|
Vì sao tin Phật
Hòa thượng K.
Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang
dịch Việt,
California,
Hoa Kỳ, 1997
Nguyên
tác: What Buddhists believe , Malaysia, 1987 |
---o0o---
Chương 14
ĐỀ
XƯỚNG MỘT NỀN VĂN HÓA NHÂN BẢN THỰC SỰ
-ooOoo-
TÔN GIÁO HIỆN ĐẠI
Phật Giáo đủ
mạnh để đối đầu với bất cứ quan điểm hiện đại nào
được đưa ra nhằm thách thức tôn giáo.
Những tư tưởng
Phật Giáo đóng góp phần to lớn vào sự phong phú của nền
tư duy kim cổ: Giáo lý về nguyên nhân và tương đối, học
thuyết về duy thức, về thực dụng, sự nhấn mạnh về đạo
đức, sự không chấp nhận một linh hồn thường còn, sự không
quan tâm về sức mạnh siêu nhiên bên ngoài, sự chối bỏ
nghi thức và nghi lễ tôn giáo không cần thiết, sự kêu gọi
sử dụng lý trí và kinh nghiệm, và sự tương hợp với các
khám phá khoa học hiện đại, tất cả quan điểm của Phật
Giáo nhằm thiết lập tính thích ứng ưu việt cho những yêu
cầu hiện đại.
Đạo Phật có thể đáp
ứng tất cả những đòi hỏi cho một tôn giáo hữu lý thích
hợp cho nhu cầu của thế giới tuơng lai. Phật giáo rất khoa
học, hữu lý, tiến bộ, xứng đáng cho một người trong
thế giới hiện đại này hãnh diện được tự gọi mình là
Phật Tử. Thật ra, Phật Giáo còn tính khoa học hơn phương cách
của khoa học; Phật Giáo còn tính xã hội hơn cả chủ nghĩa
xã hội.
Trong số những bậc
khai sáng tôn giáo vĩ đại chỉ riêng Đức Phật khuyến khích
tinh thần điều tra nghiên cứu của tín đồ, và Ngài khuyên
họ không nên chấp nhận bằng niềm tin mù quáng ngay cả đến
giáo lý của chính Ngài. Cho nên chẳng có gì quá đáng khi
gọi Đạo Phật là một tôn giáo hiện đại.
Phật Giáo là cả
một kế hoạch phối hợp rất tỉ mỉ về phương cách sống
một cuộc đời thực tiễn và một hệ thống tư tưởng
cẩn trọng của sự tự tu học. Nhưng hơn thế nữa Đạo
Phật là một phương pháp giáo dục rất khoa học. Tôn giáo này
có khả năng tốt nhất trong bất cứ khủng hoảng nào để
hồi phục được niềm an lạc nội tâm và giúp chúng ta bình
tĩnh đối đầu với bất cứ thay đổi xẩy ra trong tuơng
lai.
Không lạc thú giác
quan, liệu ta có thể chịu đựng nổi đời sống được không?
Không niềm tin vào sự bất tử, con người có thể có đạo
đức không? Không cầu viện đến thần thánh, con người có
thể tiến bộ đúng đường hướng được không? Được, đó
là câu trả lời của Phật Giáo. Những cứu cánh này có
thể đạt được bằng sự hiểu biết và bằng cách thanh
lọc tâm ý. Hiểu biết là chìa khóa tiến lên con đường cao
cả hơn. Thanh lọc tâm ý đem bình tĩnh, an lạc cho đời
sống và khiến cho con người không dính mắc và tách rời
hẳn được những cái bất thường của thế giới hiện tượng.
Đạo Phật quả là
một tôn giáo thích hợp cho thế giới hiện đại khoa học.
Ánh sáng đến từ thiên nhiên, từ khoa học, lịch sử, kinh
nghiệm của loài người, từ mọi nơi trong vũ trụ, được
rạng rỡ với Giáo Lý Cao Quí của Đức Phật.
TÔN GIÁO
TRONG THỜI ĐẠI KHOA HỌC
Tôn Giáo thiếu khoa
học sẽ bị tê liệt, khoa học thiếu tôn giáo sẽ bị mù quáng.
Ngày nay sống trong
thời đại khoa học, hầu hết mọi khía cạnh của cuộc đời
chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi khoa học. Từ khi nền cách
mạng khoa học khởi sự vào thế kỷ thứ mười bảy, khoa
học không ngừng ảnh huởng lớn lao đến những gì chúng ta
nghĩ và làm.
Tác động của khoa
học đặc biệt rất mạnh
mẽ đối với các niềm tin đạo giáo cổ truyền. Nhiều quan
niệm tôn giáo căn bản sụp đổ dưới áp lực của khoa
học hiện đại và không còn được chấp nhận bởi người
trí thức và những người hiểu biết am tường. Không còn có
thể thừa nhận chân lý chỉ nguồn gốc từ sự ức đoán
thuộc thần học hay căn cứ trên các quyền lực trong các
kinh điển tôn giáo biệt lập hẳn với cách nhìn khoa học.
Thí dụ, các nhà tâm lý hiện đại đã tìm ra và cho thấy là
tâm ý con người cũng giống như xác thân vật chất, hoạt động
theo các định luật thiên nhiên do nguyên nhân gây nên chứ không
có sự hiện hữu của linh hồn bất biến nào như một số tôn
giáo đã dạy.
