xem tư tưởng, lời nói và hành
động có đem lợi ích, có phát xuất từ lòng từ bi, và có
hiệu quả tốt cho mình và người khác hay không. Ta sẽ hiểu
được chân giá trị của việc đi trên con đường dẫn đến
sự chuyển hóa toàn diện mà người Phật Tử được biết
đó là Bát Chánh Đạo. Con đường này giúp ta nâng cao giới
hạnh qua việc tránh các hành động tiêu cực và trau dồi các
đức tính tích cực dẫn đến sự phát triển cá nhân, tinh
thần và tâm linh. Hơn nữa, con đường ấy chứa đựng
nhiều kỹ thuật có thể áp dụng để thanh tịnh hóa tư tưởng,
mở rộng khả năng của tâm ý, và đem dến sự thay đổi toàn
diện tiến tới một nhân phẩm tốt đẹp. Sự tu tập về
thiền định này có thể phát triển tâm ý về cả chiều
rộng lẫn chiều sâu đối với tất cả những kinh nghiệm
của con người, cũng như bản chất và đặc tính của các
hiện tượng, đời sống và vũ trụ. Nói tóm lại, sự tu
tập này dẫn đến việc rèn luyện trí tuệ. Khi trí tuệ phát
triển thì tình thương, tâm từ, lòng tốt, và niềm vui cũng
phát triển. Ta sẽ có chánh niệm sâu sắc hơn nữa về tất
cả các hình thức của cuộc đời và hiểu biết thấu đáo
hơn về các tư tưởng, cảm thọ, và động cơ thúc đẩy
của chính mình.
Trong tiến trình của
sự tự chuyển hóa, ta sẽ không còn khát vọng được siêu
sanh xem như là mục tiêu tối hậu của đời mình nữa. Ta
sẽ hướng về một mục tiêu cao cả hơn, và tự mình theo gương
mẫu của Đức Phật, bậc đã đạt đến mức toàn bích
của con người, đã đạt đến trạng thái không thể diễn
tả được mà chúng ta gọi là Giác Ngộ hay Niết Bàn. Tại
đây, ta sẽ đặt hết lòng tin tưởng sâu xa vào Tam Bảo và
tuân hành theo Đức Phật như một mẫu mực lý tưởng về
tinh thần của mình. Hành giả sẽ nỗ lực nhổ tận gốc
rễ lòng tham dục, phát triển trí tuệ và từ bi, và giải
thoát khỏi xiềng xích trói buộc của Luân Hồi.
PHẬT GIÁO VỚI CON NGƯỜI
TRONG XÃ HỘI
Tôn giáo này có thể
thực hành ngay trong xã hội hay nơi ẩn dật.
Có một số người
tin Phật Giáo là một hệ thống quá cao thượng và siêu
việt nên một người nam hay một người nữ bình thuờng không
thể thực hành được trong thế giới hàng ngày. Họ nghĩ
rằng phải vào tu tập trong một tu viện hay một nơi yên tĩnh
nếu muốn trở thành một Phật Tử đúng nghĩa.
Trên đây là một quan
niệm đáng buồn do sự thiếu hiểu biết Phật Giáo. Người
ta đi đến kết luận vội vàng này sau khi tình cờ đọc hay
nghe thấy một điều gì đó về Phật Giáo. Một số người
lập luận về Phật Giáo sau khi đọc m?t số bài hay sách
chỉ nói lên một khía cạnh hay quan niệm một chiều về
Phật Giáo. Tác giả của các bài và sách đó chỉ hiểu
biết giới hạn về Giáo Lý của Đức Phật. Giáo Lý của Ngài
không phải chỉ dành riêng cho các nhà sư trong tu viện. Giáo
Lý của Ngài áp dụng cho mọi người, nam và nữ bình thường
sống với gia đình. Bát Chánh Đạo là cách sống theo đạo
Phật ứng dụng cho tất cả mọi người. Lối sống này được
cống hiến cho tất cả nhân loại không có một sự phân
biệt nào.
