A. Tổng Quát về Tứ Thánh Ðế
Sau
ngày giác ngộ Vô Thượng Bồ-đề, khi quyết định lên
đường giáo hóa, Thế Tôn rời khỏi cột Bồ-đề ở Ưu-lâu-tần-loa
(Uruvelà), đi đến Ba-la-nại (Bàrànasì), chỗ chư Tiên Ðọa
Xứ (Isipatana), ở vườn Nai (Migadaya) để khởi đầu
thuyết pháp độ năm người bạn cũ cùng tu khổ hạnh (năm
anh em Tôn giả Kiều-trần-như - Kodanna).
Kinh Ðế Phân Biệt Tâm Kinh
(Saccavibhangacittasuttam), Trung Bộ Kinh III; Hán tạng: Kinh Phân
Biệt Thánh đế, Trung A-hàm số 31; kinh Tiểu Bộ, Trưởng Lão
Tăng Kệ - Annakodanna; Kinh Tương Ưng V, Phẩm Chuyển Pháp Luân,
trình bày, Thế Tôn thuyết Tứ Thánh đế và chỉ rõ con
đường tu tập Trung đạo là tránh xa sự đắm say các dục
và sự tự hành khổ. Tại đây, Thế Tôn khai thị, tuyên
thuyết, thi thiết, kiến lập, phân biệt và hiển lộ rộng
rãi Tứ Thánh đế mà Thế Tôn gọi là "Vô thượng Pháp luân"
(Ðế Phân Biệt Tâm Kinh).
Thực ra, trong thời pháp này, ngoài
năm anh em Tôn giả Kiều-trần-như, còn có hàng vạn chư Thiên
đến nghe pháp.
Khi Thế Tôn vừa tuyên bố: "...
Cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, trong Bốn Thánh đế này,
tri kiến như thật đã được khéo thanh tịnh ở nơi Ta, cho
đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, trong thế giới này, với Thiên
giới, Ma giới, Phạm Thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn,
chư Thiên và loài Người, Ta mới chứng tri: "Ðã chứng đắc
Vô Thượng Chánh Ðẳng Giác..." (Tương Ưng Bộ Kinh V, tr.
426), thì chư Thiên ở cõi đất, Tứ Thiên Vương Thiên cho
đến Phạm Thiên giới đều cao tiếng nói: "Nay Vô thượng
Pháp luân này... được Thế Tôn chuyển vận, một Pháp luân
chưa từng được ai chuyển vận..." (Sđd, tr. 427).
"Trong khoảnh khắc này, mười
nghìn thế giới chuyển động, rung động, chuyển động
mạnh. Và một hào quang vô lượng, quảng đại phát chiếu
ra ở đời, vượt quá uy lực chư Thiên". (Sđd, tr. 427).
Ngay sau thời pháp này, Thế Tôn
tuyên bố: "Ðã giác hiểu là Kodanna". Từ đó Tôn giả
Kiều-trần-như mới có tên là A-nhã Kiều-trần-như (Anna
Kodanna: Kiều Trần Như đã giác hiểu), và cùng với hàng
vạn Phạm Thiên chứng đắc Tu-đà-hoàn quả (Trưởng Lão Tăng
Kệ, Anna-Kodanna).
Thế nào là Tứ Thánh đế?
"Ðó là Khổ Thánh đế, Khổ tập Thánh đế, Khổ diệt Thánh
đế và Khổ diệt đạo Thánh đế."
Thế nào là Khổ Thánh đế?
"Sanh là Khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ,
sầu bi là khổ, ưu não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái
biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại Năm
thủ uẩn là khổ". (Tương Ưng V, phẩm Chuyển Pháp Luân,
tr.424).
Các phần kiết tập ở Trung Bộ
Kinh thì định nghĩa Khổ đế khác hơn: "Sanh là khổ, già
là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não
là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại Năm thủ uẩn
là khổ". (Trung Bộ III, Ðế Phân Biệt Tâm Kinh, tr. 470).
Thế nào là Khổ tập Thánh đế?