Một số nhà tôn giáo
ưa không lưu ý gì đến những khám phá khoa học mâu thuẫn
với những giáo điều của họ. Thói quen tinh thần cứng
ngắc như vậy đương nhiên là một chướng ngại cho sự
tiến bộ của loài người. Từ khi người hiện đại không
chịu tin tưởng vào điều gì một cách mù quáng, dù rằng điều
ấy đã đưọc chấp nhận theo truyền thống, những nhà tôn
giáo này chỉ có thể thành công trong việc gia tăng hàng ngữ
những người không niềm tin bằng lý thuyết sai lầm
của họ mà thôi.
Mặt khác nhiều nhà tôn
giáo lại thấy cần điều chỉnh đại chúng chấp nhận lý
thuyết khoa học bằng cách đưa ra những giải thích mới về
giáo điều của họ. Đó là trường hợp về Thuyết Tiến Hóa
của Darvin. Nhiều nhà tôn giáo vẫn kiên định là con người
được tạo ra trực tiếp bởi Thượng Đế. Darwin, trái
lại, cho rằng con người tiến hóa từ loài khỉ, một học
thuyết đánh đổ giáo lý về quyền sáng tạo của thần thánh
và sự phạm tội của loài người. Từ khi những nhà tư tưởng
giác ngộ chấp nhận thuyết của Darwin, những nhà thần học
ngày nay không được chọn lựa gì hơn là đưa ra cách giải
thích mới về giáo lý của họ cho phù hợp với thuyết mà
trước đây họ đã từng chống đối.
Dưới ánh sáng của
những khám phá khoa học hiện đại, không mấy khó khăn để
hiểu rằng những quan điểm tôn giáo đối với vũ trụ và
đời sống chỉ thuần túy là những tư tưởng có tính cách
quy ước mà các tôn giáo đó đã thay thế vào từ lâu. Thông
thường quả đúng khi nói tôn giáo đã góp phần vĩ đại
trong công cuộc phát triển và tiến bộ của nhân loại. Tôn
giáo thiết lập các giá trị, các tiêu chuẩn và đặt ra các
nguyên tắc để hướng dẫn đời sống loài người. Tuy nhiên
với tất cả những gì tốt đẹp đã làm, tôn giáo vẫn khó
có thể tồn tại trong thời đại khoa học tiên tiến nếu
những tín đồ vẫn cứ khăng khăng nhốt chặt chân lý trong
các hình thức và giáo điều, vẫn cứ khích lệ các nghi lễ
và pháp môn mà ý nghĩa nguyên thủy đã bị thoái hóa.
PHẬT GIÁO VÀ KHOA
HỌC
Cho đến đầu thế
kỷ vừa qua, Đạo Phật chỉ giới hạn trong các quốc gia chưa
được tiếp xúc gì với khoa học hiện đại. Tuy nhiên, ngay
từ lúc đầu, Giáo lý của Đức Phật lúc nào cũng mở
rộng cách tư duy khoa học.
Lý do tại sao Giáo Lý
được tinh thần khoa học dễ dàng chấp nhận một cách
nhiệt tình là do Đức Phật không bao giờ khuyến khích niềm
tin cứng nhắc và giáo điều. Ngài không tuyên bố là Phật
Pháp căn cứ trên niềm tin, đức tin, hay thiên khải, mà là
để cho ta quyền tư duy linh động và tự do.
Lý do thứ hai là tinh
thần khoa học có thể tìm thấy trong phương cách mà Đức
Phật đã dùng để tiếp cận với Chân Lý. Phương pháp của
Đức Phật dùng khám phá và trắc nghiệm Chân Lý rất giống
phương pháp của nhà khoa học. Một khoa học gia quan sát thế
giới bên ngoài một cách khách quan, và chỉ thiết lập một
lý thuyết khoa học sau khi đã nhiều lần thực hành thành công
các thử nghiệm.
Sử dụng phương
thức giải quyết tương tự từ 25 thế kỷ trước, Đức
Phật quán chiếu thế giới nội tại bằng tâm buông bỏ và
khuyến khích đệ tử của Ngài không nên chấp nhận giáo lý
nào cho đến khi tự mình điều nghiên, phán đoán và kiểm
chứng được sự thật của giáo lý đó. Giống như nhà khoa
học ngày nay không cho rằng công trình thực nghiệm của mình
không thể bị lặp lại bởi người khác, Đức Phật cũng không
tuyên bố rằng kinh nghiệm Giác Ngộ của Ngài là độc
quyền của Ngài.
Vì vậy trong phương
thức chứng ngộ Chân Lý, Đức Phật là một nhà phân tích
giống như nhà khoa học ngày nay. Ngài thiết lập một phương
pháp thực hành thực tiễn, khoa học để đạt đến Chân Lý
Tối Thượng và chứng nghiệm Giác Ngộ.
Tuy Phật Giáo rất đồng
dạng với tinh thần khoa học, nhưng sẽ không đúng nếu ta đồng
hóa Phật Giáo với khoa học. Quả thực là những công trình
áp dụng thực tiễn của khoa học đã giúp cho nhân loại hưởng
một cuộc sống tiện nghi hơn và kinh nghiệm được những
thứ tuyệt vời mà trước đó không ai dám mơ ước. Khoa
học đã có thể làm cho con người bơi giỏi hơn cá, bay cao hơn
chim, và đi bộ trên cung trăng. Nhưng phạm vi kiến thức mà
trí tuệ quy ước của khoa học có thể chấp nhận được
bị giới hạn vào chỉ những bằng chứng đã thực nghiệm.
