Khai Thị Đại Sư Tuyên Hóa Việt dịch: Ban Phiên Dịch Đại Học Pháp Giới,
Vạn Phật Thánh Thành
11.
Niệm Quán Thế Âm Bồ-Tát Với Đủ Sáu Căn
12.
Tự Xét Sai Lầm Của Mình
13.
Niệm Quán Âm Khi Khẩn Cấp
14.
Đạt Tới Cảnh Giới Bất Động Tâm
15.
Phải Cứu Vãn Nguy Cơ của Thế Giới
16.
Truy Điệu Ông Sadat
17.
Tham Sân Si Làm Chướng Ngại Đường Tu
18.
Linh Cảm Quán Thế Âm
19.
Truyền Thọ Chú Khai Trí Huệ
20.
Sáu Nẻo Luân Hồi
11.
Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát Với Đủ Sáu Căn [^]
Niệm
Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng phải chỉ riêng miệng niệm cho rõ
ràng, mà trong tâm cũng phải ghi nhận cho thật rõ ràng. Cả
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, đủ sáu căn, tất cả đều cùng
niệm. Mắt niệm, tai niệm, mũi niệm, lưỡi niệm, thân thể
niệm, ý thức cũng niệm, tóm lại mọi căn cùng một lúc
niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Cái đó gọi là thâu nhiếp sáu căn,
một cửa thâm nhập.
Tại
chương Đại Thế Chí Viên Thông, kinh có nói: "Nhiếp cả
sáu căn, tịnh niệm tương tục, chứng Tam-ma-địa, ấy là đệ
nhất." Đại ý câu này có thể giải thích như sau: nói
nhiếp cả sáu căn tức là bảo chúng ta gom sáu căn đó lại,
không cho chúng tán loạn, bảo chúng phải nghe lời và phụng
hành nghiêm chỉnh; phải làm sao khiến cho sáu tên giặc -
tức sáu căn - biến thành sáu vị hộ pháp. Nhiếp sáu căn
tức là ra lệnh cho chúng phải giữ phép tắc, không để chúng
tác quái; huấn luyện chúng đến chỗ thuần thục, ngoan ngoãn
nghe lời. Không chuyên tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, cái đó
là bởi lý do gì? Chính là bởi không thâu nhiếp lục căn,
khống chế ngự sáu tên giặc là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
và ý. Vì đó mà chúng mặc sức tung hoành, làm mưa làm gió,
dẫn tới tình trạng vọng tưởng lăng xăng, không an phận
thủ thường, tới đâu cũng gặp điều rắc rối.
Nếu
như sáu căn đều được thâu nhiếp, thì lúc đó tịnh niệm
nối tiếp với nhau. Các niệm thanh tịnh cũng giống như làn
sóng trên mặt nước, cái này nối tiếp cái kia không dứt.
Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát với tâm thanh tịnh thì cũng như
vậy. Niệm niệm không gián đoạn, niệm niệm không ngưng
nghỉ, niệm tới một lúc nào đó liền chứng được tam-ma-địa.
Tam-ma-địa dịch nghĩa là chánh định, chánh thọ, đó là pháp
môn viên thông đệ nhất. Tới được cảnh giới này thì
cả sáu căn cùng một lúc niệm thánh hiệu của Ngài Quán
Thế Âm Bồ Tát.
Có
vào được cảnh giới tam-ma-địa chúng ta mới có thể
chứng được pháp "Niệm Quán Âm tam-muội," và mới
có thể gọi là người đã vào thất Quán Âm. Chưa chứng pháp
này thì chưa có thể coi như đã vào thất Quán Âm. Tỷ như
trong cảnh giới tam-ma-địa, một mạch bắt đầu từ sáng
sớm cho đến tối mới được nghỉ ngơi. Trong khoảng đó,
miệng chỉ biết niệm Quán Âm mà không còn biết gì khác
nữa, mọi ý niệm thời gian không còn, chẳng biết đâu là
quá khứ, hay hiện tại, hay vị lai, cả ba đều coi như không
cả, đó chính là cảnh giới tam-ma-địa.
Đạt
được cảnh giới này thì niệm Quán Âm là niệm trong trạng
thái tinh thần tập trung, quên mọi phiền não. Ta chưa ăn cơm
hay đã ăn rồi, cũng không còn nhớ nữa. Tại sao? Bởi vì chúng
ta dốc lòng niệm Quán Âm mà. Quần áo mặc vào hay không
mặc vào? Cũng chẳng nhớ. Tại sao? Bởi chúng ta chuyên tâm
niệm Quán Âm mà. Đã được ngủ nghỉ chưa? Cũng không
biết. Tại sao? Bởi chúng ta chuyên tâm niệm Quán Âm mà.
Nếu thực tình ba thứ ăn, mặc, ngủ nghỉ mà cũng quên, đó
chính là cảnh giới tam muội. Trong tâm không có vô minh, không
có phiền não, không có vọng tưởng. Niệm Quán Thế Âm Bồ
Tát, niệm thật rõ ràng, hoan hoan hỷ hỷ, không còn gì an nhiên
tự tại hơn, sảng khoái hơn. Có bệnh chăng? Bệnh cũng hết.
Đau chăng? Cũng hết đau. Không ăn cũng không đói, không ngủ
cũng không buồn ngủ, đó chính là cảnh giới của người
niệm Quán Âm tam-muội.