"Chính là ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và
tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia; tức là dục ái,
hữu ái, vô hữu ái". (Tương Ưng V, tr. 425; Trung Bộ III, Ðế
Phân Biệt Tâm Kinh).
Thế nào là Khổ diệt Thánh đế?
"Chính sự đoạn diệt, ly tham không có dư tàn khát ái
ấy, sự quăng bỏ, từ bỏ, giải thoát, không có chấp trước".
(Sđd, tr. 425).
Thế nào là Khổ Diệt Ðạo Thánh
đế? "Chính là Bát Thánh đạo; tức là chánh kiến...
chánh định". (Ibid., tr. 425).
Thế Tôn đã cắt nghĩa tri kiến
như thật về Bốn Thánh đế là rõ biết Bốn Thánh đế
qua "ba chuyển" và mười hai hành tướng. Ba chuyển là:
thấy rõ nỗi khổ đau và chỉ cho chúng sinh thấy rõ khổ
đau gọi là "thị chuyển"; hiểu rõ nỗi khổ đau và khích
lệ chúng sinh nhận rõ nỗi khổ đau gọi là "khuyến
chuyển"; đã chứng ngộ, dứt trừ hết khổ đau gọi là
"chứng chuyển". Mỗi Ðế có ba chuyển, nên bốn Ðế
gồm thành mười hai hành tướng. Thế Tôn dạy:
"Ðây là Thánh đế về khổ, này
các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng
được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh
(thị chuyển). Ðây là Thánh đế về khổ cần phải liễu
tri (khuyến chuyển)... nhãn sanh, trí sanh... Ðây là Thánh đế
về khổ đã được liễu tri (chứng chuyển) đối với các
pháp từ trước Ta chưa từng nghe, nhãn sanh ... minh sanh,
quang sanh.". (Sđd, tr. 425).
(Tương tự đối với Tập,
Diệt, Ðạo Thánh đế).
Bát Thánh đạo ấy là con đường
tu tập Thiền Ðịnh. Thế Tôn đã xác quyết con đường
đưa đến giải thoát không phải do hành khổ, nhưng nhờ đến
hỷ và lạc:
"Vô thỉ, này các Tỷ-kheo, là
sự luân hồi, khởi điểm không thể nêu rõ, đối với
những đau khổ do bị thương đâm, kiếm chém, búa chặt,
dầu vậy chăng nữa, này các Tỷ-kheo, Ta cũng không tuyên
bố rằng nhờ khổ và ưu, Bốn Thánh đế được chứng
ngộ. Nhưng này, các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố nhờ lạc và hỷ,
Bốn Thánh đế được chứng ngộ". (Sđd, tr. 446).
Tôn giả Xá-lợi-phất (Sàriputta)
đã đưa ra nhận xét sau đây về Tứ Thánh đế:
"Chư Hiền giả, ví như tất cả
dấu chân của mọi loài động vật đều bị nhiếp trong
dấu chân voi, vì dấu chân này là lớn nhất trong tất cả
dấu chân về mặt to lớn. Cũng vậy, chư Hiền giả, tất
cả các thiện pháp đều tập trung trong Tứ Thánh đế".
(Trung Bộ I, Kinh Tượng Tích Dụ Ðại Kinh, tr.184).
Như thế, Tứ Thánh đế là giáo
lý rất là nền tảng, tối trọng yếu của Phật giáo,
của con đường đi vào giải thoát. Trên con đường này, hành
giả đi những bước an tịnh, hỷ và lạc, cho đến đích
giải thoát, đạt tri kiến giải thoát, mà không phải đi
với vẻ đầy ưu tư, sầu muộn hay bi quan, yếm thế.
Thế Tôn đã thuyết giảng Tứ đế;
giáo lý này các đệ tử của Ngài cũng đã thuyết giảng
trong suốt bốn mươi lăm năm Ngài tại thế. Cho đến nay,
giáo lý này vẫn là giáo lý nền tảng của các bộ phái
Phật giáo, không một nhà nghiên cứu Phật học nào có
thể phủ nhận điều này.