Và chân lý thuộc khoa học lại bị lệ thuộc vào sự thay đổi
không ngừng. Khoa học không thể giúp con người kiểm soát
được tâm mình và cũng chẳng giúp gì việc kiểm soát và hướng
dẫn về đạo đức. Cho dù đã đạt những kỳ công, khoa
học thật ra vẫn bị nhiều giới hạn mà Phật Giáo không
mắc phải.
GIỚI HẠN CỦA KHOA
HỌC
Người ta thường nghe
nói rất nhiều về khoa học về cái khoa học có thể làm, nhưng
rất ít về cái khoa học không thể làm. Kiến thức khoa học
bị giới hạn về dữ kiện nhận được từ các giác quan.
Khoa học không có khả năng nhận ra thực thể thăng hoa từ
dữ kiện giác quan. Chân lý của khoa học được xây dựng trên
sự quan sát thuần lý về các dữ kiện giác quan không ngừng
thay đổi. Cho nên chân lý của của khoa học là một chân lý
tương đối không đứng vững với thời gian. Và khoa học
gia, nhận thức được sự kiện này nên lúc nào cũng sẵn sàng
loại bỏ một lý thuyết nếu lý thuyết này sẽ được thay
bằng một lý thuyết khá hơn.
Khoa học cố gắng
hiểu thế giới bên ngoài và đã rõ ràng chỉ đề cập qua
loa thế giới bên trong con người. Cả đến khoa tâm lý học
thực ra cũng chưa tìm hiểu nguyên nhân cơ bản tâm trạng
bất an của con người. Khi một người bị dao động và chán
ghét đời sống, và thế giới nội tâm đầy xáo trộn và lo
âu, khoa học ngày nay vẫn chưa có lợi khí gì để giúp người
đó. Xã hội học phục vụ cho môi sinh có thể mang lại con
người một mức độ hạnh phúc nào đó. Nhưng không giống
như thú vật, con người cần phải có cái gì ngoài tiện nghi
vật chất và cần đến sự giúp đỡ để đương đầu với
các dao động và khổ đau phát xuất từ kinh nghiệm tiếp xúc
với cuộc sống hàng ngày.
Ngày nay nhiều người
bị phiền não vì sợ hãi, bồn chồn, và bất an. Khoa học
thất bại trong việc cứu họ. Khoa học không thể dạy một
người bình thường kiểm soát được tâm mình khi bị lôi
cuốn bởi thú tính đang đốt cháy nội tâm.
Khoa học có thể nào
làm cho con người tốt hơn không? Nếu có thể được thì
tại sao các hành động hung bạo và thủ đoạn vô luân đầy
rẫy tại các quốc gia rất tiến bộ về khoa học? Có
công bình không khi nói rằng mặc dầu đã đạt những tiến
bộ và những lợi ích đắc lực giúp cho con người, khoa
học vẫn không chuyển hóa được nội tâm con người: khoa
học chỉ càng làm họ nâng cao thêm cảm nghĩ lệ thuộc và
thiếu thốn? Thêm vào sự thất bại đã không mang được an
ninh đến cho nhân loại, khoa học còn làm cho mọi người
cảm thấy càng bất ổn hơn bởi sự đe dọa thế giới có
thể bị tàn phá đại quy mô.
Khoa học không thể
đưa ra một mục đích có ý nghĩa cho cuộc sống. Khoa học không
thể cung cấp những lý do rõ ràng cho kiếp sống của con người.
Thực ra, bản chất khoa học hoàn toàn thế tục và không quan
tâm gì đến mục tiêu tinh thần của con người. Duy vật
chủ nghĩa gắn liền với tư tưởng khoa học chối bỏ mục
tiêu tâm linh cao hơn sự thỏa mãn vật chất. Bởi cách lý
thuyết thiên về chọn lựa và các chân lý tương đối của
nó, khoa học không lưu ý đến một số vấn đề thiết yếu
nhất và bỏ lại nhiều câu hỏi không được trả lời.
Chẳng hạn, khi hỏi về những sự bất bình đẳng (khác
nhau) giữa người và người, khoa học không có một câu
giải thích nào về câu hỏi vượt quá phạm vi hẹp hòi của
khoa học này.
CÓ HỌC VÅN NGU DỐT
Đức Phật đã phát
hiện một tâm ý siêu việt không bị giới hạn vào dữ
kiện-giác quan và vượt qua cái luận lý giăng bẫy trong
phạm vi của sự nhận thức tương đối. Trái lại, trí thông
minh con người, được hành hoạt trên căn bản kiến thức do
thâu thập và tàng trữ, dù là trong lãnh vực tôn giáo,
triết học, khoa học hay mỹ thuật. Tâm thức chúng ta thu
nhận qua các giác quan, một loại thông tin yếu kém về
nhiều mặt. Chính những tín hiệu được tiếp thu hết sức
giới hạn này đã làm sự hiểu biết của ta về thế gian
bị bóp méo.
Một số người rất
hãnh diện là họ biết quá nhiều. Thực ra càng biết ít bao
nhiêu thì chúng ta lại càng chắc chắn nắm vững việc giải
thích bấy nhiêu ; càng biết nhiều bao nhiêu, chúng ta lại
thấy ra được sự giới hạn của mình bấy nhiêu.
