Trong
chương
này,
tôi
sẽ
xét
kỹ
cái
kết
quả
của
nghiệp
báo
trong
cuộc
đời
kế
tiếp.
Nói
một
cách
khác,
tôi
sẽ
nói
kỹ
quan
niệm
tái
sinh.
Nhưng
trước
khi
chúng
ta
bắt
đầu
nói
chuyện
đặc
biệt
về
lời
dạy
của
đức
Phật
về
tái
sinh,
chúng
ta
có
thể
bỏ
ra
một
chút
thời
giờ
bàn
thảo
về
quan
niệm
tái
sinh
một
cách
tổng
quát. Tái
sinh
là
một
ý
niệm
mà
nhiều
người
cảm
thấy
khó
tin.
Ðiều
này
lại
càng
rõ
nét
hơn
trong
mấy
thế
kỷ
qua
là
chúng
ta
càng
ngày
càng
trở
nên
quen
nghĩ
đến
những
gì
được
xem
là
những
từ
ngữ
khoa
học,
có
nghĩa
là
những
gì
mà
nhiều
người
ngây
thơ
cho
là
khoa
học.
Quan
điểm
này
đã
gây
cho
nhiều
người
không
chấp
nhận
ý
niệm
tái
sinh
bởi
vì
họ
nghĩ
rằng
nó
sặc
mùi
mê
tín
dị
đoan
và
có
cái
nhìn
lạc
hậu
về
thế
giới
ngày
nay.
Vì
lý
do
này,
tôi
nghĩ
chúng
ta
cần
tạo
nên
một
thế
cân
bằng
bằng
cách
tạo
ra
một
chút
phóng
khoáng
đối
với
ý
niệm
tái
sinh
trước
khi
chúng
ta
bắt
đầu
xét
đến
giáo
lý
Phật
giáo
về
đề
tài
này. Có
một
số
phương
pháp
chúng
ta
có
thể
chấp
nhận
trong
việc
làm
sáng
tỏ
vấn
đề
tái
sinh.
Một
trong
những
cách
đó
là
trong
hầu
hết
tất
cả
các
văn
hóa
lớn
của
thế
giới
đã
có
niềm
tin
phổ
biến
về
tái
sinh.
Ðiều
này
đặc
biệt
đúng
ở
Ấn
độ,
nơi
mà
ý
tưởng
này
có
thể
quay
ngược
lại
vào
thời
kỳ
văn
minh
cổ
đại
Ấn
độ.
Tất
cả
các
tôn
giáo
chánh
ở
nơi
đó--hữu
thần
hay
vô
thần,
các
trường
phái
Ấn
độ
giáo
hay
các
giáo
phái
không
chính
thống
như
Kỳ
na
giáo--đều
thừa
nhận
về
sự
thật
tái
sinh.
Trong
các
văn
hóa
khác
cũng
vậy,
niềm
tin
về
tái
sinh
rất
phổ
biến.
Lấy
một
thí
dụ,
trong
vùng
Ðịa
trung
Hải,
lòng
tin
về
sự
thực
tái
sinh
có
khắp
nơi
trước
và
trong
vài
thế
kỷ
đầu
Tây
lịch.
Ngay
đến
nay,
nó
vẫn
còn
trong
giáo
phái
Druze
của
Hồi
giáo
ở
Trung
Ðông.
Do
vậy,
lòng
tin
về
sự
thực
tái
sinh
là
một
phần
quan
trọng
của
lối
suy
nghĩ
của
con
người
về
thế
giới
và
vị
trí
của
chúng
ta
trong
đó. Trang
86.
Kế
đó
ta
phải
kể
đến
lời
chứng
của
những
người
có
thẩm
quyền,
những
người
thuộc
về
các
giáo
phái
khác
nhau.
Trong
Phật
giáo,
chính
đức
Phật
đã
dạy
sự
thật
về
tái
sinh.
Chúng
ta
được
biết
rằng,
vào
đêm
giác
ngộ,
ngài
đạt
được
3
loại
tri
thức,
đầu
tiên
là
tri
thức
về
cuộc
đời
quá
khứ
của
riêng
ông.
Ông
nhớ
lại
những
sự
việc
trong
đó
ông
đã
sống
trong
vô
số
kiếp
trước
đây.
Ngoài
lời
chứng
của
Phật,
chúng
ta
còn
có
những
đại
đệ
tử
của
ông,
những
người
có
khả
năng
nhớ
lại
các
cuộc
đời
quá
khứ
của
họ.
Ananda,
chẳng
hạn,
đạt
được
các
khả
năng
nhớ
được
cuộc
đời
qua
khứ
của
ông
ngay
sau
khi
ông
được
thọ
giới
làm
tu
sĩ
Phật
giáo.
Cũng
vậy,
trong
suốt
lịch
sử
của
Phật
giáo,
những
hành
giả
viên
mãn
đã
có
thể
nhớ
lại
cuộc
đời
quá
khứ
của
họ. Tuy
nhiên,
những
lời
biện
giải
này
về
sự
tái
sanh
không
hy
vọng
hoàn
toàn
thuyết
phục
được
trong
môi
trường
lý
giải
và
khoa
học
của
chúng
ta
đang
sống,
vì
thế
có
thể
chúng
ta
cần
quan
sát
những
gì
gần
với
chúng
ta
hơn.
Một
vài
bạn
có
thể
biết
một
sự
kiện
là
trong
ba
thập
niên
qua
đã
có
một
số
các
cuộc
điều
tra
khoa
học
rộng
lớn
về
vấn
đề
tái
sinh.
Các
cuộc
nghiên
cứu
như
thế
đã
được
đảm
trách
bởi
các
nhà
tâm
lý
và
cận
tâm
lý.
Qua
các
cuộc
nghiên
cứu
này
chúng
ta
đã
dần
dần
dựng
lên
được
một
điều
kiện
đáng
tin
tưởng
cho
sự
thực
về
tái
sinh,
một
trường
hợp
được
phát
triển
theo
những
kinh
nghiệm
khoa
học.
Nhiều
sách
được
xuất
bản
trong
đó
các
chi
tiết
của
các
cuộc
điều
tra
này
đã
được
mô
tả
và
thảo
luận. Trang
87.
Một
học
giả
đặc
biệt
trong
lãnh
vực
này
trong
những
năm
vừa
qua
là
Giáo
sư
Ian
Stevenson
thuộc
Ðại
học
Virginia
Hoa
kỳ.
Ông
đã
xuất
bản
các
tài
liệu
của
ông
trong
khoảng
20
trường
hợp
về
tái
sinh.
Một
trường
hợp,
đã
nhận
được
sự
chú
ý
khắp
nơi,
đó
là
một
người
đàn
bà
có
tên
là
Bridey
Murphy
có
khả
năng
nhớ
lại
cuộc
đời
của
bà
đã
sống
hơn
một
trăm
năm
trước
đó
trong
một
miền
đất
lạ,
một
nơi
mà
bà
trước
đó
chưa
bao
giờ
đến
thăm
trong
cuộc
đời
hiện
tại
của
bà.
Tôi
sẽ
không
đi
vào
những
chi
tiết
đặc
biệt
của
các
trường
hợp
đó
ở
đây,
bởi
vì
bất
cứ
ai
quan
tâm
đến
các
bằng
chứng
tái
sinh
khoa
học
tự
người
đó
có
thể
đọc
thêm
về
nó.
Tuy
nhiên,
tôi
nghĩ
bây
giờ
chúng
ta
đang
đến
một
thời
điểm
mà
ngay
cả
những
người
hoài
nghi
nhất
trong
chúng
ta
cũng
phải
thừa
nhận
rằng
có
rất
nhiều
bằng
chứng
khá
chi
tiết
nhưng
không
thể
chứng
minh
được
cho
sự
thực
về
tái
sinh. Trong
việc
dựng
lên
một
trường
hợp
thực
tế
về
tái
sinh,
chúng
ta
có
thể
suy
nghĩ
cặn
kẽ
với
kinh
nghiệm
riêng
của
mỗi
người.
Chúng
ta
chỉ
cần
nhớ
lại
và
xem
xét
kinh
nghiệm
ấy
theo
lối
Phật
giáo
để
rút
ra
được
các
kết
luận.
Mọi
người
đều
nhận
rằng,
mỗi
người
trong
chúng
ta
có
những
khả
năng
đặc
biệt
riêng,
ta
gọi
là
có
khiếu
hay
không
có
khiếu.
Ta
nên
tự
hỏi
xem:
có
phải
những
điều
trên
đây
thực
sự
là
kết
quả
của
sự
tình
cờ
hay
do
sự
tác
động
nhau
của
xã
hội
trong
cuộc
đời
trước
hay
không?
Chẳng
hạn,
một
số
người
trong
chúng
ta
có
khả
năng
xuất
sắc
về
thể
thao
hơn
những
môn
khác.
Một
vài
người
trong
chúng
ta
có
tài
về
toán
học,
trong
khi
những
người
khác
có
thiên
khiếu
về
âm
nhạc.
Người
này
thích
bơi,
trong
khi
người
khác
sợ
nước.
Tất
cả
những
sự
khác
nhau
về
khả
năng
và
tinh
thần
thái
độ
của
chúng
ta
chỉ
là
do
kết
quả
của
sự
ngẫu
nhiên
và
tính
tác
động
nhau? Trang
87.
Thường
có
những
khúc
ngoặt
lớn
lao
và
không
ngờ
trên
con
đường
phát
triển
cá
nhân.
Cho
tôi
lấy
trường
hợp
riêng
của
tôi.
Tôi
được
sinh
trong
một
gia
đình
Thiên
chúa
giáo
La
mã
ở
Hoa
kỳ.
Tuyệt
đối
không
có
một
cơ
bản
đầu
tiên
nào
của
tôi
cho
biết
rằng
tôi
đi
đến
Ấn
độ
vào
cái
tuổi
hai
mươi,
và
rằng
tôi
sẽ
bỏ
ra
kế
đó
hai
thập
niên
rưởi
cuộc
đời
hầu
hết
là
tại
Á
châu,
nơi
tôi
liên
hệ
thật
sâu
đậm
trong
việc
nghiên
cứu
Phật
giáo. Trang
88.
Rồi
thì,
cũng
có
những
tình
trạng
trong
đó
đôi
khi
chúng
ta
cảm
thấy
một
linh
tính
mạnh
mẽ
rằng
chúng
ta
đã
từng
ở
một
nơi
đặc
biệt
trước
đây,
mặc
dầu
chúng
ta
không
viếng
thăm
nơi
đó
trong
cuộc
đời
hiện
tại.
Vào
những
dịp
khác,
chúng
ta
cảm
thấy
rằng
mình
đã
biết
người
nào
đó
trước
đây:
chúng
ta
gặp
một
người
lần
đầu
tiên,
vậy
mà
tức
thì
chúng
ta
cảm
thấy
rằng
mình
đã
biết
người
đó
từ
lâu.
Ngược
lại,
chúng
ta
có
thể
biết
một
người
nào
khác
nhiều
năm
mà
vẫn
cảm
thấy
không
thực
sự
biết
người
đó.
Các
kinh
nghiệm
như
khi
cảm
thấy
rằng
chúng
ta
ở
trong
một
tình
trạng
đặc
biệt
trước
đây,
rất
thông
thường
và
phổ
thông
là
ngay
cả
trong
văn
hóa
đương
thời
của
Pháp,
hầu
như
nó
hoàn
toàn
không
biết
về
tái
sinh,
có
một
câu
nói
nổi
tiếng
của
họ--thành
ngữ
‘déjà
vu’
(đã
từng
biết
hay
nhớ
đến,
dù
trước
đây
chưa
biết
hay
nhớ
đến
nó--already
seen) Nếu
chúng
ta
không
giáo
điều
hoặc
võ
đoán
thì
khi
chúng
ta
tổng
hợp
lại
tất
cả
những
điều
đã
biết
này--tức
lòng
tin
về
tái
sinh
trong
nhiều
nền
văn
hóa
và
thời
đại
trong
suốt
lịch
sử
của
văn
minh
nhân
loại,
sự
chứng
nhận
của
đức
Phật
và
những
đệ
tử
nổi
tiếng
của
ông,
các
bằng
chứng
được
cung
cấp
bởi
sự
nghiên
cứu
khoa
học
và
những
điều
biết
được
do
chính
cá
nhân
bạn
chứng
minh
rằng
chúng
ta
đã
có
mặt
trước
đây--tôi
nghĩ
chúng
ta
sẽ
phải
thú
nhận
rằng,
tái
sinh
là
một
thực
tế
chắc
chắn
có
thể
xảy
ra. Trong
Phật
giáo,
tái
sinh
là
phần
thiết
yếu
của
một
tiến
trình
thay
đổi
liên
tục.
Thật
vậy,
chúng
ta
không
chỉ
tái
sinh
vào
lúc
chết
mà
chúng
ta
tái
sinh
từng
lúc
một.
Ðiều
này,
giống
như
những
lời
dạy
quan
trọng
khác
của
Phật
giáo,
dễ
dàng
được
chứng
nhận
bằng
cách
dẫn
chứng
đến
kinh
nghiệm
riêng
của
chúng
ta
và
vào
những
điều
tìm
thấy
của
khoa
học.
Chẳng
hạn,
đa
số
các
tế
bào
tạo
thành
thân
thể
con
người
chết
đi
và
được
thay
thế
nhiều
lần
trong
tiến
trình
của
một
đời
người.
Dù
rằng
một
vài
tế
bào
kéo
dài
suốt
một
đời
người
vẫn
chịu
sự
thay
đổi
liên
tục
ở
bên
trong.
Ðây
là
một
phần
của
tiến
trình
sanh,
tử
và
tái
sanh.
Nếu
xét
đến
cái
tâm,
chúng
ta
thấy
rằng
các
tâm
hành
(như
lo
lắng,
hạnh
phúc,
v.v...)
xuất
hiện
và
biến
mất
từng
chặp
một.
Chúng
mất
đi
và
được
thay
thế
bởi
những
tình
trạng
mới
mẻ
và
khác
nhau,
cho
dù
chúng
ta
xét
đến
thân
thể
hay
tâm
não,
kinh
nghiệm
của
chúng
ta
thay
đổi
luôn
bởi
sự
sống,
chết
và
sống
lại
một
cách
liên
tục. Trang
89.
Phật
giáo
dạy
rằng
sự
hiện
hữu
có
những
cõi,
phạm
vi
hay
quy
mô
khác
nhau.
Vài
kinh
sách
liệt
kê
đến
31
cõi
hiện
hữu,
nhưng
riêng
cho
mục
đích
ở
đây,
chúng
ta
sẽ
có
một
kế
hoạch
giãn
dị
hơn,
bằng
cách
chỉ
dùng
sáu
cõi.
Sáu
cõi
này
có
thể
được
chia
ra
thành
hai
nhóm,
nhóm
một
‘tương
đối
may
mắn’
và
nhóm
kia,
‘không
may
mắn’.
Nhóm
thứ
nhứt
bao
gồm
cõi
của
các
thánh,
cõi
của
các
á
thánh,
và
cõi
người.
Tái
sinh
trong
những
cõi
may
mắn
này
là
kết
quả
của
nghiệp
lành
mạnh.
Nhóm
thứ
hai
bao
gồm
cõi
súc
sanh,
cõi
ngạ
quỉ
và
cõi
địa
ngục.
Tái
sinh
trong
những
cõi
thống
khổ
này
là
kết
quả
của
nghiệp
không
lành
mạnh. Chúng
ta
bây
giờ
hãy
xét
từng
cõi
này,
bắt
đầu
với
cái
thấp
nhứt.
Có
một
số
cõi
địa
ngục
trong
Phật
giáo,
bao
gồm
tám
địa
ngục
nóng
và
tám
địa
ngục
lạnh.
Trong
các
địa
ngục
này,
các
sinh
vật
chịu
đựng
những
đau
khổ
không
thể
tính
ra
và
không
thể
mô
tả
được.
Người
ta
nói
rằng
cái
đau
khổ
phải
chịu
trong
thế
giới
loài
người
này
là
hậu
quả
của
việc
bị
đâm
bởi
ba
trăm
ngọn
giáo
trong
một
ngày
chỉ
là
một
phút
của
cái
đau
khổ
chịu
đựng
bởi
các
cư
dân
của
địa
ngục.
Cái
nguyên
nhân
của
việc
tái
sinh
trong
địa
ngục
là
tánh
tình
bạo
động
triền
miên
như
giết
theo
thói
quen,
độc
ác,
v.v... Trang
89.
Những
hành
động
như
thế
được
sinh
ra
do
sự
ghét
bỏ,
và
sinh
vật
phạm
tội
này
chịu
đựng
những
cái
đau
khổ
của
địa
ngục
cho
đến
khi
nghiệp
không
lành
mạnh
mà
họ
đã
làm
ra
qua
những
hành
động
như
thế
không
còn
nữa.
Cái
điểm
cuối
cùng
này
là
quan
trọng,
bởi
vì
nó
cho
chúng
ta
cơ
hội
để
ghi
nhận
rằng,
trong
Phật
giáo,
không
ai
‘mãi
mãi
bị
nguyền
rủa’
hay
chịu
đau
khổ
triền
miên.
Khi
nghiệp
báo
không
lành
mạnh
của
họ
cạn
kiệt
rồi,
các
cư
dân
của
địa
ngục
được
tái
sinh
trong
những
cõi
hiện
hữu
may
mắn
hơn. Cõi
kế
tiếp
là
cõi
của
quỷ
đói.
Sinh
vật
trong
cõi
này
chịu
đựng
phần
lớn
sự
đói,
khát,
nóng,
lạnh.
Họ
hoàn
toàn
mất
hết
các
món
vật
mà
họ
thích
thú.
Người
ta
nói
rằng
khi
quỷ
đói
thấy
một
núi
cơm
hay
một
dòng
sông
nước
mát
và
chạy
về
hướng
đó,
họ
cảm
thấy
rằng
một
núi
cơm
chỉ
là
một
đống
sỏi
và
con
sông
chỉ
là
một
dãy
đá
xanh.
Giống
như
vậy,
người
ta
nói
rằng
trong
mùa
hè
ngay
cả
mặt
trăng
cũng
nóng
đối
với
họ,
trong
khi
trong
mùa
đông
ngay
cả
mặt
trời
cũng
lạnh. Trang
90.
Nguyên
nhân
gần
nhất
của
việc
tái
sinh
làm
quỹ
đói
là
tính
tham
lam
và
keo
kiệt;
nó
được
sanh
từ
sự
gắn
bó
chặt
chẽ
và
tham
danh
lợi,
tham
ăn
ngũ
(tài
sắc
danh
thực
thùy).
Cũng
như
với
các
cư
dân
của
địa
ngục,
các
sinh
vật
trong
cõi
này
không
bị
kết
tội
mãi
mãi
dưới
hình
thức
của
ngạ
quỹ,
bởi
vì
khi
nghiệp
không
lành
mạnh
cạn
kiệt,
họ
sẽ
được
tái
sinh
trong
một
cõi
trời
may
mắn
hơn. Cõi
kế
là
cõi
của
thú
vật,
sinh
vật
chịu
đựng
từ
một
số
hoàn
cảnh
không
hạnh
phúc.
Chúng
chịu
đựng
từ
sự
lo
sợ
và
đau
khổ
gây
ra
từ
sự
giết
chóc
thường
xuyên
và
ăn
thịt
lẫn
nhau.
Chúng
chịu
đựng
từ
những
con
người
giết
họ
để
lấy
thịt,
lấy
da,
trân
châu
hay
răng
tóc.
Dù
rằng
không
bị
giết,
chúng
bị
nuôi
trong
nhà,
bị
bắt
buộc
phải
làm
việc
cho
những
người
điều
khiển
họ
với
mâu
hay
roi.
Tất
cả
những
việc
này
là
nguyên
nhân
của
đau
khổ. Trang
90.
Nguyên
nhân
chánh
của
việc
tái
sinh
làm
thú
vật
là
vô
minh.
Sự
theo
đuổi
mù
quáng,
buông
lung
cho
những
dục
vọng,
quá
bận
bịu
với
sự
ăn,
ngủ
và
thỏa
mãn
tình
dục,
không
để
ý
đến
sự
cần
thiết
phát
triển
tinh
thần
và
tu
tập
giới
đức
cho
mình--
tất
cả
những
việc
này
dẫn
đến
việc
con
người
tái
sinh
làm
thú
vật. Khi
ta
nói
rằng
sân
nhuế
là
nguyên
nhân
tái
sinh
vào
cõi
địa
ngục,
tham
ái
là
nguyên
nhân
tái
sinh
vào
cõi
ngạ
quỹ
và
mê
si
là
nguyên
nhân
tái
sinh
vào
cõi
thú
vật,
điều
này
không
có
nghĩa
là
một
hành
động
đơn
phương
bị
tác
động
bởi
sân,
tham
hay
si
sẽ
gây
tái
sinh
trong
các
cõi
sinh
vật
liên
hệ.
Thực
sự
nó
có
nghĩa
là
có
một
sự
liên
hệ
rõ
ràng
và
có
chứng
minh
giữa:
lòng
ghét
bỏ
với
sự
tái
sinh
trong
các
cõi
địa
ngục;
lòng
tham
ái
với
sự
tái
sinh
vào
các
hồn
ma
đói;
lòng
si
mê
với
sự
tái
sinh
thành
thú
vật.
Nếu
không
được
ngăn
chận
và
không
được
cản
trở
bởi
những
hành
động
đạo
đức
bù
lại
thì
các
hành
động
được
tác
động
theo
thói
quen
không
lành
mạnh
(hay
bất
thiện)
chắc
chắn
sẽ
dẫn
đến
tái
sinh
trong
3
tình
trạng
đau
buồn
này. Trang
91.
Tôi
tạm
lướt
qua
một
bên
để
bàn
sau
về
cõi
người
và
xin
tiếp
tục
nói
về
cõi
á
thánh.
Á
thánh,
về
cả
2
mặt
thân
và
tâm
thì
đều
mạnh
khỏe
và
tốt
đẹp
hơn
con
người.
Tuy
thế
họ
vẫn
đau
khổ
vì
ghen
tỵ
và
mâu
thuẩn.
Theo
thần
thoại
Ấn
độ
cổ
điển,
các
á
thánh
và
các
thánh
chia
xẻ
cùng
một
cõi
trời
(hay
cây
trời).
Trong
khi
các
thánh
vui
hưởng
quả
trái
của
cây
này,
các
á
thánh
là
những
người
giữ
các
rễ
cây.
Kết
quả
là,
các
á
thánh
ghen
tị
với
các
vị
thánh
và
thường
xuyên
cố
gắng
dành
lấy
trái,
quả.
Họ
chống
lại
các
vị
thánh
nhưng
bị
thất
bại
và
kết
quả
là
bị
đau
khổ
nhiều.
Vì
sự
ghen
tỵ
và
mâu
thuẩn
này
nên
việc
tái
sinh
trong
số
các
á
thần
á
thánh
là
không
hạnh
phúc
và
không
may
mắn. Trong
trường
hợp
các
cõi
khác,
có
một
nguyên
nhân
làm
tái
sinh
vào
các
á
thần
á
thánh.
Ở
mặt
tích
cực,
cái
nhân
là
sự
rộng
lượng,
trong
khi
ở
mặt
tiêu
cực,
cái
nhân
là
ganh
ghét
và
thèm
muốn. Cõi
của
các
thánh
là
cõi
hạnh
phúc
nhất
trong
sáu
cõi.
Do
kết
quả
của
các
hành
động
lành
mạnh
được
làm
trong
quá
khứ,
hành
trì
các
giới
hạnh
và
thực
hành
thiền
định,
các
sinh
vật
được
sinh
ra
trong
số
các
thánh,
nơi
họ
vui
hưởng
các
thú
vui
tính
dục,
hạnh
phúc
tinh
thần,
hay
sự
tĩnh
mịch
tuyệt
đối,
tùy
thuộc
vào
cấp
độ
của
cõi
mà
họ
được
sinh
ra.
Tuy
nhiên,
cõi
của
thánh
không
phải
là
để
muốn
thì
được,
vì
hạnh
phúc
của
các
thánh
là
vô
thường.
Không
cần
biết
là
họ
có
thể
vui
hưởng
được
bao
nhiêu
hay
bao
lâu,
một
khi
cái
lực
của
nghiệp
báo
lành
mạnh
đã
hết
đi,
cái
hiệu
quả
của
giới
đức
và
kinh
nghiệm
của
thiền
định
đã
tiêu
cạn,
các
vị
thánh
sẽ
rời
khỏi
thiên
đàng
và
được
tái
sinh
vào
một
cõi
khác.