12.
Tự Xét Sai Lầm Của Mình [^]
Như
bảo rằng: "Tôi có thể nghe được tiếng nói ở không
trung," đây tức là cảnh giới ma, không phải là cảnh
giới của người vào định. Người tu đạo không thể nói
như vậy mà phải theo được các câu sau :
Tự
tánh chúng sanh thệ nguyện độ.
Tự
tánh phiền não thệ nguyện đoạn.
Tự
tánh pháp môn thệ nguyện học.
Tự
tánh Phật đạo thệ nguyện thành.
Người
tu học phải luôn luôn quay lại chiếu soi mình, chớ không
phải hướng ra ngoài tìm cầu, bởi ở bên ngoài không có
cái gì để kiếm được. Ngay trong tự tánh của mình, mọi
thứ đều có sẵn, đều hoàn bị. Chúng ta hãy tự hỏi mình
có tu hay không tu? Có hạ công phu không? Đừng hỏi gì khác,
chỉ hỏi ta có tham không? Có tham, tức là không tu hành.
Không tham, tức là có tu hành. Cái đó mới là quan trọng
nhất.
Lại
tự hỏi mình, có tâm sân không? Bỗng dưng người ta đánh
mình, mình có nổi nóng không? Nếu quý vị nổi nóng tức là
quý vị chưa có công phu. Nếu quý vị thực không nổi nóng,
quý vị cũng không nên tự cho là mình hết chấp ngã, cái đó
chỉ là giảm phần nào tâm chấp ngã đó thôi. Chúng ta phải
theo cho được các câu sau: "Đánh ta, coi như không thấy;
mắng ta, lấy lẽ đối xử" - Đả ngã, một khán kiến;
mạ ngã, bả lý phục - Hy vọng quý vị ở đây theo đó
dụng công phu.
Nếu
nổi nóng, tức chưa có tu hành, chưa buông xả. Buông xả được
thì ai là người phiền não? Ai là kẻ trêu chọc? Nếu không
phiền não, cũng sẽ không nổi nóng, đây là bổn phận của
người tu. Cũng không thể nói là ta tu hay, cái đó chỉ là
tiến được một bước. Không thể có lòng cống cao ngã
mạn, tự coi mình giỏi. Như nói: "Này! Các người đến
đây coi chúng tôi tu, số một thế giới đấy!" Đấy
chính là đại ngã mạn! Đại ma vương! Ngàn vạn lần quý
vị không nên có những ý nghĩ như vậy, bởi nói cách đó
chính là tà tri tà kiến.
Soi
lại chính mình, thử xét mình có ngu si không? Có điều gì
không được hiểu rõ, còn bị chướng ngại? Một điều
thông, mọi thứ đều thông, và đây cũng chỉ là bước đầu
của việc tu tập. Không thể nói rằng ta biết đã đủ rồi,
tất cả đều viên mãn, nói như vậy là tính cuồng mạn. Có
câu nói: "Chân không vô nhân ngã, đại đạo vô hình tướng."
Đã là chân không thì cái gì là người? Cái gì là ta? Làm
sao còn vọng tưởng? Như chứng được tam-ma-địa thì tự
nhiên nước cam-lồ hiện tiền, đâu cần phải chạy đi đâu
tìm kiếm, tất cả đã ở trong tự tánh rồi.
Người
tu đạo không thể mang bộ mặt giả dối, mang cái nhãn hiệu
tu mà sự thực chẳng tu, cái đó người ta nói là: "Treo
đầu dê, bán thịt chó," làm những việc không đúng
pháp làm sao chứng được tam-ma-địa! Kẻ tu hành chân chánh
mà chuyên tâm niệm Quán Âm thì sẽ chứng tam-muội. Cảnh
giới tam-muội thì gặp trời lạnh không cảm thấy lạnh,
trời nóng không thấy nóng, thiếu nước không biết khát,
thiếu ăn không thấy đói, diệu dụng như vậy, nhiệm mầu
không thể nói hết.
Người
tu đạo phải thực lòng mà tu hành, cốt lấy cái thực chớ
không tham cái danh giả. Tu hành là nói tới cái công phu thực
sự, đem ra mà khảo nghiệm. Không thể tự mình đánh trống
thổi kèn, rêu rao rằng ta là người đạo hạnh. Giả hay
thực, nhìn qua là biết. Người tu không thể dối người
khác, dối người là tội đọa địa ngục. Lại cũng không
thể tu được chút ít mà đã tự coi là đầy đủ, giống như
cái bánh vẽ không thể làm cho no bụng được. Tuy có câu
nói rằng "thấy trái mơ thì hết khát nước," nhưng
cảm giác này chỉ là tạm thời, chớ không làm cho hết khát
thực sự. Phải noi theo cho đúng phép tắc thì mới là con
đường chánh để tu hành.
13. Niệm Quán Âm Khi Khẩn Cấp [^]
Hôm
nay tôi xin truyền cho quý vị một yếu quyết. Đó là yếu
quyết để áp dụng trong giờ phút thật khẩn cấp. Gặp
những trường hợp đó chúng ta phải giữ bình tĩnh, đừng
hốt hoảng, chuyện sống chết hãy tạm gác một bên, một
lòng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì chắc chắn sự hiểm nguy
sẽ hóa thành tốt lành, thoát khỏi ách nạn.