Một học giả lỗi
lạc có lần viết một cuốn sách và coi đó là một kiệt
phẩm. ông ta cảm thấy cuốn sách này bao gồm tất cả
những hạt ngọc văn chương và triết lý. Rất hãnh diện
về thành quả này, ông đưa kiệt tác của ông cho một người
đồng nghiệp cũng tài giỏi như ông và yêu cầu đồng
nghiệp này xem lại cho ông. Thay vì hiệu đính, người đồng
nghiệp yêu cầu ông, tác giả viết vào một mảnh giấy tất
cả những gì ông biết và tất cả những gì ông không
biết. Tác giả ngồi xuống và suy nghĩ xâu xa, nhưng sau một
hồi lâu ông đã không viết được gì về những cái ông
biết. Rồi sang câu hỏi thứ hai, ông cũng lại chẳng viết
ra được tất cả những gì ông không biết. Cuối cùng, với
cái ngã đã đặt xuống mức thấp nhất, ông bỏ cuộc,
nhận định ra với tất cả những gì mình đã biết, thật
ra mình vẫn còn dốt nát.
Về phương diện này,
Socrates, một triết gia nổi tiếng thành Athen của Thế Giới
Cổ Xưa, khi hỏi về điều ông biết, ông trả lời: 'Tôi
chỉ biết một điều - là "tôi không biết"'.
VƯỢT QUA KHOA HỌC
Phật Giáo vượt qua
ra ngoài khoa học hiện đại trong việc chấp nhận một lãnh
vực hiểu biết rộng lớn hơn là lãnh vực cho phép bởi đầu
óc khoa học. Phật Giáo công nhận kiến thức sanh khởi từ các
giác quan cũng như công nhận kinh nghiệm thân chứng do sự
trau dồi tinh thần. Do rèn luyện và phát triển tập định tâm
cao độ, kinh nghiệm tôn giáo có thể hiểu được và kiểm
chứng được. Kinh nghiệm tâm linh này không phải là điều có
thể hiểu dưới cách thử nghiệm trong một ống nghiệm hay
quan sát dưới kính hiển vi.
Chân lý mà khoa học
khám phá chỉ tương đối và lệ thuộc vào những sự thay đổi,
trong khi chân lý khám phá bởi Đức Phật là chung kết và
tuyệt đối: Chân Lý của Giáo Pháp không thay đổi theo thời
gian và không gian. Hơn nữa, trái với cách thuyết lý có tính
cách chọn lựa của khoa học, Đức Phật khuyến khích người
trí không nên bám níu vào các lý thuyết về khoa học hay về
những lãnh vực khác. Thay vì thuyết lý, Đức Phật dạy nhân
loại làm sao sống một cuộc đời chính đáng cũng như để
tìm ra Chân Lý Tối Thuợng. Bằng cách sống một cuộc đời
đứng đắn, bằng cách làm lắng dịu các giác quan, và bằng
cách buông bỏ hết tham ái. Đức Phật chỉ con đường để
chúng ta có thể khám phá ngay trong chính chúng ta ra được
bản chất của kiếp sống, và cũng có thể tìm thấy được
mục đích thực sự của cuộc đời.
Sự tu tập rất quan
trọng trong Phật Giáo. Một người học nhiều nhưng không tu
tập giống như một người có thể đọc ra các công thức
nấu nướng từ một cuốn sách gia chánh đồ sộ chất lượng
mà lại không cố gắng nấu ra một món ăn nào. Người đó
không thể hết đói được bằng kiến thức trong sách vở.
Tu tập là một điều kiện tiên quyết của sự giác ngộ mà
một số trong các trường phái Phật Giáo, như Thiền Tông
phải được thực hành ngay cả trước kiến thức.
Phương pháp khoa học
hướng ra ngoài, và các khoa học gia hiện đại khai thác thiên
nhiên và những yếu tố cho tiện nghi của họ, thường khi
họ không lưu tâm đến nhu cầu phải hòa hợp với môi sinh và
do đó làm ô nhiễm thế giới. Ngược lại, Phật Giáo hướng
vào bên trong, và quan tâm đến sự phát triển nội tâm. Ở
một mức độ thấp hơn, Phật Giáo dạy cá nhân làm sao điều
chỉnh và đối đầu với những biến chuyển và hoàn cảnh
của đời sống hàng ngày. Trên một mức độ cao hơn, Đạo
Phật tượng trưng nỗ lực của con người muốn vượt lên
khỏi chính họ do sự tu tập trau dồi tinh thần hay phát
triển trí tuệ.
Phật Giáo có một
hệ thống hoàn chỉnh về rèn luyện tinh thần liên quan với
việc đạt đưọc tuệ giác về thực tướng của sự vật
để dẫn đến sự tự chứng ngộ hoàn toàn Chân Lý Tối Thượng
- Niết Bàn. Hệ thống này vừa thực tiễn vùa khoa học, nó
bao gồm sự quan sát vô tư những trạng thái cảm xúc và tinh
thần. Giống một nhà khoa học hơn là một vị thẩm phán, người
hành thiền quan sát thế giới bên trong bằng tâm chánh niệm.
KHOA HỌC KHÔNG TÔN GIÁO
Nếu không có lý tưởng
đạo đức, khoa học là mối nguy cơ cho toàn thể nhân loại.
Khoa học tạo máy móc, máy móc trở thành chúa tể. Đạn và
bom là những món quà của khoa học cho một thiểu số có uy
quyền mà định mệnh thế giới tùy thuộc vào họ. Trong lúc
đó thì số nhân loại còn lại sống chờ đợi khổ não,
sợ hãi, không biết lúc nào các vũ khí hạch nhân, hơi độc,
vũ trang chết người - những thành quả của nghiên cứu khoa
học làm ra để giết chóc rất hiệu nghiệm - sẽ được
sử dụng tới họ. Khoa học không chỉ hoàn toàn bất lực
trong việc cung cấp cương lĩnh đạo đức cho nhân loại mà còn
đổ dầu thêm vào ngọn lửa ái dục của con người.