Đại đa số trên
thế giới không thể trở thành nhà sư hay sống ẩn dật
trong hang động hay rừng rú. Dù Phật Giáo có cao quý và thanh
tịnh cũng sẽ vô dụng cho quần chúng nếu họ không áp
dụng được đạo vào cuộc sống hàng ngày trên thế giới
hiện đại này. Nhưng nếu bạn hiểu được tinh thần Phật
Giáo một cách đứng đắn, chắc chắn bạn, một người
sống đời bình thường trên cõi đời này, có thể noi theo và
tu tập được.
Có một số người
cảm thấy dễ dàng và thuận lợi hơn cho việc hành đạo
bằng cách sống ẩn dật ở một nơi hẻo lánh, nói một cách
khác bằng cách tự tách mình ra khỏi xã hội. Tuy vậy một
số người khác cho rằng sống rút lui như thế buồn nản và
suy nhược cả vật chất lẫn tinh thần không dẫn đến sự
phát triển đời sống tâm linh và trí thức. Sự từ bỏ
thế tục thực sự không có nghĩa là đào thoát cõi đời này
về mặt vật chất. Ngài Xá Lợi Phất, đệ tử lớn nhất
của Đức Phật, nói rằng một người có thể sống trong
rừng tu hành khổ hạnh nhưng tâm ý đầy tư tưởng bất
tịnh và "ô trược". Còn người khác có thể sống
trong làng xóm hay phố thị, không tu khổ hạnh, nhưng tâm ý
vẫn trong sạch không "ô nhiễm". Với hai người đó,
Ngài Xá Lợi Phất nói, kẻ sống cuộc sống thanh tịnh dù
ở làng mạc hay thành thị vẫn cao cả hơn kẻ sống trong
rừng núi. (Majjhima Nikaya - Trung Bộ Kinh).
Niềm tin chung chung cho
rằng muốn tu tập giáo lý của Đức Phật phải từ bỏ
cuộc sống gia đình là một quan niệm sai lầm. Quả là một
cách bào chữa vô ý thức chống lại việc tu tập. Có không
biết bao nhiêu lời Phật dạy cho các nam nữ Phật Tử bình
thường sống có gia đình đã thành công trong việc hành theo
lời Ngài dạy và chứng ngộ Niết Bàn. Vị du tăng Vacchagotta
có lần hỏi thẳng Đức Phật phải chăng có những nam nữ cư
sĩ có gia đình tu tập giáo lý của Ngài đã thành công và đạt
mức độ tinh thần cao. Đức Phật khẳng định có rất
nhiều nam và nữ cư sĩ có gia đình, tu tập giáo lý của Ngài,
đã thành công và đạt những mức độ tinh thần cao.
Có một số người
cảm thấy thích thú được sống ở một nơi yên tĩnh không
bị quấy rầy bởi huyến náo và xáo trộn. Nhưng thật đáng
ca ngợi những người can đảm tu tập Phật Pháp ngay giữa đám
đông người, giúp đỡ đồng bào và phục vụ đồng bào.
Một vài truờng hợp cũng rất hữu ích cho hành giả sống
ẩn dật một thời gian để tăng tiến tâm ý và tính nết,
giới hạnh, rèn luyện tinh thần và tri thức, để sau này có
đủ sức mạnh bước ra ngoài đời giúp đỡ người khác. Nhưng
nếu một người sống lẻ loi, chỉ nghĩ đến hạnh phúc và
giải thoát riêng tư cho mình, bất kể đến người đồng
chủng của mình, chắc chắn là họ không đi đúng với giáo
lý của Đức Phật căn cứ vào hạnh từ bi và phục vụ chúng
sinh.
Bây giờ ta có thể
hỏi: "Nếu một người tu tập Phật Pháp vẫn có thể
sống một cuộc đời bình thuờng, tại sao Đức Phật lại
thành lập đoàn thể Tăng Già, đoàn thể các thầy tu?"
