(Bát Chánh Ðạo)
Phạm Kim Khánh
Tâm
ta
vốn
chứa
đựng
ít
nhiều
bợn
nhơ.
Nếu
để
nó
trôi
chảy
theo
dòng
diễn
tiến
tự
nhiêrn
mà
không
có
sự
cố
gắng
nào
để
khắc
phục,
kiểm
soát
và
chuyển
hướng
nó,
cái
tâm
-
dưới
sự
chi
phối
của
tham
ái,
sân
hận
và
si
mê
-
sẽ
lôi
cuốn
chúng
ta
vào
những
hoàn
cảnh
khó
khăn,
rất
phiền
phức
và
ô
nhiễm
bởi
vì:
"Tâm
dẫn
đầu
tất
cả
những
hành
động.
Tâm
là
chủ.
Tâm
tạo
tác
tất
cả
hành
động
biểu
hiện
bằng
thân,
khẩu
hay
ý." Theo
Ðại
Ðức
Nyanaponika,
điều
trọng
yếu
là
ta
phải:
Hiểu
biết
cái
tâm
-
tâm
rất
gần
với
ta
nhưng
được
chúng
ta
biết
rất
ít. Uốn
nắn
cái
tâm
-
Tâm
rất
buông
lung,
nặng
nề,
khó
dạy,
nhưng
ta
có
thể
tập
cho
nó
thuần
thục,
mềm
dẻo,
dễ
uốn
nắn. Giải
phóng
cái
tâm
-
tâm
bị
đeo
niú,
quấn
quít,
bị
trói
chặt
vào
đủ
loại
phiền
não,
nhưng
ta
có
thể
giải
phóng,
làm
cho
nó
trở
nên
tự
do,
tại
nơi
đây
và
trong
hiện
tại. 1-
Hiểu
biết
cái
Tâm:
Bản
chất
của
Tâm
là
luôn
luôn
di
động,
phóng
chạy
đầu
này,
nhảy
đầu
kia
không
ngừng
nghỉ. Vào
thời
Ðức
Phật
có
chàng
thanh
niên
con
nhà
khá
giả,
đến
nghe
Ðức
Thế
Tôn
thuyết
pháp
và
sau
đó
xin
xuất
gia
với
Ngài,
được
gọi
là
Tỳ
Khưu
Sangharakkhita.
Một
ít
lâu,
sau
những
ngày
tháng
tích
cực
chuyên
cần
hành
thiền
Ðại
Ðức
Sangharakkhita
đắc
quả
A
La
Hán. Lúc
ấy
có
người
em
gái
của
Ðại
Ðức
vừa
hạ
sanh
được
một
trai,
lấy
tên
Ðại
Ðức
đạt
cho
con
mình
là
"Cháu
của
Sangharakkhita". Khi
cháu
lớn
khôn,
xin
xuất
gia
với
Sư
Cậu.
Vào
mùa
an
cư
kiết
hạ
vị
tỳ
khưu
cháu
nhập
hạ
trong
một
làng
hẻo
lánh.
Sau
khi
ra
hạ,
trong
một
buổi
lễ
Dâng
Y
Sư
thọ
hai
bộ
y
và
phát
tâm
muốn
dâng
lên
Sư
Cậu
một
bộ.
Từ
làng,
Sư
về
đến
chùa
trước
khi
Sư
Cậu
đi
bát
về
nên
lo
quét
dọn
tịnh
thất
sạch
sẽ,
gánh
nước
đầy
lu,
sửa
soạsn
tọa
cụ
ngay
ngắn
và
chờ
Sư
Cậu.
Khi
thấy
Ðại
Ðức
Cậu
về,
Sư
liền
đến
trứoc
mặt
đảnh
lễ,
rước
bát,
thỉnh
ngồi,
rồi
rửa
chân,
dâng
nước
đến
Sư
Cậu
và
lấy
quạt
quạt
Cậu. Khi
làm
xong
bổn
phận
người
đệ
tử
Sư
Cháu
cầm
bộ
y
trên
hai
tay,
quỳ
trước
Sư
Cậu,
đảnh
lễ
và
dâng
lên.
Nhưng
Sư
Cậu
từ
chối,
bảo
rằng,
"Sư
đã
có
một
bộ
y
và
như
vậy
là
đủ
rồi,
con
hãy
giữ
lấy
mà
dùng".
Sư
cháu
hết
lời
kính
xin
Sư
Cậu
thọ
nhận
nhưng
Sư
Cậu
một
mực
từ
chối
vì
Ngài
nói
rằng
một
bộ
y
đã
đủ
cho
Ngài
rồi.
Vị
Tỳ
Khưu
Cháu
lấy
làm
buồn,
nghĩ
rằng,
"Ở
ngoài
đời
Sư
với
mình
đã
có
tình
cậu
cháu.
Khi
xuất
gia
lại
thêm
nghĩa
thầy
trò,
cùng
tu
chung
một
chùa.
Nay
mình
có
được
bộ
y,
phát
tâm
chia
sẻ
quả
phúc
này
đến
Sư
mà
Ngài
không
nghĩ
tình
cậu
cháu,
nghiã
thầy
trò,
nỡ
đành
từ
chối
như
vậy
thì
mình
còn
ở
lại
chùa
làm
gì?
Hãy
hoàn
tục
đi
về
nhà
sống
cho
rồi."
Và,
trong
khi
cầm
quạt,
quạt
cho
Sư
Cậu,
Tỳ
khưu
cháu
tiếp
tục
suy
tư: "Sống
ngoài
đời
lúc
này
làm
ăn
cũng
khó
khăn
lắm
chớ
không
phải
dễ
đâu!
Nếu
ta
hoàn
tục
thì
về
nhà
làm
sao
sinh
sống
đây". Rồi
Sư
nghĩ
tiếp,
"Mình
có
hai
bộ
y,
dâng
lên
Sư
một
bộ
mà
Sư
không
nhận,
vậy
mình
có
dư
bộ
ấy.
Khi
về
mình
sẽ
bán
bộ
y,
lấy
tiền
mua
một
con
dê
cái.
Giống
dê
nó
đẻ
nhiều
lắm,
không
bao
lâu
con
dê
cái
của
mình
sẽ
đẻ
con.
Chờ
khi
con
nó
lơn
mình
bán
luôn
cả
mẹ
và
con
ắt
có
được
một
số
vốn
để
làm
ăn.
Chừng
đó,
có
công
ăn
việc
làm,
đời
sống
thoải
mái,
mình
sẽ
cưới
vợ.
Vợ
mình
sẽ
đẻ
con
và
mình
sẽ
lấy
tên
Sư
Cậu
đặt
tên
cho
con
mình.