Khoa học mà thiếu đạo
đức chỉ có nghĩa là phá hoại: Khoa học trở thành con quái
vật khổng lồ tàn bạo mà con người khám phá ra. Và bất
hạnh, chính con quái vật này càng ngày càng trở nên hung hãn
hơn cả con người. Nếu con người không tìm cách chế ngự và
điều khiển con quái vật đó bằng sự tu tập đạo lý, con
quái vật này không bao lâu sẽ áp đảo con người. Không có
sự hướng dẫn của tôn giáo, khoa học đe dọa thế giới
bằng sự tàn phá. Trái lại, khoa học khi đi đôi với tôn giáo
như Phật Giáo có thể biến đổi thế giới này thành một
thiên đường thanh tịnh, an ổn và hạnh phúc.
Không lúc nào như bây
giờ là lúc hết sức cần thiết có sự hợp tác giữa khoa
học và tôn giáo vì lợi ích và phục vụ tốt nhất cho nhân
loại. Tôn giáo không khoa học sẽ bị tê liệt, khoa học
không tôn giáo sẽ bị mù quáng.
VINH DANH PHẬT GIÁO
Trí tuệ của Phật Giáo
thiết lập trên nền tảng từ bi giữ một vai trò thiết
yếu nhằm sửa sai hướng đi nguy hiểm của khoa học hiện đại.
Phật Giáo có thể cống hiến sự lãnh đạo tinh thần để hướng
dẫn công cuộc nghiên cứu và phát minh của khoa học, đẩy
mạnh một nền văn hóa rực rỡ cho tương lai. Phật Giáo có
thể cung cấp các mục tiêu giá trị cho sự tiến bộ của
khoa học đang đứng trước một con đường vô vọng bế
tắc vì bị nô lệ bởi chính những phát minh của mình.
Albert Einstein đã ca
ngợi Phật Giáo khi ông viết trong bài tự thuật của ông:
"Nếu có tôn giáo nào có thể đương đầu với nhu
cầu khoa học hiện đại, thì đó phải là Phật Giáo".
Phật Giáo không cần phải xét lại để "cập nhật hóa"
với những khám phá khoa học gần đây. Phật Giáo không cần
thiết phải đầu hàng khoa học về quan niệm của mình vì
Phật Giáo bao gồm khoa học mà còn vượt qua khoa học. Phật
Giáo là cây cầu nối giữa tư tưởng tôn giáo và khoa học
bằng cách động viên con người khám phá những tiềm năng
thầm kín trong chính con người và môi trường chung quanh. Phật
Giáo không bị ảnh hưởng bởi thời gian!
TÔN GIÁO CỦA TỰ DO
Phật Giáo là tôn giáo
của tự do và lý trí cho con người sống một cuộc đời cao
thượng.
Phật Giáo không cấm
cản một người nào học hỏi giáo lý của các đạo khác.
Thực ra, Đức Phật khuyến khích các tín đồ tìm hiểu về
những đạo khác và so sánh giáo lý của Ngài với giáo lý
của các tôn giáo khác. Đức Phật dạy nếu tôn giáo nào có
giáo lý hợp với lẽ phải và thuần lý trí, các tín đồ
của ngài được tự do tôn trọng những giáo lý ấy. Có
một số nhà tôn giáo cố gắng kìm giữ các tín đồ của mình
trong tối tăm, có tín đồ không được phép chạm đến
những đồ vật hay sách vở của tôn giáo khác. Họ bị chỉ
thị không được nghe những lời thuyết giảng của tôn giáo
khác. Các tín đồ bắt buộc không được nghi ngờ giáo lý
của tôn giáo mình dù giáo lý đó có thể không thuyết phục
được họ. Càng bắt các tín đồ nghĩ theo một chiều, các
tôn giáo ấy càng dễ dàng nắm vững được họ. Nếu một
ai sử dụng tự do tư tưởng và nhận thấy lúc nào mình cũng
ở trong tối tăm, thì các tôn giáo viện lý đó là ma quỷ đã
nắm hồn người đó. Con người tội nghiệp đó không được
cho cơ hội sử dụng lương tri, giáo dục, hay trí thông minh
của mình. Những ai mong muốn thay đổi quan điểm về tôn giáo
thì được dạy rằng phải tin tưởng là họ không đủ toàn
hảo để được sử dụng tự do ý chí trong việc phán xét
bất cứ điều gì cho chính họ.
Theo Đức Phật, tôn
giáo nên để cho cá nhân có quyền tự do lựa chọn. Tôn giáo
không phải là luật pháp mà là hệ thống kỷ luật nên hành
theo với óc hiểu biết. Với người Phật Tử, nguyên lý đạo
giáo thực sự chẳng phải là luật lệ do thần quyền, cũng
chẳng phải luật pháp của con người mà là định luật thiên
nhiên.