Đoàn thể Tăng Già giúp cơ hội cho những ai muốn hiến dâng
đời mình không những chỉ để phát triển tinh thần và tri
thức của mình, mà còn để phục vụ người khác. Một cư sĩ
bình thường có gia đình không thể hiến trọn đời mình
phục vụ cho người khác, trong khi một nhà Sư, không bị trách
nhiệm gia đình và các trói buộc thế tục, có hoàn cảnh
thuận lợi hơn để hiến dâng đời mình "vì lợi ích
cho nhiều người" (Tiến Sĩ Walpola Rahula).
Và cái gì là
"lợi ích" mà nhiều người được hưởng? Chư Tăng
không thể cho người cư sĩ vật chất tiện nghi, nhưng có
thể hướng dẫn tinh thần cho những ai bị khó khăn, dao động
về thế gian gia đình vân vân.... Người tu đặt trọn đời
mình trong sự nghiệp mở mang kiến thức về Giáo Pháp do Đức
Phật giảng dạy. Chư Tăng giảng giáo lý dưới hình thức
đơn giản cho những người cư sĩ không có bổn sư. Nếu người
cư sĩ có văn hóa cao có thể thảo luận những khía cạnh sâu
xa hơn về giáo lý và cả hai cư sĩ và tăng sĩ đều thâu
thập được lợi ích tinh thần từ những vấn đề trao đổi.
Trong những xứ Phật
Giáo, các nhà sư chịu trách nhiệm nhiều về giáo dục giới
trẻ. Kết quả của sự đóng góp này là tại những xứ ấy
dân chúng biết chữ và rất giỏi về những giá trị tinh
thần. Chư tăng cũng an ủi kẻ khốn cùng và người quẫn trí
bằng cách giảng dạy cho họ hiểu là tất cả nhân loại đều
phải chịu đựng những xáo trộn tương tự như vậy.
Ngược lại, người cư
sĩ cũng sẵn sàng cúng dường cho chư tăng các vật dụng,
thực phẩm, chỗ tạm trú, thuốc men và quần áo vì chư tăng
không có điều kiện để mua sắm tứ vật dụng này. Trong
việc tu tập Phật Pháp, sự cúng dường coi như góp phần công
đức của người cư sĩ để gìn giữ sức khỏe cho chư tăng
để hỗ trợ chư tăng tiếp tục chăm lo nhu cầu tinh thần
cần thiết cho người dân và cho chính sự thanh tịnh của tăng
đoàn.
NGƯỜI CƯ SĨ SỐNG
THEO CHÁNH PHÁP
Đức Phật coi nguồn
phúc lợi kinh tế như một điều kiện cần thiết cho hạnh
phúc của con người, nhưng giới hạnh cùng sự phát triển
tinh thần cũng là điều kiện cần thiết cho một cuộc sống
hạnh phúc, an lạc và tri túc.
Có lần, một người
tên Dighajanu đến thăm Đức Phật và hỏi Ngài: "Bạch Đức
Thế Tôn, chúng con là người cư sĩ bình thường, chủ gia đình
có vợ và con. Kính xin Đấng Thiện Thệ ban cho chúng con
những lời dạy nào có thể mang hạnh phúc đến cho chúng con
ngay trong thế giới này và về sau?"
Đức Phật cho biết có
bốn điều mang hạnh phúc cho con người trên đời này:
- Điều Thứ Nhất:
Phải khéo léo, hữu hiệu, sốt sắng và có nghị lực dù làm
nghề nghiệp gì, và phải biết rõ về nghề đó;
- Điều Thứ Hai: Phải gìn giữ lợi tức kiếm được chính
đáng do mồ hôi của mình;
- Điều Thứ Ba: Nên có bạn tốt, trung thành, học thức, đạo
đức, phóng khoáng và thông minh để hướng mình trên con
đường ngay thẳng tránh tội lỗi;
- Điều Thứ Tư: Tiêu pha vừa phải, theo mức lợi tức, không
nên hoang phí và cũng không nên bỏn xẻn, có nghĩa là không
nên keo kiệt tích lữy của cải và cũng không nên phung phí
quá độ - nói một cách khác phải nên sống trong phạm vi
khả năng của mình.
Rồi Đức Phật giải thích bốn đức hạnh
mang hạnh phúc cho người cư sĩ:
1) Saddha (Đức tin):
Phải có niềm tin và tin tưởng vào giá trị đạo đức
tinh thần và tri thức;
2) Sila (Giới): Gìn giữ tránh xa sát hại, hãm hại, trộm cướp,
lường gạt, gian dâm, lừa dối và ma túy;
3) Caga (Từ Bi): Phải nhân từ, bố thí, không luyến ái và
tham đắm của cải;
4) Panna (Trí Tuệ): Phải phát triển trí tuệ đưa đến sự
chấm dứt hoàn toàn khổ đau, đạt Niết Bàn.
Đôi khi Đức Phật
dạy đến chi tiết như việc để dành tiền và tiêu pha, Ngài
dạy thanh niên Sigala chỉ nên tiêu một phần tư lợi tức vào
những chi phí thường nhật, dùng một nửa lợi tức kinh
doanh và để dành một phần tư cho sư chi tiêu bất thường.
Có lần Đức Phật
dạy về bốn loại hạnh phúc cho ông Cấp Cô Độc, Chủ Nhân
một ngân hàng lớn, một đệ tử hết lòng đã xây dựng
Kỳ Viên Tự tại Savathi, là người cư sĩ sống cuộc đời có
gia đình bình thường:
- Hạnh phúc thứ
nhất là vui hưởng lợi tức bảo đảm hay tạo dựng của
cải chính đáng;
- Hạnh phúc thứ hai là tiêu pha tự do của cải cho mình,
gia đình, bạn bè và thân quyến, và vào những việc công
đức;
- Hạnh phúc thứ ba là không nợ nần;
- Hạnh phúc thứ tư là sống không lầm lỗi, một đời
sống thanh tịnh không phạm tội về ý nghĩ, lời nói hay hành
động.
Điều đáng ghi nhận
là ba điều đầu thuộc hạnh phúc về kinh tế và vật chất
không đáng giá bằng hạnh phúc tinh thần phát sanh từ một
cuộc sống lương thiện không lầm lỗi.
Một vài thí dụ trên
đây, ta có thể nhìn thấy Đức Phật lưu ý đến nguồn phúc
lợi kinh tế như điều kiện tiên quyết cho hạnh phúc con người,
nhưng Ngài cũng không công nhận tiến bộ vật chất là thật
và đúng vì nếu chỉ vật chất không thôi thì nền tảng
của tinh thần và đạo đức sẽ không có. Trong khi khuyến khích
sự tiến bộ vật chất, Phật Giáo cũng đặt nặng việc phát
huy đạo đức và tinh thần cho một xã hội hạnh phúc, hòa bình
và tri túc.
Nhiều người nghĩ
rằng là một người Phật Tử tốt, ta chẳng cần gì đến
đời sống vật chất. Điều này không đúng. Điều mà Đức
Phật dạy là trong khi chúng ta có thể vui hưởng tiện nghi
vật chất nhưng không nên đi đến cực đoan, chúng ta cũng
vẫn phải cần mẫn phát triển phương diện tinh thần của
cuộc sống. Là cư sĩ trong khi có thể vui hưởng lạc thú giác
quan, chúng ta không nên luyến ái quá mức vào các khoái lạc
ấy đến độ cùng cực khiến sự tiến bộ tinh thần của
chúng ta bị cản trở. Phật Giáo luôn luôn nhấn mạnh sự
cần thiết của Trung Đạo đối với con người.
-ooOoo-
Ðầu
trang | Mục lục | 01
| 02 | 03 |
04
| 05a | 05b |
06
| 07 | 08 |
09
| 10 | 11 |
12
| 13 | 14 |
15
| 16 | 17
--- o0o ---
Trình bày:
Chân Đức & Nguyên Thảo
Cập
nhật
ngày:
01-11-2002