Ngày
nọ
mình
để
con
trên
một
cái
xe
đẩy
rồi
cùng
vợ
đẩy
con
đến
chùa
đảnh
lễ
Sư
Cậu.
Ði
một
đỗi
xa
mình
bảo
vợ
đem
con
lại
cho
mình
bồng
vì
mình
muốn
bồng
con.
Vợ
mình
trả
lời:
"Tại
sao
anh
bồng
nó
làm
gì,
hãy
đẩy
xe
đi,
để
tôi
bồng
con."
Vừa
nói
vậy
vợ
mình
bồng
xốc
con
lên.
Nhưng
vì
sức
yếu
loanh
quanh
một
hồi
là
té
con
ngay
trước
bánh
xe
và
xe
cán
thằng
nhỏ.
Lúc
ấy
mình
giận
quá,
la
vợ.
"Thấy
chưa,
sức
đã
yếu
mà
còn
dành
bồng
con
để
nó
té
bị
xe
cán.
Chết
toi
rồi!"
Tức
quá,
sẵn
cây
gậy
cầm
trên
tay
mình
lấy
gậy
đập
mạnh
trên
lưng
vợ". Ðang
lúc
đứng
quạt
Sư
Cậu,
nghĩ
đến
đó
Sư
Cháu
cầm
quạt
đập
mạnh
vào
đầu
Cậu.
Sư
Cậu
bị
đập
đau
liền
quán
xét
xem
tại
sao
Cháu
lại
đập
trên
đầu
mình
và
tức
thì
thấy
rõ
từng
chi
tiết
những
gì
sẩy
diễn
trong
ý
nghĩ
của
Cháu.
Sư
liền
nói:
"Này
Con,
Con
không
đập
gậy
trên
lưng
người
đàn
bà
thì
thôi
,
cớ
sao
lại
đập
quạt
trên
đầu
Sư?
Sư
có
làm
gì
đâu?" Ðến
đây
Tỳ
Khưu
Cháu
giụt
mình
tự
nghĩ,
"Chết
rồi!
hình
như
Sư
Cậu
đã
biết
rõ
những
gì
phát
sanh
trong
tâm
của
mình.
Vậy
thì
làm
sao
mình
có
thể
còn
ở
lại
đây
tu
được
nữa.
Nghĩ
như
vậy
Sư
quăng
cây
quạt
bỏ
chạy.
Nhưng
bị
người
trong
chùa
bắt
lại.
Ðến
trước
Sư
Cậu
Sư
thuật
lại
tự
sự.
Sư
Cậu
mở
lời
khuyên,
"Này
Sư,
Con,
hãy
lại
đây.
Chớ
nên
lo
sợ.
Tâm
là
vậy.
Nó
phóng
đi
rất
xa
và
đi
cùng
khắp.
Ta
phải
cố
gắng
tháo
gỡ
cho
nó
các
loại
dây
trói
buộc
của
tham
ái,
sân
hận
và
si
mê". Tâm
là
vậy.
"Cá
bị
vớt
lên
khỏi
nước
và
vứt
trên
đất
khô,
vùng
vẫy
như
thế
nào
thì
tâm
chao
động
cũng
dường
thế
ấy". Trong
guồng
máy
phức
tạp
của
con
người
cái
tâm
quả
thật
vô
cùng
quan
trọng.
Con
người
trong
sạch
do
tâm
mà
nhơ
bẩn
cũng
do
tâm.
Chính
tâm
tạo
thiên
đàng,
cũng
chính
tâm
đưa
đến
cảnh
địa
ngục.
Tâm
nâng
cao,
đưa
con
người
lên,
cũng
chính
tâm
hạ
thấp,
đưa
con
người
xuống.
Và
cũng
như
nước,
có
chiều
hướng
tự
nhiên
là
từ
trên
cao
trôi
chảy
xuống
thấp,
tâm
con
người,
nếu
không
kiểm
soát
cụng
tự
nhiên
có
khuynh
hướng
xuôi
chiều
về
ác
pháp.
Lời
dạy
của
Ðức
Tôn
Sư
là: "Hãy
gấp
rút
làm
việc
thiện.
Hãy
chế
ngu
điều
ác
trong
tâm
vì
tâm
của
người
buông
lung,
dễ
duôi
bê
trễ
trong
việc
tạo
thiện
nghiệp
sẽ
ưa
thích
làm
việc
ác".
(Kinh
Pháp
Cú,
câu
116) Lời
dạy
này
khuyên
ta
nên
vận
dụng
mọi
cố
gắng
để
thanh
lọc
tâm
mỗi
khi
nó
ve
vãn
gần
điều
ác.
Tâm
ô
nhiễm
sẽ
thỏa
thích
trong
ác
pháp. 2-
Uốn
nắn
cái
Tâm.
Hành
thiền
là
thanh
lọc
tâm,
là
kiểm
soát,
rèn
luyện,
trau
giồi
và
phát
triển,
là
uốn
nắn
tâm.
Hành
thiền
không
phải
là
một
giấc
mơ
trầm
lặng
mà
là
cố
gắng
linh
động,
một
sinh
hoạt
tích
cực
của
tâm Phương
pháp
luyện
tâm
cũng
giống
như
đường
lối
tập
thú,
luyện
bò
chẳng
hạn.
Bò
nghé
vừa
lớn
lên,
muốn
rèn
luyện
cho
nó
đủ
thuần
thục
để
kéo
xe
hay
kéo
cày,
trước
tiên
người
ta
thả
nó
nhập
đàn.
Sáng
theo
bày
đi
ăn,
tối
lùa
về
chuồng.
Khi
nó
quen
sống
chung
với
những
con
khác
trong
khuôn
khổ
tập
thể
người
ta
bắt
đầu
xỏ
mũi:
Xỏ
sơị
dây
xuyên
qua
lỗ
mũi
rồi
choàng
vòng
lên
sừng.
Trên
sợi
dây,
mỗi
bên
có
thắt
một
lỗ
nhỏ.
Sau
đó
người
ta
cột
sơị
dây
dàm,
mỗi
sơị
vào
một
lỗ
của
dây
mũi.
Ðâu
kia
của
sợi
dây
dàm
thì
quấn
vào
một
cột
trụ
trồng
vững
dưới
đất. Hàng
ngày
người
ta
dùng
dây
dàm
để
điều
khiển
bò.
Tập
như
vậy
cho
đến
khi
có
thể
gác
cái
ách
lên
cổ
nó
và
sai
khiến
nó
làm
theo
ý
mình.
Bò
chỉ
có
thể
hữu
dụng
khi
được
rèn
luyện
tinh
thục.