Trong
giây phút khẩn trương, chúng ta hãy nghĩ rằng: "Đàng
nào cũng chết, vậy trước khi chết ta hãy dốc lòng niệm
Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, biết đâu đó là niềm hy vọng."
Hành động như thế, tức là từ hiểm nguy mà gặp may mắn.
Khi
đi máy bay, gặp lúc trên không máy bay gặp nạn, sắp bị
rớt. Ngay lúc đó chúng ta hãy niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Vì
rằng Ngài Quán Thế Âm là một vị Bồ-tát chuyên cứu khổ
cứu nạn, một vị Bồ-tát có cầu có ứng, nếu chẳng
niệm danh hiệu Ngài, thì sanh mạng của chúng ta vô cùng nguy
hiểm, không còn hy vọng gì nữa. Lúc đó chúng ta đem hết
lòng thành niệm, cảm ứng tới đức từ bi của Ngài, thì
toàn thể sanh mạng trên máy bay được cứu vớt. Vào thất
Quán Âm chúng ta cũng phải khởi lên những ý tưởng như
vậy để hạ công phu niệm Quán Thế Âm Bồ Tát.
Chúng
ta lại tưởng tượng khi đi xe lửa, và giả thử ngay khi
biết xe lửa trật đường rầy, tức là trong khoảng thời
gian đường tơ kẽ tóc đó, nếu chúng ta không niệm Quán
Thế Âm Bồ Tát, toàn thể hành khách trên chuyến xe đó đều
gặp nạn tử vong. Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát có nghĩa là
phát ra lời kêu cứu, Bồ-tát nghe được tiếng kêu thì dầu
có cách xa cả vạn ngàn sông núi, Ngài cũng tới ngay, tiếp
cứu chúng ta ra khỏi khổ nạn, linh nghiệm vô cùng.
Lại
tưởng tượng chúng ta đi tàu trên biển, chẳng may gặp
cảnh tàu sắp đắm, cái nguy cơ gửi thân trong bụng cá.
Trong phút nguy cấp ta niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, tới phút
chót cũng niệm, tới giây chót cũng niệm. Nếu được như
vậy, nhất định là hung hóa cát.
Lại
giả thử ta ngồi trên xe hơi đang chạy nhanh trên đường,
hốt nhiên xe không thể làm chủ được nữa, bay qua lề đường
bên bờ vực sâu, vách dựng thẳng đứng. Xe hơi mà rớt
xuống đáy vực thì là hết đời, xương tan thịt nát. Ngay
lúc đó nếu niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, với tất cả lòng
thành khẩn, xe hơi sẽ đáp xuống an toàn, kinh hoàng nhưng
không nguy hiểm. Đây chính là sự cảm ứng của pháp niệm
Quán Âm.
Trong
giờ phút khẩn cấp hiểm nghèo, niệm được một câu Quán
Thế Âm Bồ Tát thì bằng cả trăm vạn câu niệm trong lúc
bình thường. Tại sao vậy? Bởi trong lúc không có gì nguy
hiểm, lời mình niệm chưa đủ tha thiết, lòng mình chưa đủ
thành khẩn. Cho nên, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, ta phải hết
lòng kiền thành, hết lòng chân thực, thì cảm ứng đó mới
thật là không thể nghĩ bàn.
Vừa rồi tôi có nói với
Quả Khiêm rằng: "Ngày nay ở tại Vạn Phật Thành này
con có niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, thì hãy tưởng tượng như
khi ở trên thuyền mà thành tâm khẩn niệm, tất sẽ có cảm
ứng. Hồi đó, trong lúc sóng to gió lớn, nguy hiểm vạn
phần như vậy, nếu không niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, thì đâu
còn hy vọng có ngày nay. Có niệm Quán Âm mới có phần hy
vọng, hoặc giả được cứu vớt, cho nên đã hết lòng
khẩn niệm thì cuối cùng tai nạn sẽ vượt qua, gió im sóng
lặng, đến được bến bờ. Bây giờ con niệm Quán Âm còn
để thì giờ để nghỉ ngơi, ấy là vì nay không còn ở
trong cảnh ngộ nguy hiểm như trước." Sự thực thì:
Một
ngày qua đi, mạng cũng giảm dần,
Như
cá thiếu nước, có gì mà vui!
Đại
chúng!
Phải
lo tinh tấn, cứu lấy cho mình.
Nghĩ
tới vô thường, chớ đừng phóng dật!"
Niệm
Quán Thế Âm Bồ Tát, tùy nơi tùy lúc mà niệm, nói một
cách khác, đi, đứng, nằm, ngồi, đều niệm được cả.
Miệng niệm hay tâm niệm, công đức cũng ngang nhau, đừng
khởi tâm phân biệt, lúc nào cũng tùy duyên. Phải nhớ rằng
chờ tới lúc mạng chung mới niệm thì đã quá muộn, không
còn cơ hội nữa. Vì vậy mới có câu: "Nghĩ tới vô thường,
chớ đừng phóng dật."
14.