Trong thực tế hiện
nay, không có tự do tôn giáo thực sự ở bất cứ phần đất
nào trên thế giới này. Con người không có cả đến tự do
để suy nghĩ. Khi một người nhận định không tìm thấy sự
thỏa mãn với tôn giáo mình đang theo nó không giải đáp
thỏa đáng một số vấn đề nào đó, người đó không được
tự do chối bỏ nó để chấp nhận một tôn giáo khác đáp
ứng người ấy. Lý do là vì các thẩm quyền tôn giáo, các
nhà lãnh đạo, và thân quyến đã lấy đi mất sự tự do
của người đó. Con người không được chọn lựa tôn giáo
theo nhận thức của mình. Ta không có quyền gì bắt người
khác phải chấp nhận một tôn giáo đặc biệt nào đó. Một
số người bỏ đạo mình vì tình, không hiểu rõ tôn giáo
của người hôn phối. Không nên thay đổi đạo để chiều
theo cảm xúc và các nhược điểm của con người. Ta phải
suy nghĩ rất cẩn thận trước khi đổi đạo. Tôn giáo không
phải là một vấn đề để thương lượng mua bán; không nên
đổi đạo để được lợi lạc vật chất cá nhân. Tôn giáo
dùng cho việc phát triển tinh thần và tự giải thoát.
Người Phật Tử không
bao giờ cố gây ảnh hưởng để người đạo khác đến và
theo đạo mình vì lợi lạc vật chất. Người Phật Tử cũng
chẳng lợi dụng sự nghèo đói, bệnh tật, mù chữ và ngu
muội của con người để gia tăng dân số Phật Tử. Đức
Phật khuyên những ai muốn theo Ngài, đừng nên vội vàng
chấp nhận giáo lý của Ngài. Ngài khuyên họ hãy nghiên cứu
cẩn thận giáo lý đó có thực tiễn mà họ có thể theo được
hay không.
Đạo Phật dạy rằng
niềm tin suông hay nghi thức bên ngoài không đủ để đạt trí
tuệ và sự toàn hảo. Trong ý nghĩa đó việc chuyển hoán bên
ngoài trở nên vô nghĩa. Động viên Phật Giáo bằng sức
mạnh ắt có nghĩa là muốn truyền bá công bằng và tình thương
bằng phương tiện áp bức và bất công. Không quan trọng gì
đối với một người theo Đức Phật có tự gọi mình là
Phật Tử hay không. Phật Tử biết rằng chỉ do sự hiểu
thấu và sự hành trì của chính mình mới có thể gần tới
mục tiêu mà Đức Phật đã giảng dạy.
Trong đồ chúng của
mọi tôn giáo đều có những kẻ cuồng tín. Cuồng đạo
rất nguy hiểm. Kẻ cuồng tín tự mình không thể đi đúng
đường theo lẽ phải và ngay cả theo các nguyên tắc khoa
học quán sát và phân tích. Theo Đức Phật, một Phật Tử
muốn phát triển tâm linh phải là một người tự do với
một tâm hồn cởi mở và không là công cụ cho một ai cả.
Phật Tử nương tựa nơi Đức Phật, nhận Ngài là nguồn
chỉ đạo và cảm hứng tối cao. Người đó nương tựa nơi
Đức Phật không phải do mù quáng mà là do hiểu biết. Đối
với Phật Tử, Đức Phật không phải là vị cứu tinh, cũng
chẳng phải là một vị thần có nhân dạng và thần thông
rửa sạch được tội lỗi của người khác. Người Phật
Tử xem Đức Phật như vị Thầy chỉ dạy họ con Đường đi
đến giải thoát .
Phật Giáo bao giờ cũng
ủng hộ sự tự do và tiến bộ của nhân loại. Phật Giáo
bao giờ cũng tán thành công cuộc phát huy kiến thức và tự
do con người trong mọi phạm vi của đời sống. Không có
một điều gì trong Phật Pháp cần phải loại bỏ trước
những phát minh và kiến thức khoa học hiện đại. Khoa học
càng khám phá ra các điều mới lạ, thì lại càng tiến đến
gần Đạo Phật hơn.
Đức Phật giải phóng
con người thoát khỏi sự trói buộc của tôn giáo. Ngài cũng
giải thoát con người khỏi sự độc quyền và chuyên chế
của giới tăng lữ. Chính Đức Phật là người đầu tiên
khuyên con người vận dụng lý trí và đừng để mình bị
dẫn dắt như trâu bò ngu tối, tuân theo tín điều của tôn
giáo. Đức Phật tán thành tính duy lý, dân chủ, và tác phong
thực tiễn, đạo đức trong tôn giáo. Ngài giới thiệu tôn
giáo để mọi người tu tập đúng với phẩm cách của con người.
Đức Phật khuyên
nhủ các thiện tín không nên tin vào một điều gì mà không
xem xét cho đứng đắn. Trong Kinh Kulama, Đức Phật đưa ra
những cương lĩnh cho một nhóm thanh niên như sau:
"Không nên chấp
nhận điều gì căn cứ:
Chỉ theo báo cáo, truyền thống hay tin đồn,
Chỉ theo tài liệu trong kinh sách
Chỉ theo các lý lẽ và lập luận
Chỉ theo sự can thiệp của riêng mình
Chỉ theo điều gì có vẻ là đúng
Chỉ theo kiến giải riêng mình
Chỉ theo tài năng dường như có của người khác.
Chỉ theo lý do: Điều ấy là của Thầy mình".
"Nhưng khi chính
các bạn biết những điều gì bất thiện và xấu xa có
khuynh hướng làm hại bạn và người khác, hãy loại bỏ các
điều đó đi.
"Và khi chính các
bạn biết những điều gì thiện và tốt đẹp, dẫn đến
phúc lợi tinh thần của bạn và người khác, hãy chấp
nhận và hành theo những điều đó".