Chừng
đó
có
thể
dùng
nó
để
kéo
xe
hay
kéo
cày,
hay
bất
luận
công
việc
nào
khác. Trong
phương
pháp
luyện
tâm,
tinh
nghiêm
trì
giới,
tự
khép
mình
vào
nếp
sống
giới
đức,
cũng
như
thả
bò
nhập
bầy,
sáng
theo
đàn
đi
ăn
và
chiều
lùa
về
chuồng.
Nếu
để
bò
nghé
sống
buông
lung
hoang
dại
có
thể
nó
sẽ
phá
khuấy
mùa
màng
hay
làm
hư
hại
cây
cối
vườn
tược
của
kẻ
khác.
Cũng
thế
ấy,
con
người
buông
lung
không
giới
đức
có
thể
bị
ba
nghiệp
-
thân,
khẩu,
ý
-
hoang
dại
của
mình
gây
tổn
hại
cho
người
khác
và
cho
mình,
rất
nguy
hiểm.
Tinh
tấn
chuyên
niệm
cũng
giống
như
xỏ
mũi
và
cột
dây
dàm
vào
trụ.
Người
hành
thiền
dùng
sơị
dây
niệm
(sati)
để
điều
khiển
tâm
mình,
không
để
nó
phóng
túng
buông
lung
chạy
nhảy
một
cách
hoang
dại
mà
giữ
nó
lại
và
sai
khiến,
đặt
nó
vào
đối
tượng
(đề
mục,
hay
công
án)
nào
mà
mình
muốn. Trạng
thái
luôn
luôn
khuấy
động
và
phóng
dật
mà
tâm
đã
quen
thuộc
từ
vô
lượng
kiếp
bây
giờ
đã
được
điều
phục,
lắng
dịu
và
an
trụ.
Cũng
như
bò
đã
được
rèn
luyện
thuần
thục
để
kéo
xe
hay
kéo
cày,
tâm
đã
sẵn
sàng
nhu
thuận
để
hành
thiền
--
thiền
vắng
lặng
hay
thiền
minh
sát
--Nếu
hành
giả
không
bắt
đầu
công
phu
hành
thiền
của
mình
bằng
phương
pháp
chú
niệm
làm
cho
tâm
trơ
nên
an
trụ
và
nhu
thuận
thì
không
khác
nào
người
chủ
bò
thiếu
kinh
nghiệm,
gác
ách
con
bò
hoang
dại
chưa
hề
bao
giờ
được
huấn
luyện.
Khi
bắt
nó
kéo
xe
hay
kéo
cày
ắt
nó
chạy
loạn,
không
thể
kềm
giữ
được.
Ðàng
khác,
người
đã
chú
tâm
an
trụ
có
thể
dễ
dàng
nhập
định
và
đc
các
tầng
Thiền
hoặc
khai
thông
tuệ
Minh
Sát
và
tiến
đến
các
Thánh
Ðạo
và
Thánh
Quả. Năm
Pháp
Triền
Cái:
Trong
khi
chuyên
cần
chú
niệm
người
hành
thiền
có
thể
gặp
nhiều
trở
ngại
nhưng
đặc
biệt
có
năm,
ngăn
chặn
công
phu
gom
tâm
và
ngăn
cản
con
đường
giải
thoát,
được
gọi
là
Chướng
Ngại
Tinh
Thần,
hay
Triền
Cái
(Nivarana,
Ni
+Var,
làm
trở
ngại,
ngăn
chận,
là
cái
gì
gây
trở
ngại
cho
tiến
bộ
tinh
thần). Năm
loại
chướng
ngại
tinh
thần
là:
Tham
dục,
oán
ghét,
hôn
trầm
dã
dượi,
phóng
dật
lo
âu
và
hoài
nghi. a)
Tham
dục
(
Kãmacchanda)
là
ham
muốn
duyên
theo
nhục
dục,
luyến
ái
ngũ
trần:
Sắc,
thinh,
hương,
vị,
xúc.
Một
người
ở
mức
trung
bình
thường
có
khuynh
hướng
chạy
theo
những
ham
muốn
có
tánh
cách
huyền
ảo
phù
du
của
thân,
nếu
không
đủ
khả
năng
để
kiểm
soát
và
khắc
phục
ắt
sẽ
bị
sa
đọa,
chìm
đắm
trong
dục
vọng.
Tham
dục
cũng
có
thể
là
những
hình
thức
khát
khao
tài
sản,
sự
nghiệp,
địa
vị,
quyền
thế,
danh
vọng
v.v... b)
Oán
ghét
(vyãpãda)
là
bất
mãn,
bất
toại
nguyện.
Những
gì
ưa
thích
dẫn
đến
luyến
ái.
Những
gì
trái
ngược
với
sở
thích
đưa
đến
ghét
bỏ,
giận
hờn,
thù
hận,
không
bằng
lòng,
bất
toại
nguyện
v.v...
Luyến
ái
và
ghét
bỏ
là
hai
ngọn
lửa
to
lớn
thiêu
đốt
thế
gian.
Chính
hai
loại
tâm
này,
được
vô
minh
hỗ
trợ,
đã
gây
tất
cả
những
điều
bất
hạnh
trong
đời. c)
Hôn
trầm
Dã
dượi
là
một
cặp
hai
yếu
tố
dính
liền
nhau
do
đặc
tính
chung
của
nó
là
trạng
thái
uể
oải.
Hôn
trầm
(thĩna)
là
trạng
thái
uể
oải
của
tâm
vương.
Dã
dượi
(middha)
là
trạng
thái
uể
oải
của
tâm
sở.
Một
trạng
thái
tâm
nhuể
nhoại
như
nhựa
dẻo
trên
khúc
gỗ
hay
một
miếng
bơ
cứng
khó
trét
ra.
Nên
ghi
nhận:
Ðây
chỉ
là
trạng
thái
tâm,
chớ
không
phải
tình
trạng
mệt
mỏi,
lười
biếng
cử
động
tay
chân.
Một
vị
A
La
Hán,
đã
tận
diệt
mọi
triền
cái,
đôi
khi
vẫn
còn
cảm
nghe
cơ
thể
mệt
mỏi.
Nghịch
nghĩa
với
dã
dượi
hôn
trầm
là
tinh
tấn
kiên
trì. d)
Phóng
dật
Lo
âu.
Phóng
dật
(uddhacca)
là
trạng
thái
bất
ổn
của
tâm
luôn
luôn
chao
động,
không
yên.
Ðó
là
tâm
trạng
liên
quan
đến
tất
cả
những
loại
tâm
bất
thiện.