Nói là Bốn Thánh đế, nhưng
thực ra chỉ có một sự thật muôn thuở: ai thấy rõ Khổ
đế thì người ấy đồng thời cũng thấy suốt Tứ đế
đúng như Thế Tôn dạy:
"Này các Tỷ-kheo, ai thấy Khổ,
người ấy cũng thấy Khổ tập, cũng thấy Khổ diệt, cũng
thấy Con đường đưa đến Khổ diệt. Ai thấy Khổ tập,
người ấy cũng thấy Khổ, cũng thấy Khổ diệt, cũng
thấy Con đường đưa đến Khổ diệt. Ai thấy Khổ diệt,
người ấy cũng thấy Khổ, cũng thấy Khổ tập, cũng thấy
Con đường đưa đến Khổ diệt. Ai thấy Con đường đưa
đến Khổ diệt, người ấy cũng thấy Khổ, cũng thấy
Khổ tập, cũng thấy Khổ diệt". (Sđd, tr. 441).
Thấy rõ Tứ Thánh đế có nghĩa
là có Chánh tri kiến về Tứ Thánh đế. Ðây là dấu hiệu
báo trước sự giác ngộ như thật Tứ Thánh đế. Thế Tôn
dạy: "Này các Tỷ-kheo, đây là điềm đi trước, đây là
tướng báo trước mặt trời sắp mọc, tức là rạng đông.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đây là điềm đi trước, đây
là tướng báo trước sự giác ngộ như thật Tứ Thánh đế,
tức là Chánh tri kiến". (Tương Ưng V, tr. 447).
Người học Phật phải ý thức sâu
xa rằng Tứ Thánh đế chẳng những là giáo lý nền tảng,
mà là nền tảng nhất của các giáo lý nền tảng về mặt
tôn chỉ. Một hôm, tại rừng Simsapà ở Kosambi, Thế Tôn đã
xác nhận những gì mà Ngài biết rõ thì nhiều như lá trong
toàn khu rừng Simsapa, nhưng những gì mà Ngài giảng dạy cho
các đệ tử chỉ ít như nắm lá ở trên tay. Vì sao? - Thế
Tôn dạy rằng, những gì mà Ngài không đem ra giảng dạy là
những gì không phải là căn bản cho phạm hạnh, không đưa
đến ly tham, giải thoát, giác ngộ, Niết-bàn. Những gì mà
Thế Tôn giảng dạy là Khổ, Khổ tập, Khổ diệt, Khổ
diệt đạo, bởi vì chúng liên hệ mật thiết đến mục đích
giải thoát, là căn bản Phạm hạnh, đưa đến ly tham, giác
ngộ, Niết-bàn (Sđd, tr.442).
Vì tầm mức quan trọng đó, Thế
Tôn đã dạy giáo lý ấy nhiều lần, nhiều cách và bằng
nhiều vận dụng giảng dạy. Ngài dạy: "Ở đây có vô lượng
chữ, vô lượng câu, vô lượng thi thiết". (Sđd, tr. 433).
Chúng ta lần lượt khảo sát
từng phần của Tứ Thánh đế nầy.
B. Nội Dung Tứ Thánh Ðế
* Khổ Thánh Ðế (Dukkha):
Theo lời Thế Tôn dạy, cuộc đời,
và cả cuộc sanh tử, chỉ là khổ đau.
Trước hết, qua lời tuyên bố
ấy, một số người vội kết án đạo Phật là tiêu cực,
bi quan, yếm thế.
Chúng ta cần xác định rõ ở đây
rằng, đấy là lời tuyên bố sau khi cảm nghiệm và quan sát
kỹ cuộc đời. Nó là một nhận thức. Chỉ có thể phê phán
nhận thức ấy đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp
với cuộc sống, mà không phải là lạc quan hay bi quan, tích
cực hay tiêu cực. Lạc quan hay bi quan là thuộc thái độ
sống, mà không phải là nhận thức, đánh giá cuộc sống.