Người theo Phật được
khuyên dạy chỉ chấp nhận và tu tập sau khi đã cẩn thận
quan sát và phân tích, và sau khi chắc chắn các phương pháp
hợp với lẽ phải dẫn đến điều thiện cho mình và cho người
khác.
Người Phật Tử chân
chính không ỷ lại vào sức mạnh bên ngoài để được
giải thoát, và cũng không mong cầu thoát khỏi cảnh khổ
nhờ sự can thiệp của một thần quyền không biết rõ nào.
Người tu Phật tận lực nhổ hết gốc rễ phiền não trong tâm
để đạt được hạnh phúc trường cửu. Đức Phật dạy:
"Nếu ai nói xấu Như Lai, giáo lý và các đệ tử của Như
Lai, không nên bất bình và xao xuyến, vì nếu phản ứng như
thế chỉ làm hại mình. Mặt khác, nếu ai tán dương Như Lai,
giáo lý và các đệ tử của Như Lai, cũng đừng vì thế mà
vui mừng, xúc động và hãnh diện, vì phản ứng như vậy
chỉ làm trở ngại cho sự phán đoán chính đáng. Nếu ta hãnh
diện, ta không thể suy xét các điều tán dương có đúng là
thật và của chính nơi chúng ta hay không. (Kinh Brahma Jala). Đó
là thái độ vô tư một Phật Tử chân chính.
Đức Phật phát huy
sự tự do tới mức độ cao nhất không chỉ ở tinh hoa tốt
đẹp của con người mà cũng ở trong các phẩm tính siêu phàm.
Đó là sự tự do mà không tước đoạt phẩm giá của con người.
Đó là sự tự do giải phóng con người khỏi nô lệ vào tín
điều và luật lệ độc đoán hay những hình phạt của tôn
giáo.
NHỮNG NHÀ HOẰNG
TRUYỀN GIÁO PHÁP
"Hãy tiến lên, các
Thầy Tỳ-Kheo, cho điều thiện và hạnh phúc của nhiều người,
vì lòng từ bi cho thế gian cho điều thiện, lợi ích và
hạnh phúc của trời và người". (Đức
Phật)
Khi chúng ta dở lại các
trang sử Phật Giáo, chúng ta thấy những nhà truyền giáo Đạo
Phật đã đưa ra bức thông điệp cao quí của Đức Phật
trong một đường lối hòa bình và tôn kính. Sứ mạng hòa bình
như vậy khiến những ai đã dùng phương pháp bạo động để
truyền bá tôn giáo của mình phải nên hổ thẹn.
Những nhà hoằng
truyền Phật Pháp không tranh đua với người tôn giáo khác để
đổi đạo người ta giữa nơi phố chợ. Không có nhà hoằng
pháp hay nhà sư nào của Phật Giáo đã thuyết giảng ác ý
với những người "không tin đạo". Tính bất khoan
dung trong tôn giáo, trong văn hóa và quốc gia không phải là thái
độ Phật Giáo nơi những người thấm nhuần tinh thần Phật
pháp thực sự. Gây hấn không bao giờ được tìm thấy trong
lời dạy của Đức Phật.Thế giới đã nhuốm máu và đau
khổ đủ rồi do bệnh của giáo điều, của cuồng đạo và
thiếu khoan dung. Trong tôn giáo hay trong chính trị, người ta
đã cố tình ra sức lôi kéo nhân loại chấp nhận cách sống
của mình. Khi làm như vậy, có nhiều khi họ đã tỏ thái độ
thù nghịch với các tín đồ của tôn giáo khác.
Phật Giáo không tranh
chấp với các truyền thống, tập tục, mỹ thuật và văn hóa
quốc gia mà các dân tộc đã chấp nhận như một lối sống
mà còn để chúng thăng hoa hiện hữu. Thông điệp về tình
thương và từ bi của Đức Phật đã rộng mở cõi lòng
những người có thiện chí chấp nhận giáo lý của Ngài, do
đó Đạo Phật trở thành một tôn giáo thế giới. Những
quốc gia độc lập đã đón mời và hân hoan chào mừng
những nhà truyền giáo Đạo Phật với lòng tôn kính xứng đáng.
Phật Giáo không bao giờ dùng ảnh hưởng của thực dân hay
của bất cứ sức mạnh chính trị nào để truyền bá đến
bất cứ một quốc gia nào cả.
Phật Giáo là một
lực lượng tinh thần đầu tiên được biết trong lịch sử
đã quy tụ được một số các chủng tộc ngăn cách bởi
những chướng ngại khó khăn nhất như xa xôi, ngôn ngữ, văn
hóa và luân lý. Động lực chính không phải là tranh đoạt
thị trường quốc tế, xâm lấn đất đai quyền lực hay thúc
đẩy di dân để chiếm lĩnh lãnh thổ mới. Mục tiêu của
Phật Giáo là chỉ cho người dân làm thế nào đạt được bình
an và hạnh phúc hơn bằng cách tu tập Phật Pháp.
Một tấm gương sáng
chói của những đức tính và phương cách giải quyết trong công
cuộc hoằng pháp là Hoàng Đế Asoka (A Dục). Vào thời đại
Hoàng Đế Asoka, Phật Giáo truyền bá đến nhiều quốc gia Á
Châu và các quốc gia Tây Phương. Hoàng Đế này gửi những
nhà truyền giáo Phật Giáo đến nhiều phần đất trên thế
giới để giới thiệu thông điệp hòa bình của Đức Phật.