Đạt Tới Cảnh Giới Bất Động Tâm [^]
Người
học Phật pháp, phải biết Phật pháp, phải tu trì Phật
pháp. Cũng có thể nói là ăn bằng Phật pháp, mặc áo Phật
pháp, ngủ trong Phật pháp, đi, đứng, nằm, ngồi thảy đều
trong Phật pháp. Người biết Phật pháp, luôn luôn vị tha, để
lợi ích của mọi người ở phía trước, tuyệt đối không
nghĩ cho quyền lợi của mình. Nói tóm lại, phải đả phá
bệnh "chấp ngã." Chỉ biết người, không biết mình,
tới được trình độ ấy mới gọi là người biết Phật
pháp.
Người tu trì Phật pháp
thì bất cứ ở trong hoàn cảnh nào cũng không bao giờ động
tâm. Tại sao vậy? Bởi vì nếu công phu tu hành tới mức thì
ắt có đạo lực, và từ đó biết phân định cảnh giới
nào là chân thực, cảnh giới nào là hư dối. Chẳng kể trước
mắt là cảnh giới nào, chân thực cũng tốt, hư dối cũng
tốt, chẳng có gì làm cho tâm động. Cho nên chúng ta thấy
trong nhà Thiền thường có câu nói: "Phật đến chém
Phật, ma đến chém ma," ý nghĩa là không chấp trước
bất cứ thứ gì. Không chấp trước là giải thoát, giải
thoát là tự tại. Học Phật là cầu giải thoát, cầu tự
tại, tức là không còn bị ngũ dục trói buộc, vậy mới ra
khỏi được tam giới, đến được cõi tịnh độ Thường
Tịch Quang, gần gũi chư Phật và các vị Bồ-tát.
Thế
nào là cảnh giới thực? Khi nào trong tâm không khởi lên động
niệm thì mọi cảnh giới trước mắt đều là chân thực.
Một khi tâm ngu si vọng động, tâm tưởng thấy cái này cái
kia, thì cảnh giới lúc ấy phần nhiều là hư dối. Cảnh
giới của Đại Viên Kính Trí là thực, nhưng cảnh giới
hiện lên trong tâm thức phân biệt là giả, cho nên có câu
rằng: "Có tâm tức thị vọng tưởng, vô tâm tức thị
cảm ứng." Ai học Phật pháp phải cố ghi nhớ! Tất cả
mọi cảnh giới đến với chúng ta, ta phải có con mắt
trạch pháp (chọn lựa pháp). Ta nhận thức cảnh giới mà
không chấp vào nó. Bất luận đó là thực hay giả, ta đều
không chấp trước. Nếu chấp thì cảnh giới chân cũng thành
ra giả, nếu chẳng chấp thì giả sẽ biến thành chân. Nghĩa
lý như thế nào? Lấy nước và băng chẳng hạn, băng vốn
từ nước, nhưng nước chẳng phải băng, tính chất vật lý
của nước là như thế, ai cũng biết. Như trong câu: "Phiền
não tức Bồ-đề, Bồ-đề chẳng phải phiền não," thì
phiền não có thể dụ cho băng, Bồ-đề là nước, còn vô
minh là độ lạnh. Vì vô minh, nước kết băng; không vô minh,
băng hóa ra nước. Khi là băng thì ở trong tam giới, chịu
vòng sanh tử; khi là nước thì ra khỏi tam giới chẳng sanh
tử.
Xin
quý vị chú ý, quý vị phải dụng công ngay chỗ này. Lục
Tổ đã từng nói: "Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác,
ngay lúc đó, cái gì là bổn lai diện mục của thượng-tọa
Minh." Nghĩa lý như vậy đó. Nếu như chẳng nghĩ thiện
chẳng nghĩ ác, tức là không có niệm nào; vô niệm, vô trụ,
nhất thiết không, chẳng có cái gì hết. Tới lúc đó sẽ
thấy được bổn lai diện mục của mình, tức gốc gác của
mình vậy.
15.
Phải Cứu Vãn Nguy Cơ của Thế Giới [^]
Bây
giờ chúng ta hãy nghiên cứu một vấn đề lớn, nhưng vấn
đề gì cũng không ngoài phạm vi bốn chữ "thiện ác
nhân quả." Thiện sẽ thắng, ác sẽ bại, đó là luật
nhân quả. Người ta thường nói: "Trồng dưa được dưa,
trồng đậu được đậu." Cũng vì lẽ đó mà thế giới
của chúng ta mới không bị hủy diệt. Nếu quả có lý ngược
lại, nghĩa là thiện thì bại, ác thì thắng, thì chẳng còn
thiên lý nữa, mà không còn thiên lý, thì thế giới đã bị
hủy diệt, tức là đã có ngày tận thế.
Làm
sao để thế giới không bị hủy diệt? Phải cải thiện
nhân tâm. Lòng người hướng thiện thì ánh sáng sẽ chiếu
khắp thế giới. Ánh sáng là trí huệ, mà người có trí
huệ, là người có tâm chánh, mọi điều họ tạo tác, họ
hành động đều chánh đại quang minh, không có tư tâm vị
kỷ. Tâm tưởng đều nhất loạt hướng tới hạnh phúc của
nhân loại, không hề phân biệt, chủng tộc này, quốc gia kia,
thiên hạ đều gom lại một nhà của đại đồng thế giới.
Nay thì lòng người khác xưa, phần đông đều ích kỷ, tự
lợi, chỉ tranh đua quyền lợi cho riêng mình mà hy sinh hạnh
phúc của tập thể, cho nên thế giới mỗi ngày một đen
tối, mỗi ngày một ngu si, mỗi ngày một thêm nguy hiểm.
Ngày hủy diệt như đã gần kề, chỉ trong đường tơ kẽ
tóc, mà nếu không tìm biện pháp cứu vãn, thì tất cả đều
chung một số phận, chẳng ai còn một cơ may sống sót. Nhưng
làm sao cứu vãn đây? Kinh có dạy: "Các điều ác chẳng
làm, các điều thiện phụng hành." Ai ai cũng hướng
thiện, không hướng tới ác, trên từ vị nguyên thủ, dưới
tới tận trăm họ, mọi người đều lấy trí huệ làm ánh
sáng để xua đuổi ngu si và hắc ám. Nếu được như vậy
thì bộ mặt thế giới sẽ đổi từ âm qua dương, và chiến
tranh sẽ biến thành hòa bình.
Nay
chúng ta đương sống trong cảnh đêm dài dằng dặc, sống và
chết trong cảnh mộng say. Bởi đêm dằng dặc mới thấy
cần ánh sáng; vì tối tăm nên lòng người ưu uất sầu
muộn. Trong bầu ánh sáng, nhân tâm sẽ hoan hỷ. Hắc ám và
quang minh chỉ tại lòng người thiện ác. Hủy diệt thế
giới là ở nhân tâm, mà sáng tạo thế giới cũng ở tại
nhân tâm. Chúng ta là người học pháp Phật, chính là trừ
bỏ vọng tâm tìm chân tâm, cho nên Phật pháp chính là lá
bùa cứu vãn thế giới, cái gương quý cải thiện nhân tâm.
Phàm
chuyện đời cái gì có lợi thì ắt có cái tệ hại. Tỷ
dụ như cái máy truyền hình, nó có thể cho ta biết chuyện
lớn trong nước và các din biến quốc tế. Một câu người
ta hay nói: "Tú tài bất xuất môn, tiện tri thiên hạ sự,"
tú tài chẳng ra khỏi cửa mà biết hết cả chuyện thiên
hạ. Đây là dụng ích tốt của máy truyền hình, nhưng nó cũng
có khía cạnh xấu. Con nít coi truyền hình thường bị ảnh hưởng
xấu, học lối gian dối, làm những hành vi trái đạo lý,
khiến mất hạnh phúc trong gia đình, gây hỗn loạn trong xã
hội, thành những thiếu niên bất hảo, đâu đâu cũng gây
chuyện thị phi. Nếu như vậy rồi mai sau những hạng đó ra
chấp chánh thì làm sao có hòa bình được? Đó là một trong
cái hại của máy truyền hình. Như chúng ta lo cho thế hệ sau,
lo cho tương lai thế giới thì nên nghiêm cấm con nít không
cho xem truyền hình, hoặc giả tuyệt đối không mua máy
truyền hình, đó chính là biện pháp rốt ráo, chặn từ gốc
của cái họa tạo điều ác.
Thế
giới ngày nay đã đi tới giai đoạn mà sự trong sáng đã
bị che mờ thành mầu u ám. Vậy phải làm sao? Là một thành
phần của nhân loại, trước hết chúng ta hãy đem bổn thân
mình ra để cố gắng, bài trừ các tập khí của chúng ta,
mang hết tâm tham, tâm sân, tâm si ra gạn lọc, lấy bổn thân
mình để ảnh hưởng đến người khác. Tư tưởng cùng hành
vi của chính chúng ta phải thật là đúng mức thì sau đó
mới khuyên nhủ được mọi người hướng thiện, lấy đó
làm khuôn mẫu, nếu không thì chỉ là chuyện nói để chơi,
chẳng ích lợi gì.
(Kỷ
yếu ghi: Để cầu nguyện cho hòa bình thế giới, hai pháp sư
Hằng Thật và Hằng Triều mang bản thân nếu gương hành động,
ba bước một lạy, khuyên người hướng thiện, diệt trừ ba
độc, là các tâm tham sân si. Mọi người nếu không có ba
tâm độc ấy, thì thế giới hòa bình, và có hòa bình thì
nó sẽ không bị hủy diệt. Ngược lại, nếu có chiến tranh
nguyên tử, thế giới tức bị tiêu diệt.)
Phàm
người chịu gánh vác việc thiên hạ, đều có tư tưởng thương
xót nhân loại. Như đức Phật Thích-ca năm xưa, khi tu đạo
Bồ-tát, Ngài chịu khổ hạnh như vậy. Tại sao? Bởi muốn
tạo ảnh hưởng trong chúng sanh, khiến chúng sanh y pháp tu
hành, mới có thể lìa khỏi khổ được an vui. Tôi thường
nói: "Chịu khổ thì hết khổ, hưởng phước thì tiêu
hao phước."
Khi
có tin tức về ông Sadat, tổng thống Ai-cập, bị nạn, ai
nấy ở Vạn Phật Thành đều lấy làm thương tiếc, và thế
giới đã mất đi một vị lãnh tụ của phong trào hòa bình.
Tuy ông là tín đồ Hồi giáo nhưng với đầu óc cởi mở,
không câu nệ ranh giới tôn giáo, ông đảm nhiệm chức vụ
hiệu trưởng danh dự của trường Đại-học Pháp Giới.
Với
tôn chỉ phục vụ cho hòa bình thế giới, ông Sadat đáng làm
cho mọi người khâm phục. Tại Trung Đông, ông nỗ lực vận
động để giảm thiểu nguy cơ chiến tranh, đó chính là một
công tác phục vụ hòa bình thế giới vô cùng khó khăn.