Ngay cả với thái độ sống của
Phật giáo thì cũng không liên hệ gì đến thái độ lạc
quan hay bi quan, yếm thế; Phật giáo chủ trương Trung đạo
ở cả hai lãnh vực nhận thức và hành động (sống). Chánh
ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm
và chánh định là thái độ sống biểu hiện bên ngoài,
thuộc Trung đạo mà không nghiêng về lạc quan hay bi quan.
Ði vào ý nghĩa của Tứ Thánh đế
chúng ta càng thấy rõ thái độ sống như thật, an tịnh,
hỷ lạc và đầy giải thoát của Phật giáo.
Gọi là Thánh đế bởi vì giáo lý
này đưa đến thoát khổ. Gọi là Thánh đế bởi vì nó là
như thật: "Bốn Thánh đế, này các Tỷ-kheo, là như thật,
không ly như thật, không khác như thật. Do vậy được gọi
là Thánh đế". (Tương Ưng V, tr. 439).
Giờ ta thử tìm xem có sự khác
biệt nào giữa nghĩa khổ đau của người đời và nghĩa
khổ đau (Dukkha) của Phật giáo trước khi đi vào phân tích
từng sự kiện khổ đau. Nhìn thấy cảnh vô thường, khổ
đau ở đời. Ôn Như Hầu thi cảm:
"Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi.
Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương".
(Cung Oán Ngâm Khúc, câu số 73 - 76)
hoặc:
"Tiêu điều nhân sự đã xong,
Sơn hà cũng huyễn, côn trùng cũng hư". (Ibid., câu 95 -
96).
hay:
"Phong trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.
Tuồng huyễn hóa khéo bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau". (Ibid., câu 99 - 102).
Các thi hào lớn ở nước ta thường
có những xúc cảm tương tự, cụ Nguyễn Du đã than:
"Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng". (Kim Vân
Kiều, câu 1-4).
Người đời có thấy vô thường
là khổ, nhưng lại chấp chặt vào lòng khát ái và tự ngã
nên càng đau thì lại càng than thở, càng than thở thì lại
càng nghe đau. Thi ca vẫn để lại lời than thở khổ đau
ấy.
Phật giáo thì cũng nhìn thấy đời
vô thường và khổ đau. Do vô thường mà khổ đau. Do mọi
chuyện đời vì duyên sinh mà vô thường; do lòng khát ái
muốn nắm giữ cuộc sống không ngừng trôi chảy mà khổ
đau. Khổ đau thật sự, theo Phật giáo, không phải vì vô
thường, mà là vì lòng tham ái, và chấp thủ. Tôi sinh ra
chỉ cao một thước rưỡi, cái khổ đau của tôi không
phải vì một thước rưỡi chiều cao, mà là vì tôi muốn mình
cao hơn một thước rưỡi, vì tôi nghĩ rằng một thước rưỡi
là xấu, v.v..
Cái nghĩa khổ khác biệt giữa
Phật giáo và người đời là ở chỗ, trong khi Phật giáo
thấy khổ đau là do tham ái, thì người đời sống nắm
chắc tham ái. Chính những điểm nhìn khác biệt này biến
sự thật của khổ đau thành sự thật của bậc Thánh gọi
là Khổ Thánh đế.
Sanh là khổ: Kinh chép: "Mỗi
loài chúng sanh, trong từng giới loại, sự xuất sản, xuất
sanh, xuất thành, tái sanh, sự xuất hiện các uẩn, sự
hoạch đắc các căn gọi là sinh" (Trung Bộ III, Ðế Phân
Biệt Tâm Kinh, tr. 471).
Với con người, sanh có nghĩa là
từ khi kết thai cho đến khi ra đời. Sự kết thai khởi đầu
đã khó khăn. Phải có đủ ba điều kiện thai nhi mới hình
thành: nghiệp thức (hay hương ấm), tinh khí của cha mẹ
kết hợp, và phải trong thời bà mẹ có thể thụ thai (Kinh
Ðại Duyên, Trường Bộ Kinh III). Chỉ có một cặp tinh trùng
được sinh thành giữa hơn mấy triệu tinh trùng khác, là
một khó khăn nữa. Chín tháng trong lòng mẹ, với thai nhi là
cả một thời gian dài dằng dặc và hãi hùng. Khi thì nghe nóng
như ở giữa sa mạc nắng cháy, khi thì nghe như ở giữa
tuyết lạnh. Thức ăn và những biến chuyển vật lý, tâm lý
của người mẹ đều có ảnh hưởng mạnh vào thai nhi. Thai
nhi được hình thành và được tăng trưởng ngoài sự mong
muốn của mình. Ðây là một điều khổ lớn.