Hoàng Đế Asoka kính trọng và ủng hộ mọi tôn giáo vào
thời ấy. Thái độ khoan dung của Ngài với các tôn giáo khác
thật phi thường. Một trong những dòng chữ khắc trên bia
trụ đá Asoka, hiện còn tồn tại đến ngày nay tại Ấn Độ
đọc như sau:
"Ta không nên
chỉ tôn vinh tôn giáo riêng của mình và chỉ trích các tôn
giáo khác, mà ta nên kính trọng tôn giáo của những người
khác vì lý do này hay lý do nọ. Làm như vậy là giúp tôn giáo
mình phát triển và cũng là giúp ích các tôn giáo khác. Hành
động ngược lại là chính ta đã đã đào huyệt cho tôn giáo
mình và cũng làm hại cho tôn giáo khác. Bất cứ ai vinh danh tôn
giáo mình và chỉ trích tôn giáo khác do lòng sùng mộ đạo mình,
"nghĩ rằng làm như vậy sẽ làm rạng danh tôn giáo mình',
nhưng ngược lại, chính là đã làm tổn thương nghiêm trọng
tôn giáo mình, vậy nên hòa thuận thì tốt hơn. Hãy lắng
nghe tất cả, sẵn sàng lắng nghe những học thuyết của các
tôn giáo khác".
Vào năm 268 trước Tây
Lịch, Ngài đã biến giáo lý của Đức Phật thành một lực
lượng sống động tại Ấn Độ. Các bệnh viện, cơ sở xã
hội, trường đại học cho nam và nữ, các giếng nước công
cộng, và trung tâm giải trí được thiết lập do phong trào
mới của Ngài, và nhờ đó người dân nhận thức được
sự tàn bạo của những cuộc chiến tranh phi lý.
Thời đại vàng son
trong lịch sử Ấn và các nuớc khác tại Á Châu, giai đoạn
mà mỹ thuật, giáo dục, văn hóa, và văn minh tiến tới tột
đỉnh - bộc phát vào thời kỳ ảnh hưởng Phật Giáo mạnh
nhất tại các xứ này. Các cuộc thánh chiến, các cuộc
viễn chinh thập tự giá, những tòa án dị giáo, và những
sự kỳ thị tôn giáo không làm hoen ố biên niên sử của các
quốc gia Phật Giáo. Viện Đại Học vĩ đại Nalanda tại Ấn
thăng hoa từ thế kỷ thứ hai đến thứ kỷ thứ chín là
một sản phẩm của Phật Giáo. Đây là viện đại học đầu
tiên mà chúng ta được biết và đã mở cửa cho học sinh
khắp năm châu thế giới.
Trong quá khứ, Phật
Giáo đã có khả năng hiện diện tại nhiều xứ sở Phương
Đông mặc dù phưong tiện truyền thông và chuyên chở rất khó
khăn và người ta phải vượt qua núi non và sa mạc. Mặc dù
những khó khăn trở ngại ấy, Phật Giáo vẫn truyền bá
thật xa và thật rộng. Ngày nay, thông điệp hòa bình này đang
lan tràn tại Tây Phương. Những người Tây Phương chú ý đến
Đạo Phật và tin tưởng Phật Giáo là tôn giáo duy nhất có
thể hòa hợp với khoa học hiện đại.
Những nhà hoằng hóa
Phật Pháp thấy không cần hay không muốn đổi đạo những
người đã có một tôn giáo thích hợp để tu tập. Nếu h?
thấy thỏa mãn với tôn giáo của họ, thì không cần đến
những nhà truyền bá Phật Giáo đổi đạo cho họ. Các nhà
giáo hóa Đạo Phật hoàn toàn hỗ trợ các nhà truyền đạo
của các đức tin khác nếu những lý tưởng của những vị
này là chuyển hóa những kẻ độc ác, tội lỗi và vô học
thành người biết sống một đời sống đạo hạnh. Người
Phật Tử hoan hỉ khi nhìn thấy sự tiến bộ của các tôn giáo
khác bao lâu mà những tôn giáo này thực sự giúp đỡ người
dân sống một cuộc đời đạo hạnh theo niềm tin của họ và
vui hưởng hòa bình, hòa hợp và hiểu biết. Mặt khác các nhà
hoằng pháp Đạo Phật cảm thấy đáng tiếc về thái độ
của một số nhà truyền giáo đã phiền hà các tín đồ
của đạo khác bởi không cần gì phải tạo thêm một bầu
không khí cạnh tranh không lành mạnh để quy nạp đổi đạo
nếu mục đích của họ chỉ là dạy người dân sống hợp
đạo lý.
Khi giới thiệu Giáo
Pháp với người khác, nhà truyền bá Đạo Phật không bao
giờ đem sự tưởng tượng quá đáng vẽ lên cuộc sống thiên
đường để lôi cuốn lòng ham muốn của con người và làm
khởi sanh lòng tham dục của họ. Thay vì như vậy, các vị này
cố gắng giảng giải cho họ hiểu bản chất thực sự về
đời sống con người và của thiên giới như Đức Phật đã
từng dạy.
-ooOoo-
Ðầu
trang | Mục lục | 01
| 02 | 03 |
04
| 05a | 05b |
06
| 07 | 08 |
09
| 10 | 11 |
12
| 13 | 14 |
15
| 16 | 17
--- o0o ---
Trình bày:
Chân Đức & Nguyên Thảo
Cập
nhật
ngày:
01-11-2002
|