Nguyên
tác: "Essential Themes of Buddhist Lectures",
Venerable Sayadaw Ashin U Thittila--- o0o
---
CHƯƠNG III
NHỮNG
BÀI GIẢNG ÐẶC BIỆT LIÊN QUAN ÐẾN ÐỊNH
(SAMÀDHI)
Bài 16:
CON ÐƯỜNG TRUNG ÐẠO
(THE MIDDLE PATH)
Thánh Ðạo Tám Ngành
hay Bát Chánh Ðạo mà Ðức Phật đã thuyết trong bài pháp đầu tiên của Ngài
là Trung Ðạo, vì nó không lạc quan cũng chẳng bi quan. Lạc quan có khuynh
hướng đánh giá quá cao cuộc sống, trong khi đó bi quan lại có khuynh hướng
đánh giá quá thấp; một đằng thì lao vào những thái quá của nhục dục và lạc
thú đời thường thấp hèn, thô bỉ và vô bổ. Ngược lại, phía bên kia chủ
trương khổ hạnh thái quá cũng không tốt và vô ích, đắm mê trong dục lạc
làm cho người ta không phát triển được tinh thần, còn tự hành khổ mình lại
làm suy yếu đi phần tri thức. Ðạo lộ chân chánh là con đường trung đạo nằm
giữa hai cực đoan này, và giáo lý trung đạo chỉ có thể nắm bắt được bởi
một người đã hiểu rõ mối tương quan tương duyên giữa hai cực đoan nêu
trên. Tiến bộ chính là biết thay đổi qua lại trọng lực và sự nổi bật giữa
hai khuynh hướng. Tuy nhiên, cũng như trọng lực của một kiếm thuật gia
dường như luôn được giữ thăng bằng giữa đôi chân của ông ta, ông chỉ tựa
trên một chân nào đó trong khoảng thời gian cần thiết đủ để thay đổi trọng
tâm, trên lộ trình giải thoát cũng vậy, người hành đạo không nên trú ở một
cực đoan nào cả mà phải cố gắng giữ quân bình ở mức trung tâm của nó, từ
đó hai đối cực này đựơc quan sát một cách trung thực. Tất cả các cực đoan
đều sanh ra những đối cực của nó, và cả hai đều bất lợi như nhau.
Ðối với tất cả mọi người, Trung Ðạo về một
cuộc sống hiền thiện trong thế gian này là cách sống tốt đẹp nhất và an
toàn nhất. Ðức Phật dạy: "Có hai
cực đoan mà người sống đời cao thượng của một Tỳ Khưu không nên hành theo,
hai cực đoan đó là gì? Ðó là sống kết hợp với dục vọng thấp hèn, đê tiện,
tầm thường, không xứng đáng với bậc Thánh và sống kết hợp với tự hành hạ
mình, tự làm khổ mình, không xứng đáng với bậc Thánh và vô ích".
(Samyutta Nikàya V. phẩm Chuyển Pháp Luân). Tránh xa hai cực đoan
này Ðức Phật đã đạt đến trí tuệ thấy rõ Trung Ðạo, mà điều này đã làm phát
sinh huệ nhãn và huệ trí cũng như hướng đến an tịnh, thắng trí và giác
ngộ.
Vậy thì Trung đạo là gì lại khiến phát
sinh huệ nhãn? Ðó chính là Bát Chánh Ðạo bao gồm: Chánh Kiến, Chánh Tư
Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và
Chánh Ðịnh. Hai chi đầu: Chánh Kiến và Chánh Tư Duy tạo thành khởi điểm
cho cuộc hành trình của đời sống chân chánh thuộc về nhóm Tuệ. Ba chi kế:
Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng liên quan đến những điều kiện tu tập
bên ngoài thuộc nhóm Giới, và ba chi cuối Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm,
Chánh Ðịnh liên hệ đến các điều kiện tu tập bên trong.
Mục tiêu trước mắt là phải đạt được sự
kiểm soát hay chế ngự tâm; với sự chế ngự này mọi tham muốn vị kỷ có thể
được và chắc chắn sẽ được nhổ sạch tận gốc và chấm dứt hoàn toàn, cứu cánh
tối hậu là đoạn tận mọi hình thức bất toại nguyện và khổ đau qua sự chứng
ngộ trí tuệ giải thoát viên mãn.
Bước thứ nhất trên đạo lộ hướng đến cứu
cánh giải thoát là Chánh Kiến.
Chánh Kiến ở đây liên hệ đến sự hiểu biết rõ ràng về Tứ Ðế, đó là: Khổ Ðế,
Tập Ðế, Diệt Ðế và Ðạo Ðế. Vậy gì là khổ? Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là
khổ, chết là khổ, sầu bi, khổ, ưu não là khổ; phải xa lìa những gì mình
yêu mến là khổ và không đạt được điều mình mong ước cũng khổ.
Cuộc sống sẽ tràn đầy khổ đau nếu như
người ta không biết làm thế nào để sống cho phù hợp với nó. Về phương diện
thể chất, sanh, già, chết là điều không thể tránh được, song có một phương
diện khác ở đó đời sống luôn luôn sầu muộn. Tuy nhiên đó là một loại sầu
muộn hoàn toàn có thể tránh được, người sống cuộc đời bình thường trong
thế gian này lúc nào cũng cảm thấy mình bị vướng mắc vào đủ mọi loại phiền
não. Nói rằng họ luôn luôn đau khổ thì có vẻ không thực lắm, nhưng phải
nói là họ lúc nào cũng ở trong tình trạng lo lắng, bất cứ lúc nào họ cũng
có thể rơi vào những tình trạng đau khổ hay lo âu thái quá. Lý do của điều
này là vì trong lòng họ chất chứa đầy những tham vọng trần tục, dĩ nhiên
những điều đó không nhất thiết là xấu, mà chỉ là những tham muốn đối với
các pháp thế gian, bởi vì những tham muốn này mà họ bị trói buộc và giam
hãm trong ngục tù thế gian, họ luôn luôn gắng sức để đạt cho kỳ được cái
mà họ chưa có, nhưng khi đã đạt được rồi họ lại lo sợ rằng sẽ mất nó, điều
này là sự thực không phải chỉ đối với vấn đề tiền bạc mà còn cả vơi những
vấn đề khác như địa vị, quyền lực và mọi thăng tiến trong xã hội nữa.
Còn có những đối tượng khác của lòng tham
muốn, chẳng hạn như một người nam hay một người nữ khao khát được sự trìu
mến yêu thương nơi một người nào đó nhưng không được họ đáp lại. Phát xuất
từ những tham muốn bất toại nguyện như vậy thường đưa đến vô số những buồn
tủi, ghét ghen, thù hận, quý vị có thể cho những tham muốn đó là điều hoàn
toàn tự nhiên; hiển nhiên đó là điều hết sức tự nhiên, và nếu sự trìu mến
thương yêu đó được đáp trả lại thì thật là vô cùng hạnh phúc nữa là khác.
Tuy nhiên, nếu nó không được đáp trả lại thì sao? Người nam hay người nữ
ấy phải có một sức chịu đựng mới có thể chấp nhận được tình trạng bẽ bàng
này, và không để cho lòng tham muốn bất toại nguyện đó gây nên đau khổ.
Khi chúng ta nói một vấn đề nào đó là tự nhiên, nghĩa là chúng ta muốn nói
rằng đó là một việc mà chúng ta có thể trông đợi (sẽ xảy ra) đối
với một người trung bình. Nhưng là một Phật tử, chúng ta phải cố gắng vươn
lên trên cái mức trung bình ấy, nếu không làm sao chúng ta có thể giúp cho
mọi người được? Chúng ta phải ở trên mức ấy thì khả dĩ chúng ta mới có thể
mở rộng vòng tay giúp đỡ mọi người.
Chân đế thứ hai là nguyên nhân của khổ.
Chúng ta đã thấy ra rằng nguyên nhân gây ra đau khổ luôn luôn là vì muốn
được sở hữu và khát khao muốn giữ mãi những gì mình đã có. Ðức Phật dạy
rằng cái khuynh hướng muốn sở hữu của con người là kẻ thù tệ hại nhất của
họ, vì lòng tham muốn tích luỹ này đã tước đi của họ lý trí và khả năng
hiểu biết, dính mắc vào một vật là phải buồn khi mất nó, ghét hay thù hận
một cái gì là sẽ mất vui khi phải gần nó. Tham đắm vị kỷ đối với các đối
tượng vật chất thế gian đưa đến hậu quả là phải hy sinh kho báu tinh thần
để giành được cái mình mong muốn, mà vật ấy có thể lại ít giá trị hơn là
khác. Vì thế tham muốn ích kỷ đã huỷ diệt khả năng phán đoán về giá trị,
vì lòng tham này đặt sở hữu thế gian lên trên trí tuệ, và lợi ích cá nhân
trên đạo lý.
Khi tuổi già ập đến, một số người tỏ vẻ
buồn bực vì họ thấy là mình không còn khoẻ mạnh như trước kia nữa. Cần
phải hiểu được tấm thân này đã hoàn tất tốt phận sự của nó mới thực sự là
thái độ của người có trí, và nếu nó không còn làm được nhiều việc như
trước đây, chúng ta sẽ làm những gì có thể làm được một cách nhẹ nhàng và
an lạc, nhưng đừng tự làm khổ mình về những đổi thay vô thường đó, không
bao lâu chúng ta sẽ có những cái thân mới, và cách để bảo đảm sẽ được một
tấm thân tốt đẹp như ý là chúng ta phải tận dụng hết khả năng của mình để
làm mọi điều thiện với tấm thân cũ này. Tuy nhiên trong bất kỳ trường hợp
nào cũng cần phải bình thản, an tịnh và không bối rối, muốn làm được điều
này nhất thiết chúng ta phải dừng lại mọi tham muốn, vị kỷ, đồng thời
hướng tâm vị tha đến mọi người, giúp cho tha nhân với hết khả năng của
mình.
Chân đế thứ ba là sự diệt khổ. Chúng ta đã
biết làm thế nào để khổ đau dừng lại và làm thế nào để đạt đến an lạc;
bằng cách luôn luôn hướng tâm đến những điều cao thượng. Chúng ta có thể
sống trong thế gian này hoàn toàn hạnh phúc, nếu như chúng ta không để cho
cái tham muốn điên rồ của mình dính mắc vào nó; chúng ta sống trong cuộc
đời nhưng không bị cuộc đời trói buộc, ít ra cũng không đến mức bị cuộc
đời gây cho ta lo lắng, phiền muộn và khổ đau. Hiển nhiên phận sự của
chúng ta là để giúp đỡ mọi người trong những lúc họ khổ đau, phiền muộn,
thế nhưng, để làm được điều này một cách hiểu quả, bản thân chúng ta phải
đoạn tuyệt những tham muốn ích kỷ của mình. Nếu ta sống trong cuộc đời với
triết lý như vậy thì chắc chắn chúng ta sẽ thấy rằng mọi sầu khổ trong ta
hầu như đã hoàn toàn dừng lại. Hẳn sẽ có một số người cho rằng thái độ
sống như vậy là một điều không thể đạt đến nổi. Không hẳn như vậy, chúng
ta có thể vươn đến đến nó và chắc chắn sẽ làm được điều này, bởi vì chỉ
khi chúng ta có được thái độ sống như vậy chúng ta mới thực sự có thể giúp
cho tha nhân một cách hiệu quả.
NIẾT BÀN
Sự diệt tận tham ái hay tham muốn ích kỷ
có nghĩa là sự thủ tiêu năm triền cái, vì tất cả mọi bất thiện pháp khác
tự thân chúng cũng nằm trong một yếu tố căn để này; kết quả của sự diệt
tận tham ái này được gọi là Niết Bàn. Từ Pàli "Nibbàna" được lập
thành bởi "Ni" và "Vàna". "Ni" là một phân từ phủ
định và "Vàna" có nghĩa là tham ái hay tham muốn ích kỷ. Vì vậy,
Nibbàna nghĩa đen của nó là sự vắng mặt tham ái. Từ này còn được định
nghĩa như là sự diệt tận dục tham, sân hận và si mê.
Phần lớn sự giải thích mang tính tiêu cực
về cứu cánh tối hậu của đạo Phật, Niết Bàn, là do hậu quả của quan niệm
sai lầm cho đó là "rỗng không" hay "sự huỷ diệt".
Tuy nhiên, chúng ta còn tìm thấy trong kinh điển những định nghĩa rất tích
cực về Niết Bàn như "nơi nương tựa tối thượng" (Paràyama),
nơi "an toàn" (Tana),
"nơi độc nhất"
(Kevala),
"thanh tịnh tuyệt đối"
(Visuddhi),
"siêu thế" (Lokuttara), "giải thoát" (Mutti),
"an lạc" (Santi) v.v... Trong hệ Sanskrit ngữ căn "và"
nghĩa là "thổi" và tiếp đầu ngữ "nir" được dùng để biểu
thọ cho "tắt", nó có thể được so sánh với tiếp đầu ngữ "ex"
của La Tinh. Vì vậy, Nivàna trong hình thức Sanskrit của nó có nghĩa là
"thổi tắt". Cái được thổi tắt ở đây cần phải hiểu là ngọn lửa tham dục
của con người.
Vì vậy, Niết Bàn không phải là tiêu cực vì
chính nó đang thổi tắt cái khuynh hướng tiêu cực của con người. Niết Bàn
là sự giải thoát, nhưng không phải là giải thoát khỏi cuộc đời mà thoát
khỏi những trói buộc do chính chúng ta tự buộc mình vào những hoàn cảnh
của cuộc đời đó. Ai là người có đủ sức mạnh để tuyên bố
"bất cứ điều gì xảy đến, tôi sẽ chấp nhận với
hết khả năng của mình" người ấy
thực sự được tự tại, bởi vì hiện tại anh ta đang sống trong tiến trình
tiến hoá tinh thần của chính mình, không phải trong những lạc thú cá nhân,
và anh ta có thể tận dụng mọi thứ cho mục đích tấn hoá đó.
Tự tại giải thoát không có nghĩa là người
ta có thể làm mọi thứ mà họ nghĩ, hay người ta có thể hạ gục một con sư tử
với một cái bớp tai. Nếu hiểu một cách đúng đắn thì tự do giải thoát không
dung chứa những ý niệm hung hăng như vậy. Một số người có thể cho rằng tự
do ý chí phải có nghĩa là họ có thể làm bất cứ điều gì mà họ muốn, thế
nhưng, họ đã quên một điều là ngay chính những ước muốn đó đã hạn chế tự
do của họ. Tự do nghĩa là người ta không còn bị người nào hay điều gì bắt
buộc họ phải làm nô lệ. Một con người tự tại là người có thể sử dụng bất
kỳ người nào hay vật gì như là một điều hữu ích. Tuy nhiên, chẳng ai có
thể dùng người này như nô lệ của họ, bởi vì con người ấy đã thoát khỏi mọi
tham muốn giận hờn, thù hận, ngã mạn, sợ hãi và bồn chồn dao động, những
thứ phát sinh từ lòng tham vị kỷ. Những cảm xúc mù quáng như thế đã bị
thổi tắt giống như người ta thổi tắt tất cả mọi ngọn nến vậy. Con người ấy
thực sự tự tại trong thế gian này, đã đạt đến Niết Bàn trong cuộc đời này.
Chân đế thứ tư là con đường dẫn đến sự
diệt tận khổ đau, đó chính là Trung Ðạo, là Bát Chánh Ðạo. Như vậy con
đường tốt nhất dẫn đến đoạn tận khổ là Trung Ðạo. Giờ đây, chúng ta tiếp
tục bàn đến những bước khác của đạo lộ.
Bước thứ hai là Chánh Tư Duy.
Chúng ta phải tư duy đến các thiện pháp và không nên suy nghĩ đến các điều
tà vạy. Chúng ta phải luôn luôn hướng tâm đến những ý tưởng cao thượng và
tốt đẹp. Chánh tư duy phải bảo đảm không để dính mắc một ý niệm bất thiện
nào trong đó; có một số người không hề cố ý tư duy đến những điều bất
thiện hay xấu xa, tuy thế họ vẫn còn ôm ấp những tư tưởng gần kề như vậy -
không xác định là bất thiện nhưng chắc chắn cũng hơi khả nghi. Ở đâu có
điều gì dường như hơi khả nghi hay bất chánh khởi lên, ở đó cần phải dập
tắt liền.
Chúng ta phải hoàn toàn chắc chắn là những
tư duy của mình chỉ là những tư duy chân chánh và hiền thiện mà thôi.
Chánh Tư Duy còn có một ý nghĩa khác nữa, đó là tư duy đúng đắn. Chúng ta
thường suy nghĩ một cách sai lầm hay không trung thực về mọi người chỉ vì
thành kiến hay si mê của mình với họ. Chúng ta thường có quan niệm cho
rằng một người nào đó là người xấu, và vì thế mọi điều y làm chắc chắn
phải là điều ác. Chúng ta gán cho họ những động cơ mà thường thì những
động lực này hoàn toàn không có căn cứ nào cả, khi làm như vậy vô tình
chúng ta đã suy nghĩ không trung thực về họ, do vậy tư duy của chúng ta
không phải là tư duy chân chánh. Chúng ta chỉ nhìn vào một khía cạnh của
người đó mà không để ý đến phương diện khác của họ.
Do có định kiến xấu về một người thay vì
nghĩ tốt về họ, chúng ta đã vô tình làm gia tăng thêm cường độ và khuyến
khích điều xấu đó. Ngược lại, nhờ tư duy chân chánh chúng ta cũng có thể
tạo được sự khích lệ như thế cho khía cạnh tốt của họ phát triển.
Bước thứ ba là Chánh Ngữ,
ở đây một lần nữa chúng ta phải luôn luôn nói về những điều thiện, hợp với
chân lý. Công việc của chúng ta không phải để nói về những hành vi xấu của
người khác, trong phần lớn các trường hợp thì những chuyện về người khác
mà chúng ta nghe được là hoàn toàn không trung thực, cho dù chuyện đó có
thực chăng nữa thì vẫn là điều sai lầm nếu chúng ta lặp lại nó. Trong một
gia đình, nếu người chồng hay vợ, con cái hoặc anh em trong nhà có làm
điều gì không đúng, chắc chắn chúng ta sẽ cảm thấy rằng thật là sai lầm
nếu đem phô trương điều không hay của những người mà mình thương mến đó
cho thiên hạ biết, và chưa hẳn họ đã muốn nghe nữa là khác, chúng ta phải
nói với lòng kính trọng đối với mọi người như điều mà ta mong rằng họ sẽ
nói về ta như vậy. Một số người tự để cho mình rơi vào sự cường điệu và
không trung thực quá mức, trong khi những chuyện quan trọng họ lại xem
nhẹ; chắc chắn đó cũng không phải là Chánh Ngữ, người ta cũng có quan niệm
cho rằng khi gặp bạn bè thì lúc nào cũng phải nói, nếu không họ sẽ cảm
thấy bị tổn thương, với cái quan niệm ra vẻ khôn ngoan đó, họ liến thoắng
kéo dài câu chuyện nửa đùa nửa châm chọc và hẳn là họ luôn luôn phô trương
mọi thứ trong cái thái độ khôi hài lố lịch của mình, tất nhiên tất cả
những lời nói như vậy đều được xếp vào lời nói hý luận hay lời nói vô ích.
Nếu phải nói ít ra chúng ta cũng nên nói một điều gì hữu ích và hữu dụng.
Ngôn từ cần phải nhã nhặn, trực tiếp, mang tính thuyết phục chứ đừng vớ
vẩn lung tung.
Bước thứ tư là Chánh Nghiệp,
ngay lập tức chúng ta nhận ra tại sao ba bước này nhất thiết phải tiếp nối
theo nhau. Nếu chúng ta luôn nghĩ đến những điều thiện thì chắc chắn chúng
ta sẽ không nói những điều ác; nếu tư duy và lời nói của chúng ta đã thiện
thì hành động tiếp theo cũng sẽ phải là hành động thiện; hành động cần
phải kịp thời. Tuy nhiên, có cân nhắc kỹ lưỡng và nhất là không hẹp hòi,
ích kỷ, chúng ta sẽ làm những gì có thể làm được để giúp đỡ mọi người,
chúng ta không chỉ sống một mình mà sống giữa mọi người. Do đó, bất cứ
điều gì chúng ta nghĩ hoặc nói hay làm nhất thiết sẽ ảnh hưởng đến rất
nhiều nguời, chúng ta phải nhớ rằng tư duy, lời nói và việc làm của chúng
ta không phải chỉ là những phẩm hạnh thôi, mà nó còn là những sức mạnh,
tất cả đều là phương tiện được dùng để phục vụ, và nếu dùng nó khác đi là
chúng ta đã làm hỏng phận sự của mình.
Bước thứ năm là Chánh Mạng
(nghề nghiệp chân chánh) đây là một vấn đề có thể đụng chạm đến
phần lớn mọi người trong chúng ta, cách sinh nhai chân chánh là cách sinh
nhai không gây tổn hại đến chúng sanh khác, điều này ảnh hưởng đến những
việc buôn bán của những người hàng thịt hoặc hàng cá; tuy nhiên nó còn đi
xa hơn thế nữa. Chúng ta không nên nuôi sống bản thân mình bằêng cách làm
hại chúng sanh khác; vì vậy chúng ta có thể thấy rằng việc bán rượu cũng
không phải là phương tiện sinh nhai chân chánh, bởi vì người bán rượu sống
nhờ vào sự tai hại mà họ gây ra cho người khác. Quan niệm về chánh mạng
này vẫn còn đi xa hơn nữa, lấy trường hợp của một thương gia, trong quá
trình mua bán của ông ta dĩ nhiên là không chân chánh, đó cũng không phải
là phương tiện sống chân chánh, vì việc buôn bán của họ không công bằng và
có tính cách lừa dối mọi người. Khi chúng ta tín nhiệm một vị bác sĩ hay
luật sư nghĩa là chúng ta hy vọng họ sẽ đối xử với ta một cách công bằng.
Cũng như vậy, người mua hàng đi đến người bán cũng mong sao họ đối xử ân
cần và sòng phẳng với mình, chính vì vậy mà người thương nhân cần phải
lương thiện với khách hàng như ông bác sĩ với bệnh nhân và luật sư với
thân chủ của mình vậy. Chúng ta có quyền kiếm lời một cách hợp lý trong
quá trình mặc cả, nhưng chúng ta cũng cần lưu ý đến phận sự của mình.
Bước thứ sáu là Chánh Tinh Tấn,
đây là một bước vô cùng quan trọng. Chúng ta không nên thoả mãn với cái
thiện có tính tiêu cực. Vấn đề được mong đợi ở chúng ta không phải chỉ đơn
thuần tiết chế hay tránh làm điều ác, mà phải là hành động thiện mang tính
tích cực. Khi Ðức Phật đưa ra lời giáo huấn ngắn gọn trong bài kệ, Ngài mở
đầu bằng câu "không làm các việc ác" thế nhưng câu kế tiếp
Ngài nói: "Hãy làm các điều
thiện". Mỗi người chúng ta có
một sức mạnh, không phải chỉ ở thể xác, mà còn ở tinh thần, sức mạnh này
có thể thực hiện một số công việc nào đó. Mỗi chúng ta cũng có một số ảnh
hưởng nào đó giữa những bạn bè và quyến thuộc của mình. Ảnh hưởng đó có
nghĩa là sức mạnh và chúng ta có trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn sức
mạnh này sao cho thật xứng đáng. Chung quanh chúng ta là con cái, thân
quyến, kẻ ăn, người làm, và tác động trên những người này chúng ta có một
số ảnh hưởng nhất định, ít nhất cũng bằng sự gương mẫu của mình. Do đó,
chúng ta phải rất thận trọng đối với những gì chúng ta nói hoặc làm, vì
mọi người sẽ bắt chước theo chúng ta.
Bước thứ bảy là Chánh Niệm,
sự chú tâm cẩn mật này dẫn chúng ta đến cái thấy đúng đắn và đạt đến chánh
tri kiến. Từ đó, chúng ta thấy vượt qua những cặp đối đãi (tốt - xấu,
thiện - ác..v.v...). Người không thực hành chánh niệm chẳng khác nào
món đồ chơi của những ảnh hưởng phức tạp mà họ va chạm trong cuộc sống; họ
như cái nút bấc nổi trôi mặc cho sóng nước dập vùi. Họ phục tùng một cách
vô ý thức cho những đòi hỏi của thế xác và môi trường tâm linh của họ.
Chúng ta cần phải ý thức (chú niệm)
đối với những hoạt động của mình, cả ở thân lẫn tâm, không để cho những gì
diễn ra bên trong chúng ta thoát khỏi mà không kịp ghi nhận. Chúng ta cũng
phải ý thức được các cảm thọ khi nó sanh khởi và hiểu rõ nó. Một khi khả
năng ghi nhận này tăng cao và khi người ta đã tiến đến mức, ở đây không
một hiện tượng nào sanh khởi bị bỏ sót. Lúc đó, chúng ta tiếp tục quan sát
để tìm ra nguyên nhân sanh khởi của các hiện tượng. Khi sân hận phát sinh,
chúng ta biết rõ mình đang sân và thấy ra nguyên nhân của nó, đồng thời dự
đoán trước hậu quả của nó. Bằng cách này chúng ta sẽ kiểm soát được mọi
cảm thọ, đố kỵ, dục vọng và âu lo..v.v.. . của mình. Nếu có làm một hành
động thiện, chúng ta cũng sẽ tự hỏi mình xem vì động cơ gì mà làm. Kết quả
của việc tự vấn này thường có một ảnh hưởng mạnh mẽ để giảm thiểu hoá bản
chất ích kỷ của chúng ta.
Việc thực hành chú niệm hoàn hảo là một
phương tiện để tự tri và để hiểu rõ cái thế giới chúng ta đang sống, kết
quả sẽ đưa đến chánh tư duy.
Pháp hành khác trong lãnh vực chánh niệm
này là luyện tập ký ức, chẳêng hạn cuối mỗi ngày chúng ta hồi tưởng lại
những việc mình đã thực hiện, những cảm thọ mình đã trải qua, những tư
tưởng mình đã ấp ủ. Việc làm này được tiến hành ngược lại, có nghĩa là
chúng ta bắt đầu hồi tưởng đến ý nghĩ cuối cùng mà mình đã ấp ủ trong ngày
hôm đó, cứ như thế chúng ta trở lui lại cho đến khoảnh khắc đầu tiên sau
khi thức dậy. Mục đích của việc luyện tập này đơn giản dạy cho chúng ta
không cho phép những gì mà ngũ quan của mình đã tiếp nhận, hoặc những ý
niệm thoáng qua tâm chúng ta bị mờ nhạt đi; pháp hành này khi đã phát
triển đúng mức sẽ đem lại kết quả giúp ta đạt đến Túc Mệnh Minh
(trí nhớ được các kiếp sống đã qua).