Nghiệp thức vào thai là kết
quả của ái, thủ, vô minh, khiến quên đi hết những gì
của đời sống quá khứ của mình. Ðây là một điều
khổ lớn khác.
Lúc sinh, do vì sức ép và do sự
thay đổi môi trường sống, trẻ phải chịu nhiều đau đớn
- Bà mẹ thì hẳn là đau đớn rồi.
Ra đời chưa phải là hết hiện
tượng sinh, còn tiếp tục sinh qua từng sát-na. Tất cả đều
diễn biến ngoài sự can thiệp của mình, là một điều
khổ tâm. Thi nhân thường chỉ cái khổ đau của trẻ biểu
lộ qua tiếng khóc chào đời, đồng thời tiếng khóc này cũng
báo hiệu sắp đi vào một quá trình sinh tử mới:
- "Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe,
Trần có vui sao chẳng cười khì.. ?" (Nguyễn Công Trứ).
- "Thảo nào khi mới chôn nhau,
Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra". (Ôn Như Hầu)
Già là khổ: "Sự niên lão,
sự hư hoại, trạng thái rụng răng, tóc bạc, da nhăn,
tuổi thọ rút ngắn, các căn biến loạn. Như vậy gọi là
già". (Ðế Phân Biệt Tâm Kinh, Trung Bộ III, tr. 471).
Dù đang tuổi trẻ, ta cũng dễ
nhận ra già là khổ.
Ở đời không ai muốn già, chờ
già, nhứt là nữ giới. Phép lịch sự phương Tây, không có
hỏi tuổi tác của các phụ nữ, bởi làm thế là nhắc
nhở họ trở về với hình ảnh buồn bã: đang già hay sắp
già.
Ai mà lại không muốn mình trẻ mãi?
Càng mong trẻ thì lại càng thấy khổ vì già. Già là một
sự kiện kinh hoàng! Nó như là hoàng hôn đến, vùi dập bao
nhiêu mộng ước của cuộc đời.
Nếu trẻ là đẹp, đầy nhựa
sống, dễ chịu bao nhiêu, thì già lại ngược hẳn bấy nhiêu,
với lưng còm, má hóp, da nhăn, mắt mờ, tai điếc..
Già thì cướp đi sức khỏe, cướp
đi các thứ hạnh phúc của ăn, mặc, ngủ... Nó như con
ngựa bất kham trên đường đời ngàn dặm. Ở già có mặt
của nhiều đau nhức, mỏi mệt; ở đó, cái chết đang đến
gần, cái mà mọi người đều sợ hãi.
Bệnh là khổ: Hầu như
mọi người đều có dịp nếm cái vị đắng của bệnh
tật, nhưng thấy sâu xa cái khổ đau của bệnh thì hiếm.
Chỉ một chiếc răng đau đủ làm
cho ta khở sở lắm. Một cơn gió độc làm xây xẩm mặt mày,
quay mòng đầu óc, dù chỉ trong một chốc, cũng đủ cho mình
thấy mình không làm chủ cái thân, tâm này; mạng sống
mỏng manh này có thể tắt ngấm bất cứ lúc nào cùng với
sự nghiệp mà mình khổ công xây dựng ở đời. Ðấy là
khổ.
Có biết bao nhiêu chứng bệnh khác
có thể xâm nhập cơ thể, gan, ruột, bao tử, mắt, mũi,
v.v... bất cứ lúc nào. Cái ám ảnh của cơn vô thường
bệnh hoạn cũng đủ làm cho mình khổ, huống nữa. Cứ
một lần thử đi vào bệnh viện, thì thấy rõ hiện tượng
của bệnh là khổ. Con người hầu như hoàn toàn bị động
trước thân bệnh. Ðây mới thực sự là niềm đau lớn
nhất.