Ông
rất hưởng ứng tôn chỉ của trường Đại-học Pháp-giới
Phật-giáo, nguyện ý tán trợ và sau vui lòng đảm nhiệm
chức vụ hiệu trưởng danh dự của trường. Tuy ông bị ám
sát, nhưng tinh thần của ông vĩnh vin ở lại với thế gian.
Sanh tử vốn là hư vọng, nhưng công nghiệp để lại cho
thế gian mới là chân thực. Ta lấy ví dụ như nhân vật Quan
Vân Trường tại Trung quốc, với đại nghĩa ngất trời, khí
tiết vẫn còn lại mãi. Tuy sau này, bị hại trong tay Đông
Ngô, nhưng phương danh lưu lại thiên cổ, cho đến nay vẫn
còn được mọi người sùng bái.
Tôi
nghĩ rằng ông Sadat tuy không may bị hại, nhưng là người vì
nước quên mình, cho nên tinh thần yêu chuộng hòa bình của
ông sẽ là muôn đời bất hủ.
Để
tỏ lòng tưởng niệm một vị lãnh tụ hòa bình, ngày mai (9
tháng 10 năm 1981) vào lúc 9 giờ sáng, chúng ta sẽ cử hành
pháp hội truy điệu Sadat tiên sinh. Chúng ta tụng kinh niệm
chú hồi hướng cho ông. Trong thế giới Hồi Giáo của ông,
ông hiểu được nguyên tắc bình đẳng của Phật-giáo,
không bị lệ thuộc vào mầu sắc tôn giáo, chắc chắn ông
sẽ rất vui lòng.
17.
Tham Sân Si Làm Chướng Ngại Đường Tu
[^]
Nói
về khoảng thời gian chúng ta ở tại thế, nó qua nhanh chỉ
trong nháy mắt. Vậy mà không ai buông xả được, cứ ôm
cứng lấy, chấp đông chấp tây, coi thế giới này là chân
thực, từ đó mà ra công tranh danh đoạt lợi, quẩn quanh
hoài trong vòng lợi danh, vì lợi danh mà làm những hành vi điên
đảo, trái lương tâm. Kết quả tối hậu cũng chỉ là vì
danh mà chết với danh, vì lợi mà chết với lợi. Một đời,
tôi tranh anh đoạt, vì lợi danh mà quay cuồng điên đảo,
nguyên nhân là sao vậy? Bởi vì người ta chưa nhận thức
được ba độc là tham sân si. Loại độc này còn ghê gớm hơn
bội phần các thứ thuốc độc khác. Thuốc độc chỉ hại
thân thể, chớ không hại được cái tâm, còn tam độc thì
vừa hại thân vừa hại tâm, làm cho ta phải điên cuồng,
nhẹ thì tiêu hủy gia đình, nặng thì diệt quốc, thậm chí
đến hủy diệt thế giới, cho nên ba độc đó chính là kẻ
thù của nhân loại.
Tại
sao trên thế giới lại có những kẻ sát nhân, đốt nhà,
gian dâm, với những chuyện cướp bóc? Bởi vì người ta tham,
sân, si, và ba độc này được ưa chuộng, khiến cho người
ta tham mà không biết chán. Gặp chuyện cầu mong mà không được,
bèn nổi tâm sân hận, nhẹ thì nó ẩn núp bên trong, nặng
thì phát ra hành động, thành đấu tranh, có khi thành chiến
tranh. Bởi vậy nên thế giới không an ổn. Nếu quả mọi người
giữ lòng thanh tịnh, không bợn trong tâm, làm việc với tâm
từ bi, thì thế giới tự nhiên hòa bình không còn chiến
tranh nữa.
Nếu
muốn giải quyết tận gốc vấn đề của thế giới, thì
phải nhằm vào ba độc để hạ công phu, tìm cách làm sao cho
mọi người không tham, không sân, và không si. Làm được như
vậy chăng? Biện pháp duy nhất là tin theo Phật-pháp, theo
tông chỉ của Phật-giáo, tức là lấy giới, định, huệ để
diệt tham, sân, si. Đó chính là biện pháp căn bản để
giải quyết vấn đề. Giữ vững được Năm Giới sẽ hết
lòng tham; có định lực sẽ không có sân; có trí huệ, tức
là hết ngu si. Tam độc là một bệnh truyền nhim, tam học -
giới, định, huệ - là thuốc hay dùng để chữa trị, gặp
bệnh là có công hiệu ngay, như dựng cây sào thì tức khắc
nhìn thấy bóng.
Người
người học Phật-pháp, người người không tham sân si, vậy
là vấn đề của thế giới sẽ được giải quyết. Tuy
nhiên, tới được chỗ đó chẳng phải là chuyện d dàng.
Tại sao? Bởi vì lòng người đã khác xưa, đạo đức đã
suy đồi, người thì dối người, và để đạt mục tiêu người
ta chẳng kể thủ đoạn. Người ta chỉ nói chuyện lợi lộc,
mà không nói chuyện đạo nghĩa, như kẻ gian thương kia bán rượu
pha nước, cốt vì lợi mà gạt khách hàng. Người ta nói
"treo đầu dê, bán thịt chó," đó chính là một hành
vi lừa bịp. Ngày xưa, làm nghề buôn bán, bán hàng thật, định
giá thật, nêu cao tiêu chuẩn chẳng dối trẻ già. Ngày nay
trong thương nghiệp, chẳng còn quan niệm gì về đạo đức
nữa, kẻ mua người bán lừa nhau, chẳng ai thành thật nữa.