Lúc
đó,
người
ta
nói
rằng
các
vị
ấy
chịu
đựng
sự
thống
khổ
tinh
thần
còn
hơn
là
các
sinh
vật
trong
các
cõi
khác
chịu
đựng
về
thể
xác. Các
thánh
được
tái
sinh
trong
cõi
thiên
đàng
do
kết
quả
của
sự
thực
hành
giới
hạnh
và
thiền
định,
nhưng
cũng
có
một
yếu
tố
tiêu
cực
khi
tái
sinh
trong
cõi
thiên
đàng.
Ðó
là
tính
hãnh
diện. Trang
92.
Như
bạn
đã
thấy,
chúng
ta
có
sự
phiền
não
hay
nhiễm
ô
gắn
liền
với
từng
cõi
một:
địa
ngục,
ngạ
quỹ,
súc
sanh,
á
thần
và
thánh---đó
là,
sân,
tham,
si,
ganh
tị
và
ngã
mạn.
Tái
sinh
vào
bất
cứ
một
trong
5
cõi
này
thì
đều
không
phải
là
hay.
Ba
cõi
thấp
nhất
không
hay
vì
những
lý
do
hiển
nhiên:
vì
sự
quá
đau
khổ
và
vì
sự
vô
minh
hoàn
toàn
của
các
sinh
vật
sống
trong
đó.
Dù
tái
sinh
trong
các
cõi
của
á
thánh
và
thánh
cũng
không
hay
nốt
bởi
vì
mặc
dù
họ
hưởng
được
một
mức
độ
hạnh
phúc
và
quyền
lực
nào
đó
nhưng
sự
hiện
hữu
ở
đó
là
vô
thường.
Ngoài
ra,
các
trò
tiêu
khiển
và
vui
thú
trong
những
cõi
này
làm
cho
các
sinh
vật
ở
đó
lãng
quên
việc
tìm
một
lối
thoát
ra
khỏi
vòng
sinh
và
tử.
Ðây
là
lý
do
tại
sao
người
ta
nói
rằng,
trong
6
cõi
hiện
hữu,
cõi
may
mắn
,
đầy
cơ
hội
và
đặc
ân
nhất
là
cõi
người.
Ðây
cũng
là
lý
do
tại
sao
tôi
đã
để
phần
thảo
luận
cũa
chúng
ta
về
cõi
người
đến
phần
cuối. Cõi
người
là
cõi
được
đặc
ân
nhất
của
6
cõi
bởi
vì,
là
con
người,
ta
có
động
cơ
thúc
đẩy
và
cơ
hội
để
thực
hành
Giáo
pháp
và
hoàn
thành
giác
ngộ.
Người
ta
có
động
cơ
và
cơ
hội
bởi
vì
các
điều
kiện
dẫn
đến
việc
thực
hành
con
đường
đạo
là
có
sẵn
ở
đó.
Ở
cõi
người,
ta
có
cả
hai
hạnh
phúc
và
đau
khổ.
Cái
đau
khổ
trong
cõi
này,
dù
kinh
khủng,
cũng
không
to
lớn
như
cái
đau
khổ
trong
3
cõi
phiền
não
kia.
Cái
vui
thú
và
hạnh
phúc
được
trải
qua
trong
cõi
người
thì
không
to
lớn
như
cái
thật
vui
thú
và
rất
hạnh
phúc
được
kinh
nghiệm
bởi
các
vị
trên
thiên
đàng,
con
người
cũng
không
bị
tràn
ngập
đau
khổ
như
các
sinh
vật
phải
chịu
như
ở
dưới
địa
ngục.
Và
không
giống
như
thú
vật,
con
người
sở
hữu
đầy
đủ
sự
thông
minh
để
nhận
ra
sự
cần
thiết
của
việc
tìm
phương
tiện
để
hoàn
thành
sự
chấm
dứt
đau
khổ. Tái
sinh
làm
người
thì
khó
đạt
theo
một
số
quan
điểm.
Trước
tiên,
nó
khó
vì
quan
điểm
nguyên
nhân
của
nó.
Giới
hạnh
tốt
là
nguyên
nhân
tối
cần
của
việc
tái
sinh
làm
người,
nhưng
hạnh
lành
thực
sự
thì
rất
hiếm.
Thứ
hai,
tái
sinh
làm
người
khó
đạt
nếu
nói
về
quan
điểm
con
số,
vì
loài
người
chỉ
là
một
phân
số
nhỏ
của
các
sinh
vật
trú
ngụ
trong
6
cõi.
Thứ
ba,
là
người
chưa
hẳn
là
đủ
tốt
để
làm
người
(tức
‘làm
một
con
người
cho
ra
người’),
bởi
vì
có
vô
số
con
người
không
có
cơ
hội
để
thực
hành
Giáo
pháp.
Nói
chung,
‘Nhân
thân
nan
đắc’
đã
là
một
cơ
hội,
‘Phật
Pháp
nan
văn’
(hay
phát
triển
tam
học
giới,
định
và
huệ)
lại
là
một
cơ
hội
không
phải
ai
cũng
được! Trang
93.
Ðức
Phật
dùng
một
dẫn
dụ
để
chứng
minh
sự
hiếm
có
và
tính
chất
quí
giá,
may
mắn
khi
được
sanh
làm
người.
Giả
dụ
toàn
thể
thế
giới
là
một
đại
dương
to
lớn
và
trên
mặt
biển
có
một
cái
ách
nổi
lên
trên
ấy,
bị
gió
thổi
qua
lại.
Lúc
đó
ở
dưới
đáy
biển
có
một
con
rùa
nổi
lên
trên
mặt
nước
một
trăm
năm
một
lần.
Ðức
Phật
nói
rằng
thật
là
hiếm
để
đạt
được
cơ
hội
tái
sinh
làm
người
giống
như
con
rùa
đặt
cái
cổ
của
nó
qua
cái
ách
khi
nổi
lên
trên
mặt
nước.
Người
ta
cũng
nói
rằng
được
sanh
làm
người
với
cơ
hội
thực
hành
Phật
Pháp
cũng
hiếm
như
là
ném
một
nhúm
đậu
khô
vào
một
bức
tường
đá
và
có
một
hạt
đậu
dính
vào
một
lỗ
nẻ
trong
đó. Vì
thế
thật
là
điên
rồ
khi
ta
để
phí
sự
hiện
diện
làm
người
của
mình,
chưa
nói
chi
đến
những
điều
kiện
may
mắn
mà
chúng
ta
được
hưởng
trong
những
xã
hội
tự
do
đầy
cơ
hội
để
thực
hành
Giáo
pháp.
Một
điều
rất
quan
trọng
là,
có
được
cơ
hội
thì
ta
phải
dành
lấy
nó.
Nếu
thất
bại
trong
việc
thực
hành
Phật
pháp
trong
cuộc
đời
này,
không
có
cách
nào
để
biết
khi
nào
chúng
ta
sẽ
tái
sinh
trong
6
cõi,
hoặc
khi
nào
chúng
ta
sẽ
có
cơ
hội
đó
một
lần
nữa.
Chúng
ta
phải
nỗ
lực
để
tự
giải
thoát
ra
khỏi
vòng
tái
sinh
bởi
vì
không
làm
được
như
vậy
có
nghĩa
là
chúng
ta
tiếp
tục
vòng
luân
hồi
bất
tận
trong
sáu
cõi
hiện
hữu
này.
Khi
nghiệp
báo,
dù
lành
mạnh
hay
không
lành
mạnh,
gây
cho
chúng
ta
sanh
ra
trong
bất
cứ
6
cõi
bị
cạn
kiệt,
tái
sinh
sẽ
xãy
ra,
và
chúng
ta
lại
ở
vào
một
cõi
khác
nữa.
Người
ta
nói
rằng
tất
cả
chúng
ta
đã
luân
hồi
trong
6
cõi
này
từ
vô
thỉ.
Người
ta
cũng
nói
rằng
nếu
tất
cả
các
bộ
xương
có
trong
nhiều
đời
trước
đây
của
chúng
ta
được
chất
chồng
lên,
nó
sẽ
cao
quá
chiều
cao
của
núi
Sumeru,
rằng
nếu
tất
cả
sửa
mẹ
chúng
ta
đã
uống
trong
vô
số
lần
hiện
hữu
được
thu
tập
lại,
nó
sẽ
lên
đến
hơn
tất
cả
số
nước
trong
tất
cả
đại
dương.
Bây
giờ
thì
chúng
ta
có
cơ
hội
để
thực
hành
Phật
pháp,
chúng
ta
phải
làm
như
vậy
mà
không
nên
trì
hoãn. Trang
94.
Trong
những
năm
sau
này,
đã
có
một
khuynh
hướng
giải
thích
6
cõi
bằng
những
từ
tâm
lý.
Vài
bậc
thầy
đã
gợi
ý
rằng
các
kinh
nghiệm
của
6
cõi
đang
hiện
có
ngay
trong
cuộc
đời
này,
Ðiều
này
đúng
theo
như
chúng
ta
có
thể
tưởng
tượng.
Ðàn
ông
hay
phụ
nữ
nào
không
may
ở
trong
nhà
tù,
bị
tra
tấn,
bị
giết,
v.v...
thì
chắc
chắn
là
đang
chịu
đựng
những
tình
trạng
giống
như
những
người
ở
địa
ngục.
Những
người
keo
kiết
trải
qua
một
tâm
trạng
tương
đương
với
các
quỉ
đói;
có
những
người
giống
như
thú,
trải
qua
một
tình
trạng
tâm
tính
tương
tự
như
tính
của
thú
vật;
những
người
hay
la
rầy,
đói
quyền
và
ghen
tỵ
đang
trải
qua
một
tình
trạng
tâm
tính
tương
tự
như
các
á
thần
á
thánh;
và
những
người
trinh
bạch,
sống
trong
lành,
thanh
thản
và
được
đề
cao
thì
đang
trải
qua
một
tình
trạng
tâm
tính
tương
tự
với
tâm
tính
của
các
vị
thánh. Tuy
thế,
mặc
dù
các
kinh
ngiệm
trải
qua
của
6
cõi,
ở
một
mức
độ
nào
đó
có
xãy
ra
cho
chúng
ta
dưới
hình
thức
là
người,
tôi
nghĩ
sẽ
là
một
điều
sai
lầm
khi
giả
dụ
hay
tin
rằng
5
cõi
hiện
hữu
kia
không
có
một
thực
tế
có
thật
như
kinh
nghiệm
làm
người
riêng
của
chúng
ta.
Những
cõi
địa
ngục,
cõi
ngạ
quỹ,
súc
sanh,
á
thánh
và
thánh
là
có
thật
như
cõi
người
của
chúng
ta.
Các
bạn
hẵn
nhớ
lại
rằng
tâm
là
vật
tạo
ra
tất
cả
các
sự
vật.
Hành
động
được
làm
với
một
cái
tâm
thanh
bạch
(được
tác
động
bởi
lòng
quảng
đại,
tình
thương
v.v...)
có
kết
quả
hạnh
phúc,
được
ở
trong
những
tình
trạng
hiện
hữu
như
cõi
người
và
cõi
thánh.
Hành
động
được
làm
với
một
cái
tâm
nhiễm
ô
(được
tác
động
bởi
tham
sân
v.v...)
gây
kết
quả
không
hạnh
phúc
giống
như
ngạ
quỹ
và
các
sinh
vật
ở
cõi
địa
ngục. Cuối
cùng,
tôi
xin
phân
biệt
tái
sinh
với
nhập
hồn.
Có
thể
bạn
không
nhận
ra
rằng,
trong
Phật
giáo,
chúng
ta
luôn
luôn
nói
về
tái
sinh,
chứ
không
phải
nhập
hồn.
Ðấy
là
vì
trong
Phật
giáo,
chúng
ta
không
tin
vào
một
thực
thể
vỉnh
cữu
mà
lại
nhập
hồn.
Chúng
ta
không
tin
một
cái
ngã
tái
sinh.
Ðó
là
lý
do
tại
sao,
khi
chúng
ta
cắt
nghĩa
tái
sinh,
chúng
ta
dùng
những
thí
dụ
không
đòi
hỏi
sư
nhập
hồn
của
một
loại
thực
thể
nào
đó. Trang
95.
Chẳng
hạn,
một
cái
chồi
hay
búp
được
sanh
từ
hạt
thì
không
có
một
thực
thể
để
nhập
hồn.
Cái
hạt
và
cái
chồi
không
giống
nhau.
Giống
như
vậy,
khi
chúng
ta
mồi
một
ngon
đèn
cầy
từ
một
ngọn
đèn
cầy
khác
thì
không
có
thực
thể
thuộc
vật
chất
đi
từ
cái
này
qua
cái
kia,
dù
rằng
cái
đầu
tiên
là
nguyên
nhân
của
cái
thứ
hai.
Khi
một
trái
banh
bi
da
đụng
trái
banh
khác
thì
có
một
sự
tiếp
tục;
cái
năng
lượng
và
phương
hướng
của
trái
banh
đầu
tiên
được
truyền
qua
cho
trái
thứ
nhì.
Trái
banh
đầu
tiên
là
nguyên
nhân
của
trái
banh
bi
da
thứ
hai
di
chuyển
về
một
hướng
đặc
biệt
và
với
một
tốc
độ
đặc
biệt,
nhưng
không
phải
cùng
một
trái
banh.
Khi
chúng
ta
bước
hai
lần
vào
một
con
sông,
đấy
không
phải
là
cùng
một
dòng
sông,
tuy
rằng
có
sự
tiếp
tục,
cái
liên
tục
của
nhân
và
quả. Vì
thế
có
sự
tái
sinh,
nhưng
không
có
sự
nhập
hồn.
Trách
nhiệm
đạo
đức
là
có,
nhưng
không
có
cái
ngã
độc
lập,
thường
hằng.
Cái
liên
tục
của
nhân
và
quả
thì
có
đó,
nhưng
không
thường
hằng.
Tôi
muốn
chấm
dứt
chương
Tái
sanh
ngay
điểm
này
bởi
vì
chúng
ta
sẽ
xem
xét
cái
thí
dụ
của
cái
hạt
và
cái
chồi,
cái
thí
dụ
của
ngọn
lửa
trong
ngon
đèn
dầu
ở
Chương
10,
khi
chúng
ta
thảo
luận
về
nhân
duyên.
Sau
đó,
chúng
ta
sẽ
hiểu
biết
hơn
về
nhân
duyên
để
từ
đó
trách
nhiệm
đạo
đức
và
vô
ngã
có
thể
tương
hợp
với
nhau.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002