Chết là khổ: Mọi người
đều phải chết sớm hay muộn. Sự cảm nhận khổ đau về
cái chết thì có vẻ hơi mơ hồ, bởi vì khi có cảm nhận
thì chưa chết, mà khi chết thì không còn cảm nhận.
Tuy nhiên, cái điều mà ta có
thể nhận ra là khi có những người thân chết, cái cảnh xúc
động, bi thương, tang tóc, khổ đau hiện rõ. Khổ cho người
sống nhiều hơn. Người sắp chết mà biết mình sắp chết
thì tâm lý cũng đầy dao động bi thương tương tự. Ở đây,
ta thấy rõ, chết thì không mấy khổ đau, nhưng ám ảnh
của cái chết gây nên nhiều khổ đau hơn.
Càng muốn sống, ham sống thì
lại càng sợ chết. Càng sợ chết thì tâm lý sống càng
dao động và có thể dấy khởi nhiều bất thiện tâm, nếu
không biết tu tập giải thoát.
Có người không biết những gì
sẽ xãy đến với mình sau cái chết mà đâm lo; có người
cho rằng chết là hết rồi sinh phóng dật, sống vội vàng
làm mất hết cái an tịnh và thanh thản của cuộc sống.
Chết, do đó, trở thành cơn ác mộng của cuộc sống.
Chết có thể xãy đến bất cứ
lúc nào vì bất cứ lý do nào, do đó mà ma lực ám ảnh
của nó lại càng lớn hơn, kéo dài suốt cuộc sống. Ðây
là khổ đau về cái chết.
Sầu, bi, khổ, ưu, não là
khổ. Tự thân của chúng rõ là khổ đau. Do gặp tai
nạn, do cảm thọ khổ đau mà sinh sầu, nên sầu là khổ.
Do gặp tai nạn, do cảm thọ khổ đau mà sinh bi thương, bi
ai, than khóc, than vản; nên bi là khổ. Sự không thoải mái
về thân, đau đớn về thân là khổ; nên khổ này cũng là
nghĩa khổ đau (Dukkha). Sự không thoải mái về tâm, sự đau
khổ do tâm cảm nhận gọi là ưu, ưu chính là khổ. Do gặp
tai nạn, do đau khổ mà lòng sinh bi não, ưu não, thất
vọng, tuyệt vọng, gọi là não, do đó não là khổ.
Mong muốn không được là khổ
(cầu bất đắc khổ). Sống thì ai cũng bị sanh, bị già,
bị bệnh, bị chết, nhưng lòng thì luôn luôn mong cầu đừng
bị khổ vì sinh, đừng bị bệnh, đừng bị già hoặc bị
già chi phối, đừng bị chết hay bị chết chi phối. Mong ước
những điều mà không thể thành tựu được như vậy là
thất vọng, là tuyệt vọng, là ưu sầu, do đó là khổ đau
(Dukkha). Sống còn có những mong ước thiết tha khác nữa:
mong có bạn tốt, có lợi, có danh, có tình đẹp, v.v... Không
phải mong ước nào cũng được thực hiện. Mong ước không
trở thành hiện thực là khổ. Cái lý do của nỗi khổ này
là do con người không thực sự làm chủ chính mình, không
thực sự làm chủ hoàn cảnh sống của tha nhân.
Sống thì mong ước, mà mong ước
thì khổ. Ðấy là cuộc đời!
Triển khai ý nghĩa "cầu bất đắc
khổ" này, ta có "ái biệt ly khổ" và "oán tắng hội
khổ". Yêu thương mà các đối tượng thương yêu bị xa lìa,
ly biệt thì sẽ thất vọng, sầu não và khổ đau (Dukkha).
Những gì mình ghét bỏ mà phải ôm ấp nắm giữ, gặp
mặt thì sẽ làm cho mình thất vọng, khó chịu, phiền
bực, đấy là khổ (Dukkha).