Thực tâm mà buôn bán, đề bảng rõ bán đúng giá thì chẳng
ai còn gặp phiền phức. Tại sao lại phải lừa dối? Tóm
tắt một lời, đó là do lòng tham lợi cả.
Người
nông dân vốn là trung hậu, nay lây ảnh hưởng của giới
buôn bán, cũng không còn thật thà nữa. Họ trồng ngũ cốc
và rau trái thì dùng phân hóa học, họ nuôi bò, dê, heo, gà
thì trộn thực phẩm gia súc với chất hóa học để chúng
mau tăng trưởng, khiến cho giới tiêu thụ, ăn các thứ đó
vào lâu ngày sẽ trúng độc. Cái đó chính là tham tiền mà
làm hại sanh mạng của người khác, lẽ ra pháp luật phải
có biện pháp trừng trị, nhưng họ vẫn nhơn nhơn ngoài vòng
pháp luật, có khác chi cổ võ cho họ thêm nữa. Chẳng qua vì
họ muốn có lời nhiều, mà làm ngơ trước vấn đề sống
chết của kẻ khác, so với anh gian thương pha nước trong rượu
còn độc ác hơn gấp bội. Ngày nay bệnh ung thư mỗi ngày
một tăng gia, chính là do giới nông gia và thương gia nói
trên gây ra cả. Bởi thế cho nên, những người sáng suốt
hết sức hô hào dùng các loại thực phẩm từ thiên nhiên,
mà không dùng các loại đã biến chế gia công. Tuy nhiên, đối
với những người ham ăn, những điều này dầu có lọt vào
tai họ, họ cũng chẳng nghe, cứ ăn vào cho đầy một bụng,
có khác gì nuốt vào một cái ngòi nổ chậm, đúng thời
hạn nó sẽ phát tác làm cho huyết quản bị bể, nhẹ là
triệu chứng trúng phong (stroke), nặng thì chết người. Vậy
mà, dầu thấy tấm gương xe trước đã xa lầy, xe sau vẫn
theo đúng vết cũ.
Như
vậy đủ thấy cái hại của tham, sân, si, không cách nào kể
xiết. Chẳng phải chỉ riêng đối với người thường, ngay
cả các vị tu sĩ, nếu không thận trọng cũng rước lấy
cái độc hại kể trên. Công phu vừa mang lại chút ít định
lực liền bị lửa vô minh thiêu rụi hết. Làm sao để tránh
ngọn lửa vô minh đó? Phải tu pháp môn nhẫn nhục ba-la-mật,
và tuyệt đối không nổi nóng là một điều kiện tiên
quyết. Không nổi sân, tức có trí huệ. Có ánh sáng trí
huệ thì sự hắc ám của ngu si sẽ bị xua đuổi. Hết hắc
ám, mọi cử chỉ hành động thảy đều quang minh chính đại.
Vậy phải tu như thế nào? Trước hết giữ giới, giữ được
giới thì sẽ có định, có định tức có trí huệ. Giới, định,
huệ, tam học mà đầy đủ thì tham, sân, si, ba độc sẽ tự
tiêu hủy.
Quán
Thế Âm Bồ Tát từ bi và linh cảm ra sao, thật là không thể
nghĩ bàn. Nếu mọi người chúng ta thành tâm niệm Quán Thế
Âm Bồ Tát thì nhất định nghiệp chướng sẽ tiêu trừ, căn
lành sẽ tăng trưởng. Có rất nhiều sự tích nói về sự
linh cảm của Ngài, nay tôi xin kể một chuyện xẩy ra tại đất
Mỹ. Có một bà đến nhà thương để sanh con. Đây là một
trường hợp đẻ khó, nên bác sĩ phải giải phẫu để lấy
đứa nhỏ ra, nhưng trong khi mổ người ta cắt phải ống
dẫn nước tiểu của sản phụ mà không hay biết. Sau khi mổ
và khâu lại, người sản phụ về nhà được mấy ngày mà
không hề đi tiểu tiện, trong khi đó thân thể sưng lên.
Thấy sự việc xảy ra bất thường, bà này bèn đến bác sĩ
hỏi bệnh nhưng bác sĩ cũng không hiểu là bệnh gì. Sau
thấy toàn thân phù thũng, bệnh nhân đành phải đi khám lại
bệnh tình, lúc đó huyết áp đã xuống thấp tới 18 độ, độc
tố tích lại cùng mình, không cách gì chữa trị, đành nằm
chờ chết. Một số thân hữu của nạn nhân gọi điện
thoại tới Vạn Phật Thành cầu cứu. Người ta báo cáo cho
tôi hay, tôi bảo họ hãy thành tâm niệm Quán Thế Âm Bồ
Tát. Họ rất thành tâm niệm Ngài Quán Âm, và chỉ hai tiếng
rưỡi đồng hồ sau, phù thũng tiêu dần, huyết áp tăng lên,
đường nước tiểu thông trở lại, nạn nhân phục hồi
sức khỏe rất nhanh chóng rồi xuất viện. Các sự tích về
trường hợp từ cửa tử thần, hay từ bệnh nguy ngập mà
hồi sanh, hay các chuyện tiêu tai giải nạn, ở tại thành
Vạn Phật, kể ra không hết, nay tôi chỉ kể một câu
chuyện đó mà thôi.