Bước thứ tám là Chánh Ðịnh,
đây chính là sự tập trung chân chánh trên một đối tượng. Thiền chỉ được
thực hành sau khi có sự tập trung này. Trong thiền định chúng ta khởi sự
với những đề mục đơn giản, và trong thiền quán chúng ta đưa cái ý niệm rõ
ràng về đề mục đơn giản đó lên cấp độ tâm và trí cao hơn. Ðể rõ ràng hơn
về điều này, chúng ta hãy tưởng tượng một người nào đó đang đổ nước từ
trên vào một cái thùng, nếu cái thùng đó bị lủng lỗ hai bên hông và dưới
đáy nước sẽ tuôn ra ngoài; nhưng nếu những lỗ thủng này được bịt lại, nước
sẽ dâng lên. Ða số chúng ta đều giống như cái thùng đầy lổ thủng và sẵn
sàng rò chảy này, vì thế chúng ta không thể tập trung tư tưởng của mình
lại được. Thiền cũng như đổ nước, tập trung (Ðịnh) cũng như bịt lại
các lỗ thủng. Sự tập trung hay định này giúp cho tâm chúng ta kiên cố,
không bị rò chảy và thiền đổ vào đó với tri kiến rõ ràng và trí tuệ. Nhờ
thiền trên một đối tượng chọn sẵn, chúng ta sẽ quan sát đối tượng đó một
cách rõ ràng và hiểu được chức năng của nó trong sự liên hệ với các điều
khác, vì thế cho nên nhờ hành thiền mà chúng ta mở rộng được tri kiến và
trí tuệ.
Khi việc hành thiền của chúng ta đã phát
triển đầy đủ nó sẽ mở lối cho trí tuệ trực giác và những năng lực siêu
phàm khác, những năng lực này có thể được chứng nghiệm ngay trước khi
chúng ta đạt đến trạng thái Niết Bàn. Về một phương diện nào đó thì thực
sự đây là những năng lực huyền bí, vì chúng rất khó hiểu đối với những
người chưa phát triển tâm họ theo cách này. Mặt khác, những năng lực này
hoàn toàn không có gì huyền bí, vì nó rất dễ hiểu đối với những người đã
thực hành chánh định một cách tích cực và chân thành. Thực ra, chúng chỉ
là hình thức mở rộng của những năng lực người ta sử dụng trong đời thường.
Vào lúc những năng lực này phát triển chúng ta có thể thấy những điều mà
trước đây chúng ta không thể thấy, và vì tâm của chúng ta rất thanh tịnh,
giống như một gương mặt bóng láng có thể phản chiếu mọi vật xuất hiện
trước nó. Nếu mặt gương không sạch, chúng ta chẳng thấy được gì trong
đó,cũng vậy, không có thiền tâm chúng ta và những tư duy của chúng ta có
thể bị pha lẫn với tham, sân, si. Tuy nhiên khi chúng ta đã được tịnh hoá
và pháp triển bằng thiền pháp, chúng ta sẽ thấy được thực tướng của các
pháp và trí tuệ của chúng ta sẽ chói sáng từ đó.
-ooOoo-
Bài 17:
TÂM TỪ TRONG ÐẠO PHẬT
Tâm từ (Mettà) là một nhu cầu cấp thiết
của thế giới ngày nay. Thực vậy, nó là một đòi
hỏi to lớn hơn bao giờ hết từ trước đến nay.
Như chúng ta biết, thế giới hiện nay đã có
đủ vật chất và tiền bạc, chúng ta cũng
biết rằng hiện nay có rất nhiều nhà trí thức cấp tiến, các nhà văn,
triết gia, tâm lý gia, khoa học gia lỗi lạc. Ngoài ra, chúng ta còn
có các nhà hoạt động tôn giáo, các vị đứng
đầu về luật pháp, đạo đức và tôn giáo v.v.... Mặc dù, có những con
người tài hoa xuất chúng như vậy, nhưng thế gian này vẫn không sao có
được một nền hoà bình và hạnh phúc
thực sự. Ðiều đó chứng tỏ rằng còn có
một cái gì đó chúng ta đang thiếu. Cái chúng
ta đang thiếu đó là Mettà (tâm từ).
Mettà là một từ Pàli đã
được người ta dịch sang Anh ngữ là
"Love" (tình thương). Khi bạn dùng từ "Love" bạn
đã có những ý niệm hoàn toàn khác
trong sự giải thích từ này, và dĩ nhiên là bạn có thể muốn nói
đến những gì
đó khác hơn, bởi vì
đó là một từ
đã bị sử dụng một cách lỏng lẻo và
trong một vài trường hợp nó còn bị lạm dụng hay dùng sai cả ý nghĩa. Chính
vì thế khi bạn nói về tình thương (Love), người ta sẽ có một ý niệm
khác. Vì vậy chúng ta dùng từ Pàli "Mettà"
để nói về lòng từ - không phải là loại
tình thương uỷ mị theo xúc cảm, nhục dục và thường tình. Như mọi người
biết, từ "tình thương" (Love) đã
được định nghĩa rất nhiều cách trong Anh ngữ,
tuỳ theo quan niệm trong tâm của mỗi người thuộc các tôn giáo khác nhau.
Chẳng hạn, trong một cuốn sách nhỏ vừa mới xuất bản mang tựa
đề "Love" (tình thương)
mà một người bạn đã tặng cho bần tăng
để nghiên cứu, và nhân đây bần tăng
cũng muốn phê bình một chút về cuốn sách này. Về các quan niệm
đặc biệt khác trong cuốn sách bần tăng sẽ
không đề cập đến, mà chỉ muốn trình bày cho quý vị thấy rõ nó khác
biệt như thế nào so với Mettà - một định
nghĩa mà từ "Love" (tình thương) có thể
đã dùng. Tác giả cuốn sách là giáo sư
của một bộ môn tín ngưỡng hữu thần nào đó rất
đáng kính. Theo định nghĩa của ông về "Mettà", ở
đây ông lại dùng từ Pàli của
đạo Phật "Tình thương (Love) là
Thượng Ðế, tình thương tự nó phát ra trong bất kỳ sự sáng tạo nào của
Thượng Ðế và con người là tối thượng" (Love is God. Love emanates itself
in any of the creations of god. Man is fore most). Bần tăng
xin phép được trích đọc một đoạn nói về "tình thương"
đối với loài vật trong cuốn sách này:
"Con người đòi hỏi phải có sinh
lực, sức mạnh và sinh sôi nảy nở để phục vụ
Thượng Ðế... để bảo vệ con người và
các loài khác cũng như để kiểm soát thế gian
này một cách hiệu quả. Muốn được khoẻ
mạnh và có năng lực con người cần phải
ăn nhưng thực phẩm bổ dưỡng và vì lý do này mà Thượng Ðế
đã chỉ thị cho con người giết và
ăn thịt.. .bò, lạc
đà. Con người không
được phép giết các loài thú hoang...
Nếu không, chính họ sẽ trở nên hoang dã theo tiến trình thời gian. Vì thịt
của những loài gia súc được con người ăn, cái
chất thiện của chúng sẽ hoà nhập với linh hồn con người và như vậy
(nguyên văn) nó sẽ gián tiếp được lên
thiêng đàng. Cái giá trị này
đã được
con người chuyển hoá cho nó - một hành
động đầy bi mẫn mà con người biểu lộ với loài vật. Trong cuộc sống,
việc làm như vậy không tội lỗi gì cả".
Không hề có ý bất kính đối với tác giả, sở
dĩ bần Tăng đọc cho mọi người nghe đoạn văn này vì chỉ
để tìm sự so sánh. Tác giả
đã đặt
Mettà (tâm từ) ngang hàng với Love (tình thương) theo
quan niệm của ông. Ðối với người Phật tử chúng ta thì cách nhìn sự vật như
vậy khá ngộ nghĩnh. Ý niệm về tâm từ của
đạo Phật là như thế nào? Mettà
đã được
các nhà phiên dịch ngày nay dịch sang tiếng Anh là "có khuynh
hướng rộng lượng, từ ái, ban rải tình thương
đến tha nhân". Tuy nhiên, theo lời dạy của Ðức Phật mettà mang
một ý nghĩa sâu xa hơn - một sự bao hàm rộng lớn hơn so với
định nghĩa này rất nhiều. Tâm từ có ý
nghĩa nhiều hơn là nhân ái, vô hại (Ahimïsa) lòng trắc ẩn. Ở
đây cũng nên
đề cập thêm một
điểm nữa là: theo Thánh Kinh Thiên
Chúa "thiện tâm" (good will)
được xem là rất tốt. Thế nhưng chúng ta nhớ bức thông
điệp thiện tâm mà các thiên thần
truyền rao khi Chúa Con giáng sinh. Thánh kinh nói, các thiên thần
đã truyền rao Bức Thông Ðiệp Thiện Tâm
cho thế gian "Bình an dưới thế cho người thiện tâm" (Peace on
earth to men of good will). Khi đọc kỹ
bức thông điệp này chúng ta nhận ra rằng các Thiên Thần
đem sự bình an
đến trần thế chỉ cho những người có thiện tâm
thôi, chứ không phải cho tất cả mọi người.
Ðối với đạo Phật, Mettà (tâm từ)
được nhấn mạnh, nó mang ý nghĩa sâu xa
hơn là thiện tâm. Cũng như sự Vô Hại là nguyên tắc
đạo đức vô cùng to lớn và rất tốt, thế
nhưng nó chỉ là phương diện tiêu cực. Theo lời dạy của Ðức Phật thì Tâm Từ
có hai phương diện. Một là tiêu cực, đó là
vô sân (Adosa) theo giải thích trong Vi Diệu Pháp;
đây cũng là một sự giải thích về Mettà
nhưng trên phương diện thụ động, nó mang ý
nghĩa "vắng mặt sân hận và thù nghịch". Mặc dù vắng mặt sân
hận là một điều rất quý, thế nhưng nó không
đủ tốt nếu không nhấn mạnh đến khía cạnh tích cực của nó - đó là từ
ái; không làm điều ác là tốt nhưng
đó chỉ là mặt thụ
động - hành thiện là mặt tích cực. Tâm
từ (Mettà) cũng có phương diện tích cực và năng
động của nó vậy.
Tình thương (Love) là gì? Tình thương này cũng
đã được
tự điển Oxford định nghĩa. Theo Oxford thì Love có nghĩa "sự
trìu mến nồng nàn, luyến ái, nhiệt tâm có tính trìu mến v.v..." những
từ này được xem là
đồng nghĩa với tình thương và chúng
hoàn toàn liên quan đến thứ tình cảm
thế gian uỷ mỵ. Vì vậy, Mettà không có từ tương
đương hoàn chỉnh trong Anh ngữ bởi vì
Mettà (tâm từ) mang ý nghĩa cao cả hơn sự trìu mến thông tục - tức
sự trìu mến nồng nàn. Chữ Pàli Mettà dịch nghĩa
đen là: "tình thân hữu"
(Friendliness) - cũng là một loại tình thương nhưng không có ước muốn
chiếm hữu mà chỉ ước mong giúp đỡ, hy sinh
lợi ích cá nhân cho sự thịnh vượng và hạnh phúc chung của nhân
loại. Tình thương này không mang tính chọn lựa hay loại trừ nào cả. Nếu
bạn chọn một số người tốt và loại trừ một số người khó ưa, như vậy là bạn
đã không nắm bắt rõ ý nghĩa của Mettà
(tâm từ) này. Tâm từ không phải là một cảm tình huynh
đệ, mà là một nguyên tắc
đạo đức cho chúng ta thực hành. Nó
cũng không chỉ đơn thuần là ý tưởng
quảng đại mà là những việc làm thể
hiện lòng nhân từ, là một sứ mạng tích cực vì lợi ích của một người và mọi
người. Một đề tài - không phải
để nói suông về mà phải sống với - áp
dụng nó trong cuộc sống của chúng ta - làm cho nó thấm nhuần trong bản
thân chúng ta. Chỉ khi đó, một nguồn sinh lực
mới thấm nhuần đến mọi chúng sinh, không loại trừ bất cứ ai, với những tư
duy sáng tạo và năng động của tâm từ,
một khi những tư duy này có đủ cường
độ, tự động chánh hạnh sẽ theo sau.
Người ta thường đưa ra những ý niệm để
phản bác lại những quan niệm khác. Người Phật tử chúng ta không cần đến
những quan niệm mới, vì chúng ta đã
có quá đủ trong giáo huấn của Ðức
Phật. Phát xuấât từ Tứ Vô Lượng Tâm (Bràhma Vihàra) Mettà (tâm
từ) này là một trong bốn phạm trú đó, đủ
khả năng để sáng tạo những điều cao thượng, những điều kỳ diệu, để kiến
tạo an lạc và hạnh phúc ngay trong cuộc sống gia
đình, xã hội và cả thế gian này. Mettà
- lòng từ trong sạch - bao hàm hết thảy chúng sinh ở khắp mọi nơi, hoặc
trên đất liền, trên bầu trời hay trên
thiên giới. Nó cũng bao trùm mọi chúng sanh không phân biệt cao hay thấp;
bởi vì người nghèo, người hạ tiện, người ác, người ngu dốt là những người
cần đến tâm từ này nhất. Vì trong lòng
họ tâm từ đã khô héo vì thiếu tình
thương ấm áp và tình thân thiện - Tâm từ này hợp với họ như dòng suối yếu
ớt chảy vào bãi sa mạc cằn khô. Lòng từ này bao trùm cả người mình thương
hay không thương, người tốt hay xấu, tất cả
đều được chia sẻ như nhau cả.
Bạn có thể hỏi: "Chúng ta phải thương cả những người ngu ngốc luôn
sao?" - thật là điên rồ! Ðó là một
câu hỏi rất phổ biến, được hỏi tại những nước
Tây phương "Chúng ta phải có lòng từ với rắn rít sao?" phụ
nữ Châu Âu cũng đặt vấn đề "Chúng
ta phải có lòng từ cả với chuột nữa sao?" vì họ không thích loài
chuột. Dù thế nào chăng nữa chúng ta cũng
không nên ghét bỏ một người nào cả, cũng như vị bác sĩ không bao
giờ ghét bệnh nhân, mà phận sự của ông ta là
để chặn đứng, để loại trừ căn bệnh mà người bệnh
đang phải đau đớn vì nó. Một lương y
có phận sự chữa trị cho con người, không kể người
đó là ai; lòng từ cũng vậy, phải bao
trùm mọi chúng sanh không phân biệt. Mettà hoàn toàn khác hẳn với sự thèm
khát nhục dục mà thế giới ngày nay đã
xem nó như là tình thương (Love), cũng như nó
đã được
ngưỡng mộ và nói đến như một loại cảm
xúc trong tình thương. Tâm từ này cao cả hơn rất nhiều; thực sự như
vậy, nó là một hình thức tột đỉnh của tình
thương. Nó vượt hẳn cái loại tình thương đầy
dục tính và uỷ mị.
Về hình thức bề ngoài thì tình thương uỷ mị xem ra rất ngọt ngào, tuy
nhiên nó chẳng khác nào ngọn lửa - thực sự nó còn tồi tệ hơn lửa nữa. Một
khi nó sinh ra, nó phát triển rất nhanh, có lúc nó ngọt ngào như những
bông hoa và rồi có lúc nó lại đốt cháy, thiêu
rụi người sở hữu nó, để lại những vết thương
lòng và những vết hằn vô cùng xấu xí. Ðó là lý do tại sao ở Miến
Ðiện người ta thường nói "Achitkyi, amyetky" (thương nhau lắm
thì cắn nhau đau), bạn càng giàu
tình cảm, bạn càng nhiều thù hận và khổ đau;
bởi vì tình cảm cũng giống như ngọn lửa, rất dễ
đốt cháy mọi thứ. Ngược lại, Tâm Từ
(Mettà) có một ảnh hưởng mát mẻ giống như sự xúc chạm mềm mại của
một bàn tay dịu dàng - mềm mại nhưng rất kiên quyết không
đổi thay lòng trắc ẩn của nó. Chính vì
vậy mà Tâm Từ chỉ tạo ra một bầu không khí an lạc và dễ chịu mà thôi. Khổ
đau vì những người mình thương mến
không phải là dấu hiệu của lòng từ này. Mettà là sức mạnh, vì nó là một
loại tâm từ thuần khiết và tạo ra sức mạnh, chứ không phải là sự yếu
đuối, uỷ mị.
Bần Tăng xin được đọc, không phải bằng Pàli
mà là một đoạn dịch từ kinh Từ Bi
(Mettà sutta), một bài kinh rất có giá trị mà chúng ta thường nghe chư
tăng tụng bằng tiếng Pàli trong hầu
hết các dịp lễ.
Ðoạn kinh này đưa ra một điển hình
cho chúng ta thấy Tâm Từ thực sự là gì. Tuy
đây không phải là một thí dụ hoàn chỉnh, nhưng vì muốn cụ thể hoá
cho mọi người dễ cảm nhận nên Ðức Phật đã
chọn tình thương của một bà mẹ. Trong kinh Từ Bi ngài dạy:
"Ví như người mẹ hiền,
Suốt đời lo che chở
Ðứa con một của mình
Hãy phát tâm vô lượng
Cùng tất cả sinh linh
Từ bi gieo cùng khắp
Cả thế gian khổ hải
Trên dưới và quanh mình
Không hẹp hòi oan trái
Không hờn giận oán thù
Khi đi, đứng, nằm, ngồi
Bao giờ còn thức tỉnh
Giữ niệm từ bi này
Thân tâm thường thanh tịnh
Phạm hạnh chính là đây...... " (V.M dịch).
Ðây là mẫu mực Ðức Phật đã chống
đỡ thế gian này. Nó chính là lý tưởng
sống mà con người cần thể hiện đối với con
người - nghĩa là phải giúp đỡ lẫn
nhau, chia sẻ gánh nặng cho nhau. Ðây cũng là lời kêu gọi thức tỉnh
mọi con tim, là sự phục vụ đối vơi mọi người
bằng hình thức tình thương của bà mẹ. Phải chăng
người mẹ chỉ toả rạng tình thương của mình trong việc nuôi dưỡng
con cái không thôi? Liệu có người nào có thể bộc lộ
được tình thương bất tử như của bà mẹ
đối với con mình, tình thương mà bà
luôn luôn nuôi dưỡng trong lòng này không? Nếu bạn suy gẫm về tình mẫu tử
này, bạn sẽ thấy rằng nó thật là bao la. Chẳng thế mà trong kinh Pàli nó
được gọi là "Appamànà" nghĩa là
nó không có giới hạn nào cả.
Tình thương của bà mẹ đối với đứa con duy
nhất của mình là một ví dụ được
Ðức Phật chọn để so sánh với tâm từ. Hãy
hình dung tình thương của bà mẹ xem; khi con
đói bà thận trọng cho con ăn trước khi
nó đòi. Khi con gặp hiểm nguy, bà dám hy sinh cả sinh mạng
để bảo vệ con. Thế đó, bà
đã giúp con mình trong mọi phương
diện. Chính vì vậy mà Ðức Phật mong mỏi chúng ta thương yêu mọi người như
tình mẫu tử. Nếu chúng ta có thể làm được
điều này dù chỉ ở mức độ nào
đó thôi, Bần Tăng nghĩ thế gian này sẽ
là một nơi khác - hạnh phúc hơn và bình an hơn.
Mặc dù chúng ta nói rất nhiều về tình thương và lặp
đi lặp lại cái công thức "Sabbe
sattà averà hontu, avyàpàjjhà hontu v.v..." (cầu cho tất cả chúng
sinh thoát khỏi nguy hiểm; cầu cho tất cả chúng sinh không còn bị áp bức
v.v...) nếu tâm ta không thực sự từ bi thì làm sao có thể mang lại kết
quả. Ðoạn kinh này không phải để tụng đọc
suông. Ðức Phật không yêu cầu chúng ta phải học thuộc lòng những
lời của ngài chỉ để tụng suông như vậy. Về
bản chất chúng chỉ là những toa thuốc. Vị lương y có thể chẩn bệnh,
tìm ra nguyên nhân căn bệnh cho bạn và
kê toa thuốc theo những gì ông ta tìm ra đó.
Thế nhưng, liệu bệnh của bạn có được chữa lành chỉ
đơn thuần bằng cách đọc đi đọc lại cái toa
thuốc đó không? Cũng như bạn có thể có một phương thức làm thế nào
để nấu các món ăn, chẳng hạn như làm
sao để nấu món cà ri cho thật ngon.
Bạn có thể đọc đi đọc lại cái công thức đó,
nhưng chắc chắn sẽ không có món cà ri
được.
Vì vậy, tụng đọc là
điều không thực tế. Lý thuyết là tốt
nhưng vẫn không đủ tốt, vì nó không
phải là cứu cánh của một vấn đề, nó chỉ là
bước khởi đầu thôi. Cũng thế, tụng đọc Từ Bi
kinh là tốt, nhưng Ðức Phật không có ý
định thuyết kinh đó để chúng ta tụng suông, Ngài khuyến khích chúng
ta nên theo những lời chỉ dẫn của ngài trong kinh
để hiểu rõ tâm từ là gì, Mettà là
trạng thái tâm đẹp nhất trên thế gian.
Vì vậy, lời khuyên của Bần Tăng là,
chúng ta không nên tự mãn với việc chỉ đọc
tụng kinh điển mà thôi, mà phải cố gắng hiểu rõ ý nghĩa của kinh
trên quan điểm thực hành và "trở
thành một với kinh" - đó là làm
cho nó hoà nhập trong cuộc sống của chúng ta, vấn
đề là ở chỗ
đó. Thiền không phải là chỉ
đơn thuần tư duy đến nó, mà phải thực
hành Mettà trong đời sống hàng ngày
của chúng ta. Bần Tăng mong quý vị hành
thiền một chút về loại thiền tâm từ này. Ðể giúp quý vị làm quen với việc
hành thiền, bần tăng sẽ chỉ cho quý vị một
pháp hành đơn giản mà quý vị có
thể hành ở bất cứ nơi nào cũng được.
Bây giờ, trở lại với bức thông điệp của tình
thương. Chúng ta được yêu cầu là phải
có lòng từ đối với tất cả chúng sanh như tình
thương của người mẹ đối với đứa con độc nhất
của mình. Vì thế cho nên, tâm từ phải
đi đôi với sự sẵn lòng giúp đỡ, với
thiện chí và một tinh thần hy sinh cao cả vì lợi ích của người
khác.
Trong Trường Bộ Kinh (Dìgha Nikàya), Ðức Phật dạy rằng hầu hết
mọi đức hạnh như lòng vị tha, trắc ẩn
và từ ái đều bao gồm trong Mettà
(tâm từ) này. Nếu như chúng ta thực sự có lòng từ, chúng ta có thể có
hầu hết các đức hạnh này; chúng ta có
thể ban rải một sự an lạc cao quý và rộng khắp. Chính tâm từ này
đã cố gắng tháo bỏ mọi chướng ngại ngăn
cách giữa chúng sinh này với chúng sinh khác.
Một số người có thể hoài nghi không hiểu tâm từ này có thể làm nền tảng
vững chắc cho chính sách hoà giải hay không? Nhiều người còn xem tâm từ
như một đức tính của phái nữ. Họ nói đó là
một đức hạnh mềm mỏng, nhu mì của phái
nữ. Nhưng tâm từ thực sự là một sức mạnh năng
động của nam giới, nó có thể phá bỏ mọi chướng ngại và có tính cách
xây dựng. Ai là người đã xây dựng
được những Ðế quốc bền vững nhất? Ðó
có phải là Alexander đại đế, là Cesar
hay là Ðức Phật? Chúng ta thường đề cập đến
đế quốc La Mã, đế quốc Pháp, đế quốc
Nga. Thử hỏi những đế quốc đó hiện giờ nơi nao? Những đế quốc đó chỉ kéo dài
trong nhất thời vì chúng được dựa căn bản trên
thù hận, ngã mạn và lừa dối. Chúng không dựa trên từ bi. Bất cứ chính sách
nào mà người ta sử dụng nếu không dựa trên nguyên tắc từ bi thì chắc chắn
nó không thể tồn tại lâu dài được.
Liên hệ đến điều này, Bần Tăng
muốn dùng một hình ảnh để thí dụ. Cuộc
sống giống như một bánh xe to lớn, chuyển động liên tục. Bánh xe
lớn này có vô số những bánh xe nhỏ trong đó và
mỗi bánh xe nhỏ có những kiểu mẫu riêng của nó. Bánh xe lớn và các bánh xe
nhỏ - hay vũ trụ rộng lớn và các cá nhân sống trong
đó liên kết chặt chẽ với nhau
đến độ chúng ta phải tuỳ thuộc vào
nhau để phục vụ, để có được hạnh phúc và
để phát triển. Chính vì vậy, bổn phận
của chúng ta là phải khai thác triệt để những
cái hay của mình - cái hay, cái thiện
đó phải hài hoà với khuôn mẫu của thế gian. Muốn cho tất cả các
bánh xe xoay chuyển hài hoà với nhau, cái tốt
đẹp nhất trong mỗi người chúng ta cần phải được phát huy. Chẳng hạn như
trong một chiếc xe, muốn cho nó chạy tốt - sử dụng được thì mọi cơ
phận của nó phải được hoàn chỉnh. Nếu
chúng ta muốn tạo lập một gia đình
hạnh phúc, an vui, một mái nhà ấm cúng hoà thuận, thì mọi người trong căn
nhà đó hay ít nhất cũng là
đa số những thành viên của gia
đình đó
cần phải hoà hợp với nhau. Nếu bản thân chúng ta muốn
đóng góp vào sự hài hoà
đó, thì các
đức tính tốt của ta cũng phải được phát triển
sao cho phù hợp với an vui và hạnh phúc của mọi người.
Ðiều này chúng ta có thể làm được ngay tại
đây và bây giờ bằng cách thực hiện những phận sự hàng ngày, hàng
giờ của mình với từ ái, nhã nhặn và chân thực. Cái lý tưởng mà Ðức Phật
đặt ra trước chúng ta là sự hỗ tương
phục vụ - con người sống cần có nhau, giúp đỡ
lẫn nhau, chia sẻ những khó khăn cho nhau. Trong Nikaya (Kinh
Tạng) có đề cập đến ba loại phận sự mà
chúng ta phải thực hiện - hay còn gọi là ba mẫu mực cư xử dành cho một vị
Phật. Tiếng Pàli là: "Buddhatta Cariyà, nàtattha cariyà, Lokattha
cariyà" (phận sự nỗ lực để thành
đạt Phật quả, làm lợi ích cho thân
quyến và bè bạn, làm lợi ích cho toàn thế gian). Tương tự như vậy, mỗi
chúng ta cũng có ba mẫu mực phải hành xử - "Atta - Cariyà", nghĩa
là nỗ lực để phát triển tự thân sao cho đạt
được hạnh phúc, tự tu và tự ngộ. Mẫu mực cư xử thứ hai là
"Nàtattha Cariyà" là làm lợi ích cho bà con thân quyến và bè bạn. Thứ
ba là làm lợi ích cho toàn thế gian không phân biệt giai cấp, màu da hay
tín ngưỡng - "Lokattha Cariyà". Ðức Phật yêu cầu chúng ta thực hành
ba loại hành xử này.
Ðạo Phật là một con đường nhằm phát triển
tự thân - là sự giáo dục tâm hồn. Vì vậy công việc của chúng ta là
phải thực hành ba nguyên tắc Ðức Phật đã
đề ra ở trên
để tinh lọc bản chất của chúng ta, để nâng mình
lên bình diện của một con người.
Giáo dục hiện đại như quý vị đã
biết, là một nền giáo dục chỉ chú trọng đến
các phương tiện kiếm ra tiền, làm thế nào
để sắp đặt và kiểm soát nó. Trong khi
đạo Phật nhằm vào việc giáo dục, dạy
dỗ tâm. Vì thế cho nên, nếu tôn giáo chỉ được
đón nhận như một niềm tin có tính tri thức trong tâm thôi thì không
có sức mạnh nào cả. Nếu tôn giáo không có thực hành, chúng ta không thể
tạo được chút hiểu quả nào. Trong Pháp
Cú kinh (Dhammapàda) Ðức Phật có dạy:
"Như bông hoa tươi đẹp
Có sắc nhưng không hương
Nói hay, làm không được
Kết quả có chi lường" (Pháp Cú, 51)
Chính vì vậy hành động chứ không phải suy
đoán; thực hành chứ không phải lý thuyết mới là vấn
đề. Cũng theo Dhammapàda thì "ý chí"
nếu không có hành động tuơng xứng kèm
theo, không có gì đáng kể cả, do vậy cái
chính của đạo Phật là phải thực hành những lời dạy cao quý này.
Liên quan đến điểm này, bần tăng
cũng muốn nói thêm rằng tâm từ (Mettà) - lòng từ bao la này -
thường có mặt khi có sự liên hệ đến người
khác, nhưng trên thực tế thì từ ái với chính mình phải có trước. Nó
không phải là một tình thương vị kỷ, mà là tình thương dành cho bản thân -
một loại tình thương thuần khiết - đến trước.
Khi chúng ta hành thiền từ ái, chúng ta rải tâm từ
đến bản thân mình trước (Aham avero
homi v.v..) (cầu mong cho tôi thoát khỏi mọi
điều tai hại). Nhờ có lòng từ
thuần khiết (Mettà) như chúng ta đã
định nghĩa, với chính mình như vậy;
những khuynh hướng ích kỷ, thù hận, nóng nảy sẽ bị tiêu trừ. Vì vậy, trừ
khi bản thân chúng ta có tâm từ trong người, bằng không chúng ta chẳng thế
nào chia sẻ với ai được, chúng ta không thể
rải hay gởi gấm tâm từ này đến người
khác được.
Giả sử bạn không có tiền trong túi thì làm sao bạn có thể cho ai
được, dù chỉ là một xu nhỏ thôi? Vì
vậy, thiền từ ái cần phải khởi sự với tự thân trước; bạn có thể nói là tôi
thương bản thân mình được chứ?. Nếu bạn có
thể nói bạn yêu bản thân mình, liệu bạn có thể tự hại mình bằng
cách nuôi dưỡng những ý tưởng thù hận trong tâm không? Nếu bạn thương một
người liệu bạn có hại người đó được không?
Không bao giờ. Thương bản thân mình nghĩa là sống không ích kỷ, thù
hận, nóng nảy v.v.... Vì thế cho nên, để bản
thân chúng ta thoát khỏi những cảm giác không đáng ưa này, chúng ta
phải thương hay có lòng từ với chính mình. Theo Ðức Phật thì trước tiên
hãy thương tự ngã mình, vì đạo Phật luôn luôn
chú trọng đến tinh thần tự giác, chỉ khi nào có tự giác chúng ta
mới làm lợi ích cho tha nhân một cách hiểu quả
được. Chúng ta nói về độ tha hay giác tha,
chính là nói đến việc giúp đỡ cho tha
nhân này; tuy nhiên, như Ðức Phật đã
dạy: "Nếu một người không thể tự độ mình,
họ không thể độ người khác được".
"Người trí trước đặt mình
Vào nếp sống chánh hạnh
Sau ra giáo hoá người
Ắt khỏi bị khiển trách" (Pháp Cú, 158)
Cũng trong kinh Pháp Cú Ðức Phật dạy rằng: "không kẻ thù nào có thể
làm hại con người tồi tệ hơn là chính những ý nghĩ tham ái, sân hận và
ghanh ghét v.v..của họ"..
"Kẻ thù hại kẻ thù
Oan gia hại oan gia
Không bằng tâm niệm ác
Do chính ta hại ta" (Pháp Cú, 42)
Nếu người ta không tìm thấy an lạc trong tự thân, họ không thể nào tìm
nó ở nơi nào khác. Kinh Ðiển cũng thường nói rằng: "Người không tự chế
được mình sẽ không tìm thấy an lạc".
Trong công việc phụng sự xã hội, cái gọi là những người làm công tác xã
hội sẽ không cảm thấy an vui trong khi thi hành những phận sự của họ, nếu
như bản thân họ không an tịnh. Nếu như tự thân họ không an tịnh chắc chắn
họ không thể đem an lạc đến cho mọi người
được. Vì vậy, chúng ta phải được rèn
luyện một cách thích hợp không những về sự tổ chức bên ngoài mà còn cả ở
sự tu dưỡng nội tâm trong chúng ta.
Trong trường hợp của rất nhiều người mệnh danh là làm công tác xã hội,
điều thực sự mà họ
đang làm là chỉ dẫn người khác phải
làm những gì giống như những ông chủ vậy, và rồi họ nói rằng: "Chúng
tôi đã cố gắng hết cách, nhưng mọi
người không tỏ thiện chí chấp nhận sự giúp đỡ
của chúng tôi". Thực ra mọi người
đều rất cần sự giúp đỡ, thế nhưng sự giúp đỡ đó phải được thể hiện một
cách ân cần theo nhu cầu mà họ mong
đợi, chứ không phải theo tư ý của người giúp. Muốn được như vậy người phục
vụ xã hội chân chánh phải là một người có lòng từ ái
đối với bản thân mình trước
đã - nghĩa là trong lòng họ phải chứa
đầy tình thương, một tình thương thuần
khiết, không ích kỷ. Chỉ lúc đó họ mới có thể
cảm nhận được hạnh phúc gấp đôi; đó là bản thân họ có lòng yêu
thương trong sạch, chân chánh, cảm thấy hân hoan trong khi giúp người
khác, đồng thời làm cho người khác an
vui.
Chúng ta nhớ những mẫu chuyện tiền thân (Jàtaka) của Ðức Phật,
khi còn là một vị Bồ Tát ngài luôn luôn nỗ lực tự hoàn thiện mình bằng
cách giúp đỡ mọi người - sao cho người khác
được an vui, và niềm vui của người khác thúc
đẩy ngài hoàn thiện hơn nữa
để phục vụ.
Lại nữa, nếu một người không thể thành thực với bản thân mình làm sao
họ có thể thành thực với người khác được. Một
bác sĩ không có những kinh nghiệm và phẩm chất theo yêu cầu có thể
cố gắng giúp bệnh nhân, nhưng việc làm của ông ta không chừng chỉ làm hại
thêm cho bệnh nhân. Vì vậy, một người lãnh
đạo của bất kỳ xã hội, chính trị hay tôn giáo, nếu không tu dưỡng
tâm có thể đưa những người theo mình
đi lạc hướng.
Chúng ta quá chú trọng đến việc luyện tập
bề ngoài đến độ quên
đi sự tu tập bên trong, việc tu dưỡng
bản thân mình. Chúng ta thích dạy dỗ kẻ khác và quên việc dạy mình. Chúng
ta có khuynh hướng luôn luôn cho mình là đúng
còn mọi người đều sai. Việc đổ lỗi cho
người khác dường như đã trở thành một
đặc tính chung của mọi người, chẳng hạn khi trễ nải một việc gì,
chúng ta liền đổ thừa hoan cảnh... nào
là vì vợ, vì bạn bè hay một người nào đó
v.v... bần tăng không có ý muốn nói là chúng ta chỉ nên tự trách
mình thôi. Khổng Tử có câu nói rằng: "Kẻ ngu dốt trách cứ người, kẻ có
học tự trách mình, con kẻ hiểu biết không trách ai cả". Thật là một
câu nói rất minh triết. Vấn đề là ở
chỗ "Ðâu là cái sai chứ không phải ai là người sai".
Theo nguyên lý của đạo Phật, tự độ mình
là ưu tiên; sự hoàn thiện cá nhân phải được
chú trọng trước nhất, có được như thế thì toàn thể cơ cấu mới hoàn
hảo. Thế giới bên ngoài chính là sự phản ánh bản chất nội tại của chúng
ta.
Ðể kết luận bài giảng, bần Tăng mong quý
vị dành ít phút để hành thiền
từ ái, để cho thân, khẩu, ý của chúng ta thấm
nhuần từ bi.
Từ một cái tâm có tu tập này, những ý nghĩ, lời nói và hành
động của chúng ta mới chân chánh và từ
hoà được. Hành thiền thực sự, trước
tiên chúng ta làm tràn ngập chính mình với ý nghĩ từ bi "cầu mong cho
tôi được an vui hạnh phúc". Sau
một lúc chúng ta mở rộng lòng từ đến tất cả
mọi người, nguyện thầm trong tâm "cầu mong cho tất cả chúng sanh
đều được an vui, hạnh phúc". Nghĩ
sao thì cảm nhận như vậy. Chúng ta cũng cố gắng thấy thế gian này
được ngập tràn với lòng từ của chúng
ta, với tâm ước mong mãnh liệt rằng mọi người, mọi vật
đều được an vui, một ước mong như ước mong
của bà mẹ đối với đứa con độc nhất của
mình vậy.
Nếu quý vị rải tâm từ này trước khi đi
ngủ, bần tăng cam đoan rằng quý vị sẽ có một giấc ngủ an lành kỳ
diệu. Nếu quý vị có thể duy trì tâm từ này mãi mãi, chắc chắn quý vị sẽ có
một cuộc sống an hoà, hạnh phúc và thành công, mọi người sẽ yêu mến bạn vì
bạn đang từ ái với mọi người. Thế gian cũng
như tấm gương soi, nếu bạn nhìn vào gương với khuôn mặt tươi vui,
bạn sẽ thấy khuôn mặt xinh đẹp tươi vui của mình.
Nếu bạn nhìn với khuôn mặt đưa đám, như người
Anh thường nói, chắc chắn bạn sẽ thấy khuôn mặt vô cùng xấu xí của
mình. Trong hình thức chào hỏi cũng có một câu thành ngữ tương tự "Chào
bạn, thế gian này đối xử với bạn thế nào?"
câu trả lời thường là "Tốt, tôi rất an vui". Nhưng với người
Phật tử, câu trả lời sẽ là "Tốt, thế gian
đối với tôi cũng như tôi đối với thế gian này vậy".
Nếu quý vị xử sự với thế gian một cách hợp lẽ, nhân từ, thế gian cũng
sẽ đối xử lại với bạn nhân từ như vậy. Chúng
ta không nên trông đợi mọi người đối
xử với chúng ta tử tế trước, mà chúng ta cần phải xử sự tốt
đẹp với mọi người trước. Ðó là cách
sống của người Phật tử chân chánh.
-ooOoo-
Bài 18:
CON ÐƯỜNG ÐI ÐẾN NIẾT BÀN
PHẦN MỘT
"Con đường đi đến Niết Bàn"
hay có thể gọi là con đường đi đến hạnh
phúc tuyệt đối. Cô đọng những lời dạy của Ðức Phật, chúng ta có bài kệ:
"Không làm các điều ác
Vâng làm mọi điều thiện
Thanh tịnh tâm giải thoát
Ðây lời chư Phật dạy" (Pháp Cú. 183)
Mặc dù, đây chỉ là bài kệ rất cô đọng, tuy
nhiên nó chứa đựng mọi lời Ðức Phật dạy. Bài kệ thể hiện trọn vẹn ba giai
đoạn tu tập trên đạo lộ dẫn đến hạnh phúc tối thượng hay Niết Bàn. Có ba
giai đoạn phát triển tự thân để hướng đến hạnh phúc tối thượng này. Trình
tự phát triển của nó phù hợp với Bát Chánh Ðạo (Attha Magganga Majjhima
patipàda) được sắp thành ba nhóm, đó là: Giới (Sìla), Ðịnh
(Samàdhi) và Tuệ (Pannà). Hai bước đầu tiên trên Thánh Ðạo Tám
Ngành; Chánh Kiến nghĩa là sự hiểu biết chân chánh về bản chất của tự ngã,
cũng như bản chất của thế gian và Chánh Tư Duy được xếp vào nhóm Tuệ. Ba
bước kế: Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng được xếp vào nhóm giới;
Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Ðịnh được xếp vào nhóm Ðịnh.
Chúng ta có thể hỏi và điều này đã từng
được hỏi là:
Tại sao phải ba giai đoạn? Tại sao không
chỉ một giai đoạn duy nhất làm cơ bản?
Lý do phải có ba giai đoạn là vì chúng ta
có ba cấp độ phiền não - Kilesas hay những bất tịnh như: Tham (Lobha),
Sân (Dosa) và Si (Moha) v.v... và mỗi trong 10 phiền não
(Kilesas) này có ba cấp độ. Chẳng hạn, Tham hay Sân có ba cấp độ, cấp
độ thứ nhất, cấp độ gốc mà tiếng Pàli gọi là anusaya (Tuỳ Miên). Ở
cấp độ này các phiền não như là Tham, Sân v.v... ngủ ngầm trong mỗi người
chúng ta và chưa bộc phát lên mức độ ý tưởng, cảm thọ và xúc cảm, tuy
nhiên, chúng vẫn ngấm ngầm trong mỗi người. Chúng ta có thể chứng minh
được điều này. Sự kiện đôi lúc chúng ta có thể bị vấn đề gì đó làm cho
kích động và giận hờn, chứng tỏ là trong bản thân chúng ta có những khuynh
hướng như nóng nảy, sân hận - mặc dù bình thường chúng ta vẫn được mọi
người gọi là người "Tốt". Chúng ta chỉ tốt khi người khác đối xử
tốt với chúng ta. Ngược lại, chúng ta có thể bộc lộ sự nóng nảy và xúc cảm
như thường. Chính điều này đã chứng minh rằng chúng ta có những khuynh
hướng bất thiện ngủ ngầm trong tâm. Nếu những hành động của chúng ta hợp
theo giới luật thì đó là Chánh Nghiệp, khi hành động của chúng ta không
những không làm hại (vô hại) mà còn có tính giúp đỡ - nghĩa là hành
động vì lợi ích bản thân cũng như tha nhân, lúc đó chúng ta có thể nói
hành động của mình là chính đáng. Có nhiều điều chúng ta nghĩ đó là tốt
nhưng chúng chỉ tốt đối với chúng ta hoặc chỉ tốt theo quan niệm riêng của
chúng ta.
Ðể hành động của mình chân chánh, tâm
chúng ta phải thoát khỏi những chi phối của tham, sân, ganh ty, bỏn xẻn
v.v... khi tâm chúng ta trong sạch, chúng ta mới có thể thấy và biết mọi
vật đúng như bản chất của nó. Lấy trường hợp một cái bình chứa đầy nước
làm thí dụ, cái bình được đổ đầy ở ba chặng: đáy bình, giữa bình và phần
trên cùng. Anusaya (Tuỳ Miên) là chặng đầu hay cấp độ gốc, ở đây
các khuynh hướng bất thiện còn ngủ ngầm. Sự việc bạn có thể khiêu khích
một người khiến họ sân hận, chứng tỏ rõ ràng người đó có sân hay gốc sân
ngủ ngầm trong họ. Trong cấp độ đầu tiên này phiền não rất là âm thầm, kín
đáo - kín đáo đến độ chúng ta dường như trở thành bất khả xâm phạm.
Ngay cả ở giai đoạn thứ hai - Pariyutthàna
(phiền não tại triền) cũng vậy, các phiền não vẫn còn nằm trong
phạm vi ý nghĩ hay cảm xúc thôi. Ngạn ngữ Anh nói "im lặng là vàng",
điều này không phải lúc nào cũng đúng. Chúng ta có thể nói rằng im lặng
đôi khi còn nguy hiểm hơn ồn ào nữa là khác.
Kế tiếp, ở giai đoạn cuối cùng chúng ta
trở nên dữ tợn, bực bội, không kiềm chế được ở cả lời nói và hành động:
(Vìtikkama). Ðây là cấp độ trên cùng của những phiền não. Như vậy, ba
cấp độ phiền não là: Anusayà: tuỳ miên phiền não, Pariyutthàna: tại triền
phiền não và Vìtikkama: quá độ phiền não.
Pháp hành của đạo Phật là làm thế nào để
chế ngự, làm thế nào để vượt qua những khuynh hướng bất thiện ngủ ngầm
trong tâm này. Thực tập việc chế ngự, chúng ta cần ba giai đoạn tu nhằm
vào việc phát triển - Giới (Sìla) - Ðịnh (Samàdhi) - Tuệ
(Pannà).
Trước tiên là tu tập giới. Việc giữ giới
có thể giúp chúng ta vượt qua được cấp độ phiền não sau cùng - tức quá độ
phiền não, cấp độ phiền não bộc lộ ra ngoài mặt có thể thấy được chứ chưa
diệt được hai cấp độ kia. Ðiều này cũng giống như chúng ta chặt một cái
cây ở phần cành và ngọn. Giới chỉ có thể chế ngự hay kiểm soát lời nói và
hành động chứ không phải tâm. Nó có thể làm cho chúng ta trở thành quý bà
hay quý ông theo cái nghĩa trí thức thế gian, chứ chưa tạo cho ta thành
con người chân chánh được.
Phải chăng có đôi lúc khi chúng ta đang
ngày Bát quan trai giới, chúng ta vẫn có ý nghĩ hay lời nói "chừng nào
bà (ông) xả giới, mày sẽ biết tay bà?". Cho nên, việc phải có ba giai
đoạn tu tập là điều rất cần thiết cho chúng ta và trước tiên là tu tập
giới để loại trừ cấp độ phiền não thô tháo bên ngoài, hiện diện trong con
người chúng ta. Tuy nhiên, vì giới chưa loại trừ được hai cấp độ phiền não
còn lại, cho nên những phiền não mà chúng ta đã trừ khử đó vẫn khởi sanh
trở lại và có thể rất sớm. Vì vậy, chúng ta cần tu tập giai đoạn thứ hai -
tu tập Ðịnh (Samàdhi) làm cho chúng ta có thể loại trừ cấp độ phiền
não thứ hai, mà việc giữ giới không trừ khử được. Ðịnh là chế ngự và tu
tập tâm. Giống như chặt một cái cây ở phần thân. Tuy nhiên, vì vẫn còn cấp
độ phiền não thứ ba hay phiền não gốc chưa được trừ khử, nên chi những
phiền não cũng sẽ phát khởi trở lại. Dù sao chi định vẫn có thể dẹp sạch
mọi phiền não trong một thời gian đáng kể, vì thế, nó sẽ không khởi sanh
quá sớm như trừ khử bằng giới được.
Trừ khử phiền não bằng Giới - Sìla, tiếng
Pàli gọi là Tadanga pàhàna (Bỉ phần
xả đoạn hay trấn áp tạm thời).
Cũng giống như tạm thời dọn dẹp cành nhánh của một cái cây vậy. Trừ diệt
bằng phương tiện Thiền Ðịnh gọi là Vikkhambhana Pahàna
(trấn phục đoạn trừ).
Ðịnh tiêu biểu cho một giai đoạn tu tập tâm
cao hơn và có nhiều năng lực hơn, vì vậy nó có hiệu quả hơn là giới. Ðến
giai đoạn tu tập thứ ba, Tuệ (Pannnà): Qua việc phát triển tuệ giác
hay trí tuệ mà người ta có thể diệt trừ cấp độ phiền não thứ nhất - cấp độ
tuỳ miên hay ngủ ngầm của phiền não. Ðiều này cũng tựa như chặt một cái
cây ở phần gốc để cho nó không còn mọc lại được. Nếu những phiền não được
diệt bằng tuệ, những phiền não này chắc chắn sẽ không còn sanh khởi lại.
Giai đoạn này gọi là Samuccheda Pahàna
(chánh đoạn xả đoạn hay tuyệt diệt đoạn trừ).
Do vì ba giai đoạn này tương quan và tương
duyên lẫn nhau nên Giới, Ðịnh, Tuệ cần phải được thực hành cùng lúc chứ
không hành rời từng giai đoạn. Trong giáo pháp (Dhamma) chúng ta
sắp nó thành ba giai đoạn riêng biệt, nhưng trong thực hành chúng ta phải
hành đồng thời cả ba một lúc. Chẳng hạn khi chúng ta tu Ðịnh, việc đắc
định sẽ dễ dàng hơn nếu chúng ta sống một cách chân chánh (Giới) và
hiểu biết các pháp một cách chân chánh (Tuệ). Cũng vậy, thực hành
Tuệ quán hay chánh kiến có thể giúp chúng ta sống chân chánh (Giới)
và định tâm chân chánh (Ðịnh). Pháp hành này không chỉ áp dụng
trong lúc hành thiền mà cũng cần áp dụng ngay cả trong cuộc sống hàng ngày
của chúng ta nữa.
Là những chúng sanh có lý trí, việc hành
xử của chúng ta đối với môi trường chung quanh, với những hoàn cảnh hay
biến cố trong cuộc đời phải làm sao cho hợp lý, không võ đoán theo bản
năng hoặc xúc cảm riêng tư.
Cái chúng ta cần trong thế gian này là
được sống một cách có trí tuệ - có cơ hội để vận dụng sức mạnh trí tuệ của
chúng ta - nhưng không may thay cho thế gian này là trong hầu hết mọi
trường hợp mọi người đều phán đoán theo bản năng và xúc cảm tư riêng của
mình.
Chuẩn mực phát triển tinh thần (tâm)
ngày nay rất thấp, bởi vì phương pháp giáo dục phổ thông hoàn toàn sai
lầm, cả phương pháp nuôi dạy trẻ em cũng sai lầm như vậy. Bần Tăng có thể
chứng minh điều này cho quý vị thấy. Thậm chí những bài hát nhà trẻ dạy
cho lứa tuổi thiếu nhi cũng vẽ ra những câu chuyện mang đầy tính bạo lực,
giết chóc và không có một mảy may nhân ái nào trong đó. Lại nữa, một nhóm
các nhà luân lý học phương Tây mới đây đã đi một vòng thăm các cơ sở giáo
dục để thực hiện một cuộc trắc nghiệm tâm lý đối với các em đang học tại
đó. Họ đã yêu cầu một đứa trẻ làm một câu với những từ "mẹ", "em
bé" và "mèo". Ðứa bé trả lời:
"Con mèo cào em bé khiến cho nó khóc, mẹ nổi giận và đánh con mèo".
Cũng câu hỏi này được các nhà luân lý học đem hỏi tại các trường trong
toàn tỉnh, chỉ có một em duy nhất đưa ra câu trả lời sau và được trao một
phần thưởng vì câu trả lời của em chứa đựng một chút tình thương và trìu
mến nào đó cần phải có giữa các chúng sanh khác nhau trên thế gian này
"Chú mèo đùa với em bé, mẹ rất hài
lòng với chú mèo đến độ cho chú một phần sữa để uống".
Chính Bần Tăng đã có dịp chứng kiến một
phụ nữ, bà này mua một cây mía nơi người bán hàng và cho đứa bé trai của
mình để cầm chơi. Ðứa bé thay vì cầm chơi, đã dùng cây mía đánh vào bà.
Nhiều bậc cha mẹ không biết dạy dỗ con cái mình trở thành người tốt, thuần
tính và ngoan ngoãn, ngược lại, còn khuyến khích chúng sống hung bạo, ưa
cãi vã và thích sinh sự bằng cách cho chúng những món đồ chơi như súng
ống, đao kiếm, nhất là các loại súng bắn bằng hơi. Vì vậy, mà việc dạy dỗ
trẻ em trong thế giới khoa học ngày nay thật rất sai lầm. Các rạp xi nê
phần lớn chiếu các phim ảnh đồi truỵ - những cuốn phim chỉ khuyến khích
việc bắn giết và dối trá lẫn nhau.
Vậy thì pháp hành của Ðức Phật như thế
nào?
Trước hết là Giới. Những chuẩn mực đạo đức
này đã được Ðức Phật giải thích trong ngũ giới (Panca sìla) của
người tại gia cư sĩ. Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không
nói dối, không uống rượu và các chất say. Ở Miến phần lớn mọi người đều
nghĩ rằng chỉ cần giữ năm giới này một cách tiêu cực thôi là đã tốt rồi.
Tuy nhiên, chỉ đơn thuần tránh không sát sanh thì chưa đủ gọi là tốt; do
vậy chúng ta phải chú trọng đến phương diện tích cực của nguyên tắc bất
sát này - tức là phải có lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sanh, kể cả loài
vật.
Trong bài giảng về Tâm Từ (Mettà)
chúng ta đã nói đến Adosa (vô sân) là phương diện tiêu cực của lòng
từ, nhưng "vô sân" không phải đã hoàn toàn. Trong việc thực hành
Mettà (tâm từ) chúng ta phải có lòng bi mẫn và từ ái đối với tất cả
chúng sanh trong thế gian. Trường hợp giữ ngũ giới cũng vậy, không sát
sanh được nhiều người hiểu là không tước đoạt sinh mạng, tuy nhiên, từ ngữ
"không sát sanh"đủ rộng để bao hàm tất cả những hành động nhân ái
và dịu dàng.
Giới thứ hai - không lấy của không cho hay
không trộm cắp. Chuẩn mực phát triển tinh thần trong thế gian ngày nay -
thậm chí cả người lớn cũng thế - dường như thấp hơn rất nhiều so với một
đứa trẻ lên mười có tri thức. Có vẻ như con người ngày nay về thể xác của
họ, không thể xếp loại như một con thú, nhưng bằng vào những hành động thì
nhiều người cư xử tồi tệ hơn cả loài vật. Phương diện tích cực của giới
thứ hai này không phải chỉ tránh không trộm cắp thôi mà còn phải biết bố
thí hay giúp đỡ mọi người. Ðược như vậy, có lẽ chúng ta không cần đến một
lực lượng cảnh sát khổng lồ hay một hệ thống toà án để xử những trường hợp
phạm pháp hoặc cả một Cục Ðiều Tra Ðặc Biệt (Bureau of Special
Investigation) làm gì. Kế tiếp là giới "không tà dâm".
Giới thứ tư là "Musàvàda" -
(không nói dối) không nói dối là điều rất khó giữ. Phương diện tích
cực của giới này không những là phải nói sự thật, mà còn phải dùng những
ngôn từ tế nhị, êm ái và phù hợp với người nghe. Ðối với giới không nói
dối, nếu đa số chủng tộc chúng ta đều không nói dối có lẽ không cần thiết
đến pháp luật nữa.
Còn về giới cuối cùng của ngũ giới - không
uống rượu và các chất say - vấn đề uống rượu hầu như đã trở thành một thói
quen thường ngày ở mỗi bữa ăn trong xã hội văn minh này. Thực sự mà nói,
không uống tí rượu nào là điều rất cần thiết để giữ cho người ta khoẻ mạnh
cả về thể xác, đạo đức lẫn tinh thần. Có một lần tại Anh quốc, một thính
giả nghe Pháp đã lý luận rằng: "Vì
trong đời sư không uống chút rượu nào, vì sư là người hoàn toàn kiêng rượu
(teetotaller) nên sư không hiểu được những lợi ích phát sinh do việc uống
rượu". Uống rượu làm cho chúng ta
mất tự chủ - ít nhất cũng trong lúc đó, và những người uống rượu thái quá
có thể bị xem như đã trở thành một gã điên. Uống rượu là đi ngược lại quy
luật của tự nhiên cũng như những giới điều Ðức Phật đã ban hành. Uống rượu
còn gây ra các chứng bệnh về tâm như đãng trí và đần độn, một khi quá độ
chúng ta có thể trở thành một kẻ điên rồ hoàn toàn. Theo đạo Phật, uống
rượu là nguyên nhân của mọi khổ đau và phiền muộn. Rượu còn khiến cho
chúng ta bị khích dục và đối với người say thì rất dễ nói dối hay sát
nhân...
Ðể kết luận, bần tăng mong rằng quý vị,
các sư cũng như các cận sự nam (Upàsikas) và cận sự nữ
(Upàsikàs) chú trọng đến mặt tích cực của năm giới này. Bần Tăng cũng
muốn đề cập đến lối sống của Ðức Phật, có thể nói đây là một hệ thống trau
dồi tu tập tự thân - nghĩa là nâng cao tâm thức của chúng ta lên. Ðó là
một lối sống hiền thiện, chánh trực và hạnh phúc. Ðức Phật nói rằng:
"Khi một hành động thiện được thực
hiện vài lần, nó sẽ tạo cho ta có khuynh hướng rất rõ rệt là thích lặp lại
hành động này". Như vậy, đúng thời
nó sẽ trở thành một thói quen. Do thói quen họ trở thành nô lệ cho rượu,
nô lệ cho cờ bạc và nô lệ cho hàng tá thứ dục vọng cũng như những thứ xấu
xa khác. Bần tăng xin trích dẫn ra đây một câu ngạn ngữ của người Nhật để
quý vị thấy thói quen tác động đến chúng ta thế nào:
"Ðầu tiên thì người uống rượu, kế đó rượu
uống rượu và cuối cùng rượu uống người".
Bất kỳ hành động bằng thân nào, nếu cứ lặp
đi lặp lại một thời gian sẽ trở thành thói quen. Cũng như vậy, những ý
nghĩ nếu cứ để cho nó phát sinh liên tục cũng tạo ra một khuynh hướng rõ
rệt, phỏng theo loại tư duy đó và vì vậy mà trở thành thói quen. Ðức Phật
đã dùng cái sức mạnh có khả năng tái tục của tâm, cũng như của thân này để
phát triển tự thân. Nhờ trau dồi những thói quen tốt của tâm và thân chúng
ta sẽ tự mình phát triển một cách hoàn thiện. Ðiều này được gọi là Pàramì
(ba la mật) trong ngôn ngữ Pàli, nghĩa là sự chu toàn hay hoàn
thiện. Nói một cách khác, tạo những thói quen ngược lại bất cứ khi nào
chúng ta có chiều hướng muốn sân hận, làm như vậy chúng ta có thể phát
triển các trạng thái tâm từ ái và bi mẫn sao cho những trạng thái tâm từ
này được lặp đi, lặp lại mãi mãi trong chúng ta. Cuối cùng, chúng sẽ trở
thành những thói quen rất ư là thường tình đến độ chúng ta chẳng bao giờ
còn gặp lại những tư tưởng sân hận, oán thù, ganh tỵ, cũng như những tư
duy đại loại như vậy. Những khuynh hướng bất thiện sẽ biến mất trước những
khuynh hướng từ bi này, cũng như bóng đêm sẽ mờ nhạt dần trước ánh bình
minh.
Ðây là pháp hành do Ðức Phật đưa ra cho
hàng đệ tử của Ngài. Có thể nói đây là một hệ thống rất thực tiễn nhằm
thay đổi và phát triển bản chất nội tại của chúng ta.
PHẦN HAI
Tiếp tục bàn về ba giai đoạn phát triển
tâm, đó là: Giới - Ðịnh - Tuệ. Chúng ta đã đề cập đến giai đoạn tu tập đầu
tiên là Giới ở phần trước. Lần này chúng ta sẽ bàn sơ lược về Ðịnh
(Samàdhi), tức Thiền Ðịnh và cũng là giai đoạn để phát triển trí tuệ.
Ðây là những giai đoạn tu tập khá nghiêm mật, vì khi đến giai đoạn hành
thiền này chúng ta thường thấy rằng đó là một tiến trình tu tập rất tẻ
nhạt. Thiền không phải là một đề tài để người ta nói về, mà là để thực sự
hành theo, chúng ta không kham nổi những công việc khá đơn điệu bình
thường. Nói về một điều gì đó thì rất dễ, tổ chức một điều gì đó cũng rất
dễ. Một số người cho là cần phải có một năng khiếu tổ chức mới làm được
các công việc đó; tuy nhiên, việc hành thiền còn khó khăn hơn rất nhiều.
Chính vì vấn đề khó khăn này mà Bần Tăng
sẽ đọc cho quý vị nghe một phần trong cuốn sách do Bần Tăng viết về đề tài
thiền và làm thế nào để tiến hành thiền định trong Phật giáo.
THIỀN ÐỊNH (SAMÀDHI)
Người có trí, sau khi đã được trang bị với
Giới (Sìla), và làm chủ các giác quan
(Căn)
của mình, có khuynh hướng nghiêng về việc
phát triển loại hạnh phúc cao cả hơn và bền vững hơn (nghĩa là hơn cái
loại hạnh phúc thế gian thông thường) bằng Thiền Ðịnh để chế ngự và tu
tập tâm; giai đoạn thứ hai trên đạo lộ giải thoát.
Ðịnh là sự tu tập tâm, không có định chúng
ta không thể có tuệ. Bằng thiền định chúng ta có thể gặt hái được hạnh
phúc - một loại hạnh phúc cao cả hơn hạnh phúc thông tục của thế gian.
Hạnh phúc thế gian là hạnh phúc lệ thuộc. Nó cần sự hỗ trợ và đồng hợp tác
của một người cộng sự (vợ hay chồng). Riêng loại hạnh phúc tinh
thần cao cả này không đòi hỏi bất kỳ sự trợ giúp bên ngoài nào hoặc người
cộng sự nào. Hạnh phúc này có thể được đạt đến qua thiền (Jhànas).
Jhànas (Skr: dhyàna: thiền na) là một từ phát xuất từ căn Jhe, tư
duy một cách gắn bó hay kiên cố vào một đề mục, hoặc để thiêu đốt các pháp
chướng ngại, Nivarana có nghĩa là năm triền cái ngăn trở tiến bộ tâm linh,
Jhàna đã được dịch là nhập định, an chỉ định trạng thái xuất thần. Tuy
nhiên, ở đây định là một kinh nghiệm đặc biệt thoát khỏi đời thường.
Ở Miến chúng ta không nói về thiền định
(Jhàna) chúng ta thường nói nhiều đến Vipassanà (thiền minh sát hay
thiền quán). Sở dĩ thiền định (Samàtha hay Jhàna) ít được nghĩ
đến ở Miến là vì nguời Miến cho rằng thiền định không phải là giai đoạn
cao tột, mà chỉ là giai đoạn thứ hai trên lộ trình đi đến Niết Bàn. Ðó là
lý do thứ nhất. Còn có một lý do khác nữa là, với những người quan tâm đến
thiền Minh sát (Vipassanà) nghĩ rằng đây là con đường ngắn nhất hay
đường tắt đi đến Niết Bàn. Trong một vài trường hợp, người ta nghĩ rằng để
đạt đến Niết Bàn vấn đề chỉ là thời gian thôi, nghĩa là chỉ cần thực hiện
vài ngày hoặc vài tuần là đủ. Họ thích đi thẳng đến Niết Bàn chứ không
muốn chờ đợi lâu. Chẳng thế mà họ tham dự những khoá thiền ba ngày hoặc 7
ngày để mong đạt đến mục đích đó.
Ðể đắc thiền (Jhana) bạn phải chứng
minh điều đó bằng cách thực hiện những pháp thần thông - chẳng hạn như đi
trên nước, ngồi trên mặt nước, làm người chết đứng dậy v.v... Nhưng để đạt
đến Niết Bàn ở giai đoạn Nhập Lưu (tức Tu Ðà Hoàn quả) thì chẳng
cần bằng chứng gì cả. Ðó là một lý do thêm nữa, giải thích tại sao người
ta lại quan tâm đến thiền Minh sát đến như thế. Chính Ðức Phật đã đạt đến
những trình độ rất cao trong thiền định (Jhànas), Bần Tăng nhân đây
cũng muốn nói đôi điều về loại thiền này. Một số người đề nghị là nếu
chúng ta muốn truyền bá đạo Phật một cách hiệu quả ở thế gian này, chúng
ta phải làm điều đó khác với những điều chúng ta hiện nay đang làm. Nhờ
thiền định chúng ta có thể bay lên trời, chúng ta có thể xuất hiện và biến
mất trong không gian. Vì vậy, một số người nói rằng đạo Phật có thể được
truyền bá nhanh hơn và rộng rãi hơn nếu chúng ta có thể chứng minh Ðạo
Phật qua thiền định. Dù sao chăng nữa thì thiền định này cũng là một phần
trong lời dạy của Ðức Phật.
Thiền (Jhànas) nghĩa là tư duy, tập
trung vào một đề mục để vượt qua Năm triền cái. Jhànas cũng có nghĩa là
thiêu đốt các pháp chướng ngại (Nivarana) những pháp che lấp tiến
bộ tâm linh. Phát xuất nơi từ phát sinh [*] này chúng ta có
"Jhar-pa-na" là hoả thiêu trong trường hợp người chết. Jhanas đã được
dịch là nhập định, an chỉ định hay trạng thái xuất thần (ecstacy);
tuy nhiên, trong đạo Phật Jhànas là một loại kinh nghiệm thuộc về tinh
thần (tâm), hay có thể gọi là kinh nghiệm vượt ngoài đời thường.
Người muốn tiến bộ trên lãnh vực tinh thần (tâm) này sẽ chọn một
trong 40 đề mục đã liệt kê trong Visuddhimagga (Thanh Tịnh Ðạo). Ðề
mục mà hành giả chọn cần thích hợp với tính khí (bản tánh) của
mình, chẳng hạn như tánh ưa xúc cảm, sân hận v.v... 40 đề mục đó được chia
thành 6 nhóm theo loại bẩm tánh của con người. Do vậy, nếu bạn muốn hành
thiền có kết quả, nghĩa là đắc thiền, bạn phải chọn một trong số 40 đề mục
thích hợp với bẩm tánh của mình.
[*] Derivative: "Từ phát sinh" là
từ được tạo ra từ một yếu tố gốc bằng cách thêm, bớt hay thay một vài
thành tố nào đó (ND).
Về phương pháp đã được giải thích đầy đủ
trong Thanh Tịnh Ðạo. Ðề mục hành giả chọn được gọi là Parikammanimitta
(chuẩn bị tướng). Hành giả chú tâm trên đề mục này trong một thời
gian, có thể là vài ngày, vài tuần, vài tháng hay vài năm, cho đến khi nào
hành giả có thể mường tượng được đề mục không chút khó khăn. Khi hành giả
có thể mường tượng được đề mục mà không nhìn vào nó, hành giả tiếp tục tập
trung trên đề mục mường tượng này (Uggahanimitta: sơ tướng hay tợ
tướng) cho đến khi hành giả phát triển nó thành một đề mục đã được
khái niệm hoá (Patibhàganimitta:quang tướng). Ở vào giai đoạn này
người có kinh nghiệm tâm linh được xem như đắc cận định (Upacàra -
samàdhi) và tạm thời vượt qua năm triền cái (Nivarana) đó là:
tham dục, sân hận, hôn trầm - thuỵ miên, trạo cử, phóng dật và hoài nghi.
Ðể minh hoạ lại những gì chúng ta đã nói.
Nếu hành giả chọn cho mình đề mục thích hợp là một biến xứ đất (Pathavì
- Kasina), hành giả giữ kỹ một vòng tròn làm bằng đất sét gọi là
Kasina (Biến Xứ đất).
Trong tiếng Anh thường được dịch là Hypnotic
circle (vòng thôi miên), thực ra không chính xác lắm. Hành giả làm
một vòng tròn bằng đát sét đường kính khoảng một gang và bốn ngón tay
(ba tấc). Hành giả cố gắng làm sao cho nó thật phẳng và sơn bằng màu
bình minh. Vòng này được đặt trước mặt cách khoảng 1 mét, hoặc xê xích một
chút sao cho mắt nhìn thấy rõ. Ở phương Tây hiện nay cũng có một số người
hành theo cách này. Tuy nhiên, ở Ấn Ðộ phương pháp này đã có từ lâu đời,
vì vậy nó rất phổ thông; người Tây phương thực hành pháp môn thiền định
đơn giản chỉ để xem tác dụng của nó và nhờ thực hành như vậy mà một số
người đã thâu thập được một năng lực định rất sâu. Khi việc chuẩn bị vòng
Kasina đất đã hoàn tất và hành giả đặt nó trước mặt ở khoảng cách thuận
tiện, sao cho hành giả có thể nhìn vào nó một cách dễ dàng thoải mái.
Trong lúc hành thiền hành giả phải giữ cho đầu, cổ và lưng thẳng đứng để
duy trì tâm gắn bó với đề mục.
Thông thường không tập trung chúng ta
không thể biết tâm mình ở nơi đâu. Dù thế nào chăng nữa hành giả cũng phải
cố gắng tập trung tâm vào đề mục vật lý này, Parikammanimitta (chuẩn bị
tướng). Như đã giải thích ở trên, có khi hành giả phải mất vài ngày,
vài tháng hoặc vài năm mới có thể mường tượng được hay hình dung được đề
mục mà không cần đến chuẩn bị tướng
(tức đề mục vật lý).
Ðức Phật khuyên chúng ta không nên quá căng
thẳng khi làm bất kỳ điều gì. Hành giả không nên cưỡng ép tâm lực mình.
Hành giả phải xem mình như thể đang trong cuộc chơi, thưởng thức nó với
tâm hân hoan vui vẻ, cũng như những thanh thiếu niên đang thích thú xem
một màn trình diễn trong xi nê vậy.
Nhưng đồng thời Ðức Phật cũng khuyên chúng
ta không nên để tâm lơi lỏng. Chúng ta hành thiền để giúp đỡ tha nhân, để
đóng góp hạnh phúc của mình vào hạnh phúc chung của mọi người. Hành thiền
với tinh thần như vậy, ngay cả việc quét nhà cũng trở nên thú vị. Trong
việc hành thiền, hành giả cũng phải có thái độ như trong lúc đang chơi, có
vậy việc hành mới trở nên thú vị, bởi vì hành thiền là một việc làm rất
tốt và là một điều cần thiết phải làm để trau dồi bản tâm. Trừ khi chúng
ta giải toả được tâm mình như vậy, bằng không chúng ta chẳng thể nào thực
hiện nổi những chặng đầu của pháp (Dhamma), nói chi đến việc chứng
ngộ Niết Bàn, mục tiêu cao tột của đạo Phật.
Vì vậy, hành giả tập trung trên đề mục hay
"chuẩn bị tướng" cho đến khi có thể mường tượng ra nó mà không cần
đề mục. Hình ảnh mường tượng này trong Pàli gọi là "Uggahanimitta" (sơ
tướng hay thô ảnh tướng tợ), có thể nói đó là bản sao chính xác của đề
mục được thấy. Khi hành giả đến giai đoạn này thì không đòi hỏi phải có đề
mục vật lý nữa. Kế đó, hành giả tiếp tục tập trung vào đề mục mường tượng.
Sự khác biệt giữa đề mục thứ nhất và đề mục thứ hai là: đề mục đầu tiên là
một đề mục vật lý, đề mục thứ hai thuộc tâm (do mường tượng mà ra).
Tuy nhiên nó chính xác cùng một đề mục. Hành giả nỗ lực tập trung vào đề
mục mường tượng này cho đến khi nó trở nên sáng chói giống như một ngôi
sao. Sự khác biệt giữa giai đoạn hai và ba này là: trong giai đoạn hai
hành giả thấy đề mục với những thô tướng, nhưng trong giai đoạn ba hoàn
toàn không có các thô tướng này nữa, mà nó tựa như một ngôi sao đang chiếu
sáng. Lúc này đề mục đã được khái niệm hoá và gọi là Patibhàganimitta
(quang tướng hay quang ảnh trong sáng). Hành giả đắc cận định và tạm
thời vượt qua năm triền cái (Nivarana); đó là: Tham Dục, Sân Hận,
Hôn Trầm - Thuỵ Miên, Trạo Cử - Phóng Dật và Nghi Cái.
Sự tập trung hay định tâm của hành giả dần
dần trở nên tăng tiến đến mức sắp đạt đến Jhàna (thiền). Vào giai
đoạn này hành giả được bảo là đã có An Chỉ Ðịnh (Appanàsamàdhi).
Cuối cùng, hành giả từng bước một đắc năm cấp độ thiền
(từ sơ thiền đến ngũ thiền)
và chính khi hành giả đạt đến ngũ thiền là
lúc hành giả có thể dễ dàng phát triển năm năng lực siêu nhiên (các
loại thần thông như: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, túc mạng thông,
tha tâm thông, và biến hoá thông). Nhờ những thần thông này hành giả
có thể thấy những điều mà bằng mắt thường không thể thấy được -- dù cho
vật ấy ở xa bao nhiêu, không có chướng ngại nào có thể ngăn cản được cái
thấy của hành giả. Hành giả có thể thấy xuyên qua núi non, đến những nơi
xa xăm nhất mà không bị chướng ngại vật nào ngăn cách. Ngay cả đến ngày
nay ở Ấn Ðộ cũng có những vị Yogis đắc các pháp thần thông này, vì việc
hành thiền định không nhất thiết chỉ giới hạn trong đạo Phật mà Ấn giáo
(Hindus) cũng hành như vậy.
Trong đạo Phật việc hành thiền (Jhàna)
là một trợ lực rất lớn giúp chứng ngộ Niết Bàn. Những người đã đạt đến
mức độ cao như ngũ thiền này, tâm họ được tinh lọc rất cao và điều này
giúp họ dễ dàng đạt đến các cấp độ phát triển tâm siêu thế (Lokuttara).
Tuy nhiên, ở giai đoạn ngũ thiền hành giả cũng không hoàn toàn thoát
khỏi những khuynh hướng bất thiện - lý do là vì Ðịnh, như đã đề cập ở
trên, chỉ có thể vượt qua cấp độ phiền não thứ hai một cách tạm thời. Vì
vẫn còn cấp độ phiền não thứ nhất (tức tuỳ miên phiền não) chưa trừ
khử nên những tham dục đã được ức chế bằng Ðịnh chắc chắn sẽ khởi dậy lại
nếu gặp điều kiện. Trong Anh ngữ, năm năng lực siêu nhiên hay thần thông
này đôi khi còn gọi là năng lực tàng ẩn hay bí mật. Tuy nhiên, trong đạo
Phật năm năng lực này không thể gọi là những năng lực bí mật được, vì mọi
người đều có thể đạt được nếu họ chịu khó hành thiền định.
Giới làm cho người ta cao quý trong lời
nói và việc làm, Ðịnh kiểm soát tâm làm cho vị ấy an tịnh, bình tĩnh và
kiên định. Tuệ hay tuệ giác, giai đoạn tu tập thứ ba và cũng là giai đoạn
cuối cùng, giúp cho hành giả thắng phục hoàn toàn mọi phiền não. Như một
cái cây đã bị triệt ở gốc chắc chắn sẽ không còn mọc lại, cũng vậy, các
phiền não do Tuệ (Pannà) trừ diệt sẽ không bao giờ sanh khởi nữa.
Hành giả khi đã đạt đến giai đoạn thứ ba
trên đạo lộ Giải thoát, cố gắng hiểu rõ thực chất của tự ngã, cũng như
thực chất của các pháp thế gian nói chung. Giờ đây với cái tâm đã tịnh hoá
cao độ, hành giả bắt đầu liễu tri rằng không có nguồn gốc của cái Ta hay
tính đồng nhất khăng khăng của một "bản ngã" cả trong các hiện
tượng nội giới và ngoại giới. Vị ấy nhận ra rằng cả thân và tâm, những thứ
cấu tạo nên cá thể vị ấy, đều nằm trong trạng thái trôi chảy và biến dịch
không ngừng, và rằng các pháp hữu vi đều vô thường (Anicca), phải
chịu khổ đau (Dukkha), và không có tự ngã (Anatta). Ðối với
vị ấy, lúc đó tri kiến hiểu biết phát sinh lên rằng mọi hình thức lạc thú
của đời thường chỉ là đầu mối đưa đến khổ đau, và rằng mọi thứ nằm trong
trạng thái biến dịch chắc chắn không thể là cội nguồn hạnh phúc thường
hằng và thực sự được.
Sau đó, hành giả tập trung tâm vào ba đặc
tánh thế gian, đó là: vô thường, khổ và vô ngã. Không luyến ái cũng không
chán ghét đối với các pháp thế gian; hành giả tiếp tục một cách kiên trì,
phát triển tuệ giác đối với cả hiện tượng nội và ngoại giới cho tới khi
loại trừ được ba hạ phần kiết sử, đó là: Thân kiến = Ngũ uẩn tà kiến
(Sakkàya ditthi), Hoài nghi (Vicikicchà) và Giới cấm thủ
(Sìlabbata paràmàsa) chỉ khi nào hành giả thủ tiêu tận gốc ba kiết sử
này thì hành giả mới chứng ngộ Niết Bàn, mục tiêu tối hậu của mình trong
lần đầu tiên. Vào giai đoạn này hành giả được gọi là vị Tu Ðà Hoàn
(Sotàpana), tức là người đã bước vào dòng (Nhập Lưu), dòng ở
đây nghĩa là đạo lộ dẫn đến Niết Bàn. Ðức Phật đã mô tả giai đoạn này như
sau:
Ðắc quả Tu Ðà Hoàn,
Hơn tái sanh thiên giới
Hơn quyền lực thế gian
Hơn chuyển luân thánh vương. (Pháp Cú, 178)
Hình ảnh biểu tượng một người đã đạt đến
tầng thánh thứ nhất được ví như người bước vào dòng (Thánh) bởi vì,
cũng như nước sống không bao giờ chảy ngược, mà đều đặn chảy một cách chắc
chắn và hiển nhiên hướng ra đại dương. Cũng vậy, vị hành giả sẽ chắc chắn
và nhanh chóng đạt đến sự giác ngộ cuối cùng của mình. Tuy nhiên, vì hành
giả chưa diệt trừ bảy kiết sử còn lại nên có thể phải tái sanh tối đa là
bảy lần nữa trong cõi dục.
Khi hành giả phát triển tuệ giác thâm sâu
hơn và làm yếu đi hai kiết sử nữa, đó là: Dục Ái (Kàmaràga) và Sân
(Patigha), hành giả trở thành một vị Tư Ðà Hàm (Sakadàgàni),
còn gọi là bậc Nhất Lai. Sở dĩ được gọi như vậy là vì hành giả còn tái
sanh trong cõi dục (Kàmaloka) chỉ một lần duy nhất nếu như hành giả
vẫn chưa đắc giải thoát cuối cùng trong kiếp sống hiện tại này.
Tầng thánh thứ ba là A Na Hàm (Anàgàmi),
Bất Lai Thánh Giả, người đã hoàn toàn cắt đứt hai kiết sử (Dục Ái và
Sân) ở trên. Hành giả không còn tái sanh trong thế gian này hay bất kỳ
cảnh giới nào trong dục giới. Tuy nhiên, nếu hành giả vẫn chưa đạt đến
giác ngộ cuối cùng trong kiếp này thì vào lúc mệnh chung, chắc chắn sẽ tái
sanh nơi một trong những cảnh giới thích hợp và cao hơn, từ đó hành giả sẽ
nhập Niết Bàn luôn.
Giai đoạn thứ tư là tầng thánh A La Hán
(Arahat),
bậc đã tiêu trừ năm thượng phần kiết sử
là: Ái trong cõi sắc giới (Rùpà - ràga); Ái trong cõi vô sắc
(Arùpa - ràga), Ngã Mạn (Màna), Phóng Dật (Uddhacca) và
Vô Minh (Avijjà). Lúc đó hành giả biết rõ rằng sanh đã tận, phạm
hạnh đã thành, điều cần làm đã làm xong, đây là sự an lạc cao quý nhất,
bậc A la Hán vượt lên trên các cõi giới, chứng ngộ hạnh phúc Niết Bàn -
một loại hạnh phúc bất khả thuyết.
-ooOoo-
Bài 19:
HẠNH PHÚC LÀ GÌ?
Hạnh phúc là gì?
Hạnh phúc là một trạng thái
tinh thần mà người ta có thể đạt tới xuyên qua việc tu tập tâm, và như
vậy, về nguồn gốc nó khác với những nguồn thuộc vật chất như giàu sang,
danh vọng, địa vị xã hội và tiếng tăm v.v... những thứ này chỉ là những
nguồn hạnh phúc nhất thời tạm bợ, Bất cứ điều gì chúng ta làm chủ yếu cũng
là vì mưu cầu hạnh phúc, mặc dầu chúng ta có thể nói tôi làm điều này vì
tiền, điều kia vì quyền, nhưng thực sự ra bất cứ chúng ta làm điều gì
chăng nữa thì cũng vì hạnh phúc. Thậm chí trong lãnh vực tôn giáo cũng
thế, điều chúng ta làm là làm vì hạnh phúc cả. Vậy thì bất luận chúng ta
làm điều gì thì chủ yếu chúng ta cũng vì mưu cầu hạnh phúc mà thôi.
Nhưng liệu chúng ta có đạt được cái hạnh
phúc đó không? Không. Tại sao? Bởi
vì chúng ta đi tìm hạnh phúc không đúng chỗ.
Người ta nghĩ họ có thể tìm được hạnh phúc
trong tiền bạc, vì vậy mà họ cố gắng hết sức để được giàu sang, nhưng khi
giàu sang rồi liệu họ có hạnh phúc hay không? Nếu giàu sang là một nguồn
hạnh phúc, như vậy người giàu có lẽ hạnh phúc hơn người nghèo. Nhưng trong
rất nhiều trường hợp chúng ta thấy rằng, những người bình thường không
giàu có mấy lại hạnh phúc hơn kẻ giàu. Thậm chí chúng ta còn nghe rằng một
vài nhà tỷ phú đã phải tự tử. Nếu giàu sang là cội nguồn chính của hạnh
phúc, có lẽ họ chẳng bao giờ nghĩ đến việc tự tử làm gì, do vậy rõ ràng là
giàu sang không hẳn là một nguồn hạnh phúc như người ta tưởng.
Vậy thì quyền lực, tên tuổi hay tiếng tăm
có lẽ là cội nguồn của hạnh phúc chăng?
Khi người ta mất danh vọng, quyền lực hay địa
vị họ liền rơi vào trạng thái lo lắng phiền muộn. Ðiều dó chứng tỏ rằng
chức quyền, danh vọng cũng không phải là cội nguồn của hạnh phúc, bởi vì
nó cũng còn là cội nguồn của lo lắng phiền muộn và phải chịu biến đổi vô
thường. Một số khác nghĩ rằng có được một người chồng (hay vợ) tâm
đầu ý hợp có thể là cội nguồn của hạnh phúc, điều này có nhưng chỉ ở mức
độ nào thôi. Một số cho là con cái là hạnh phúc, nhưng khi vì một lý do
nào đó chúng phải chia lìa, không sớm thì muộn điều này cũng xảy ra, họ sẽ
cảm thấy đau khổ. Một số khác cho là đua ngựa, đua chó là hạnh phúc, chẳng
thế mà họ đánh cuộc với nhau, tuy nhiên ngay cả khi họ là những người
thắng cuộc họ cũng chỉ vui trong chốc lát. Rồi lại có những người mong tìm
hạnh phúc trong men rượu, họ được vui hay hạnh phúc một khoảnh khắc nào
đó. Sau cơn say họ lại buồn hơn bao giờ hết. Những nguồn hạnh phúc bên
ngoài không phải là những nguồn hạnh phúc thực sự, cái chính là tâm, nhưng
chỉ có tâm nào đã được kiểm soát và tu tập mới thực là nguồn hạnh phúc.
Vậy thì làm thế nào để có được hạnh phúc?
Chúng ta định nghĩa hạnh phúc là thế nào?
Hạnh phúc là một trạng thái, ở đây, là trạng
thái tinh thần, trạng thái này hợp với bản chất của con người, hoặc lôi
cuốn được bản chất của con người, làm thoả mãn bản chất con người, và nó
có thể được áp dụng cho những mức độ như: vật chất hay thiên về vật chất,
xúc cảm, tri thức, tinh thần (tâm
linh).
Ðể sáng tỏ hơn, hãy lấy một bữa ăn ngon
làm ví dụ. Bạn có dịp nào đó được thưởng thức một bữa ăn trưa hay chiều
thật là khoái khẩu, nếu bạn là một người tự hào về những kiến thức thuộc
lãnh vực vật lý của mình, chắc chắn bạn sẽ có loại hạnh phúc thuộc bản
chất vật lý hay vật chất; bạn thưởng thức món ăn vì mục đích trau dồi thân
thể, vì sức khoẻ bản thân và thấy được niềm vui thuộc bản chất thiên về
vật chất từ nơi bữa ăn đó. Còn nếu như bạn tình cờ được ăn một món gì đó
mà bấy lâu nay mình ao ước, chắc chắn bạn sẽ có hạnh phúc của một bản chất
đa cảm và bạn sẽ nói là: "Tôi vô
cùng thích thú, bởi vì đó là bữa ăn thật tuyệt, thật ngon";
bạn thưởng thức bữa ăn vì tính chất tuyệt vời của nó, bạn sẽ đạt được niềm
vui từ bữa ăn đó, qua bữa ăn đó, và vì vậy hạnh phúc của bạn sẽ là loại
hạnh phúc thuộc bản chất đa cảm, bạn chẳng màng quan tâm đến bữa ăn đó có
lợi cho sức khoẻ hay không, mà chỉ cần quan tâm đến hương vị của bữa ăn.
Nếu như bạn thuộc giới trí thức, quan tâm đến sự hợp lý, và tình cờ là bạn
đang phải ăn kiêng, bạn có thể có loại hạnh phúc thuộc bản chất tri thức
và nói "Món ăn này thật tốt bởi vì
nó thích hợp với sức khoẻ của tôi",
bạn phán xét món ăn trên phương diện tri thức. Nếu như bạn là một người
bản chất thiên về tâm linh hay tinh thần, bạn cũng vẫn tìm được hạnh phúc
qua bữa ăn, tuy nhiên bạn sẽ nói:
"Món ăn này rất tốt bởi vì nó trong sạch, tinh khiết, có lợi cho việc giữ
giới; tốt vì hiệu quả của nó giúp ích cho tôi trong việc hành thiền".
Vì vậy niềm vui của bạn trong trường hợp
này sẽ khác hẳn, cũng như sự phán xét của bạn cũng khác với mọi người.
Cũng một bữa ăn hay món ăn được mọi người thưởng thức, và hạnh phúc đạt
được lại tuỳ thuộc vào bản chất của từng người. Hạnh phúc cao nhất mà con
người có thể đạt đến là một trạng thái - trạng thái tâm, trạng thái này
phù hợp và thoả mãn cho mọi mức độ. Thế nhưng, một trạng thái như vậy
không phải luôn luôn dễ dàng cho chúng ta thành tựu. Nếu như chúng ta
không thể có được cái hạnh phúc cao tột thoả mãn cho mọi mức độ này, lúc
đó loại hạnh phúc kế tiếp hài hoà được những cấp độ tương đối hơn, nghĩa
là nó sẽ cho chúng ta hạnh phúc lớn lao hơn những hạnh phúc chỉ hợp với
những cấp độ thấp thỏi ở phía dưới.
Chúng ta phán xét, phản ứng và tiếp nhận
mọi việc theo bản chất của mình, vì thế thật là cần thiết cho mọi người
chúng ta để biết mình thuộc vào loại người nào. Chúng ta hành động và phản
ứng đối với tác nhân kích thích bên ngoài theo bản chất của mình, nghĩa là
chúng ta thấy mọi thứ qua cặp kính màu của cá nhân mình. Vì vậy nếu một
người được xem là có lòng độ lượng và không có thành kiến, anh ta chỉ có
thể là thế trong một chừng mực nào đó theo bản chất đặc biệt của anh ta
thôi. Trừ phi chúng ta có những tiến bộ về tinh thần (tâm linh),
bằng không thì chẳng ai trong chúng ta có thể có được một tấm lòng độ
lượng và không thành kiến ở một mức độ lớn lao hơn, bởi vì chúng ta thấy
và phán xét mọi vật theo cặp kính màu mà tự chúng ta đã làm cho mình,
không phải ai khác mà cho chính chúng ta.
Vậy thì làm thế nào có thể biết mình thuộc
loại người nào? muốn biết điều này chúng ta phải tự nghiên cứu những phản
ứng của chính mình đối với tác nhân kích thích bên ngoài, những đối tượng
bên ngoài, nhờ xem xét và ghi nhận các phản ứng của chúng ta như vậy mà ta
có thể biết hoặc tự sắp mình vào trong những phân loại dưới đây.
Trước tiên là cấp độ hay loại thiên về
vật chất. Một người thuộc loại này có khuynh hướng thiên về vật chất,
họ chỉ quan tâm đến việc kiếm lợi, những tính toán và tập trung chính yếu
của anh ta là những gì liên quan đến thu thập vật chất, và tiện nghi vật
chất, cũng như thể chất là điều rất hệ trọng đối với anh ta. Những người
thuộc loại này rất là thực dụng và họ thích mọi thứ, kể cả tôn giáo hay
triết học cũng phải "thực dụng" theo khuynh hướng thiên về vật chất
chứ đừng là gì cả. Bất cứ điều gì đòi hỏi phải tư duy và tập trung tinh
thần sẽ không hấp dẫn đối với họ, họ sẽ không bị tôn giáo hay triết học
nào lôi cuốn, chỉ có những tiện nghi vật chất hay những ý tưởng nào đem
lại lợi ích vật chất mới hấp dẫn được họ.
Vì vậy, không có gì phải ngạc nhiên khi
thấy tại sao rất nhiều người không hề quan tâm đến tôn giáo, bởi vì tôn
giáo như chúng ta đã biết, không trực tiếp cho ai giàu sang và khoẻ mạnh
cả. Quý vị nghĩ coi có bao nhiêu người trong thế gian này đã mất cơ hội
quan tâm đến tôn giáo? Ðiều quan trọng đối với hầu hết mọi người là lợi
lạc vật chất. Khi chúng ta nói tôi mắc bận, nghĩa là chúng ta đang bận về
việc kiếm tiền, kiếm lợi. Ðể làm gì? Nào là vì thú vui thể xác, vì hạnh
phúc, vì ăn, vì mặc, vì nhà cửa, vì các loại tiện nghi vật chất v.v...; vì
vậy, chúng ta hiểu được là phần lớn mọi người chúng ta đều có khuynh hướng
thiên về vật chất này.
Kế tiếp, là
loại có khuynh hướng đa cảm.
Người nằm trong cấp độ này rất là nhạy cảm và chủ yếu quan tâm đến vấn đề
thích và không thích, những cảm giác hay ấn tượng dễ chịu và khó chịu. Họ
phán xét mọi việc theo tình cảm của họ, bất kể sự phán xét đó sai hay đúng
cũng mặc. Những người thiên về tình cảm này thường quan tâm đến loại tôn
giáo có tính cầu nguyện, nghĩa là tôn giáo hợp với tình cảm của họ, họ
thấy rằng tôn giáo mà không có lễ nghi cúng kiến thì thật là buồn tẻ.
Cấp độ thứ ba là thiên về tri thức.
Những ai ở vào cấp độ này phần lớn quan tâm đến sự hợp lý, họ thích nghiên
cứu mọi vật theo tri thức. Họ tìm được niềm vui hay hạnh phúc trong văn
chương và khoa học v.v... đạt đến hạnh phúc qua những theo đuổi có tính
tri thức, tuy nhiên họ chỉ tích cực về mặt tinh thần mà không năng động về
phần thể xác, họ biết rất nhiều qua việc đọc và học của họ, nhưng trong
thực tế họ không mấy tích cực.
Thứ tư là cấp độ
thiên về tinh thần hay đạo đức.
Những ai nằm trong cấp độ này rất quan tâm đến việc phục vụ và sự hiểu
biết có tính cảm thông trắc ẩn; họ nhấn mạnh đến tầm quan trọng của công
lý hoặc xử sự phải lẽ; họ là loại người thực tế. Như chúng ta thấy, mỗi
người hành động và phản ứng trước sự việc, chỉ trích, cảm xúc, và phán
đoán theo bẩm chất đặc biệt riêng của họ, theo cấp độ đặc biệt của cá nhân
họ. Nhờ biết rõ tại sao và thế nào chúng ta lại khác biệt trong cách tư
duy, trong cảm xúc, trong phán đoán và trong cách nhìn cuộc sống (nhân
sinh quan), chúng ta mới có thể rộng lượng đối với những loại người
khác để họ hành xử theo bản chất của họ, nhờ vậy, chúng ta mới có thể tu
dưỡng khuynh hướng khoan dung, nhẫn nại đối với mọi người.
Khi chúng ta kém tiến bộ về tâm linh thì
đó là lúc mà vật chất, thú vui và hạnh phúc có tính nhục dục lôi cuốn
chúng ta nhất. Không may thay, một số người chúng ta chẳng hề cố gắng để
ra khỏi vết lầy này; thậm chí, trong cái mức thấp hèn như vậy họ còn cảm
thấy hãnh diện với nó, họ không muốn thoát ra khỏi tình trạng đó, khi họ
cảm nhận được chút lạc thú thế gian nào đó họ nghĩ mình đã đạt đến hạnh
phúc. Họ không thích Niết Bàn, một loại hạnh phúc nghe có vẻ tẻ nhạt đối
với họ. Tại sao vậy? Bởi vì về mặt tâm linh họ tiến bộ rất chậm, một khi
phương diện tâm linh của chúng ta tiến triển, những nghiên cứu về văn
chương, khoa học và triết lý mới có thể lôi cuốn được chúng ta. Một số
người thậm chí không thể thưởng thức nổi những giá trị của việc đọc sách
báo và học hỏi; họ cho đó là việc làm phí thời gian và không đem lại lợi
ích nào cả. Phần lớn người Tây phương rất thực dụng, họ rất bận bịu và
năng động về mặt thể xác.
Có một lần, một vị Mục Sư Tin Lành Anh
Giáo hỏi bần tăng đôi điều về Niết Bàn, bần tăng trả lời: "Rất tiếc tôi
không thể giải thích cho Ngài hiểu về Niết Bàn chỉ trong vài lời nói và
trong một thời gian ngắn ngủi như vầy". Vị Mục Sư nói rằng lúc nào ông
ta cũng bận rộn, do vậy bần tăng hỏi lại ông:
"Nếu Ngài bận rộn thì hãy cho tôi biết ngài
có thể dành bao nhiêu thời gian để nghe tôi giải thích Niết Bàn?",
ông nói: "Rất tiếc là tôi không có
nhiều thì giờ, mong ngài hãy vắn tắt cho tôi vài lời cũng được".
bần tăng nói:
"Niết Bàn là một trạng thái ở đó, không còn
khổ, không còn già, đau, bệnh và chết, và đó cũng là trạng thái cao tột
nhất thoát khỏi mọi phiền não, lo âu và thống khổ".
Vị Mục Sư hỏi: "Có phải ý ngài muốn
nói rằng nếu chúng ta đạt đến Niết Bàn, chúng ta sẽ chẳng còn gì để làm
nữa đúng không?". bần tăng nói:
"Vâng, đúng thế".
"Thế thì tôi không thích Niết Bàn
đâu, bởi vì tôi lúc nào cũng muốn mình phải làm một cái gì đó",
vị Mục Sư trả lời.
Một người đàn ông khác nói rằng anh ta
không thể thưởng thức nổi thơ văn và khoa học, cả hai thứ đó dường như tạo
cho con người những lạc thú kỳ lạ nào đó thì phải. Ông nói rằng mình đã
đến thăm Phòng Tranh Quốc Gia (National Gallery), nơi đây phần lớn
những bức tranh đẹp nhất được trưng bày, tuy nhiên ông ta nghĩ rằng những
người đi xem tranh thật là ngốc nghếch, vì nếu họ muốn thưởng thức cái đẹp
thực sự tại sao lại phí thời giờ để xem những thứ mô phỏng như thế này.
Ông nghĩ, thơ văn đã làm hỏng cả ngôn ngữ, vì chẳng có một thứ tự từ ngữ
gì ráo trọi. Văn chương đối với ông ta chẳng có ý nghĩa gì cả.
Vậy đó, chúng ta thấy có rất nhiều giai
đoạn phát triển. Khi chúng ta lớn tuổi hơn, chúng ta sẽ hiểu được cái hạnh
phúc đạo đức hay tâm linh, đó là loại hạnh phúc thực sự cao quý nhất, bởi
vì nó là một loại hạnh phúc trường cửu và chân thực. Tuỳ theo bản chất
thực tiễn của mình mà mỗi người hành xử và phản ứng trước sự việc, và bằng
cách ấy họ tự tạo cho mình hoặc là hạnh phúc hay khổ đau. Sự phát triển
hay tấn hoá từ mức thấp lên mức cao này có thể đạt đến được, thực sự thì
nó không đến nỗi quá khó như người ta tưởng. Ngay như hạnh phúc Niết Bàn
cũng còn có thể đạt đến trong chính kiếp hiện tại này, vì nếu nó quá khó
như phần lớn chúng ta tưởng thì tại sao chúng ta lại có 6 đặc tính của
Pháp? chính Ðức Phật đã nhiều lần lặp lại 6 đặc tính pháp (Dhamma)
này, một trong 6 đặc tính đó là Sanditthika, nghĩa là hiệu quả tức thời
hay thiết thực hiện tại. Nếu đó là sự thực, sao ta lại không đạt đến bản
chất thực của hạnh phúc (Niết Bàn) được chứ? Niết Bàn có thể được
đạt đến bất cứ lúc nào, Akàlika (phi thời gian), nghĩa là không cần
ngày mai hay tháng tới, mà bạn có thể đạt đến nó tuỳ theo nỗ lực và sự
hiểu biết của chính mình.
Một số người đã hỏi bần tăng là có một mục
đích gì trong cuộc đời hay không? Ðối với vấn đề này bần tăng khẳng định
là "Có, cuộc sống này có mục đích
của nó". Mục đích của cuộc sống là
để phát triển, tấn hoá từ vô minh (si mê) đến giác ngộ và từ khổ
đau đến hạnh phúc. Chính Ðức Phật đã nhiều lần xác nhận rằng mục đích của
cuộc sống là để đạt đến sự giác ngộ. Một trong số những triết gia Hy Lạp
nói rằng ông đến cuộc đời này chỉ vì một mục đích duy nhất, đó là tự hoàn
thiện chính mình. Như vậy, sự tấn hoá hay phát triển này có thể thực hiện
ngay tại đây và ngay bây giờ. Cũng như nhờ thường xuyên luyện tập mà chúng
ta có thể phát triển được các cơ bắp của thân hình, tâm chúng ta cũng vậy,
có thể được phát triển và chúng ta chắc chắn có thể đạt đến sự hoàn thiện
này, người thiên về tâm linh thì qua việc đạt đến hạnh phúc và chứng ngộ
Niết Bàn, người thiên về tri thức thì thiên về việc thành tựu tri kiến,
thiên về đa cảm thì qua việc chế ngự và vận dụng tốt những tình cảm của
mình, và thiên về vật chất hay thể xác thì qua việc luyện tập, cũng như
qua việc kiểm soát thân mà nhờ đó đạt được sức khoẻ kiện toàn.
Mỗi cấp độ như vậy đều phát xuất từ những
hành động (nghiệp) quá khứ, cũng như, do những hành động này mà
tương lai sẽ diễn tiến. Hành động là sự biểu thị của tâm và một khát khao
đối với điều gì đó kích thích tâm. Mỗi cấp độ đều có hành động và phản
ứng, đó là nhân và quả. Do vậy, chính hành động của ta đối với tác nhân
kích thích bên ngoài là điều chúng mà chúng ta cần chế ngự. Hành động và
phản ứng này vận hành ở mọi cấp độ, như cấp độ thiên về vật chất hay thể
xác tác động qua sự hoạt động, cấp độ đa cảm qua cảm xúc, cấp độ tri thức
qua tư duy và cấp độ tinh thần (hay tâm linh) thì qua sự chứng ngộ.
Mỗi loại đều có mặt tốt và xấu, cũng như phương diện thiện và ác của nó.
Chẳng hạn, một người bẩm tánh thiên về vật chất có thể tác hại đến thể
chất, nghĩa là nếu anh ta sử dụng sức mạnh vật chất hay khí cụ vật chất
của mình sai lầm sẽ tạo ra khổ đau, điều này đã thể hiện mặt xấu của anh
ta. Ngược lại, mặt tốt của cấp độ thiên về vật chất là anh ta có thể làm
được những hành động thiện bằng thân của mình. Vì vậy, mọi người cần thể
hiện thân hành để phục vụ, vì nhờ đó chúng ta có thể phát triển từ cấp độ
này lên cấp độ cao hơn.
Bất luận làm điều gì dù bằng tâm hay bằng
tình cảm, nếu không thể hiện ra bằng thân đều không hoàn hảo. Có một câu
chuyện thế này:
Xưa trong ngôi làng nọ có một tảng đá giặt
(Washing stone), có lẽ nói tảng đá giặt thì người phương Tây thường
không hiểu, bần tăng nghĩ như vậy vì có một lần, một phụ nữ Anh trong số
thính giả đã hỏi bần tăng là: "Tảng
đá giặt là thứ gì?", cô ta chưa hề
nghe đến một vật gì như thế, bần tăng giải thích rằng:
"Tảng đá giặt là một tảng đá có một mặt bằng
phẳng, dùng trong các xứ phương Ðông để giặt các quần áo dơ trên đó, quần
áo sau khi đã xát xà bông được đem đập trên đá đó cho ra hết chất dơ".
Vâng, có một tảng đá giặt như vậy, ở bên ngoài một ngôi làng được dân địa
phương dùng để giặt quần áo, thế rồi một ngày kia có một nhà địa chất đi
đến và thấy tảng đá chứa nhiều mảnh đá rất quý. Ông ta nghĩ rằng những
người dân địa phương ở đây thật là khờ khạo, dùng một tảng đá giá trị như
vầy chỉ để giặt quần áo, thật phí phạm! Thế là, ông ta ra sức thuyết phục
dân làng, kể cả người chủ làng để đổi lấy tảng đá lớn hơn và đẹp hơn. Mọi
người đều đồng ý, ông ta đem đến cho họ một tảng đá rộng hơn và rất đẹp,
đồng thời lấy tảng đá cũ đi. Tất cả mọi người đều vui mừng và biết ơn ông
ta, trong khi ông ta lại tỏ ra biết ơn họ rất nhiều, vì từ tảng đá đó ông
ta có thể lấy ra những viên ngọc quý giá.
Ðức Phật khuyên chúng ta sống có hiểu biết
như nhà địa chất kia và không nên như những dân làng quá dốt nát nọ. Chúng
ta sử dụng thân mình không chỉ vì tầm cầu lạc thú mà để phục vụ, được vậy
dù chúng ta có muốn hay không muốn, chúng ta cũng sẽ có một ngoại hình đẹp
đẽ và sức khoẻ dồi dào. Ðức Bồ Tát xưa kia đã dùng cả thân và tâm mình để
phục vụ ở bất cứ nơi nào ngài đi qua, thậm chí trong kiếp chót khi ngài đã
thành Phật. Quý vị còn nhớ câu chuyện một vị Tỳ Khưu bị bệnh nằm trên đống
đồ dơ uế của mình không? Không một ai còn kiên nhẫn để giúp đỡ cho vị Tỳ
Khưu này nữa. Ðức Phật đã không ngại ngùng tắm rửa và thay y áo cho vị
này, thật không có gì trên thế gian này xứng đáng với phẩm cách cao quý
của ngài.
Vì mọi vật trên thế gian này đều phải chịu
vô thường biến hoại, nên không thể có một hạnh phúc chân thực và trường
cửu trong những thứ thuộc vật chất ở thế gian. Ðây ắt hẳn sẽ là một quan
niệm sống đầy bi quan nếu không có sự kiện là con có một lối thoát, một
hạnh phúc thực sự vượt ngoài vật chất, chính điều này đã làm thay đổi quan
niệm bi quan đó thành một nhân sinh quan thực tiễn và đầy lạc quan cho
người Phật tử chúng ta. Sự tu tập chính là lời giải thích cho vấn đề, tu
tập ở đây không nhất thiết ở thân thôi mà còn ở tâm nữa, xa hơn; chúng ta
sẽ tu tập bản chất đạo đức cao thượng để thành tựu hạnh phúc Niết Bàn.
-ooOoo-
Bài 20:
NỀN TẢNG CĂN BẢN CỦA ÐẠO PHẬT
Nền tảng căn bản của
đạo Phật chính là Bốn Sự Thật Vĩ Ðại, đó là Chân Ðế về Khổ, Chân Ðế và
Nguyên Nhân của Khổ, Chân Ðế về sự Diệt Tận Khổ và Chân Ðế về Con Ðường
dẫn đến sự diệt khổ.
Chân đế về khổ là gì?
Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là
khổ, không ưa mà gặp là khổ, ưa mà phải xa lìa là khổ, không được điều
mình mong muốn cũng khổ.
Chân Ðế về nhân sanh khổ là gì?
Ðó chính là tham ái, tham ái tầm cầu
lạc thú lúc chỗ này, lúc chỗ kia, khao khát những thú vui nhục dục
(Kàmatanha: Dục ái) và khao khát hiện hữu
(Bhavatanhà: Hữu ái).
Chân đế về khổ diệt là gì?
Ðó là sự diệt tận tham ái, sự thủ tiêu hoàn toàn chính cái tham ái này,
hay sự giải thoát khỏi tham ái.
Chân đế về con đường dẫn đến sự diệt khổ
là gì? Ðó là Bát Chánh Ðạo bao
gồm: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh
Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Ðịnh.
Cho dù Ðức Phật có xuất hiện trong thế
gian này hay không thì Bốn Sự Thật này vẫn hiện hữu, chư Phật chỉ làm hiển
lộ những Sự Thật này mà từ lâu nó đã bị chôn vùi trong vực thẳm tăm tối
của thời gian. Nếu giải thích một cách khoa học thì Pháp (Dhamma)
có thể đơn giản gọi là quy luật nhân quả, và quy luật này bao trùm toàn bộ
những lời dạy của chư Phật. Tham ái là nhân của khổ, khổ là quả của tham
ái; tôn trọng nguyên lý trung đạo là nhân của sự chứng ngộ Niết Bàn, và sự
chứng ngộ Niết Bàn là quả của sự tôn trọng nguyên lý trung đạo ấy.
Không ai có thể phủ nhận sự kiện khổ đau
hiện hữu trong cuộc đời này. Ðiều mà chúng ta gọi là hạnh phúc hay lạc thú
trong thế gian, chẳng qua chỉ là sự ban thưởng hay món thù lao của một
khát vọng nào đó, nhưng ngay khi điều mơ ước vừa đạt được thì nó liền bị
khinh miệt ngay. Hạnh phúc thế gian chỉ là sự khơi mào cho đau khổ. Vì thế
cho nên sầu khổ không thể tách rời khỏi hiện hữu và không cách nào tránh
né được, và bao lâu còn tham ái thì chừng ấy khổ đau sẽ vẫn tồn tại. Khổ
chỉ có thể được huỷ diệt bằng cách bước lên con đường Bát Chánh (Bát
Chánh Ðạo) và đạt đến hạnh phúc tối thượng của Niết Bàn.
Bốn Sự Thật cao quý này có thể được xác
chứng bằng kinh nghiệm, vì lý do đó Phật pháp (Buddha - Dhamma)
được thiết lập trên nền tảng của sự thực và những sự thực này có thể được
trắc nghiệm và xác chứng. Do vậy, đạo Phật rất là hợp lý và nó đối kháng
lại với những hệ thống suy đoán lý luận; nó hấp dẫn đối với bậc trí hơn là
với người thuần tình cảm và nó liên hệ đến chất lượng tu tập hơn là số
lượng.
Một dịp nọ Upàli (Ưu Ba Ly), một
tục gia đệ tử của phái Nigantha (Loã Thể Ni Kiền Tử), đi đến chỗ
Ðức Phật và lấy làm thoả mãn với giáo pháp của Ngài đến mức ông bày tỏ ước
muốn trở thành đệ tử của Ðức Phật, nhưng Ðức Phật đã cảnh báo ông ta, Ngài
nói: "Này gia chủ, trước tiên hãy
thẩm tra kỹ lưỡng đã, thật là thích hợp đối với một người có tiếng tăm như
ông, phải thẩm tra kỹ lưỡng trước khi quyết định một điều gì".
Ưu Ba Ly vô cùng hoan hỷ trước những nhận xét bất ngờ của Ðức Phật như
vậy, ông nói: "Bạch Ðức Thế Tôn,
nếu con xin làm đệ tử của một tôn giáo khác, chắc chắn họ sẽ công kênh con
đi diễu hành hết đường phố này đến đường phố khác và tuyên bố rằng nhà
triệu phú như vầy, như vầy... đã từ bỏ tôn giáo cũ của mình và xin theo
giáo phái của họ. Thế nhưng, bạch Ðức Thế Tôn, Ngài đã khuyên con nên thẩm
tra thêm nữa, vì thế con rất lấy làm hoan hỷ với lời nhận xét của ngài".
Lần thứ nhì ông ta lặp lại lời cầu xin
"Con xin quy y nơi Ðức Phật, Giáo Pháp và Chư
Tăng".
Ðạo Phật được thấm nhuần với tinh thần tự
do tìm hiểu và hoàn toàn dung thứ. Ðức Phật đã mở lượng khoan dung này đến
mọi người nam cũng như nữ, cùng tất cả các chúng sanh khác. Chính Ðức Phật
là người đầu tiên đã huỷ bỏ chế độ nô lệ, mạnh mẽ phản đối hệ thống đẳng
cấp đã ăn rễ vững chắc trong xã hội Ấn Ðộ lúc đó.
Theo lời của Ðức Phật thì con ngươi trở
nên cao quý hay hạ tiện không phải đơn thuần do sinh trưởng, mà chính do
những hành động của họ. Không vì đẳng cấp xã hội, không vì màu da của họ
ngăn cản không cho họ trở thành một Phật tử, hay gia nhập Giáo Ðoàn
(Tăng Ni);
ngư dân, phu quét rác, nông dân, cùng với giai cấp chiến sĩ và Bà la môn
đều được chấp nhận một cách tự do vào Giáo Ðoàn và hưởng mọi quyền bình
đẳng như nhau. Chẳng hạn, như Upàli (Ưu Ba Li), một người thợ hớt
tóc, đã được Ðức Phật chỉ định là đại đệ tử tinh thông Giới Luật; Sunìta,
người hốt phân đã được chính Ðức Phật tiếp nhận vào Giáo Ðoàn, nhờ vậy đã
có thể đạt đến thánh quả.
Angulimàlà
(Ăng Gu Li Ma La),
tướng cướp sát nhân đã được Ðức Phật cảm hoá để trở thành một bậc Thánh
đầy lòng bi mẫn. Dạ xoa Àlavaka (A La Goá Ká) quy y nơi Ðức Phật và
trở thành một vị Tu Ðà Hoàn; dâm nữ Ambapàli, gia nhập giáo đoàn Tỳ Khưu
ni và đắc A La Hán quả. Những trường hợp tương tự như vậy rất dễ thấy
trong Tam Tạng đã chứng tỏ rằng đạo Phật mở rộng vòng tay đón nhận mọi
người không phân biệt giai cấp màu da hay phái tính.
Cũng chính Ðức Phật là người đã cấm chỉ
việc hiến tế bằng cách giết những con vật vô tội và khuyên hoá hàng đệ tử
mở lòng từ đến tất cả chúng sinh, dù nhỏ nhoi nhất cũng vậy. Một người
Phật tử chân chánh sẽ thực hành tâm từ này đối với mọi loài chúng sanh và
đồng cảm với muôn loài không phân biệt họ là ai, thuộc giai cấp hay màu da
gì.
-ooOoo-
Bài 21:
HAI LOẠI THỰC TẠI
Theo Vi Diệu Pháp
(Abhidhamma) thì có hai loại thực tại: thực tại tương đối và thực tại
tuyệt đối. Thực tại tương đối hay sự thực tương đối là sự thực có tính ước
lệ hay quy ước, trong đó các pháp (mọi sự, mọi vật) được bàn đến
bằng một ý nghĩa thông thường, trong khi đó sự thực tuyệt đối hay sự thực
thuộc pháp bản thể là sự thực có tính trừu tượng, sự thực này tồn tại như
những tính chất cơ bản, bất biến và không thể tối giản hơn được nữa của
các hiện tượng. Ðối với hai sự thực này, sự thực tương đối được diễn tả
bằng những từ ngữ có tính quy ước thông thường như: "Cái tách hiện
hữu", "cái dĩa hiện hữu" v.v..., sự diễn tả này là sự thực, nhưng chỉ
thực trong ý nghĩa quy ước thông thường thôi, trong ý nghĩa tuyệt đối thì
thực sự không có tách hay dĩa hiện hữu gì cả, chỉ có các yếu tố cơ bản mà
sự biểu thị của nó bao gồm. Các yếu tố cơ bản này hiện hữu trong ý nghĩa
cùng tột hay tuyệt đối và có bốn:
1) Yếu tố giãn nở hay địa đại, đây là
nguyên tắc căn bản của vật thể. Chính yếu tố này làm cho các đối tượng
chiếm lĩnh một khoảng không gian nào đó, và những đặc tính cứng, mềm của
mọi vật thể đều do nơi yếu tố này. Nó có thể được thấy trong đất, nước,
lửa và gió. Tuy nhiên, nó trội hơn trong đất và do vậy được gọi là yếu tố
đất hay địa đại, trong ngôn ngữ hiện nay thường dùng là yếu tố giãn nở.
2) Yếu tố kết dính hay đông đặc. Yếu tố
này trội hơn trong nước, dù rằng nó cũng có mặt trong ba nguyên tố căn bản
khác là đất, lửa và gió. Nó có nhiệm vụ kết dính các nguyên tử rời rạc của
vật thể lại với nhau và tạo thành khối, chồng hay đống.
3) Yếu tố nhiệt. Yếu tố này làm chín các
loại vật thể, và mặc dầu nó trội hơn trong lửa, do vậy gọi là yếu tố nhiệt
(hoả đại),
nó cũng bao gồm cả lạnh vì nhiệt và lạnh là hai phương diện của yếu tố
này.
4) Yếu tố chuyển động hay biến động
(phong đại).
Nó chính là năng lực hỗ trợ hay chống đỡ; tất cả mọi sự chuyển động và
những rung động đều do những yếu tố này.
Bốn yếu tố này (Tứ Ðại) bất khả
phân và tương quan lẫn nhau, mọi hình thức của vật thể chủ yếu đều gồm có
tứ đại này. Mỗi vật thể là sự kết hợp của bốn yếu tố này trong một tỉ lệ
thế này hoặc thế khác, nhưng ngay khi cùng vật thể này bị biến đổi thành
những dạng thức khác, các tính chất cấu hợp lúc đó chỉ còn là những ý niệm
hiện hữu trong tâm bởi tướng mạo, hình thù hay dạng thức đặc biệt của nó.
Chẳng hạn, lấy một miếng đất sét làm thí dụ, nó có thể được gọi là một cái
tách, cái dĩa, cái bình hay cái lu v.v... tuỳ theo những hình thù mà nó
lần lượt được giả định. Tuy nhiên, những vật thể này có thể được phân tích
và giản lược lại thành các yếu tố căn bản mà chỉ có nó tồn tại trong một ý
nghĩa cùng tột. Từ ngữ tách, dĩa v.v... chỉ là những ý niệm chứ nó không
có một thực thể chủ yếu tách biệt nào hơn là bốn yếu tố này. Dù rằng bốn
yếu tố hay tứ đại này hiện hữu trong ý nghĩa cùng tột thật, nhưng chúng
cũng phải bị chi phối bởi quy luật biến đổi vô thường, tuy nhiên những
tính chất đặc biệt của nó là đồng nhất trong bất kỳ hình thể nào được
thấy, dù cho nó là cái tách, dĩa hay bình, lu v.v...
Sự thực tương đối bao gồm những khái niệm
như đất đai, núi non và những thứ đại loại như vậy, đều phát xuất từ những
kiểu cách biến đổi vật lý trong thiên nhiên. Nhà cửa, xe cộ, tàu thuyền
v.v... bắt nguồn từ những phô diễn khác nhau của vật chất. Ðàn ông, đàn bà
v.v... bắt nguồn từ sự kết hợp của ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành,
thức). Phương hướng (đó là
hướng đông, tây, nam, bắc v.v... liên hệ đến vị trí của mặt trời),
thời gian v.v... bắt nguồn từ sự chuyển vận của mặt trăng...
Mặc dù, có những nét đặc biệt như vừa đề
cập ở trên, như vậy nó lại không tồn tại trong ý nghĩa tuyệt đối, chúng
chỉ hiện hữu theo ý nghĩa của sự thực tương đối mà thôi. Chính vì vậy mà
đạo Phật không thuộc chủ thuyết duy danh (Nominalism), bởi vì đạo
Phật không bảo là các pháp như đất đai, núi non v.v... chỉ là những tên
gọi mà không còn là gì khác cả. Ðạo Phật cũng không phải là chủ thuyết
khái niệm, vì nó không bảo là mọi thứ chỉ hiện hữu trong tâm và không phải
ở nơi nào khác. Tuy nhiên, đạo Phật là đạo duy thực (realism), vì
đạo Phật dạy rằng bốn yếu tố căn bản (Tứ Ðại) thực sự tồn tại như
những đặc tính vật chất nền tảng của các pháp.
Phạm trù của thực tại tuyệt đối có bốn là:
tâm, tâm sở, sắc pháp và Niết Bàn. Nói một cách tuyệt đối thì các pháp dù
hiệp thế hay siêu thế đều bao gồm trong bốn tiêu đề này. Trong bốn thứ,
Niết Bàn (Nibbàna), trạng thái siêu thế, là sự thực tuyệt đối duy
nhất, cũng như là mục đích cuối cùng của đạo Phật. Ba thứ kia gọi là những
sự thực trong chừng mực nào đó bao lâu chúng còn tồn tại bên trong và
chung quanh chúng ta như những pháp trừu tượng, không thể tối giản và
không thể thay đổi được nữa.
Cái được gọi là người đây chỉ bao gồm hai
phần tâm và vật chất hay danh và sắc. Sắc có 28 loại, trong đó 4 loại đầu,
như đã đề cập ở trên là những yếu tố nền tảng dựa vào đó 24 sắc còn lại
tuỳ thuộc phát sanh; 6 trong số 24 sắc đó là:
1) Nhãn căn:
được coi là bộ máy cảm giác nằm trong nhãn
cầu, nơi đây nhãn thức khởi sanh.
2) Nhĩ căn:
là bộ máy cảm giác nằm trong cơ quan tai, nơi
đây nhĩ thức khởi sanh.
3) Tỷ căn:
là bộ máy cảm giác nằm trong cơ quan mũi, nơi
đây tỷ thức khởi sanh.
4) Thiệt căn:
là bộ máy cảm giác nằm trên bề mặt của lưỡi,
nơi đây thiệt thức khởi sanh.
5) Thân căn:
là bộ máy cảm giác trải khắp toàn thân từ đầu
đến chân, nơi đây thân thức khởi sanh.
6) Tâm căn:
là một loại vật chất rất nhỏ nhiệm, vi tế nằm
trong cơ quan tim, nơi đây ý thức chủ yếu khởi sanh.
Trong 6 căn này thì 5 căn đầu còn được gọi
là ngũ môn (cửa giác quan), qua đó con người tiếp nhận những thông
tin về thế giới bên ngoài, căn thứ 6 còn được gọi là ý môn, qua đó con
người tiếp nhận thông tin về nội giới, thế giới của tâm hay ý giới.
Qua nhãn môn con người tiếp nhận thông tin
về màu sắc, hình dáng, tướng trạng xuất hiện trong tầm thấy của nó; qua
nhĩ môn con người tiếp nhận các loại âm thanh khác nhau; qua tỷ môn, các
loại mùi khác nhau; qua thiệt môn, các loại vị khác nhau như ngọt, mặn,
chua, cay v.v... qua thân môn con người tiếp nhận các loại cảm thọ khác
nhau. Vì vậy con người tiếp nhận thông tin về ngoại giới qua ngũ môn
(năm cửa giác quan),
đồng thời con người cũng tiếp nhận các thông tin về nội giới qua ý môn,
đây là thế giới của tâm hay thế giới rộng lớn của các tư tưởng và ý niệm.
Trong thế giới nội tại này sự chú ý thường xuyên bị gọi đến từ nhiều hướng
một lúc.
Mặc dầu có 6 cửa giác quan, qua đó con
người thu nhận các thông tin về ngoại giới và nội giới nhưng người tiếp
nhận thì không khác, đó là Tâm con người. Cái tâm vô hình nhưng đầy năng
lực này có thể đưa con người ta lên thiên giới hoặc xuống địa ngục tuỳ
theo khát vọng của họ, tâm này có thể được ví giống như một con nhện lăng
xăng quanh cái lưới ý niệm chằng chịt. Con nhện này bị bủa vây bởi các thứ
mồi đầy quyến rũ, vì thế chúng ta phải làm sao kiểm soát được con nhện tâm
này để cho nó luôn luôn chạy theo cái hướng mà chúng ta đã chọn, như vậy
chúng ta sẽ cải thiện được khả năng thấy các pháp đúng theo thực chất của
nó và đạt đến trạng thái cuối cùng của sự hoàn thiện.
-ooOoo-
Bài 22:
TÂM VẬN HÀNH NHƯ THẾ NÀO?
Theo Ðạo Phật thì
bốn uẩn: Thọ, Tưởng, Hành, Thức tạo thành Tâm, và Sắc uẩn tạo thành Thân;
như thế con người là sự kết hợp của Tâm và Thân, hay Danh và Sắc.
Tâm con người được so sánh với sự lưu
chuyển của một dòng sông, khái niệm của đạo Phật về sự hiện hữu của thức.
Ðối với phần lớn những người có dịp đứng trên bờ một con sông, họ đều nghĩ
rằng con sông từ đầu đến cuối đều như vậy. Tuy nhiên, do sự lưu chuyển mà
không một phân tử nước nào có thể được người ta thấy tại bất kỳ một điểm
đã cho nào, giữ được sự đồng nhất như khoảnh khăc trước của nó cả. Cũng
hệt như đầu sông và cuối sông, được gán cho những cái tên đặc biệt là
nguồn sông và cửa sông, dù rằng chúng cũng bao gồm cùng chất liệu như
chính bản thân của con sông. Nguồn và cửa của dòng sông tâm thức thức cũng
vậy, được người ta định danh là sanh và diệt, mặc dù nó cũng bao gồm trong
cùng dòng sông tâm thức. Tiến trình liên tục này trôi chảy không ngừng cho
đến chừng nào những nguyên nhân làm khởi sinh ra nó được loại trừ.
Ðể hiểu rõ sự vận hành của tâm này, đòi
hỏi chúng ta phải có một khái niệm nào đó về tiến trình tâm theo phân tích
của Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Giáo lý Vi Diệu này giải thích chi
tiết sự vận hành của dòng tâm thức, đồng thời ghi lại theo phương pháp
phân tích bằng cách nào chủ thể, tâm thức, tiếp nhận các đối tượng từ bên
ngoài và bên trong nó.
Chẳng hạn, khi một người ở trong trạng
thái ngủ say, tâm của nó được bảo là rỗng không, hay nói một cách khác là
đang trong trạng thái hữu phần (Bhavanga), đây là một trạng
thái thụ động khi tâm của chúng ta không phản ứng với đối tượng. Dòng
Bhavanga (hữu phần) bị cắt ngang khi các đối tượng đi vào tâm,
nó rung lên và diệt vào lúc sanh khởi và diệt của trạng thái tâm kế tiếp,
dòng hữu phần thụ động bị kiểm soát và dừng lại. Kế đó, một trạng thái
tâm tác ý hướng đến đối tượng khởi sanh và diệt. Liền sau đó, nếu đối
tượng thuộc về sự thấy, nhãn thức khởi sanh và diệt, nó không biết
gì hơn về đối tượng. Sự hoạt động của giác quan này được kế tục bởi một
sát na tiếp nhận đối tượng
được thấy như vậy. Kế đến,
khả năng phán đoán
hay sự quan sát chớp nhoáng đối tượng đã được
tiếp nhận như vậy. Sau đó, đến giai đoạn nhận thức đặc trưng mà thuật ngữ
gọi là quyết định tâm,
trong đó tuỳ thuộc nơi giai đoạn quan trọng thuộc tâm lý theo sau, nghĩa
là giai đoạn tốc hành tâm. Ðây là giai đoạn vô cùng quan trọng, bởi
vì chính ở giai đoạn này mà người ta sẽ tạo nghiệp tốt hay xấu.
Tiến trình nhận thức về ngoại giới (thế
giới bên ngoài) xảy ra qua ngũ môn hay năm căn: mắt, tai, mũi, lưỡi và
thân. Vì vậy nó được gọi là tiến trình tâm qua ngũ môn. Cũng có căn thứ
sáu gọi là ý môn, qua đó chúng ta nhận thức những ý niệm như trong ký ức
hoặc sự tưởng tượng khi mà đối tượng không thực sự hiện hữu nhưng được
hình dung ra, tiến trình nhận thức này được gọi là tiến trình nhận thức
qua ý môn.
Trong hai tiến trình tâm này, thì tiến
trình tâm qua ngũ môn có thể được giải thích một cách tương đối qua ẩn dụ
một người đang nằm ngủ dưới gốc xoài:
"Một người ngủ say dưới gốc xoài, bất ngờ có
một trái xoài rụng xuống và lăn đến cạnh anh ta. Anh choàng tỉnh, thức dậy
và cố gắng tìm xem cái gì đã quấy rầy mình. Anh thấy bên cạnh có trái
xoài, lượm lên, ngửi và ngắm nghía nó. Ðoán chắc rằng trái xoài còn tốt và
hoàn toàn chín anh ta mới ăn nó".
1. Ở đây, giấc ngủ say được so sánh với
trạng thái thụ động của tâm khi nó đang trôi chảy bình thường, không bị
bất kỳ ấn tượng nào quấy động.
2. Choàng tỉnh khỏi giấc ngủ, giống như sự
khuấy động dòng hữu phần
(Bhavanga).
3. Thức dậy, giống như hữu phần dừng lại.
4. Cố gắng khám phá xem điều gì đã quấy
động giấc ngủ của mình, ví như trạng thái lờ mờ của tâm khi chủ thể
(nhận thức) cố gắng một cách yếu ớt để khám phá xem vật kích thích đó
tác động qua mắt hay tai, mũi, lưỡi hoặc thân. Trạng thái này gọi là ngũ
môn hướng, nghĩa là hướng đến những ấn tượng tại năm cửa giác quan
(năm căn).
5. Thấy trái xoài, tựa như sự khởi sanh
của giác quan đặc biệt liên hệ (đến
sự thấy), trong trường hợp này là
nhãn thức. Ðó chỉ là chức năng thuần tuý và đơn giản của sự thấy, hoàn
toàn không có sự suy nghĩ gì về đối tượng cả.
6. Lượm trái xoài lên, giống như tâm tiếp
nhận sự kích thích từ một đối tượng độc lập hiện hữu ở ngoại giới, Trạng
thái này gọi là "tiếp thọ tâm".
7. Ngửi và xem xét trái xoài cũng ví như
tâm đang cố nhớ một điều gì đó liên quan đến đối tượng, và cố sức để hiểu
nó trong ánh sáng của kinh nghiệm trước, Trạng thái này gọi là
"suy đạc tâm".
8. Ðoán chắc rằng trái xoài hoàn toàn chín
và còn tốt, ví như tâm gán cho đối tượng một vị trí xác định trong lãnh
vực tri kiến của nó, Trạng thái này gọi là
"quyết định tâm".
9. Ăn trái xoài, ví như tâm có khuynh
hướng điều chỉnh đối tượng theo sở thích riêng của nó. Ðây là trạng thái
tích cực nhất của tâm, trong đó chủ thể ý thức trọn vẹn về chính nó, và
quyết định thái độ riêng của nó đối với đối tượng. Trạng thái này gọi là
"tác hành tâm" hay "tốc hành
tâm".
Trong tiến trình tâm qua ý môn, đối tượng
của tiến trình không phải là một kích thích ngoại giới mà là một hình ảnh
khởi sanh từ bên trong, nghĩa là hình ảnh tự nó đưa ra với một tính chất
đã đoan chắc nào đó. Ở đây, cùng chức năng của tâm được gọi là
"tâm hướng về những ấn tượng xảy ra tại ý
môn".
Như vậy, chúng ta thấy rằng tiến trình tư
duy có thể được phân ra thành những chức năng rõ rệt, mỗi sát na tâm có
thể phân biệt với những sát na tâm kế và trước nó bằng chức năng nó thực
hiện. Và, như đã được nói ở trên, chính sát na tâm tích cực (tác hành
tâm) là chập tư tưởng được xem là quan trọng nhất, vì chính tại thời
điểm này mà chúng ta quyết định cho tương lai của mình bằng phẩm chất hành
động của chúng ta qua thân, khẩu, ý
(hành động, lời nói và ý nghĩ)
kèm theo bởi tham, sân, si hoặc kèm theo bởi
lòng quảng đại, thiện chí và trí tuệ. Chúng ta càng thực hành được những
phẩm hạnh quảng đại, thiện chí, và trí tuệ nhiều chừng nào thì tham, sân,
si sẽ trở nên yếu đi chừng nấy, cho đến một lúc nào đó khi những bất thiện
pháp này trở nên quá yếu, đó là thời điểm để chúng ta có thể cắt đứt nó
hoàn toàn.
Chỉ có cách hiểu rõ về bản chất cấu thành
của tâm như vậy, chúng ta mới có thể sàng lọc những cặn bã ra khỏi vàng
(thanh lọc tâm). Chính Ðức Phật đã xác định là để đạt đến sự giải
thoát khỏi mọi hình thức của khổ đau, nhất thiết phải thành tựu việc tịnh
hoá bản tâm bằng sự thực hành và lòng nhẫn nại.
-ooOoo-
Bài 23:
SỰ
PHÁT TRIỂN HAY TU TẬP TÂM
Cái mà chúng ta gọi
là "con người" gồm có Tâm và Thân, hay Danh và Sắc. Về bản chất,
tâm (Nàma) là một dòng ý thức trôi chảy có thể diễn tả bằng từ
"tư duy"; tuy nhiên, tư duy tự thân nó không phải là một chức năng
thuộc sinh lý, nó là một loại tâm lực
(năng lực của tâm),
một điều gì đó khá giống như ánh sáng hoặc điện năng, ngoại trừ rằng những
năng lực sau này thuộc về lãnh vực vật chất. Tư duy và sự bức xạ của những
luồng tư duy là những tâm sở (yếu tố tâm) của thế giới tâm tương
đương với bốn yếu tố vật chất của thế giới vật lý. Thực chất chúng ta là
sự biểu hiện của chính những tâm lực của mình, và những lực này, hay những
luồng tư duy này dù vẫn chịu biến hoại vô thường nhưng không bao giờ mất.
Nếu những tư duy lực của chúng ta đủ mạnh
để vượt qua phạm vi hấp dẫn của cõi dục (Kàvàvacarabhumi), tuỳ theo
mức độ hoàn thiện của nó, chúng sẽ trở thành những tâm lực tinh tế và cao
thượng hơn, và nếu chúng được tu tập hay phát triển cao hơn nữa, chúng sẽ
trở thành những tâm lực tinh tế và cao thượng nhất, nhờ nó mà chúng ta có
thể đạt đến trạng thái Niết Bàn, đoạn tận khổ đau, sầu muộn và bất mãn.
Ðối với những luồng tư duy không đủ khả năng vượt qua lãnh vực hấp dẫn của
cõi dục, ắt hẳn phải ở lại trong cõi dục đó, trong sự luân chuyển của các
pháp dục giới; tuy nhiên, những luồng tư duy đó không bao giờ mất, chúng
sẽ tạo thành một cuộc sống mới, kế tiếp, và rồi tiến trình lại tiếp tục,
khi cái thức của cá nhân ấy biểu hiện thì gọi là một chúng sanh - một
người đàn ông hay một người đàn bà chẳng hạn v.v.... Bằng cách này tiến
trình sanh và tử cứ diễn tiến một cách liên tục và bất tận cho đến khi nó
được chặn đứng bằng sự tu tập và phát triển những tư duy của cá nhân ấy.
Theo triết học Phật giáo (Vi Diệu Pháp)
thì có ba (lớp) tâm, đó là: tâm dục giới, những đẳng cấp tâm
cao hơn (tâm thiền) và tâm siêu thế. Trong ba lớp tâm này, tâm dục
giới (những tham muốn trần tục) chính yếu có hai loại là: thiện và
bất thiện. Tâm nào được kèm theo bởi ba căn thiện như: không ích kỷ, thiện
chí và trí tuệ (hay vô tham, vô sân và vô si) được gọi là thiện, và
bất kỳ lời nói hay hành động nào được làm với tư duy (tâm) thiện
thì gọi là thiện nghiệp hoặc hành động thiện; chẳng hạn như từ ái, giúp đỡ
v.v... Những hành động này tạo ra quả thiện như có một bản chất nhân đức
(vô tham), bản chất từ bi (vô sân), và một bản chất thông
minh, nhạy bén (vô si).
Những loại tâm hay tư duy nào được kèm
theo bởi ba căn bất thiện: tham, sân và si gọi là tâm xấu. Bất kỳ hành
động nào được làm hay lời nào được thốt ra với ý nghĩ xấu gọi là bất thiện
nghiệp, hay hành động bất thiện, những điều như: sát sanh, trộm cắp, nói
dối, v.v... điều này tạo ra những quả xấu như đoản thọ, bản chất thấp hèn
(tham lam); bản chất nóng nảy, ưa cãi cọ (Dosa, sân) và đần
độn, ngu si (Moha, si mê).
Như vậy, trong cõi dục có hai loại tâm
chính là: thiện và bất thiện. Tuy nhiên nhờ tịnh hoá các tư duy của mình,
gột rửa chúng khỏi ba căn bất thiện tham, sân, si; một người xấu có thể
chuyển thành người tốt bằng cách phát triển những bản chất thấp hèn của
mình trở thành bản chất cao thượng hơn, từ đó thâu nhập thêm ba căn thiện
vô tham, vô sân và vô si (trí tuệ). Một người thiện có thể tự mình
phát triển cao hơn nữa, thậm chí đến những loại tâm cao quý và tốt đẹp hơn
(tâm siêu thế).
Có ba giai đoạn phát triển, đó là phát
triển Giới (Sìla), phát triển Ðịnh (Samàdhi) và phát triển
Tuệ (Pannà). Tương ứng với trình tự phát triển hay tu tập Bát Chánh
Ðạo được sắp thành ba nhóm, hai chi đầu: Chánh Kiến và Chánh Tư Duy nằm
trong nhóm Tuệ (Pannà). Ba chi kế: Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh
Mạng nằm rong nhóm Giới (Sìla) và ba chi cuối: Chánh Tinh Tấn,
Chánh Niệm và Chánh Ðịnh nằm trong nhóm Ðịnh
(Samàdhi).
Tại sao phải có ba giai đoạn phát triển
này? Chính vì có ba cấp độ
phiền não. Ở cấp độ đầu tiên, những phiền não đơn thuần ngủ ngầm trong mỗi
người chúng ta, nó chưa thể hiện mảy may nào ra lời nói hoặc hành động cả.
Ở cấp độ thứ hai, khi có một đối tượng nào đó đánh thức hay khuấy động,
hoặc dễ chịu hoặc khó chịu, những phiền não này sẽ từ trạng thái ngủ ngầm
trỗi dậy thành mức những tư duy, cảm xúc hay cảm thọ. Ở cấp độ thứ ba
chúng sẽ trở nên mãnh liệt và không thể kềm chế nổi, đến mức tạo ra những
hành động ác bằng lời nói hay việc làm. Vì thế cho nên, để loại trừ ba cấp
độ phiền não, nhất thiết phải có ba giai đoạn phát triển hay tu tập này.
Trong ba giai đoạn tu tập này thì tu tập
Giới chỉ có thể tạm thời loại trừ hay ngăn chặn cấp độ phiền não thứ ba,
riêng hai cấp độ thứ nhất và thứ hai vẫn không thay đổi, và vì Giới chỉ có
thể ngăn chặn tạm thời cấp độ phiền não thứ ba, do đó không sớm thì muộn
những phiền não này sẽ sanh khởi trở lại; vì thế nó được gọi là
Tadangapahàna nghĩa là diệt từng thời
(Bỉ Phần Xả Ðoạn).
Tu tập Ðịnh có thể loại trừ hay ngăn chặn
cấp độ thứ hai, nhưng vẫn còn những phiền não ngủ ngầm ở cấp độ thứ nhất
nên chúng cũng sẽ sanh khởi trở lại, tuy nhiên trong trường hợp này phiền
não không đến quá sớm như ở giai đoạn tu Giới, vì Ðịnh tiêu biểu cho một
giai đoạn tu tập cao hơn và có nhiều năng lực hơn Giới. Do vậy, việc diệt
hay ngăn chặn phiền não bằng Ðịnh được gọi là Vikkambhanapahàna chế ngự
phiền não (Trấn Phục Xả Ðoạn).
Chỉ có sự phát triển trí tuệ hay tuệ giác
mới có thể loại trừ hoàn toàn cấp độ phiền não thứ nhất, tức những tuỳ
miên phiền não mà Giới và Ðịnh không thể ảnh hưởng tới được. Những phiền
não do tuệ giác tẩy trừ sẽ không bao giờ khởi sanh trở lại, cũng như một
cái cây đã bị nhổ tận gốc sẽ không còn mọc lại được; do đó, việc trừ diệt
bằng tuệ gọi là Samucchedapahàna: diệt bằng cách đoạn tuyệt hay Chánh
Ðoạn Xả Ðoạn.
Vì ba giai đoạn tu tập này liên quan và
tuỳ thuộc lẫn nhau nên chúng cần phải được thực hành cùng nhau và đồng
thời. Chẳng hạn, khi sống một cuộc sống chân chánh, một cuộc sống có giới
hạnh, nếu có chánh định (Ðịnh) và chánh kiến (Tuệ) thì việc
sống có giới hạnh sẽ trở nên dễ dàng hơn. Cũng vậy, việc thực hành chánh
định sẽ giúp chúng ta sống một cuộc sống chân chánh và có chánh kiến.
Vì thế chánh kiến có thể làm cho chúng ta
sống đời chân chánh và định tâm một cách chân chánh. Thực vậy, nếu gắng
sức sống một cuộc đời chân chánh mà không có chánh định để kiểm soát tâm,
cũng như không có chánh kiến, điều đó có nghĩa rằng kết quả của nó không
thể như mong đợi được. Chúng ta có thể nghĩ một việc là tốt vào lúc này,
nhưng cũng có thể không nghĩ nó là vậy vào lúc khác; có lúc chúng ta vui
về điều này, nhưng có lúc lại buồn vì nó, bởi vì chúng ta thiếu chánh
kiến. Chánh định không thể đạt đến nếu không sống một cuộc sống chân chánh
và có chánh kiến, cũng như không thể có chánh kiến nếu không sống chân
chánh và định tâm chân chánh.
SỰ TẬP TRUNG HAY ÐỊNH TÂM
Có ba giai đoạn tu tập tâm: giai đoạn tập
trung, giai đoạn thiền định và giai đoạn quán chiếu. Những ý niệm này khá
phức tạp và lẫn lộn trong sự phiên dịch, một số các nhà dịch thuật về Bát
Chánh Ðạo dùng từ quán chiếu (Contemplation), những người khác thì
dùng tập trung (Concentration), trong khi số khác lại dùng thiền
định (Meditation), về hình thức bề ngoài thì dường như chúng có
cùng ý nghĩa, tuy nhiên chúng lại là ba giai đoạn tu tập khác nhau.
Giờ đây chúng ta bàn về sự tập trung
(Concentration), tập trung có nghĩa là thu hẹp lãnh vực chú tâm của
bạn lại, hay gom những tư duy của bạn lại. Nếu không tập trung, những tư
duy của chúng ta sẽ bị phân tán và rối loạn. Khi chúng ta thức, chúng ta
lúc nào cũng suy nghĩ; kể cả khi chúng ta đang làm công việc cũng vậy,
những tư duy của chúng ta trôi nổi, phân tán và rối bời không có chút mục
đích nào cả, vì thế mà nó chẳng đưa chúng ta đi tới đâu. Tuy nhiên nếu
chúng ta muốn, chúng ta có thể tập trung tư duy của mình vào một đối
tượng. Mọi người đều có thể làm được điều này. Vấn đề nghe có vẻ khá
nghiêm túc, nhưng thực sự chúng ta đang làm điều đó trong phần lớn thì giờ
của mình, trong khi đang ăn chúng ta tập trung vào việc ăn, khi đang viết
chúng ta tập trung vào việc viết. Một số người có thói quen đọc sách trong
bữa ăn, họ cố gắng đọc sách và ăn một lần, nhưng bằng cách này họ lại làm
hỏng cả hai việc: thứ nhất là họ không thể thưởng thức được các món ăn,
hai nữa là họ chẳng thể nào đọc sách một cách thích đáng được. Vì vậy, mỗi
lúc chúng ta nên tập trung vào một việc mà thôi.
Thực sự ra, chúng ta tập trung chỉ để tạo
cho bản thân mình là một con người bình thường. Có hai loại người điên. Có
loại không kiểm soát được những tư duy, hành động và cảm xúc của ho. Trong
khi ăn họ có thể nhảy múa và ca hát, hay làm một điều gì đó hoàn toàn trái
ngược lại với việc mà họ đang làm. Hạng này chẳng có ích lợi gì cho chính
bản thân họ cũng như cho người khác. Tuy nhiên, cả chúng ta nữa cũng là
một loại người điên nhẹ hơn, bởi vì, phần lớn chúng ta không thể kiểm soát
nổi những tư duy của mình cho thích hợp. Nếu cố gắng chúng ta có thể làm
được, nhưng chúng ta lại không kiên trì cố gắng. Chẳng hạn, tại một buổi
hội họp, mọi người đang lắng nghe một bài thuyết trình. Tuy nhiên nếu họ
không tập trung vào đề tài giảng, họ sẽ nghĩ đến một điều gì khác. Có thể
họ sẽ nghĩ đến những chuyện rắc rối riêng tư của họ tại sở làm hoặc tại
nhà, hay nghĩ đến việc sẽ phải làm, hoặc một nhà buôn thì có thể nghĩ đến
những món hàng của mình. Nếu chúng ta đọc một cuốn sách với sự tập trung,
chúng ta có thể đọc xong cuốn sách trong một thời gian rất ngắn. Tuy
nhiên, nếu chúng ta không tập trung, có thể cuốn sách vẫn mở trong tay mà
ta lại không nhớ bất cứ điều gì mình đã đọc.
Ðó là lý do tại sao mọi người chúng ta
nhất thiết phải học cách tập trung tâm ý của mình; khi chúng ta thực sự
cảm thấy một công việc nào đó là quan trọng và cần phải được làm, lúc đó
chúng ta sẽ chú tâm vào việc đó. Không có sự tập trung, chúng ta chẳng thể
nào làm được điều gì một cách thoả đáng cả. Nhờ tập trung trên một đề mục
chọn sẵn, chúng ta có được một hình ảnh rõ ràng về đề mục đó, và sự sinh
động của hình ảnh chính là kết quả của sự tập trung. Trong việc tập trung,
chúng ta gom những tư duy của mình vào một điểm đặc biệt như thể chúng ta
đang sử dụng một cây đuốc để soi đường vậy. Trong khi tập trung có thể có
nhiều sự nhiễu loạn, ngay cả khi chúng ta đang cố gắng tập trung vào điều
gì, chúng ta cũng có thể cảm thấy mình bị quấy nhiễu bởi những điều người
khác nói hay làm, hay bởi một điều gì đó có lẽ sẽ xảy ra vào ngày mai
không chừng.
Ðôi lúc chúng chỉ là những quấy nhiều nhỏ
nhưng cũng có khi rất lớn, lúc đó những tư duy của chúng ta chất chứa đầy
những lo âu đến nỗi ta không thể làm được điều gì cả, và rồi chúng ta sẽ
nói là mình không có khả năng tập trung. Tuy nhiên, những ý nghĩ quấy rầy
này có thể loại trừ được, chúng ta có thể tự mình tống khứ những ý nghĩ
không mời mà đến đó, vì nó chẳng liên quan gì tới đề mục tập trung của
chúng ta cả.
Cách tốt nhất để làm điều này rất đơn
giản, bạn sẽ nói gì nếu có ai đó muốn gặp trong lúc bạn đang bận, chắc
chắn bạn sẽ nói "Tôi rất bận" phải không. Khi nghe ai đó nói xấu
mình, nếu bạn không quan tâm đến điều đó bạn sẽ nói
"Tôi chẳng thèm để ý đến chuyện đó".
Tuy nhiên, nếu bạn tự cho phép mình nghĩ đến điều người khác nói xấu mình,
chắc chắn sân hận và bực bội sẽ phát sanh. Những tư tưởng quấy rầy này có
thể được loại trừ đơn giản bằng cách dùng câu nói thông thường "Tôi rất
bận". Khi một trong những người khách không mời mà đến quấy rầy bạn
này, hãy trừng con mắt tâm lên và bảo "Ta rất bận". Chỉ cần không
để ý đến nó và cứ tiếp tục tập trung vào đề mục bạn đã chọn, cũng không
cần phải chiến đấu với nó, vì làm như vậy chỉ nối giáo thêm cho giặc.
Chẳng hạn, nếu bạn để ý đến những gì người khác nói hoặc cách mà họ nhìn
mình, điều đó sẽ khuyến khích họ làm tiếp mà thôi.
Nếu bạn không để ý thì sao?
Chắc chắn người đó sẽ cảm thấy xấu hổ và bỏ
đi ngay. Ngay cả một con chó cũng có thể cảm thấy điều này, nếu bạn không
thèm để ý gì khi nó sủa bạn, nó sẽ bỏ đi liền. Cũng vậy, nếu một ý nghĩ
không mời mà xâm nhập vào trong lúc bạn đang tập trung, đừng đếm xỉa gì
cả, và nó sẽ biến mất ngay.
Chúng ta có thể tập trung trên bất cứ đề
mục nào cũng được. Cứ thực hành như thế chúng ta sẽ tạo được một khả năng
hay thói quen của tâm, duy trì trên một đề mục cho đến khi chúng ta sử
dụng được nó, điều này có nghĩa là tất cả những tư duy có thể có của ta
đều liên quan đến đề mục. Khởi sự bằng cách tập trung trên một đề mục đơn
giản đã, sau đó, khi đã có khả năng tập trung thuần thục rồi chúng ta có
thể áp dụng bất cứ đề mục nào, dù cho đề mục đó có khó tập trung và trừu
tượng đến đâu chúng ta cũng vẫn tập trung dễ dàng như thường. Người nào có
thể học nhanh chóng một điều gì, người đó có thể tập trung tâm của mình
được.
Thiền là gì?
Sự khác biệt giữa tư duy và thiền là trong
tư duy chúng ta thường không có một đối tượng hay mục đích rõ rệt; ngược
lại trong thiền, chúng ta tập trung tư tưởng độc nhất vào một đề mục rõ
ràng nào đó đã được chọn sẵn theo ý mình. Do tư duy không có mục đích,
những tư tưởng của bạn có thể dẫn bạn đến những chỗ nguy hiểm và phiền
muộn, nhưng nhờ hành thiền trên một đề mục chọn sẵn, bạn sẽ gặt hái lợi
ích. Nhờ hành thiền mà sau đó bạn sẽ mở rộng được tri thức của mình và
phát triển khả năng thấy biếât mọi vật như chúng thực sự là (tri kiến
như thực).
Thiền chỉ được thực hành sau khi chúng ta
đã có sự tập trung. Một số người cố gắng nhảy thẳng vào hành thiền, nhưng
nếu làm như vậy họ sẽ thất bại vì không đạt được một hình ảnh rõ ràng của
đối tượng, hoặc sự trong sáng của tâm do tập trung sanh. Tập trung đơn
thuần chỉ là gom những tư duy của mình vào đề mục, nhưng trong thiền chúng
ta phải duy trì hình ảnh rõ ràng trong tâm về đề mục đó. Không chỉ thế mà
chúng ta còn phải mở rộng và phát triển lãnh vực của nó, đồng thời cũng
phát triển tri kiến của mình, mở rộng lãnh vực tri kiến của mình về đề mục
đó nữa. Ðó là lý do tại sao thiền nếu không có tập trung là một điều thất
bại.
Trong sự tập trung chúng ta khởi sự với
những đề mục đơn giản, nhưng trong thiền chúng ta đưa cái ý niệm rõ ràng
về đề mục đơn giản đó đến những mức độ tâm cao hơn. Ðể dễ hiểu điều này
bạn hãy hình dung một người nào đó đang đổ nước từ ở trên vào trong một
cái thùng. Nếu cái thùng đó bị thủng lỗ dưới đáy và bốn chung quanh, nước
sẽ chảy ra ngoài, nhưng nếu những lỗ thủng đó được bịt kín lại, nước sẽ
dâng đầy lên. Ða số mọi người chúng ta cũng giống như cái bình đầy lỗ
thủng đó, vì vậy mà tâm chúng ta phân tán, không thể tập trung được. Thiền
giống như việc đổ nước làm đầy tâm chúng ta với trí tuệ và tri kiến rõ
ràng. Tập trung là bịt lại các lỗ thủng, làm cho tâm kiên cố không phân
tán. Nhờ hành thiền đúng chúng ta sẽ quan sát một cách rõ ràng đề mục đã
chọn, đồng thời hiểu rõ chức năng của đề mục liên hệ với những pháp khác.
Bằng cách này chúng ta phát triển được trí tuệ và tri kiến hiểu biết của
mình.
Ðến đây chúng ta đã nhận ra sự khác biệt
giữa tư duy và thiền. Trong tư duy, như chúng ta đã nói, chúng ta không có
một đối tượng đặc biệt hoặc là có quá nhiều đối tượng, nhưng trong thiền
chúng ta chỉ nghĩ đến một đề mục rõ rệt, và đó là lý do tại sao thiền lại
thực sự là một pháp hành tư duy mang tính chất xây dựng. Nhờ hành thiền
chúng ta phát triển được năng lực thấy biết đối tượng như chúng thực sự
là, nếu không thì chúng ta chỉ thấy tướng bên ngoài của đối tượng mà không
biết tí gì về thực chất của nó. Vì thế, thiền là một pháp hành rất cần
thiết, nó giúp cho chúng ta tịnh hoá những tư duy, bằng không chúng sẽ bị
pha lẫn với nhiều thứ, đặc biệt là với si mê. Một khi chúng ta bị vô minh
che lấp, chúng ta không thể thấy mọi vật một cách đúng đắn được. Nhờ thiền
chúng ta thấy được đối tượng như chúng thực sự là; tư duy của chúng ta trở
nên trong sáng và phát triển được trí tuệ.
Quán Chiếu Là Gì?
Quán chiếu (Contemplation) không
khác mấy đối với sự tập trung, mặc dù nó là sự tập trung, nhưng ở đây sự
chú tâm của hành giả thật kiên cố và chặt chẽ. Do đó, quán chiếu là giai
đoạn phát triển toàn diện của sự tập trung. Quán chiếu mở lối cho trí tuệ
trực giác và nhiều năng lực siêu nhiên khác mà người ta thường gọi là
những năng lực huyền bí, và chúng ta có thể đạt đến những năng lực này
ngay cả trước khi đạt đến trạng thái Niết Bàn.
Về một phương diện nào đó thì thực sự đây
là những năng lực huyền bí thật, vì nó tàng ẩn đối với những nguời không
tự mình phát triển theo phương pháp này, nhưng những năng lực này không gì
bí ẩn đối với người đã hành quán chiếu và thiền định một cách nghiêm mật,
chúng chỉ là hình thức mở rộng của những năng lực mà con người thường dùng
trong đời sống hàng ngày.
Chẳng hạn, điều này nghe có vẻ duy linh
nhưng hoàn toàn không phải vậy, vào lúc những năng lực này được phát
triển, bạn có thể thấy và nghe những cái mà bình thường bạn không nghe và
thấy được, bởi vì tâm bạn hay những tư duy của bạn lúc này hoàn toàn trong
sáng như một mặt gương bóng loáng. Khi mặt gương mờ đục bạn chẳng thể thấy
được gì trong đó cả. Không có thiền, tâm hay những tư duy của chúng ta rất
tối tăm, nhưng khi chúng đã được tịnh hoá, không tạp nhiễm với những
khuynh hướng bất thiện, chúng ta có thể thấy và nghe được một số điều kỳ
lạ mà bằng các giác quan vật lý thông thường không thể cảm nhận được.
Về đề mục (hành thiền) - chúng ta
sẽ chọn đề mục như thế nào? Việc chọn lựa đề mục riêng cho mình hoàn toàn
tuỳ thuộc vào bẩm tánh của từng người. Nếu bạn chọn được đề mục thích hợp
thì bạn sẽ dễ dàng hơn trong việc tăng trưởng tri kiến cũng như những tư
duy cao thượng của mình. Hơn nữa, nếu chọn được đề mục thích hợp chúng ta
sẽ cảm thấy thú vị khi hành thiền, cũng giống như khi có những bộ phim
hay, lôi cuốn, bạn sẽ xem đi xem lại vài lần vậy. Vậy thì làm thế nào để
chọn được một đề mục thích hợp? Muốn chọn đề mục thích hợp, chúng ta phải
hiểu rõ bản chất của mình, đây là điều hết sức quan trọng. Thật là vất vả
khi phải tập trung vào một đề mục không phù hợp, và có thể chúng ta sẽ
chẳng thành tựu được gì cả với một đề mục như vậy.
Chúng ta hiểu rằng mình có những yếu điểm
nhưng cũng có những điểm mạnh, hành thiền trên một đề mục thích hợp sẽ
giúp chúng ta sửa sai lại những thiếu sót đó. Chẳng hạn, nếu bạn có những
khuynh hướng và những thói quen xấu, nhờ hành thiền trên những đề mục phù
hợp, những khuynh hướng và thói quen ấy sẽ dần dần biến mất, đồng thời còn
tạo cho mình những khuynh hướng tốt. Vì vậy, cần phải biết chúng ta thực
sự là gì. Bần tăng nghĩ, trong hầu hết các trường hợp người ta hoàn toàn
không biết rõ những khuynh hướng thực sự của họ là gì và bản chất thực sự
của họ là gì cả. Thậm chí có trường hợp chúng ta biết rằng điều mình làm
là sai, chúng ta cũng vẫn thường đi gặp người khác đơn thuần chỉ vì thói
quen hoặc giả để nhận được sự xác chứng cho những ý nghĩ riêng tư của
mình. Nhưng nếu chúng ta muốn cố gắng hành thiền một cách chân thành,
chúng ta phải biết rõ bản chất thực sự của mình là gì.
Ðôi khi bạn có thể phán đoán bẩm tánh của
mình theo những ý nghĩ và hành động đã thành thói quen cũng được. Khi bạn
làm đi làm lại một điều gì đó nhiều lần, đó chính là dấu hiệu của cá tính
bạn. Cá tính có thể được phát triển hay thay đổi nhờ hành thiền đúng đề
mục. Có những loại cá tính khác nhau và mỗi người có cá tính riêng của
mình. Vậy thì làm thế nào để chúng ta xác định được cá tính thực sự của
mình? Có những trường hợp người ta làm rất nhiều điều khác nhau đến độ họ
không thể xét đoán được đâu là cá tính trội hơn hết của họ. Trong đạo Phật
thì có một sự phân loại trong đó các cá tính được chia thành 6 nhóm, và cá
tính chủ yếu của mỗi người đều nằm trong 6 nhóm đó là:
1) Nặng về tình dục, tham lam, đa cảm.
2) Nóng nảy, bồn chồn, dễ cáu, khó chịu.
3) Ðần độn, si mê, không thông minh.
4) Cả tin, dễ dàng tin vào người khác nói.
5) Thông minh.
6) Suy đoán.
Chúng ta có thể nhận ra cá tính riêng của
mình và xét đoán cá tính nào là trội nhất trong số đó. Một khi chúng ta đã
biết được cá tính của mình là gì rồi, chúng ta có thể chọn đề mục hành
thiền nào phù hợp với mình.
Nếu bạn là người rất dễ sân hận, đề mục
bạn chọn phải là đề mục nào giúp cho bạn trở nên nhẫn nại. Ðể làm cho mình
trở nên nhẫn nại bạn phải chọn một điều gì đó nghịch lại với cá tính của
mình, chẳng hạn như thiện chí, hoặc Tâm Từ (Mettà). Muốn hành thiền
Từ Ái (Mettà) bạn phải hiểu đôi điều về nó; Từ là gì? Và tại sao
chúng ta trở nên tốt hơn khi hành thiền từ ái này? Ðể tịnh hoá những
tư duy của mình bạn phải thoát khỏi sân hận, lúc đó bạn mới thấy được thực
chất của các pháp, và nhờ thấy như vậy chúng ta mới nhận ra những bất lợi
của lòng sân hận và thiếu kiên nhẫn, đồng thời hiểu được những thuận lợi
của lòng Từ.
Khi đã có một số khái niệm về tâm từ rồi,
chúng ta có thể hành thiền về đề mục này như sau: đầu tiên hãy rải tâm từ
cho chính mình, vì người ta không thể ban rải tâm từ nếu bản thân họ không
có nó. Khởi sự bằng cách đọc thầm trong tâm:
"Cầu mong cho tôi được an vui và hành phúc".
Giữ những ý tưởng này trong vài phút và nghĩ rằng toàn bộ bản chất của
mình đã tràn đầy từ bi, và rằng không còn chỗ nào trống cho những tạp niệm
khác. Tiếp tục như vậy cho đến khi chúng ta cảm thấy rằng mình đã tràn
ngập từ bi, và rằng giờ đây chúng ta chỉ có Tâm Từ ngoài ra không còn gì
khác. Kế tiếp, rải tâm từ của ta đến tất cả chúng sanh khắp mọi nơi trong
thế gian này, bằng cách niệm thầm trong tâm:
"Cầu mong tất cả chúng sanh đều được an
vui,hạnh phúc". Giữ lấy những ý
nghĩ này trong vài phút và nghĩ rằng cả vũ trụ này đã tràn ngập lòng từ và
hoàn toàn không còn chỗ nào trong những tạp niệm khác nữa.
Cứ tiếp tục cho đến khi ta cảm nhận được
rằng chẳng có chi ngoại trừ tình thương của ta đang lan toả đến chúng
sanh. Khi việc hành thiền từ ái này thực hiện một thời gian đủ lâu, hành
giả sẽ đạt được thành công. Một trạng thái vắng lặng của tâm, một cảm giác
thoả mãn tuyệt vời, một loại hạnh phúc mà từ hồi nào đến giờ ta không hề
biết đến và tâm ta trong sáng một cách kỳ diệu, đó là những điều mà hành
giả sẽ cảm nhận được. Những trạng thái tâm này có thể được chứng nghiệm
bởi bất cứ ai thành công trong việc ban rải tâm từ đến mọi chúng sanh
không phân biệt.
Cuối cùng, những cấp độ phát triển tâm cao
hơn sẽ được hành giả chứng đạt nhờ thiền từ ái này.
-ooOoo-
Bài 24:
TỪ
THIỀN (JHÀNA) ÐẾN TUỆ GIÁC
Nhờ tu tập theo pháp
hành quán niệm hơi thở mà hành giả đạt đến tứ thiền. Khi các thiền này
phát triển, tâm hành giả trở nên thanh tịnh đáng kể, mặc dầu hành giả chưa
hoàn toàn thoát khỏi các dục, vì nhờ sự tập trung các khuynh hướng bất
thiện chỉ được ngăn chặn một cách tạm thời, chúng có thể khởi sanh lên bề
mặt vào những khoảnh khắc hoàn toàn bất ngờ. Giới luật, hay đạo đức, điều
hoà lời nói và hành động. Tập trung hay Ðịnh kiểm soát tâm, chỉ có tuệ
giác mới có thể giúp cho hành giả tiêu diệt được hoàn toàn những tham dục
mà hai pháp Giới và Ðịnh không loại trừ nổi. Vì vậy, việc đạt đến các
thiền, trong đó hành giả đã nếm được hạnh phúc cao vời của một vị Phạm
Thiên (Brahma God), hạnh phúc này tuy rằng siêu vượt bình thường
nhưng nó vẫn chỉ là hạnh phúc thế gian. Ðể đạt đến hạnh phúc siêu thế
(Niết Bàn) bằng pháp hành thiền tuệ, hành giả chuyển cái tâm Ðịnh rất
nhạy bén và thanh tịnh của mình thể nhập vào bản chất của vạn pháp như
chúng thực sự là, và hành thiền trên ba đặc tánh căn bản của thân và tâm,
đó là Vô Thường, Khổ, và Vô Ngã (Anicca, Dukkha, Anatta). Pháp hành
diễn tiến như sau:
I. Thẩm xét:
Hành giả khảo sát đề mục hành thiền của
mình, nghĩa là xem xét hơi thở vô ra tuỳ thuộc vào thân, và các thiền chi
(factors of jhàna). Do thẩm xét mà hành giả thấy như sau:
Thân này chỉ là sự biểu hiện của Tứ Ðại
(4 yếu tố) và những tính chất bắt nguồn từ Tứ Ðại, đó là:
1) Yếu tố giãn nở (Ðịa Ðại):
không có yếu tố này các vật thể không thể chiếm một khoảng không gian, các
tính chất cứng, mềm là hai phương diện của yếu tố này.
2) Yếu tố kết dính (Thủy Ðại):
yếu tố này kết dính các nguyên tử rời rạc của vật chất và cho ta cái khái
niệm về thân.
3) Yếu tố nhiệt (Hoả Ðại):
sự duy trì và thiêu huỷ là do yếu tố này, nó chính là nguồn sinh lực.
4) Yếu tố chuyển động (Phong Ðại):
đây là yếu tố tạo ra sự chuyển động, sự chuyển động được xem như là một
xung lực.
Bốn yếu tố hay Tứ Ðại này là những đơn vị
căn bản của vật thể, và được kết hợp không đổi với bốn sở tạo sắc
(Derivaties), đó là: màu sắc, mùi, vị, và dưỡng chất. Tứ Ðại và bốn Sở
Sắc tương quan lẫn nhau và bất khả phân. Như vậy, theo Phật giáo vật chất
bao gồm các lực và các tính chất, chúng ở trong trạng thái trôi chảy liên
tục. Các thiền chi là những tâm sở nổi bật của tâm đã đạt đến trạng thái
thiền đó. Tâm, được xem là phần quan trọng nhất của con người, là một sự
kết hợp phức tạp của các trạng thái tâm sanh diệt nhanh chóng, đó là: Thọ,
Tưởng, Hành và Thức. Tất cả các trạng thái sanh khởi trong tâm là phi vật
chất., những trạng thái này biến đổi liên tục không tồn tại giống nhau
trong hai khoảnh khắc (sát-na) liên tiếp. Chúng ta, những kẻ vô văn
phàm phu bị màn vô minh che đậy, nhầm lẫn tính liên tục hiển nhiên này như
là một điều gì đó vĩnh cửu, một linh hồn bất diệt, một cái ngã (atman),
là người làm và nhận giả định của mọi hành động.
Nếu chúng ta được bảo rằng, nói đến linh
hồn hay tự ngã có nghĩa là muốn nói đến cái tiến trình của hiện tượng tâm
sinh vật lý luôn trở thành và hoại diệt này, lúc ấy hẳn sẽ không có sự
phản đối với thuật ngữ. Chính Ðức Phật đã sử dụng từ Atta (bản ngã),
nhưng điều này chỉ để chỉ ra sự tập hợp của các Uẩn (Khandhas).
Phật giáo không hoàn toàn phủ nhận sự hiện hữu của một cá thể theo ý nghĩa
thuộc về kinh nghiệm, nhưng Phật giáo trình bày cho chúng ta thấy rằng cái
cá thể ấy không thực sự hiện hữu trong ý nghĩa cùng tột
(chân đế).
Thuật ngữ mang tính triết học của đạo Phật để chỉ một cá nhân là Santati,
nghĩa là dòng tiến sinh hay tính liên tục.
Santati bao gồm các yếu tố của thân và
tâm. Nghiệp lực của mỗi cá nhân đã cột các yếu tố này lại với nhau. Dòng
tiến sinh hay tính liên tục không bị gián đoạn của hiện tượng tâm - vật lý
liên kết này, do nghiệp tạo điều kiện, không chỉ giới hạn trong kiếp sống
hiện tại mà nó có nguồn gốc từ quá khứ và sự liên tục của nó trong tương
lai, là sự thay thế của đạo Phật để gọi cái ngã hay linh hồn thường hằng
trong các tôn giáo khác.
II. Khám phá ra nguyên nhân của cá thể con
người
Các Pháp, kể cả cá nhân con người đều phát
sinh từ và được tạo điều kiện bởi một hay nhiều nhân. Sự hiện hữu của một
cái "Ta" là do:
1) Vô minh trong quá khứ; từ vô minh
sanh ra tham ái.
2) Khát khao hiện hữu.
3) Chấp thủ vào cuộc sống, vào con người và các pháp.
4) Nghiệp (Kamma); những hành động bằng thân, khẩu, ý trong quá
khứ.
5) Thức ăn hấp thụ trong kiếp hiện tại.
Cá thể con người là kết quả của năm nhân
này. Cũng như nghiệp quá khứ đã tạo điều kiện cho hiện tại, do vậy hiện
tại sẽ tạo điều kiện cho tương lai. Thấy được nhân và quả như vậy, hành
giả vượt qua mọi hoài nghi liên quan đến quá khứ, hiện tại và tương lai.
III. Hành thiền
Hành giả, sau khi đã hiểu rằng các pháp
hữu vi đều vô thường, phải chịu khổ đau và rỗng không, không có một linh
hồn bất tử nào cả. Ðể phát triển sự hiểu biết (tuệ giác) này, hành
giả tiếp tục duy trì việc hành thiền trên một trong ba đặc tánh (Vô
Thường, Khổ, Vô Ngã), đặc tánh nào hành giả thấy là phù hợp nhất. Ðối
với mọi người, đặc tánh vô thường là chủ đề thích hợp nhất; đặc tánh khổ
dễ gây chán nản cho một vài bản tánh khi hành thiền trên đó. Nếu đã chọn
đặc tánh vô thường, hành giả duy trì tâm niệm: các pháp là vô thường, mọi
thứ chung quanh chúng ta đều vô thường, mọi thứ trong ta (cảm thọ, tâm
v.v....) là vô thường. Cứ tiếp tục cho đến khi không còn thấy thích
thú hay chán ghét đối với các trạng thái hay đối tượng hữu vi, với các
pháp thế gian cũng vậy.
Ðạt đến điểm tu tập tâm như vậy hành giả
tiếp tục một cách kiên quyết phát triển tuệ giác theo hướng đặc biệt đó,
cho đến một ngày vinh quang kia sẽ đến với hành giả khi; trước niềm hỷ lạc
vô tả, hành giả chứng ngộ Niết Bàn, mục tiêu tối hậu, lần đầu tiên.
Từ đó, mãi mãi những tà kiến, hoài nghi và
niềm tin nơi các lễ nghi, tín điều (Giới Cấm Thủ) rời xa hành gia.
Giờ đây hành giả không còn là phàm phu nữa mà đã là bậc Thánh. Hành giả
thoát khỏi những trạng thái thống khổ và bất hạnh (bốn khổ cảnh: Ðịa
Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh và Atula), vì chắc chắn hành giả sẽ đi tới nơi
giác ngộ. Như trong Dhammapada (Pháp Cú) đã nói:
"Vĩ đại hơn được làm hoàng đế, hơn cả cảnh
giới chư thiên, là quả thánh Tu Ðà Hoàn! (Thánh quả thứ nhất trong bốn
Thánh quả)". Bởi vì, giờ đây một
điều gì đó, chưa từng có trong cuộc đời, dù có mơ cũng không thể, đã được
hành giả thực sự chứng nghiệm.
Cũng cần nên đề cập ở đây là các thiền chi
và những năng lực thần thông hẳn nhiên là một tài sản quý giá đối với
người sở hữu, tuy nhiên những điều đó không phải là cần yếu cho việc đạt
đến A-la-hán quả, cũng có những vị gọi là Sukkha-vipassaka (A-la-hán
can quán) [*], các vị này không cần sự trợ giúp của các thiền mà đắc
thẳng A-la-hán do đơn thuần trau dồi tuệ quán.
[*] Có bốn bậc A-la-hán (Arahanta):
1- A-la-hán quán (sukkhavipasako). 2- A-la-hán tam minh
(Tevijjo). 3- A-la-hán lục thông (Chalabhinnà). 4- A-la-hán
đắc đạt thông
(Patisambhidappatto).
IV. Thiền niệm thân:
Chánh niệm trên thân là một trong những
pháp hành cơ bản được các Phật tử trong những nước quốc giáo, kể cả các
thanh niên nam nữ thực hành, bởi vì thân là cái mọi người đều biết. Pháp
hành này được tiến hành bằng cách suy luận từ cái đã biết đến những cái
chưa biết. Ðiều này nhằm mục đích luyện tập cho hành giả quan sát một cách
chú tâm những vận hành bên trong của thân và tâm, cũng như những hiện
tượng bên ngoài của vũ trụ.
Thông qua pháp hành này chúng ta có thể
xác chứng một trong tam tướng, ít ra cũng là đặc tánh vô thường, là tính
chất biểu thị của mọi hình thức hiện hữu. Ngay khi đặc tánh này được tuệ
tri, hành giả cũng bắt đầu được xả ly khỏi những ảo tưởng về các căn hoặc
các pháp hữu vi. Tính chất không bền vững hay vô thường là trạng thái thay
đổi liên tục và luôn luôn trở thành được xem như không thể bảo đảm cho bất
kỳ một sự an lạc hay hạnh phúc lâu dài được.
Thiền niệm thân sẽ dạy cho chúng ta hiểu
được rằng cái cá thể của chúng ta, cấu tạo bởi năm uẩn, luôn luôn thay
đổi, và cái gọi là ta hay bản ngã chỉ là tổng thể của các thành phần cấu
hợp này, không thể nào thường hằng được. Một kết luận như vậy có thể làm
nản lòng những kẻ ích kỷ, người tự cho mình là trung tâm, nhưng nó sẽ
không gây bối rối cho những ai đã hiểu luật nhân quả, điều mà họ đã thực
hành, vì hành giả hiểu rằng sự giải thoát khỏi những giới hạn của cá thể
được thiết lập trên việc đạt đến trạng thái siêu việt của Niết Bàn.
V. Niệm thân qua các oai nghi:
Chắc chắn một điều là các em nhỏ và những
người không hành thiền, khi đi họ cũng ý thức được việc đi của họ. Họ biết
điều đó nhưng tri kiến như vậy không làm rơi rụng được cái ý niệm về một
chúng sanh, không nhổ bật rễ được cái tưởng về tự ngã, và nó cũng không
phải là chủ đề của pháp hành hoặc sự tu tập làm phát sanh chánh niệm.
Nhưng đối với một hành giả (Yogi) đang thực hành thiền quán, tri
kiến như vậy sẽ làm rơi rụng cái ý niệm về một chúng sanh, và tạo nhân cho
việc nhổ bật rễ cái tưởng về tự ngã; nó cũng vừa là chủ đề hành thiền và
vừa là sự tu tập làm sanh khởi chánh niệm.
VI. Khảo sát:
-
Ai đi?
- Ðó không phải là một chúng sanh
hay người đi.
-
Vậy cái đi đó là của ai?
- Cái đi đó không phải của một
chúng sanh hay một người nào cả.
-
Do đâu có sự đi đó?
- Do tâm hành
(hoạt động của tâm)
và sự giãn ra của yếu tố chuyển động
(Phong Ðại).
Từ đó hành giả hiểu như sau:
Ý nghĩ
"tôi sẽ đi"
khởi sanh. Ýù nghĩ đó tạo ra sự chuyển động
(rung động);
sự chuyển động này tạo ra (cho thân) sự gợi ý hay báo cho thân
biết. Ði là sự đưa ra phía trước của toàn thân qua tâm hành và sự giãn ra
của yếu tố chuyển động. Ðối với các oai nghi khác pháp tiến hành cũng
tương tự như vậy. Ý nghĩ "Tôi sẽ
đứng, nằm xuống,..." (sự trải ngang của toàn thân)....
Hành giả biết rõ điều này và tư duy như
sau: "người ta bảo một người đi,
một người đứng; nhưng trong ý nghĩa cùng tột thì không có người (chúng
sanh) nào đang đi và đang đứng cả".
Cũng như người ta bảo: "Một chiếc
xe đang chạy, một chiếc xe đứng",
nhưng trong ý nghĩa cùng tột thì không có gì được gọi là xe đi hay xe đứng
cả; khi một con ngựa được bắt ách vào và một người lái xe điều khiển, cũng
chỉ theo quy ước mà nói: "Chiếc xe
đi, chiếc xe đứng". Cũng như vậy,
thân này như chiếc xe, bởi vì tự thân nó thiếu động lực; sự chuyển động do
tâm sanh tựa như con ngựa, tâm giống như người đánh xe. Vì vậy khi ý nghĩ
"tôi đi"
hay
"tôi đứng" khởi sanh, yếu tố
chuyển động khiến tạo ra sự nhắc bảo ở thân khởi sanh. Qua ý hành (tâm
hành) và sự giãn ra của yếu tố chuyển động (Phong Ðại), việc đi
và đứng được tiến hành. Lúc đó theo quy ước mà nói:
"Một người đi, một người đứng; tôi đi, tôi
đứng".
Cũng như đối với một người hàng thịt, cái
tưởng về bò sẽ không biến mất bao lâu anh ta chưa phanh thây con bò ra
thành từng phần; tuy nhiên, sau khi đã xẻ con bò ra; liền sau đó cái tưởng
thịt sẽ phát sanh. Và ngồi tại ngã tư đường bán những miếng thịt được bày
ra trước mặt, anh ta không còn nghĩ
"ta đang bán bò",
mà sẽ nghĩ "ta đang bán thịt".
Ðối với vị hành giả tu thiền cũng vậy - cái tưởng về người hay chúng sanh
sẽ biến mất chừng nào người ấy quán chiếu trên tứ oai nghi bằng phương
pháp phân tích các yếu tố (Tứ Ðại), và nhờ phân tích Tứ Ðại này tâm
được chuyên nhất.
Ở đây, hành giả cũng như người hàng thịt;
Tưởng chúng sanh hay người cũng như Tưởng bò của người hàng thịt. Bốn oai
nghi (đi, đứng, nằm, ngồi)
cũng giống như ngã tư đường. Sự quán
chiếu bằng pháp phân tích Tứ Ðại cũng như (người hàng thịt) đang
ngồi với những miếng thịt đã được xẻ ra và đặt ở trước mặt.
-ooOoo-
Bài 25:
CÁC CẤP ÐỘ THANH TỊNH VÀ TUỆ
Bảng tóm tắt này có
thể giúp hành giả đối chiếu các cấp độ phát triển khác nhau đã nêu ra ở
đây, với những kinh nghiệm cá nhân của hành giả. Từ đó hành giả có thể tự
mình xác quyết cấp độ nào mình đã đạt đến liên hệ tới sự thuần thục của
trí tuệ nội quán.
Trình tự tu tập thiền quán niệm xứ
(Sapipatthàna vipassanà) của bất cứ hành giả nào cũng sẽ phải trải qua
các cấp độ khác nhau của:
A.
Bảy bước thanh tịnh (Visuddhi); và
B. Mười bảy tuệ minh sát (Vipassanà nàna).
Các cấp độ khác nhau của bảy bước thanh
tịnh (Visuddhi) được liệt kê trong phần A, mười bảy tuệ minh
sát (Vipassanà nàna) được liệt kê ở phần B.
A1. Giới thanh tịnh (Sìla visuddhi):
Cấp độ này được đạt đến nhờ giữ nghiêm
ngặt giới luật mà Ðức Phật đã ban hành cho người tại gia và xuất gia.
A2. Tâm thanh tịnh (Citta visuddhi):
Cấp độ này được đạt đến khi sự chú tâm hay
quán chiếu của hành giả chuyên nhất vào đề mục hành thiền không bị dao
động.
B1. Tuệ phân tích danh sắc (Nàma -Rrùpa
pariccheda nàna):
Trong khi hành thiền (quán chiếu),
vấn đề trở nên rõ ràng là chỉ có hai tiến trình, tâm và thân (hay danh
và sắc), như vậy cấp độ tuệ thứ nhất đã đạt được.
A3. Kiến thanh tịnh (Ditthi visuddhi):
Ngay khi hành giả hiểu rõ được các hoạt
động đa dạng của thân là một, và cái biết được những hoạt động này là điều
khác, cũng như hành giả biết rằng không có thực thể nào khác ngoài hai
điểm chính này, lúc đó hành giả đã đạt đến kiến thanh tịnh.
B2. Tuệ thấy rõ nhân quả
(Paccaya pariggahanàna):
Trong lúc hành tiền, hành giả ghi nhận
được nhân đi trước và quả tiếp theo sau, như vậy cấp độ tuệ thứ hai đã đạt
đến.
A4. Ðoạn nghi thanh tịnh
(Kankhàvitarana visuddhi):
Khi hành giả đã ghi nhận rõ tiến trình
nhân trước - quả sau trong lúc hành thiền, hành giả lấy làm thoả rằng chỉ
có hai yếu tố này hiện hữu trong quá khứ, và cũng chỉ có chúng hiện hữu
trong tương lai. Như vậy, hành giả đã nhận thức một cách rõ ràng tiến
trình nhân - quả và đạt đến cấp độ đoạn nghi thanh tịnh.
B3. Tuệ thấy rõ Vô Thường, Khổ, Vô Ngã
(Sammasana nàna):
Trong lúc hành thiền, hành giả ghi nhận
các đối tượng cứ tiếp nối nhau xuất hiện rồi biến mất; nhờ vậy hành giả
hiểu rõ bản chất thực sự của vô thường, khổ và vô ngã. Do vậy, hành giả
đạt đến cấp độ tuệ thứ ba này.
B4(1). Tuệ sanh diệt (Udayabbaya nàna),
giai đoạn khởi đầu:
Khi hành giả khéo tiến bộ trong việc thực
tập thiền minh sát, hành giả có thể hành thiền trên những đối tượng theo
yêu cầu mà không tốn nhiều nỗ lực. Ở giai đoạn này hành giả thường thường
thấy một hào quang (Obhàsa), cảm giác rùng mình vì vui thích
(Pìti: phỉ lạc), khinh an (Passadhi), quyết tâm (Adhimokkha),
tinh tấn mãnh liệt (Paggaha), lạc (Sukha), tuệ giác thâm sâu
(Nàna), chánh niệm vững chãi (Upatthàna), xả (Upekkhà)
và một sự tham muốn nhẹ nhàng đối với trạng thái này (Nikanti).
Hành giả cũng dễ dàng ghi nhận các đối tượng thiền quán về cách thức nó
sanh khởi và biến mất như thế nào. Như vậy, hành giả đã đạt đến giai đoạn
đầu của tuệ sanh diệt thứ tư.
A5. Ðạo, phi đạo tri kiến thanh tịnh
(Maggàmagga nàna dassana visuddhi):
Nghĩa là thanh tịnh nhờ phân biệt con
đường (Ðạo) chân chánh và con đường nào không chân chánh. Ở giai
đoạn này một sự phân biệt rất minh triết khởi sanh như vầy:
"Chỉ đơn thuần suy nghĩ đến sự kiện thấy hào
quang và cảm nhận những trạng thái đặc biệt khác, thấy như vậy rồi tự mình
thoả mãn với nó, đâu phải là sự thành tựu chân thực, ta phải tiếp tục việc
hành thiền không ngừng nghỉ". Khi
đã quyết định như thế, hành giả đạt đến cấp độ đạo phi đạo tri kiến thanh
tịnh.
B4(2). Tuệ sanh diệt (Udayabbaya nàna)
giai đoạn cuối:
Trong khi tiếp tục việc hành thiền của
mình không còn suy nghĩ nữa, hành giả có thể quan sát một cách rõ ràng sự
khởi đầu và chấm dứt của mỗi đối tượng thiền quán (thân, thọ, tâm,
pháp). Như vậy hành giả đã đến giai đoạn cuối của tuệ sanh diệt thứ
tư.
A6. Ðạo tri kiến thanh tịnh
(Patipadànàna dassana visuddhi):
Từ giai đoạn cuối của cấp độ tuệ thứ tư
(Udayabbayanàna: sanh diệt tuệ), đến tuệ thuận thứ (anulomanàna)
cấp độ tuệ thứ 13, hành giả hiểu biết rõ ràng pháp hành chân chánh,
nghĩa là hành giả đã đạt đến tri kiến hiểu biết Ðạo Thanh Tịnh.
B5. Tuệ diệt (Bhanga nàna):
Tiếp tục hành thiền, hành giả nhận thức
sâu sắc được sự kiện rằng đối tượng và sự tỉnh thức (awareness)
luôn luôn biến mất (diệt). Như vậy, hành giả đã đạt đến tuệ diệt
thứ năm.
B6. Bố uý tuệ (Bhaya nàna) hay trí
quán sự kinh sợ của hiện hữu:
Tiếp tục hành thiền, hành giả nhận thức rõ
rệt được sự kiện rằng các đối tượng và trạng thái luôn luôn biến mất
(diệt), như vậy bản chất của chúng dễ tiêu hoại, từ đó hành giả cảm
thấy kinh hãi và hoảng sợ khi thấy trạng thái thực của các pháp. Do vậy,
hành giả đạt đến bố uý tuệ thứ sáu.
B7. Quá hoạn tuệ (Àdìnava nàna):
Tiếp tục hành thiền, hành giả nhận thức
được rằng các đối tượng và trạng thái luôn luôn diệt mất. Vì vậy, bản chất
của nó thật dễ tiêu hoại, hành giả cảm thấy nhàm chán hay ghê sợ khi thấy
trạng thái thực của các pháp. Ðến đây hành giả đạt được tuệ quá hoạn thứ
bảy.
B8. Vô dục tuệ hay yếm ly tuệ (Nibbidà
nàna):
Tiếp tục hành thiền, hành giả do nhận rõ
sự kiện rằng các đối tượng và trạng thái luôn luôn diệt mất, vì vậy bản
chất của nó thật dễ tiêu hoại, hành giả cảm thấy chán nản đối với trạng
thái thực của các pháp. Như vậy, hành giả đạt đến yếm ly tuệ hay vô dục
tuệ thứ tám.
B9. Dục thoát tuệ (Muncitukam yatànàna):
Tiếp tục hành thiền, hành giả nhận thức rõ
sự kiện rằng các trạng thái đều phải diệt, và hệ quả tất nhiên là đau khổ.
Do thấy bản chất dễ tiêu hoại này, ước muốn thoát khỏi khởi sanh. Như vậy,
hành giả đạt đến Dục thoát tuệ thứ chín.
* Giải thích thêm:
Tuệ Quá Hoạn về ý nghĩa cũng như hai tuệ Bố
Uý và Vô Dục. Do vậy, Cổ Ðức nói: "Tuệ Bố Uý chỉ có một nhưng ba tên
khác nhau; Tuệ ấy thấy các hành là kinh khủng nên gọi là Tuệ Bố Uý.
Nó làm khơi dậy tướng nguy hiểm trong các hành ấy, nên gọi là Tuệ Quá
Hoạn. Nó trở thành vô dục đối với các hành ấy, nên gọi là Tuệ Vô
Dục".
B10. Tuệ giản trạch (Patisankhà nàna):
Do thấu triệt các sự kiện trên mà hành giả
thực hiện một nỗ lực đặc biệt và tiếp tục hành thiền để thành tựu sự thoát
ly. Như vậy, hành giả đạt được cấp độ tuệ giản trạch thứ 10.
B11. Tuệ xả hành (Sankhàrupekkhànàna):
Tức là xả ly các pháp hữu vi, giờ đây hành
giả ở trong trạng thái quân bình hay xả và tiếp tục việc hành thiền của
mình một cách tự động. Như vậy, hành giả đạt đến cấp độ tuệ xả hành thứ
11.
Sáu tính chất của tuệ xả chấp các pháp hữu
vi (xả hành tuệ:
sankhàrupekkhànàna):
1) Vắng mặt sự sợ hãi và lạc thú.
2) Hoàn toàn thản nhiên trước hạnh phúc hay đau khổ.
3) Việc hành thiền thường thường tiến triển một cách tự động, không cần
dụng công nhiều.
4) Trạng thái xả hay quân bình trong lúc hành thiền kéo dài một thời
gian khá lâu.
5) Việc hành thiền càng lâu thì tâm càng trở nên vi tế hơn.
6) Tâm không lang thang đến các đối tượng khác mà chú tâm kiên định hơn.
B12. Tuệ xuất khởi - hay tuệ vượt thoát
khỏi các khổ thú và các pháp hữu vi - dẫn đến đạo (Vutthà nagàmini
nàna):
Từ trạng thái hành thiền kiên cố này, sự
tiến triển tăng nhanh một cách rất rõ rệt, và hành giả lúc này đã có một
tri kiến rõ ràng về nơi mà vị ấy sẽ đi đến. Như vậy, hành giả đạt đến tuệ
xuất khởi thứ mười hai.
B13. Tuệ thuận thứ (Amuloma nàna):
Trong các trạng thái phàm tâm này, giai
đoạn cuối của tuệ là tuệ thuận thứ. Như vậy, hành giả đã đạt đến tuệ thứ
13.
B14. Tuệ chuyển tánh (Gotra bhùnàna):
Tuệ vượt qua những trói buộc thế gian.
Việc bước vào thánh đạo (Ariyamagga), trong sự chuyển tiếp gay go ở
giai đoạn cuối của phàm tuệ, là tuệ vượt qua những trói buộc thế gian
(chuyển tánh), và đánh dấu một tiến bộ đặc biệt chuyển sang trạng thái
siêu thế. Như vậy, hành giả đã đạt đến cấp độ tuệ thứ mười bốn.
Ðây là giai đoạn chuyển tiếp giữa phàm và
thánh hay giữa hiệp thế và siêu thế.
NHẬP LƯU THÁNH QUẢ
(SOTÀPANA)
B15. Ðạo Quả tuệ (Maggaphala nàna):
Trạng thái sát trừ các phiền não, và trí
thấy rõ đạo và quả (đạo quả tuệ)
là sự thực chứng của việc diệt tận
mọi pháp hữu vi. Như vậy, hành giả đạt đến trí kép thứ 15, trí thấy rõ đạo
và trí thấy rõ quả (đạo quả tuệ).
A7. Tri kiến thanh tịnh (Nànadassana
visuddhi):
Tuệ kép đã hoàn tất tri kiến thanh tịnh
bằng sự nhận thức rõ Niết Bàn và liễu tri Tứ Thánh Ðế.
B16. Tuệ phản khán (Paccavekkhàna nàna):
Hành giả sau đó duyệt xét lại toàn bộ tiến
trình hành thiền, làm thế nào mình đã đạt đến giai đoạn này và bằng cách
nào để có thể quay trở lại (đạo quả
tuệ). Như vậy, hành giả đã đạt đến
cấp độ tuệ thứ 16.
B17. Quả tuệ lặp lại (Phala sàmpatti):
Hành giả một lần nữa tiếp tục việc hành
thiền của mình. Khi hành giả tập trung với đủ sức mạnh, hành giả lại chứng
đạt trạng thái quả tuệ như trước. Theo pháp này hành giả có thể tái tục
lặp đi lặp lại nhiều lần trạng thái quả tuệ nếu muốn.
NHỮNG PHẨM CHẤT ÐẶC TRƯNG
CỦA MỘT VỊ NHẬP LƯU (SOTÀPANNA ANGAMI)
Trong Dhammadàsa sutta (Pháp Kính Kinh)
Ðức Phật có đề cập bốn phẩm chất đặc trưng chủ yếu của một bậc Nhập
Lưu thánh đạo (tức vị Tu Ðà Hoàn). Sở dĩ kinh này được gọi là gương
(kính) soi vì bất luận ai, bằng vào tuệ quán thuần thục có được
những phẩm chất này, có thể yên trí rằng mình đã đạt đến đạo quả đầu tiên
là Tu Ðà Hoàn (Sotàpanna).
Bốn phẩm chất này là:
1) Vị ấy có niềm tin bất động nơi Ðức
Phật, bởi vì giờ đây vị ấy đã hiểu được những phẩm chất cao quý của một
vị Phật.
2) Vị ấy có niềm tin bất động nơi Giáo
Pháp (Dhamma), bởi vì nhờ nỗ lực một cách nhiệt tâm mà vị ấy
chứng ngộ được sự thực cao thượng và thể nhập, cũng như diện kiến một
cách minh triết với chân lý.
3) Vị ấy có niềm tin bất động nơi Tăng
(Sangha), bởi vì giờ đây vị ấy đã hiểu những phẩm hạnh tuyệt với
của họ.
4) Vị ấy giữ gìn ngũ giới (Pancasìla)
một cách tự nhiên, vì đó là nền tảng luân lý đáng trân trọng của
thánh chúng.
Từ đó vị ấy thoát khỏi tà kiến (Ditthi),
vị ấy không còn chấp giữ quan kiến cho rằng các uẩn tạo thành tiến trình
tâm và thân này là đàn ông, đàn bà, người hoặc thú v.v...
Vị ấy thoát khỏi mọi hoài nghi
(Vicikicchà), vị ấy có niềm tin bất động nơi Ðức Phật, Giáo Pháp và
chư Tăng.
Vị ấy thoát khỏi mê tín chấp giữ giáo
điều, lễ nghi vô bổ (Sìlabbataparàmàsa: giới cấm thủ), vị ấy hiểu
rõ rằng chẳng có pháp hành nào hơn được pháp hành trau dồi Bát Chánh Ðạo,
và đạt đến thực tại nội chứng Tứ Thánh Ðế sẽ đem lại an lạc vĩnh cửu.
Vị ấy thoát khỏi tánh ghanh tỵ (Issà)
và bỏn xẻn (Macchariya).
Ðức Phật xác nhận trong kinh Pháp Cú là:
"Ðắc quả Tu đà hoàn
Hơn chinh phục nhân gian
Hơn tái sanh thiên giới
Hơn bá chủ trần gian".
(Pháp cú, 178)
Giờ đây, một điều gì đó chưa từng có trong
cuộc đời này, thậm chí mơ cũng không thể, thực sự đã được chứng nghiệm.
- Hết phần
Ðịnh -
--- o0o
---
Mục Lục |
I
|
II
|
III
|
IV
|
V
--- o0o
---
Source:
BuddhaSasana website
( By Binh Anson)
Trình bày :
Nhị Tường
Cập
nhật ngày: 1-2-2003