Năm uẩn là khổ : như đã
được trình bày ở tiết Năm uẩn. Năm uẩn vốn do duyên
sinh nên Vô ngã, Vô thường. Vì vô thường, biến hoại đi
ngược với tham ái và chấp thủ của con người nên khổ
đau.
Vì vô minh, con người chấp thân
sắc uẩn, chấp cảm thọ, tư duy hiểu biết... là của mình,
là mình, là tự ngã của mình nên khi chúng thay đổi, biến
dịch, thì nghe mình khổ đau.
Sống với thân Năm uẩn như
sống trong ngôi nhà đang bốc cháy. Lửa tham, lửa sân và
lửa si đang bốc cháy ở mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý;
đang bốc cháy ở sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Nghĩa
là cả thế giới đang bốc cháy. Chấp nhận Năm uẩn là mình
thì sẽ bị thiêu cháy. Ðấy, Năm uẩn là khổ.
Cái khổ đau kểâ trên có thể
biểu hiện qua ba hành tướng:
- Khổ khổ (Dukkha-dukkha): chỉ các
khổ đau thông thường, thuộc khổ thọ.
- Hoại khổ (Viparigàma-dukkha):
do thay đổi đột ngột mà khổ, thuộc lạc thọ.
- Hành khổ (Sankhàra-dukkha): các
pháp do duyên sinh nên vô thường biến hoại trong từng sát
na mà khổ đau, thuộc xả thọ.
(Theo Visuddhimagga - Thanh Tịnh Ðạo),
Hội Pàli Texts ở London ấn hành, tr. 499).
* Khổ Tập Thánh Ðế (Samudaya)
Tất cả những khổ đau kể trên
cùng có nguyên nhân chính của chúng là khát ái (Tanhà).
Như đã được lập luận nhiều
lần ở các phần giáo lý trước, Năm uẩn là khổ đau vì
Năm uẩn vô thường, chính vô thường là ý nghĩa của khổ
đau. Ở đâu có vô thường, ở đó có khổ đau. Từ địa
ngục cho đến cõi trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng đều Vô
thường, nên đều nằm trong nghĩa khổ đau (Dukkha).
Thực ra, không phải vì Vô thường
mà khổ đau. Do con người ái sắc, ái thọ, ái tưởng, ái
hành, ái thức, nên khi sắc thọ, tưởng, hành, thức ấy
bị biến đổi, bị hoại diệt mới sinh sầu, bi, khổ, ưu,
não. Khổ đau chính là lòng khát ái. Ngay cả khi có mặt cái
gọi là khổ đau, nếu con người không chấp thủ sắc là mình...,
thọ là mình..., tưởng là mình..., hành là mình.., thức là
mình, là của mình, là tự ngã của mình, thì sẽ không
thấy có ai khổ đau hay mình khổ đau. Chỉ khi có chấp
thủ thì mới thực sự có khổ đau, có mình khổ đau. Ở
đâu có dục, tham thì ở đấy có chấp thủ, như Thế Tôn
đã dạy. Nói tóm lại, gốc của khổ đau chính là lòng
tham ái.
Tham ái không có nghĩa là nguyên
nhân đầu tiên của khổ đau, theo Phật giáo (hay theo giáo lý
Duyên khởi). Bởi vì, chính ái do thọ sinh, thọ thì do xúc
sinh, v.v... thức do hành sinh, hành do vô minh sinh,... ái chỉ
là cái nhân chính yếu và gần nhất của khổ đau.
Nói nhân của khổ đau là lòng khát
ái, có nghĩa: nhân của khổ đau là do mười hai nhân duyên
tập khởi, hay Năm thủ uẩn tập khởi. Bởi vì theo Duyên
khởi, ái có mặt là mười hai nhân duyên có mặt, Ái có
mặt (hay hành uẩn có mặt, vì ái thuộc hành uẩn) là Năm
thủ uẩn có mặt. Khổ tập Thánh đế, do đó, có thể nói
rằng chính là mười hai nhân duyên hay chính là Năm thủ
uẩn.