19.
Truyền Thọ Chú Khai Trí Huệ
Tâm
Kinh Bát-nhã Ba-la-mật, gọi tắt là Tâm Kinh, có thể khai mở
trí huệ, giúp cho xa lìa điên đảo, mộng tưởng.
Kinh
nói:
Bồ-tát
Quán Tự Tại, khi quán chiếu thâm sâu bát-nhã ba-la-mật-đa,
bèn soi thấy năm uẩn đều không, độ hết mọi khổ ách.
Này, Xá-lợi-tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác
gì sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, thọ tưởng
hành thức cũng đều như vậy cả. Này, Xá-lợi-tử, các
pháp đều là tướng không . . .
Nếu
như soi thấy được hết mọi pháp là hư ảo, là bồng bềnh,
thì có thể buông bỏ hết, đạt được giải thoát.
Trong
chú Thủ-lăng-nghiêm cũng có hai câu, có thể khai mở trí
huệ, tới tối ngày mai tôi sẽ truyền lại cho các vị.
Muốn có tiền không? Không muốn. Có câu nói: "Ngàn lượng
vàng ròng không bán Đạo, tới ngả ba đường tin tri âm' (Thiên
lượng hoàng kim bất mại đạo, thập tự nhai đầu tống tri
âm). Nếu trí huệ được khai mở thì sẽ chứng sự tự
tại, hết mọi phiền não và Bồ-đề sẽ hiện ra trước
mắt.
Tại
sao chúng ta điên đảo? Bởi vì không có trí huệ. Vì đâu
mà bội giác hiệp trần, hiệp với trần cảnh mà quay lưng
với giác ngộ? Cũng là do không có trí huệ. Vì đâu mà luân
chuyển trong sáu nẻo? Lại cũng là do không có trí huệ. Bởi
vậy cho nên, tu đạo phải lấy trí huệ làm đầu. Phật
phải tu phước và tu huệ, phước huệ cùng tu, Ngài mới
chứng bậc Vô thượng giác.
"Chớ
cho rằng điều thiện nhỏ mà không làm," tu phước là như
thế đó. "Chớ thấy điều ác nhỏ mà làm," đó là
tu huệ. "Các điều ác không làm," đây là tu huệ.
"Các điều thiện đều làm," vậy là tu phước. Cho
nên người tu đạo chớ có ham những tiện nghi nhỏ, lấy
cái ít làm đầy đủ, và phải nhớ rằng tất cả đều là
mộng huyn, như bọt như ảnh, chẳng được lâu dài. Điều
nhận thức cần thiết này phải hiểu cho rõ, không để cho
lợi danh chốn thế tục làm cho mê mờ. Như câu: "Thấy
sự tỉnh sự là xuất thế gian, thấy sự mê sự là bị
trầm luân" (kiến sự tỉnh sự xuất thế gian, kiến sự
mê sự đọa trầm luân), vậy nên chúng ta phải hết mực
nhanh chóng vượt khỏi sáu nẻo luân hồi.
Sáu
nẻo luân hồi là gì? Tức là trời, người, a-tu-la, súc sanh,
quỷ đói, địa ngục. Sáu nẻo tuy không giống nhau, nhưng
cùng nhau luân chuyển, tuần hoàn. Thân phận chúng ta cũng như
một hạt bụi trong không gian, phút chốc ở tầng trời, phút
chốc làm người, phút chốc làm súc sanh, làm quỷ đói,
không có gì là nhất định, không thể làm chủ được mình.
Tu hành là cốt để chấm dứt sanh tử, thoát khỏi sự trói
buộc của vòng luân hồi. Phước trời hưởng hết thì lại
đi xuống, bởi vậy có câu:
Lục
dục chư thiên cụ ngũ suy,
Tam
thiền thiên thượng hữu phong tai,
Nhiệm
quân tu đáo phi phi tưởng,
Bất
như Tây phương quy khứ lai.
Dịch
nghĩa là:
Các
tầng trời dục giới có ngũ suy.
Trên
trời tam thiền (của Sắc giới) có nạn gió bão.
Cho
dù tu lên được tầng trời phi phi tưởng (của vô sắc
giới).
Chẳng
bằng đi về cõi Tây phương.
Tưởng
đã ra khỏi được luân hồi, hóa ra vẫn còn bị luân
chuyển, qua mấy câu châm biếm trên. Hãy tinh tấn tu hành.
Con
người ta chưa biết khổ, nên chưa biết tu, chớ nghĩ rằng
thân phận súc sanh thì rất xa với chúng ta, kỳ thực súc
sanh cũng có xương thịt như chúng ta, nếu chúng ta không
chịu tu, thì chỉ thoáng qua trong nháy mắt chúng ta lại bị
đọa xuống làm thú. Mỗi cá nhân có một địa ngục riêng
của mình, có phiền não tức có địa ngục. Bởi vậy quý
vị nên mau mau tu đạo, thoát khỏi sáu nẻo trong luân hồi
thì mới giải thoát được.
Nguồn: www.quangduc.com