Thông
thường
khi
hành
động
bất
thiện
thì
tâm
không
yên
mà
luôn
luôn
chao
động.
Lo
âu
(kukkucca)
là
tâm
trạng
lo
lắng,
hối
tiếc
một
hành
động
bất
thiện
đã
làm,
hoặc
một
hành
động
thiện
đã
bị
bỏ
lãng,
không
làm
hay
làm
không
hoàn
bị.
Ðúng
theo
tinh
thần
Phật
Giáo,
chính
sự
ăn
năn
hối
tiếc
một
hành
động
xấu
đã
làm
không
ngăn
cản
được
hậu
quả
không
tốt
của
nó.
Hối
tiếc
tốt
đẹp
nhất
là
quyết
tâm
không
lặp
lại
hành
động
bất
thiện
ấy
nữa. e)
Hoài
nghi
(Vicikicchã
=
Vi
là
không
chứa
đựng
+
cikicchã
là
trí
tuệ)
là
tâm
bất
định.
Hoài
nghi
ở
đây
không
phải
là
ý
muốn
tìm
hiểu
--
điều
mà
Phật
Giáo
luôn
luôn
khuyến
khích
nên
làm
--
mà
là
tâm
trạng
lưng
chừng,
không
quyết
định. Hoài
nghi
ở
đây
cũng
không
phải
là
thiếu
niềm
tin
nơi
Phật,
Pháp,
Tăng
vì
một
người
không
phải
Phật
tử,
không
có
niềm
tin
nơi
Tam
Bảo,
vẫn
có
thể
khắc
phục
Vicikicchã
và
đắc
Thiền
(Jhãna).
Hoài
nghi
là
một
chướng
ngại
tinh
thần
vì
nó
là
tâm
trạng
lỏng
lẻo,
không
nhất
quyết
về
điều
đáng
làm. Năm
triền
cái
kể
trên
là
những
chướng
ngại
tinh
thần
làm
phân
tán
sự
chú
tâm
và
lu
mờ
sự
bén
nhạy
của
trạng
thái
thức
tỉnh.
Một
cái
tâm
mà
bị
các
trở
lực
tệ
hại
ấy
ngăn
chặn
ắt
không
thể
thành
công
tập
trung
vào
một
đề
mục
nào
có
bản
chất
trong
sạch.
Nếu
không
có
Chánh
Tinh
Tấn,
hay
sự
nỗ
lực
chân
chánh,
thì
không
thể
điều
phục
năm
chướng
ngại
này. Năm
Chi
Thiền:
Trong
lúc
ngồi
thiền,
gia
công
như
vậy
thì
năm
triền
cái,
từ
đáy
sâu
của
dòng
nghiệp
có
thể
phát
hiện
dưới
hình
thức
ý
nghĩ,
hình
ảnh,
hoặc
cảm
xúc
như
ý
muốn
thiên
về
tham
dục,
hay
cảm
nghe
bực
tức,
buồn
phiền,
dã
dượi
lười
biếng,
chao
động
không
yên
hay
hoài
nghi.
Hành
giả
phải
hết
sức
khéo
léo,
nhẹ
nhàng
nhưng
nhất
quyết,
kiên
trì
tinh
tấn,
gia
công
đem
tâm
về
đề
mục,
đồng
thời
phát
triển
năm
yếu
tố
tinh
thần
gọi
là
chi
thiền
(Jhãnanga),
có
thể
tạm
thời
khắc
phục
các
triền
cái. Những
yếu
tố
tinh
thần
này
vẫn
hiện
hữu
lúc
bình
thừong
nhưng
khi
hành
thiền
nó
trở
nên
mạnh
mẽ,
linh
dộng
và
có
khả
năng
chuyển
tâm
đến
trạng
thái
định. Năm
chi
thiền
là:
Tầm,
Sát,
phỉ,
lạc,
trụ. a)
Tầm
(vitakka
=
vi
+
căn
takk),
Phạn
ngư
này
thừơng
được
dùng
trong
ý
nghiã
suy
tư.
Ở
đây
là
hướng
những
tâm
sở
đồng
phát
sanh
về
đối
tượng.
Theo
Bản
Chú
Giải,
ông
quan
đại
thần
hướng
dẫn
một
nông
dân
quê
mùa
vào
hoàng
cung
yết
kiến
vua
như
thế
nào
thì,
cùng
thế
ấy,
"Tầm"
hướng
dẫn
tâm
đến
đề
mục. Bình
thường,
tầm
là
một
tâm
sở
không
có
tánh
cách
đạo
đức,
tức
không
thiện
cũng
không
bất
thiện.
Khi
liên
hơp
với
tâm
thiện
(kusala
citta)
thì
nó
là
thiện,
và
khi
liên
hợp
với
tâm
bất
thiện
(akusala
citta)
nó
là
bất
thiện. Chi
thiền
Tầm
tạm
thời
khắc
phục
triền
cái
dã
dượi
hôn
trầm. b)
Sát,
cũng
được
gọi
là
tứ
(vicãra
=
Vi
+
căn
cãr)
là
di
động,
hay
di
chuyển
bất
định.
Sát,
quan
sát
hay
dò
xét,
có
nghĩa
là
liên
tục
áp
đặt
tâm
trên
đối
tượng.
Theo
Bản
Chú
Giải,
sát
là
cái
gì
di
động
quanh
quẩn
đối
tượng
và
có
đặc
tính
dò
xét.
Tầm
cũng
giống
như
con
ong
bay
hướng
về
hoa.
Sát
như
ong
quanh
quần
vo
ve
trên
cái
hoa.
Hai
chi
thiền
Tầm
và
Sát
liên
quan
với
nhau
rất
mật
thiết Chi
thiền
Sát
tạm
thời
khắc
phục
triền
cái
hoài
nghi. c)
Phỉ
(
piti,
xuất
nguyên
từ
căn
"pi")
là
thích
thú,
hoan
hỷ.
Phỉ
không
phải
là
một
loại
thọ
(vedannã)
như
thọ
lạc
(sukha).
Một
cách
chính
xác,
phỉ
là
tâm
sở
đến
trước
và
trong
khi
xuất
hiện,
báo
hiệu
rằng
sắp
có
thọ
lạc.
Có
năm
loại
Phỉ
là: -
Cái
vui
làm
rùng
mình,
rởn
óc,
hay
nổi
da
gà; Chi
thiền
Phỉ
tạm
thời
khắc
phục
triền
cái
oán
ghét,
bất
mãn,
bất
toại
nguyện. d)
Lạc
(sukha)
là
cảm
giác
an
lạc,
hạnh
phúc.
Ðặc
tính
của
Lạc
là
thỏa
thích
hưởng
thụ
điều
gì
mình
mong
muốn. Khách
lữ
hành
mệt
mỏi,
đi
trong
sa
mạc,
thấy
xa
xa
có
cụm
cây
và
ao
nước.
Trạng
thái
vui
mừng
cảm
nhận
triển
vọng
tốt
đẹp,
trước
khi
thọ
hưởng
là
phỉ.
Khi
đến
tạn
ao
nước,
trạng
thái
thỏa
thích
tắm
rửa
và
uống
nước
là
lạc. Ta
nên
phân
biệt
trạng
thái
thích
thú
tinh
thần
(
thọ
lạc,
sukha)
này
với
khoái
lạc
vật
chất.
Ðây
là
trạng
thái
thích
thú
không
liên
quan
đến
thú
vui
vật
chất
mà
trái
lại,
là
hậu
quả
dĩ
nhiên
của
sự
từ
bỏ
thú
vui
vật
chất.
Hạnh
phúc
Niết
Bàn
càng
tế
nhị
và
sâu
xa
cao
thượng
hơn
hạnh
phúc
của
Thiền
(Jhãna)
nhiều.
Hạnh
phúc
Niết
Bàn
không
còn
là
một
loại
cảm
giác
(thọ)
nữa
mà
là
sự
giải
thoát
trọn
vẹn
ra
khỏi
mọi
hình
thức
đau
khổ,
giống
như
trạng
thái
thoải
mái
dễ
chịu
của
người
tàn
phế
nay
được
phục
hồi
trở
lại
và
mạnh
khỏe
bình
thường. Chi
thiền
Lạc
tạm
thời
khắc
phục
triền
cái
lo
âu
phóng
dật. e)
Trụ
(
ekaggata
=
eka
+
agga
+
ta),
đúng
theo
ngữ
nguyên,
là
sự
an
trụ
tâm
vào
một
điểm
duy
nhất,
hay
nhất
điểm
tâm.
Hành
giả
chuyên
chú
gom
tâm
vào
đề
mục
cho
đến
khi
tâm
hoàn
toàn
vững
chắc
an
trụ
vào
đó,
bao
nhiêu
tư
tưởng
khác
đều
bị
gạt
bỏ
ra
ngoài. Chi
thiền
Trụ
tạm
thời
khắc
phục
triền
cái
tham
dục. 3-
Giải
phóng
cái
Tâm:
Ðể
kiểm
soát,
uốn
nắn
và
giải
phóng
tâm,
trong
Phật
Giáo
có
hai
loại
thiền. Theo
một
lối,
thiền
hành
giả
gom
tâm
vào
một
điểm
và
cột
chặt
tâm
lâu
dài
vào
điểm
duy
nhất
ấy
để
phát
triển
vắng
lặng,
an
lạc.
Danh
từ
Pàli
gọi
thiền
này
là
samatha
bhàvavà,
phương
pháp
trau
giồi
tâm
nhằm
làm
cho
nó
trở
nên
tĩnh
lặng.
Ta
gọi
là
thiền
chỉ,
thiền
định
hay
thiền
vắng
lặng. Lối
thiền
khác
là
vipassanà,
thiền
minh
sát
--
cũng
gọi
là
thiền
quán
hay
thiền
tuệ
--
hướng
tâm
định
soi
vào
đời
sống
để
chứng
ngộ
thực
tướng
của
vạn
pháp.
Ðại
Ðức
Piyadassi
giải
thích
như
sau: "...
Danh
từ
vipassanà
(vi
+
passanà),
trong
một
biến
thể,
có
nghĩa
là
"thấy
một
cách
phi
thường",
thấy
khác
với
lối
thấy
thông
thường,
do
hai
thành
phần
"passati"
là
thấy
và
"vi"
hàm
ý
đặc
biệt,
khác
lạ
hơn
thông
thường.
Như
vậy,
vipassanà
là
thấy
vượt
ra
ngoài
cái
gì
thông
thường,
là
minh
tuệ.
Ðây
không
phải
là
nhìn
thoáng
qua.
Cũng
không
phải
chỉ
nhìn
bên
trên
bề
mặt,
ở
mặt
ngoài
mà
nhìn
sâu
vào
bên
trong
Thực
Tại
của
đời
sống.
Chính
nhờ
cái
nhìn
sâu
sắc
căn
cứ
trên
tâm
hoàn
toàn
vắng
lặng
ấy
mà
hành
giả
tẩy
sạch
mọi
bợn
nhơ,
mọi
ô
nhiễm
ngủ
ngầm
để
thành
mục
tiêu
cuối
cùng,
Niết
Bàn.
Thiền
minh
sát
(vipassanà
bhàvanà)
là
loại
thiền
mà
chính
Ðức
Phật
đã
tìm
ra,
đã
thực
hành,
đã
thành
công
và
đã
ban
truyền,
trước
kia
chưa
từng
có,
và
ngoài
Phật
Giáo
không
có
..." Thiền
Vắng
Lặng. Thí
dụ
như
hành
giả
lấy
hơi-thở-ra-thở-vô
làm
đề
mục,
trụ
tâm
vào
điểm
mà
luồng
hơi
thở
ra
và
thở
vào
chạm
đến
--
có
thể
là
chót
mũi
hoặc
phía
trên
môi
trên.
Khi
hành
như
thế
ít
lâu
hành
giả
có
thể
hình
dung
rõ
ràng
cảm
giác
xúc
chạm
của
luồng
gió
vào
nơi
đụng
ấy.
Ðó
là
uggaha
nimitta,
ấn
tượng
hình
dung.
Không
để
gián
đoạn,
hành
giả
cố
tâm
vào
cái
hình
ảnh
phát
hiện
trong
tâm
ấy
một
cách
liên
tục
đến
khi
phát
triển
một
hình
ảnh
khái
niệm
(patibhàga
nimitta).
Sự
khác
biệt
giữa
ấn
tượng
hình
dung
(uggaha
nimitta)
với
ấn
tượng
khái
niệm
(patibhàga
nimitta)
là
trong
ấn
tượng
khái
niệm,
hình
ảnh
phát
sanh
do
tri
giác,
được
thanh
lọc
trong
sạch,
sáng
sủa
như
mặt
trăng
không
bị
mây
che,
còn
trong
ấn
tượng
hình
dung,
hình
ảnh
mù
mờ
như
mặt
trăng
nhìn
xuyên
qua
lớp
mây. Trong
lúc
liên
tục
chuyên
chú
gom
tâm
vào
khái
niệm
trừu
tượng
như
vậy
năm
pháp
triền
cái
tạm
thời
được
khắc
phục,
hành
giả
đạt
đến
mức
độ
gọi
là
cận
định
(upacàra
samàdhi). Vẫn
tiếp
tục
gia
công,
vào
một
lúc
nào
hành
giả
có
thể
nhập
định
(appanà
samàdhi,
định
trọn
vẹn)
và
đắc
Thiền
(Jhàna),
thọ
hưởng
trạng
thái
an
tĩnh
và
vắng
lặng
của
tâm
an
trụ.
Hai
trạng
thái
cận
định
và
định
chỉ
khác
nhau
ở
sức
mạnh
của
các
chi
thiền.
Lúc
cận
định
vẫn
có
đầy
đủ
năm
chi
thiền
nhưng
năng
lực
của
các
chi
thiền
chưa
được
vững
chắc,
giống
như
em
bé
tập
đi,
khấp
khểnh
bước
vài
bước
rồi
té
xuống.
Ðứng
dậy
đi
nữa,
rồi
té
xuống
nữa.
Khi
nhập
định
rồi
thì
giống
như
người
lớn
mạnh
khỏe,
đi
đứng
ngay
thẳng,
vững
vàng.
Năm
chi
thiền
-
tầm,
sát,
phỉ,
lạc,
trụ
--
đồng
thời
phát
sanh
mạnh
mẽ
bao
gồm
cái
được
gọi
là
Thiền
(Jhàna)
và
năm
pháp
triền
cái
tạm
thời
được
chế
ngự. Hành
giả
tiếp
tục
gia
công
và
phát
triển
Nhị
Thiền.
Ðến
đây,
hai
chi
thiền
đầu
tiên
--
tầm
và
sát
--
bị
loại
đi.
Hành
giả
đã
quen
thuộc,
không
còn
phải
qua
hai
giai
đoạn
tầm
và
sát
nữa
mà
thẳng
vào
phỉ
và
lạc
rồi
đến
trụ. Ðến
Tam
Thiền,
chi
thiền
phỉ
bị
loại,
chỉ
còn
lạc
và
trụ.
Cuối
cùng
đến
Tứ
Thiền,
luôn
cả
lạc
cũng
không
còn
mà
chỉ
có
xả
(upekkhà)
và
trụ.
Chi
thiền
xả
có
tầm
quan
trọng
đặc
biệt
về
mặt
đạo
đức
và
tâm
lý.
Ðây
không
phải
là
thọ
xả,
tức
thọ
vô
ký,
cảm
giác
không
vui
không
buồn.
Chi
thiền
xả
là
trạng
thái
tâm
bình
thản
giữa
những
hoàn
cảnh
thăm
trầm
của
đời
sống,
phải
do
một
ý
chí
mạnh
mẽ
phát
triển.
Nhận
định
rằng
chi
thiền
lạc
vẫn
còn
thô
kịch,
hành
giả
loại
trừ
luôn
chi
thiền
ấy
như
đã
loại
trừ
ba
chi
thiền
trước
và
trau
giồi,
phát
triển
chi
thiền
xả,
đắc
Tứ
Thiền,
tầng
cao
nhất
của
Thiền
Sắc
Giới. Ðã
thành
tựu
tất
cả
bốn
tầng
thiền
của
Thiền
Sắc
Giới,
hành
giả
chuyên
chú
gia
công
trau
giồi
Thiền
Vô
Sắc.
Trong
phần
chú
giải
quyển
Abhidhammattha
Sangaha,
Ðại
Ðức
Nàrada
viết
như
sau: "...
Vị
hành
giả
đã
có
phát
triển
Thiền
Sắc
Giới
(Rùpa
Jhàna)
và
bây
giờ
muốn
trau
giồi
Thiền
Vô
Sắc,
bắt
đầu
gom
tâm
vào
ấn
tượng
khái
niệm
(Patibhàga
nimitta,
đã
có
đề
cập
đến
ở
phần
trên).
Khi
chuyên
chú
gom
tâm
như
vậy
một
ít
lâu
hành
giả
thấy
một
đốm
sáng
nhỏ,
yếu,
giống
như
con
đôm
đốm,
phát
ra
từ
đối
tượng.
Hành
giả
ước
nguyện
rằng
ánh
sáng
nhỏ
này
sẽ
lớn
lên
dần
dần
cho
đến
bao
trùm
toàn
thể
không
gian.
Ðến
đây
hành
giả
không
còn
thấy
gì
khác,
ngoài
ánh
sáng
này,
cùng
khắp
mọi
nơi.
Không
gian
đầy
ánh
sáng
này
không
có
thiệt,
không
thật
sự
hiện
hữu,
không
phải
là
một
thực
tại,
mà
chỉ
là
một
hiện
hữu,
không
phải
là
một
thực
tại,
mà
chỉ
là
một
khái
niệm.
Gom
tâm
vào
đối
tượng
này
hành
giả
niệm
"àkàsa
ananto",
không
gian
vô
tận
vô
biên,
cho
đến
khi
phát
triển
Sơ
Thiền
Vô
Sắc,
tầng
Thiền
Vô
Sắc
đầu
tiên,
Không
Vô
Biên
Xứ,
cảnh
giới
không
gian
vô
biên. "Lấy
Sơ
Thiền
làm
đề
mục,
hành
giả
tiếp
tục
gom
tâm
vào
đó
và
niệm,
"vinnanam
anantam",
thức
vô
tận
vô
biên,
cho
đến
lúc
phát
sanh
Nhị
Thiền
Vô
Sắc,
Thức
Vô
Biên
Xứ,
cảnh
giới
thức
vô
biên. "Ðể
phát
triển
Tam
Thiền
Vô
Sắc,
Vô
Sở
Hữu
Xứ,
hành
giả
lấy
tâm
Sơ
Thiền
Vô
Sắc
làm
đề
mục
và
niệm
"natthi
kinci",
không
có
gì
hết. "Tứ
Thiền
Vô
Sắc
được
phát
triển
bằng
cách
lấy
Tam
Thiền
Vô
Sắc
làm
đề
mục.
Tam
Thiền
Vô
Sắc
này
vi
tế
đến
độ
ta
không
thể
quả
quyết
rằng
có
tâm
hay
không
có
tâm.
Khi
chăm
chú
ít
lâu
vào
Tam
Thiền
hành
giả
phát
triển
Tứ
Thiền,
Phi
Tưởng,
Phi
Phi
Tưởng. "Bốn
tầng
Thiền
Sắc
Giới
khác
nhau
do
các
chi
thiền.
Bốn
tầng
Thiền
Vô
Sắc
thì
khác
nhau
do
đề
mục
gom
tâm.
Sơ
Thiền
và
Tam
Thiền
Vô
Sắc
có
hai
khái
niệm
(pannati).
Ðó
là
khái
niệm
về
tánh
cách
vô
biên
của
không
gian
và
khái
niệm
về
hư
vô.
Tâm
Nhị
Thiền
lấy
tâm
Sơ
Thiền
làm
đề
mục.
Tâm
Tứ
Thiền
lấy
tâm
Tam
Thiền
làm
đề
mục
...
" Hành
giả
đã
tiến
đạt
đến
tuyệt
đỉnh
của
thiền
vắng
lặng.
Tuy
nhiên,
đến
tầng
vắng
lặng
cao
siêu
cùng
tột
này
hành
giả
vẫn
còn
chưa
trọn
vẹn
phát
triển
đủ
ánh
sáng
trí
tuệ
để
đánh
tan
đêm
tối
vô
minh
ngủ
ngầm
trong
luồng
nghiệp.
Vô
minh
và
ái
dục
giống
như
hai
con
thú
dữ.
Hành
giả
chỉ
nhốt
trong
chuồng
mà
không
diệt.
Ngày
nào
sút
chuồng
nó
sẽ
còn
là
tai
hại
lớn
lao.
Vì
lẽ
ấy
hành
giả
chưa
tuyệt
đối
châu
toàn,
chưa
thoát
ra
khỏi
vòng
sanh
tử
trong
Tam
Giới
(Dục
Giới,
Sắc
Giới
và
Vô
Sắc
Giới),
chưa
hoàn
toàn
giải
thoát. Trước
ngày
Thành
Ðạo
của
Bồ
Tát
Gotama,
chỉ
có
thiền
vắng
lặng,
samatha
bhàvanà.
Hai
vị
đạo
sư
lỗi
lạc
thời
bấy
giờ,
thầy
của
Bồ
Tát,
là
những
vị
đắc
thiền
cao
nhất,
lúc
ấy
chưa
ai
đạt
đến.
Các
Ngài
đã
tiến
đến
mức
cùng
tột
của
thiền
vắng
lặng
là
Phi
Tưởng,
Phi
Phi
Tưởng.
Chắc
chắn
đây
là
mức
rất
cao
của
tâm
định
khi
hành
giả
tạm
thời
trọn
vẹn
đè
nén,
khắc
phục
năm
triền
cái.
Các
chi
thiền
phỉ
và
lạc
phát
sanh,
đưa
đến
trạng
thái
tâm
tuyệt
đối
vắng
lặng
và
an
lạc.
Nhưng
Bồ
Tát
không
thỏa
mãn
với
những
thành
quả
ấy.
Ðã
kiểm
soát
và
khắc
phục
tâm,
tạm
thời
làm
chủ
mình,
nhưng
Ngài
nhận
định
rằng
bấy
nhiêu
đấy
chưa
đủ.
Thú
dữ
vẫn
còn
đó.
Phải
tận
diệt
mọi
nhiễm
ô
và
mọi
hoặc
lậu
mới
tuyệt
hậu
hoạn.
Mục
tiêu
cứu
cánh
của
Ngài
chỉ
là
chứng
ngộ
Chân
Lý
Cùng
Tột,
chứng
ngộ
Thực
Tại,
thấy
sự
vật
đúng
như
sự
vật
là
như
vậy,
tức
là
chứng
ngộ
ba
đặc
tướng
của
các
pháp
hữu
vi
là
vô
thường,
khổ,
vô
ngã.
Chính
nhờ
trí
tuệ
trực
giác
này
mà
Bồ
Tát
đập
vỡ
tung
cái
vỏ
Vô
Minh
dày
cứng
đã
bao
phủ
Ngài
từ
vô
lượng
kiếp
để
vượt
đến
Thực
Tại,
để
chứng
ngộ
tận
tường
và
trọn
vẹn
Bốn
Chân
Lý
Cao
Thượng
"trước
kia
chưa
từng
được
nghe". Thiền
Minh
Sát. Pháp
hành
mà
chúng
ta
thảo
luận
đến
đây
là
chú
niệm,
gom
tâm
an
trụ
vào
một
điểm
duy
nhất
và
không
biết
gì
ngoài
điểm
ấy.
Có
một
pháp
định
tâm
khác,
gọi
là
Thiền
Minh
Sát,
không
hạn
chế
đối
tượng
của
niệm
bằng
cách
chỉ
chú
tâm
vào
một
đối
tượng
bất
di
dịch
mà
hướng
tâm
vào
những
trạng
thái
luôn
luôn
biến
đổi
của
tâm
và
thân,
ghi
nhận
bất
luận
hiện
tượng
nào
xảy
diễn
đến
mình.
Công
phu
hành
thiền
của
hành
giả
là
giữ
chú
niệm
của
mình
bám
sát
vào
bất
luận
gì
mình
tri
giác,
nhưng
buông
bỏ
tất
cả,
không
bám
níu
gì
hết.
Trong
khi
tu
tập
theo
dõi
ghi
nhận
như
vậy
tâm
định
của
hành
giả
càng
lúc
càng
kiên
cố
cho
đến
một
lúc
nọ
trở
thành
nhất
điểm
tâm,
vững
chắc
trên
mỗi
điểm
của
luồng
trôi
chảy
luôn
luôn
biến
đổi
của
sự
vật.
Mặc
dầu
đối
tượng
đổi
thay,
di
động
như
thế
nào,
tâm
nhất
điểm
của
hành
giả
luôn
luôn
an
trụ
vững
vàng
vào
đó.
Tâm
định
vừa
vững
chắc
vừa
di
động
này
được
phát
triển
bằng
cách
thực
hành
Tứ
Niệm
Xứ:
niệm
thân,
niệm
thọ,
niệm
tâm,
niệm
pháp,
đây
là
"con
đường
duy
nhất
để
chúng
sanh
tự
thanh
lọc,
để
diệt
trừ
đau
khổ,
để
thành
đạt
trí
tuệ
và
để
chứng
ngộ
Niết
Bàn." Khác
biệt
giữa
Thiền
Vắng
Lặng
và
Thiền
Minh
Sát. Thiền
Vắng
Lặng
là
pháp
môn
nhằm
đè
nén
năm
triền
cái
và
định
tâm
trong
một
đối
tượng
nhất
định.
Tâm
phỉ
lạc
đưa
đến
chứng
đắc
các
tầng
Thiền
Sắc
Giới
và
Vô
Sắc
Giới.
Thiền
Minh
Sát
đưa
đến
một
loại
trí
tuệ
nhận
thức
rõ
ràng
ba
đặc
tướng
của
các
pháp
hữu
vi
là
vô
thường,
khổ,
vô
ngã. Trong
thiền
vắng
lặng,
hành
giả
chọn
và
xử
dụng
một
trong
số
các
môn,
như
nhãn
môn
hay
ý
môn.
Còn
các
môn
khác
thì
không
dùng.
Trong
thiền
minh
sát,
hành
giả
không
nhất
thiết
chọn
một
đề
mục
nào
mà
dùng
cả
sáu
môn
cùng
với
sáu
đối
tượng
của
nó. Trong
thiền
vắng
lặng,
khi
hành
giả
chọn
đề
mục,
dùng
tâm
quán
tưởng
ở
trong
đề
mục
ấy
cho
đến
lúc
tâm
có
đủ
năng
lực
đè
nén
năm
triền
cái,
năm
chi
thiền
dần
dần
hiện
rõ,
tâm
an
trụ
vững
trong
đề
mục
và
cuối
cùng
chứng
đắc
các
tầng
Thiền
(Jhàna).
Năm
triền
cái
đối
nghịch
với
thiền
vắng
lặng
vì
là
chướng
ngại,
cản
trở
tâm
an
trụ,
nhưng
không
đối
nghịch
với
thiền
minh
sát.
Niệm
về
năm
triền
cái,
tức
lấy
sự
hay
biết
năm
chướng
ngại
tinh
thần
này
làm
đề
mục
thiền,
là
một
phần
của
Niệm
Pháp. Ðối
tượng
của
thiền
minh
sát
là
thực
thể
pháp
trong
thời
hiện
tại,
những
gì
thật
sự
xảy
diễn
trong
khoảnh
khắc
hiện
tại.
Ðối
tượng
của
thiền
minh
sát
là
Tứ
Niệm
Xứ.
Các
đối
tượng
chế
định,
do
hành
giả
tự
tạo
như
ấn
chứng,
cảm
giác
hay
hình
ảnh
v.v...
không
thể
dùng
làm
đối
tượng
thiền
minh
sát,
chỉ
dùng
làm
đối
tượng
của
thiền
vắng
lặng. Dầu
thiền
vắng
lặng
và
thiền
minh
sát
có
sự
khác
biệt
nhau
song
thiền
vắng
lặng
có
thể
làm
nền
tảng
cho
thiền
minh
sát
như
trường
hợp
Ðức
Phật.
Ngài
tiến
cao
đến
mức
cùng
tột
của
thiền
vắng
lặng
là
Phi
Tưởng,
Phi
Phi
Tưởng
rồi
xả
thiền,
quán
chiếu
thân
và
tâm
Ngài,
dùng
chi
thiền
phỉ,
lạc
v.v...
làm
đối
tượng
và
thấy
rõ
vô
thường,
khổ,
vô
ngã.
Ðó
là
"thiền
minh
sát
dùng
thiền
vắng
lặng
làm
nền
tảng." Ta
cũng
có
thể
trực
tiếp
hành
thiền
minh
sát
mà
không
qua
thiền
vắng
lặng,
như
chỉ
quán
niệm
theo
bốn
oai
nghi,
đi,
đứng,
nằm,
ngồi. Ðể
giải
đáp
một
câu
hỏi
về
sự
khác
biệt
giữa
thiền
vắng
lặng
và
thiền
minh
sát,
Ngài
Acharn
Chah
--
một
thiền
sư
danh
tiếng
ở
Thái
Lan
--
nói: "...
Thật
dễ
hiểu.
Thiền
vắng
lặng
và
thiền
minh
sát
cùng
đi
chung
với
nhau.
Trước
tiên,
do
nhờ
pháp
hành
gom
tâm
an
trụ
vào
đề
mục,
tâm
trở
nên
an
tĩnh,
vắng
lặng.
Tâm
chỉ
vắng
lặng
trong
khi
ta
ngồi
thiền.
Ðó
là
thiền
vắng
lặng.
Căn
bản
tâm
định
sẽ
khởi
duyên,
tạo
điều
kiện
cho
trí
tuệ,
tuệ
minh
sát,
phát
sanh.
Ðến
mức
độ
này
tâm
luôn
luôn
vẫn
an
tĩnh,
dầu
ta
ngồi
nhắm
mắt
tham
thiền
nơi
vắng
vẻ
hay
đi
bách
bộ
giữa
phố
phường
nhộn
nhịp.
Nó
là
vậy.
Ngày
nào
còn
là
trẻ
con,
giờ
đây
lớn
khôn.
Ta
là
người
đứng
tuổi.
Em
bé
thủa
nào
và
người
đứng
tuổi
hiện
nay
có
phải
là
một
không?
Có
thể
nói
là
một.
Hoặc,
theo
một
lối
nhìn
khác,
có
thể
nói
là
hai
người
khác
biệt.
Cùng
thế
ấy,
ta
có
thể
tách
rời
thiền
vắng
lặng
và
thiền
minh
sát. "Chớ
tin
Sư
bằng
lời.
Hãy
thực
hành
đi,
rồi
tự
mình
sẽ
thấy.
Không
cần
phải
làm
gì
đặc
biệt.
Nếu
chăm
chú
quan
sát,
nhin
xem
trạng
thái
vắng
lặng
và
trí
tuệ
phát
sanh
thế
nào,
quý
vị
sẽ
tự
bản
thân
thấu
đạt
chân
lý.
Trong
những
năm
sau
này
người
ta
quá
chú
trọng
đến
danh
từ.
Họ
gọi
pháp
hành
của
họ
là
minh
sát
và
coi
rẻ
thiền
vắng
lặng.
Hoặc
họ
gọi
thiền
của
họ
là
vắng
lặng
và
hãnh
diện
nói
rằng
muốn
thành
công
thiền
minh
sát
phải
trải
qua
giai
đoạn
hành
thiền
vắng
lặng.
Tất
cả
những
lời
qua
tiếng
lại
ấy
là
điên
cuồng.
Chớ
nên
bận
tâm
suy
tư.
Chỉ
giản
dị
hành.
Tự
mình
sẽ
thấy
...."
1993/2536
-
Cái
vui
thoáng
qua
mau
lẹ
như
trời
chớp;
-
Cái
vui
tràn
ngập
như
sóng
biển
trườn
trên
bãi;
-
Cái
vui
thanh
thoát
đem
lại
cho
hành
giả
cảm
giác
nhẹ
nhàng
như
bông
gòn
lữnbg
lờ
bay
theo
chiều
gió.
-
Cái
vui
thấm
nhuần
toàn
thể
châu
thân
như
bong
bóng
được
thổi
phồng
hay
trận
lụt
tràn
ngập
cả
ao
vũng.
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
Nguồn: www.quangduc.com