Nói khát ái là đã hàm ngụ nói
đến sân và si. Sân chỉ là bề trái của khát ái (tham), và
si là bản chất của khát ái. Khi nói ta thích tướng đẹp,
có nghĩa là ghét bỏ tướng xấu, ghét bỏ hay chối bỏ tưởng
xấu là biểu hiện của sân. Thế nên, ta cũng có thể phát
biểu rằng Khổ tập Thánh đế là tham, sân và si.
Khuynh hướng của con người là tìm
kiếm và ham thích những sắc đẹp, những âm thanh hay,
những mùi hương thơm lạ, những vị ngon ngọt, những xúc
chạm êm ái, và tránh xa các sắc, thanh, hương, vị và xúc
trái ngược. Lòng tham ái càng mạnh thì chấp thủ ngã càng
mạnh, là nghiệp lực dẫn tới tái sinh đời này, đời khác.
Những ham muốn năm trần ấy được gọi là dục ái. Khi năm
trần thay đổi thì khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Ngay
cả khi con người đang nắm giữ năm trần đẹp ấy, thì
nỗi lo sợ năm trần biến đổi, biến hoại cũng đủ gây
khổ đau ray rứt lòng người. Cả những khi lòng tham ái có
mặt đang chờ đợi đón nhận năm trần đẹp, cũng gây nên
những dao động, xao xuyến, âu lo. Ðấy là tất cả ý nghĩa:
dục ái là Khổ tập Thánh đế. Bị vướng mắc vào dục
ái, con người khó thoát ly khỏi Dục giới.
Một khuynh hướng sống khác mà
người ta gọi là bản năng sinh tồn, là khát vọng được
tồn tại. Do muốn tồn tại nên lòng sinh sợ hãi sự
chuyển sinh hay hoại diệt. Cứ nhìn một người đang phấn
đấu với cái chết thì sẽ thấy bản năng sinh tồn hay khát
vọng sinh tồn ấy. Ðây gọi là hữu ái.
Hữu ái có ba đối tượng: Dục
giới, Sắc giới, và Vô sắc giới. Có người mong mình có
mặt trong Dục giới, tái sinh trong Dục giới. Có người
lại nhàm chán các dục lạc từ sắc, thanh, hương, vị và
xúc; họ nhàm chán cõi Dục và khởi lên mong ước về cõi
Sắc. Có người lại nhàm chán cả đến các sắc tướng,
mong tồn tại ở trong thế giới không có sắc tướng, họ
được sinh về cõi Vô sắc.
Còn khát vọng tồn tại là còn
khát ái, là còn sinh tử, còn chịu cảnh vô thường và
khổ đau. Do đó, Hữu ái là Khổ tập Thánh đế.
Có nhiều người nhàm chán cả
cuộc sống sinh diệt, mong muốn không còn sống lâu hơn
nữa, không còn thác sinh nữa. Ðây là biểu hiện Vô hữu
ái. Bởi vì không ham sống, thì bấy giờ họ có thể còn
nuôi dưỡng cái lòng ham ở chỗ không sinh diệt và vẫn còn
cái tập khí ham muốn. Ở đây, tùy thuộc theo nghiệp lực
của họ mà thác sinh về cảnh giới thích ứng sau khi
chết. Cảnh giới thoát ly sinh diệt thực sự là Niết-bàn.
Niết-bàn là dập tắt hẳn lòng khát ái, chấp thủ. Nếu
ái diệt, nếu tập khí của tham ái đã hoàn toàn đoạn
diệt, thì Niết-bàn có mặt ngay tại cõi đời này. Nhưng
nếu tập khí tham ái chưa hoàn toàn đoạn diệt, thì khát
vọng Vô hữu không chưa đủ. Chính sự có mặt của khát
vọng này là một thứ lửa nung nấu khổ đau.
Vô hữu ái, do đó, vẫn là nhân
của khổ, là Khổ tập Thánh đế.
(xem tiếp đoạn kế)
-oOo-
Bài trước
|
Mục lục |
Ðoạn
kế
--- o0o ---
Trình bày : Nhị
Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục