|
Vì sao tin Phật
Hòa thượng K.
Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang
dịch Việt,
California,
Hoa Kỳ, 1997
Nguyên
tác: What Buddhists believe , Malaysia, 1987 |
---o0o---
Chương 9
LẤY GIÁO PHÁP VÀ CHÍNH
CHÚNG TA LÀM NƠI NUƠNG TỰA
-ooOoo-
TẠI SAO CHÚNG TA NƯƠNG
TỰA (QUY Y) NƠI ĐỨC PHẬT?
Người Phật Tử nương
tựa nơi Đức Phật không phải vì sợ Ngài, mà là để có
được nguồn thôi thúc và hiểu biết chính đáng cho việc
tự thanh tịnh chính mình.
Người Phật Tử không
nương tựa nơi Đức Phật với niềm tin Ngài là thượng đế
hay con của thượng đế. Đức Phật không bao giờ tuyên bố
Ngài là thần thánh. Ngài là Đấng Giác Ngộ, Bậc Từ Bi, Trí
Tuệ, và Thánh Thiện nhất chưa từng có trên thế giới này.
Cho nên, họ nương tựa nơi Đức Phật như một vị thầy,
một Đạo Sư đã chỉ dạy con đường giải thoát thực sự.
Họ tôn kính Đức Phật là để tỏ lòng biết ơn và kính
trọng của họ, và không đòi hỏi ân huệ vật chất nơi Ngài.
Người Phật Tử không cầu nguyện Đức Phật nghĩ rằng Ngài
là một thượng đế có quyền thưởng phạt hay nguyền rủa
họ. Họ tụng kệ hay kinh không phải trong ý nghĩa van xin mà
như là một phương tiện tưởng nhớ đển đức hạnh vĩ đại
và phẩm tính cao quý của Ngài mong đạt nhiều cảm hứng và
hướng dẫn cho chính họ làm tăng trưởng lòng tin trên đường
tu tập giáo lý của Ngài. Có những lời phê bình chỉ trích
thái độ nương tựa nơi Đức Phật. Họ không hiểu ý nghĩa
thực sự quan niệm nương tựa và tôn kính Đức Đại Đạo
Sư. Họ chỉ biết về cầu nguyện là điều mà mọi người
đều làm dưới danh nghĩa tôn giáo. Khi người Phật Tử tìm
nơi nương tựa, có nghĩa là họ chấp nhận Đức Phật, Pháp
và Tăng Già là những phương tiện mà họ có thể nhổ bật
hết gốc rễ của sợ hãi và những xáo trộn tâm linh.
Nhiều người, với niềm tin đặc biệt đã tìm sự che chở
nơi một số sự vật chung quanh mà họ tin là có ma quỷ
thần linh trong đó.
Đức Phật khuyên con
người khi bị sợ hãi không nên nông nổi tựa vào núi
rừng, hang động, cây cỏ, miếu thờ. Không có nơi nương
tựa nào như thế mà an toàn cả, không có nơi trú ẩn nào như
thế là tối thượng cả. Không thể nhờ vào các nơi nương
tựa như thế mà giải thoát được tất cả các điều bất
hạnh. Ai biết nương tựa (Quy Y) nơi Đức Phật, Pháp và Tăng
Già sẽ có hiểu biết chân chánh về Tứ Diệu Đế - Khổ,
Nguyên Nhân của Khổ, Diệt Khổ, và Bát Chánh Đạo dẫn đến
chấm dứt Khổ. Đó mới thật là nơi nương tựa an toàn. Tìm
nơi nương tựa như thế mới giải thoát khỏi khổ đau. (Kinh
Pháp Cú - Câu 188-192).
Trong kinh Dhajagga, có
ghi là những người nào quy y với Sakra, Vua của các chư thiên
hay bất cứ một vị thần nào, không thể thoát khỏi những
sợ hãi và khó khăn trần thế. Lý do là chính các chư thiên
(thần, thượng đế) cũng chưa thoát khỏi tham sân, si và sợ
hãi, nhưng Đức Phật, Pháp và Tăng Già (nghĩa là cộng đồng
đã đạt đến viên mãn) đã giải thoát các điều đó. Chỉ
có những ai đã giải thoát khỏi những bất toại nguyện
mới có thể thấy con đường hạnh phúc trường cửu. Francis
Story, một học giả Phật Giáo nổi tiếng, đã nêu quan điểm
của ông trong việc tìm nương tựa nơi Đức Phật như sau:
"Con đến quy y nơi
Đức Phật. Con mong tìm sự hiện diện của Đấng Đại Đạo
Sư mà do lòng từ bi của Ngài con được hướng dẫn vượt
qua dòng thác lữ của luân hồi, do vẻ mặt thanh tịnh của
Ngài con được nâng lên khỏi vững bùn lầy của các tư tưởng
tham đắm thế gian, nơi đây con cũng thấy được sự bảo đảm
chắc chắn của An Lạc Niết Bàn mà chính Ngài đã đạt được.
Trong phiền não đau đớn, con quay về với Ngài, và trong
hạnh phúc con tìm thấy ánh mắt trầm lặng của Ngài. Con đặt
trước Hình ảnh Ngài không những hoa và hương, mà cả
những ngọn lửa đang cháy trong tâm con luôn dao động để
được dập tắt và lắng êm. Con đặt xuống đây cái gánh
đầy của tự kiêu và tự ngã, cái gánh nặng của lo toan và
khát vọng, cái khối nhọc nhằn của sanh tử tái diễn không
ngừng".
Sri Rama Chandra Bharati,
một thi sĩ Ấn, cũng giải thích rất ý nghĩa về việc tìm nương
tựa nơi Đức Phật như sau:
"Con nương
tựa nơi Ngài không vì lợi lạc
Không phải vì sợ Ngài, hay muốn nổi danh
Không phải như mưa đá từ mặt trời vận chuyển
Không phải mong đạt kiến thức rộng sanh
Nhưng là do sức mạnh của tình thương không ngăn cách
Ở nơi Ngài tầm mắt vô song bao quát
Cho con an toàn vượt qua biển Luân Hồi
Con đệ đầu, Bạch Đức Thế Tôn, ccn xin thành kẻ theo Ngài
".
Có kẻ nói rằng Đức
Phật cũng chỉ là một người, tìm nơi nương tựa nơi Ngài
thật không có nghĩa gì cả. Những kẻ ấy đâu có hiểu
rằng chính Đức Phật đã nói rõ ràng Ngài chỉ là một con
người, nhưng không phải con người bình thường như chúng
ta. Ngài là một con người phi thường, một người thánh
thiện không ai có thể so sánh với Ngài về Giác Ngộ tối thượng,
và lòng từ bi vô lượng đối với tất cả chúng sanh. Ngài
là một con người đã thoát khỏi tất cả những yếu đuối
và ô nhiễm, cùng những cảm xúc thường tình của con người.
Về Ngài, người ta nói rằng: "Không có ai vô thần như
Đức Phật, mà cũng chẳng có ai lại giống thần thánh như
Đức Phật". Đức Phật là hiện thân của tất cả đức
hạnh, tính chất thiêng liêng, trí tuệ và giác ngộ cao cả.
Một câu hỏi khác thường
được người ta nêu lên: "Nếu Đức Phật không phải là
một Thượng Đế, nếu Ngài không đang sống tại thế giới
này, làm sao Ngài có thể ban phước cho chúng ta? " Theo Đức
Phật, nếu ai theo lời khuyên của Ngài, sống một cuộc đời
đạo hạnh, những người đó chắc chắn nhận được phước
lành. Phước lành trong Phật Giáo có nghĩa là niềm vui chứng
nghiệm khi chúng ta phát triển lòng tự tin và mãn nguyện. Đức
Phật từng nói: "Nếu ai mong muốn gặp ta, người đó
chỉ việc nhìn vào Giáo lý của ta mà tu tập" (Tương Ưng
Bộ Kinh). Những ai hiểu thấu Giáo Lý của Ngài, sẽ thấy
bản chất thực sự của Đức Phật phản chiếu nơi chính mình.
Hình ảnh Đức Phật mà họ duy trì trong tâm không phải là hình
ảnh nhìn thấy trên bàn thờ chỉ có tính các tượng trưng mà
thôi. Những ai sống đúng theo Giáo Pháp (con đường chính đáng
của cuộc sống) sẽ được chính giáo pháp che chở"
(Theragatha) Ai biết bản chất thực sự của cuộc sống và
sự thật của cuộc đời do Giáo Pháp sẽ không có điều gì
sợ hãi cả và cuộc sống chắc chắn được bảo đảm và hòa
hợp.
Trong các tôn giáo khác,
những người sùng bái Thượng Đế của họ, đòi hỏi Thượng
Đế ban ân huệ cho họ. Người Phật Tử không sùng bái Đức
Phật để xin ân huệ trần tục, nhưng họ tôn trọng Đức
Phật vì thành quả tối cao của Ngài. Khi người Phật Tử kính
trọng Đức Phật, gián tiếp họ đã nâng cao tâm linh họ để
một ngày nào đó, họ cũng đạt được giác ngộ nhu Ngài
hầu phụng sự nhân loại ngoài việc họ mong ước trở thành
Phật. Người Phật Tử kính trọng Đức Phật như vị Đạo
Sư của họ. Tuy nhiên, sự kính trọng này không ngụ ý có
sự luyến chấp vào đó hay sự ỷ lại vào vị Đạo Sư.
Loại kính trọng này theo Giáo Lý của Ngài như sau:
"Này Chư Tăng,
nếu có thầy nắm tà áo Như Lai, đi sát cạnh Như Lai từng bước
một, nhưng còn tham lam, nhiễm đắm vào lạc thú giác quan, tư
tưởng hiểm độc, mưu mô gian trá, ký ức lẫn lộn, vô ý
tứ và thiếu thiền định, đầu óc tán loạn, không kiểm soát
được các căn, thầy đó tuy gần mà vẫn xa Như Lai, và Như
Lai cũng xa thầy đó."
"Này Chư Tăng,
nếu có vị nào tuy xa Như Lai hàng trăm dậm nhưng không tham
lam, không say đắm vào khoái lạc giác quan, tư tưởng thuần
hậu, quang minh chính đại, quyết tâm vững mạnh, có ý tứ,
hay suy niệm, tâm gom vào nhứt điểm, thu thúc lục căn, vị
đó quả thân cận với Như Lai và Như Lai cũng gần thầy đó.
(Samyutta Nikaya, Tương Ưng Bộ Kinh)
KHÔNG
TỰ ĐẦU HÀNG
Nương nhờ vào người
khác có nghĩa là khước từ nỗ lực và lòng tự tin của chính
mình.
Phật Giáo là một tôn
giáo ôn hòa mà trong đó tinh thần bình đẳng, công bằng và
hòa bình ngự trị. Ỷ lại vào người khác để được cứu
rỗi là tiêu cực, nhưng ỷ lại vào chính mình là tích cực.
Phụ thuộc vào người khác có nghĩa là từ bỏ trí thông
minh và nỗ lực của chính mình.
Tất cả những gì đã
cải tiến và nâng cao nhân loại đều do chính con người làm
ra. Sự thăng tiến của con người là do kiến thức, hiểu
biết, nỗ lực và kinh nghiệm của chính con người chứ không
phải từ trên thiên đàng. Con người không nên lệ thuộc,
ngay cả vào những sức mạnh to lớn của thiên nhiên vì cho dù
bị thiên nhiên đè bẹp, con người vẫn giữ địa vị cao
cả vì sự hiểu biết về các sức mạnh ấy. Chân lý Phật
Giáo còn đi xa hơn nữa: Phật Giáo cho thấy rằng nhờ hiểu
biết, con người có thể kiểm soát môi trường và hoàn
cảnh. Con người có thể tránh không bị nghiền nát bởi chúng,
và biết sử dụng sức mạnh của chúng để vươn lên đỉnh
cao tột của tinh thần.
Phật Giáo tán dương
thích đáng các thành quả đạt được do trí thông minh và
nỗ lực của con người hơn là tin vào những đấng siêu nhân.
Tôn giáo thực sự có nghĩa là niềm tin vào tánh thiện của
con người hơn là vào những sức mạnh siêu hình. Trên phương
diện này, Phật Giáo không chỉ là một tôn giáo, mà còn là
một phương pháp cao thượng để đạt hòa bình và giải thoát
trường cửu bằng lối sống đứng đắn khả kính Ngay từ lúc
ban đầu, Phật Giáo đã lôi cuốn mạnh mẽ những con người
có văn hóa và trí thức. Mọi người có văn hóa trên thế
giới này ngày nay đều kính ngưỡng Đức Phật như một
Bậc Thầy về lý trí. Đức Phật dạy cái cần thiết cho
hạnh phúc của con người không phải là một tôn giáo với
cả đống giáo điều và lý thuyết suông mà là sự hiểu
biết về bản chất của vũ trụ và sự tương quan của nó
với định luật nhân quả. Đời sống chỉ đơn thuần là
một biểu hiện bất toàn của thiên nhiên, chỉ khi nào hiểu
thấu được nguyên tắc này thì con người mới có thể hoàn
toàn giải thoát được.
Đức Phật đã cống
hiến lời giải thích mới về vũ trụ. Đó là một tầm nhìn
mới về hạnh phúc trường cửu do đạt được sự toàn
thiện. Trong Phật Giáo, mục tiêu chiến thắng của nhân
loại là đạt trạng thái thường còn vượt lên trên cái vô
thường, sự đạt Niết Bàn vượt lên trên tất cả những
thế giới thay đổi, và sự vượt thoát cuối cùng khỏi
những thống khổ của cuộc sống.
KHÔNG CÓ KẺ PHẠM
TỘI
Phật Giáo không gọi
một hành động nào là phạm tội, mà chỉ gọi đó là một
hành động vụng về hay bất thiện.
Phật Tử không coi con
người là kẻ tội lỗi bẩm sinh hay "kẻ phản lại thượng
đế". Mỗi một con nguời là một cá thể giá trị, đều
có trong chính mình một kho lớn chứa đựng các điều thiện
cũng như các thói hư tật xấu. Điều thiện trong con người
luôn luôn chực sẵn cơ hội thuận tiện để thăng hoa và chín
mùi. Hãy nhớ câu nói sau: "Có rất nhiều cái tốt ở
kẻ xấu nhất trong chúng ta và có nhiều cái xấu ở kẻ
tốt nhất trong chúng ta".
Phật Giáo dạy ta
chịu trách nhiệm về hành vi thiện hay hành vi bất thiện
của chính mình, và mỗi cá nhân có thể tạo mô hình cho số
phận của chính mình. Như Đức Phật nói: "Những hành vi
tội lỗi này do chính bạn làm, không phải do nơi cha mẹ, bè
bạn, hay người thân quyến cho nên chính bạn phải gặt kết
quả đau khổ". (Kinh Pháp Cú, Câu 165)
Phiền muộn của ta do
chính ta tạo ra chứ không phải do mắc lời nguyền truyền
kiếp của gia tiên hay do hứng tội nguyên thủy của tổ tông
thần thoại thuở ban sơ. Người Phật Tử không chấp nhận
niềm tin là thế giới này đơn thuần chỉ là một nơi để
thử thách và thí nghiệm. Thế giới này có thể làm thành
một nơi mà chúng ta có thể đạt được sự toàn thiện cao
cả nhất. Sự toàn thiện đồng nghĩa với hạnh phúc. Với
Đức Phật, con người không phải do một đấng nào đó tạo
ra như vật thử nghiệm trong đời sống có thể bị bỏ đi
khi không cần nữa. Nếu mọi tội lỗi có thể tha thứ được,
con người sẽ lợi dụng và càng làm nhiều tội hơn nữa. Người
Phật Tử không có lý do nào tin tưởng rằng kẻ có tội có
thể tránh được hậu quả nhờ ân huệ của một tha lực bên
ngoài. Nếu một người thọc tay vào lò lửa, tay sẽ bị
phỏng, và tất cả những lời cầu nguyện trên thế giới này
cũng không thể làm cho hết vết sẹo được. Cũng giống như
vậy với một con người bước vào ngọn lửa của hành động
tội lỗi. Đức Phật giải quyết vấn đề khổ đau không
phải bằng tưởng tượng, lý đoán hay siêu hình, nhưng là
kinh nghiệm thực tiễn.
Theo Phật Giáo, không
có điều gọi là phạm tội như một số tôn giáo đã giải
thích. Với người Phật Tử, tội lỗi là một hành động
vụng về hay bất thiện - Nghiệp bất thiện tạo tội ác là
hình thức suy sụp của con người. Kẻ ác chỉ là một người
ngu si. Kẻ đó cần được dạy bảo hơn là cần đến hình
phạt và lên án. Kẻ đó không phải bị coi như dám vi phạm
ý muốn của thượng đế hay phải van xin thánh thần để
được thương hại và tha tội. Kẻ đó cần được hướng
dẫn để tự giải thoát.
Điều cần thiết trên
hết là phải giúp kẻ đó biết sử dụng lý trí để hiểu
y là người chịu trách nhiệm hoàn toàn về những hành động
sai lầm đã gây nên và phải trả hậu quả. Cho nên niềm tin
vào sự xin tội xa lạ với Phật Giáo.
Đức Phật xuất
hiện trong cõi đời này không phải với mục đích để rửa
sạch tội lỗi gây ra bởi con người, cũng không phải để
trừng trị hay tiêu diệt kẻ ác, mà để làm cho ta hiểu ra
được sự điên đảo của ta trong khi phạm điều ác và nêu
rõ tác động của các hành vi tội lỗi ấy. Cho nên trong
Phật Giáo không có điều răn vì không ai có thể dạy bảo
người khác về mặt tự nâng cao tinh thần. Đức Phật
khuyến khích con người phát triển và sử dụng sự hiểu
biết của mình. Ngài chỉ cho chúng ta con đường thoát khổ.
Giới luật mà chúng ta thọ giữ không phải là những điều
răn cấm: Giữ giới là tự nguyện. Đức Phật dạy như sau:
"Phải chánh niệm ; hãy nhớ lời khuyên này và suy nghĩ
thật kỹ về điều đó. Nếu thấy r?ng lời dạy của Như
Lai thích hợp cho sự tu tập của mình thì hãy cố gắng
thực hành lời khuyên đó. Bạn có thể thấy kết quả do
kinh nghiệm của chính bạn". Đạo Giáo không có giá trị
nếu chỉ mù quáng tuân theo điều răn mà không nhận thức và
hiểu biết thích đáng. Tuy nhiên chúng ta không nên lợi dụng
sự tự do trong Phật Giáo để làm bất cứ điều gì ta ưa
thích. Ta có bổn phận hành xử như một con người có văn hóa,
văn minh và hiểu biết để sống một cuộc đời đạo
hạnh. Nếu ta hiểu được như vậy, điều răn không quan
trọng. Là một đạo sư giác ngộ, Đức Phật khuyên chúng ta
làm sao sống một cuộc đời thanh cao trong sạch mà không bị
áp đặt bởi những điều răn cấm và sự sợ hãi hình
phạt.
HÃY TỰ LÀM
Tự tin giữ một
phần quan trọng trong mọi mặt của cuộc sống con người.
Hiểu biết rằng không
do nguyên nhân bên ngoài, không do tín ngưỡng hay nghi thức mà
có thể cứu được mình, người Phật Tử thấy sự cần
thiết phải trông cậy vào chính nỗ lực của mình. Lòng tự
tin của người Phật Tử có được là do sự tin cậy nơi chính
mình. Họ hiểu rằng tất cả trách nhiệm trong kiếp sống
hiện tại cũng như tương lai hoàn toàn chỉ tùy thuộc vào chính
mình. Mỗi người phải tự mình tìm sự giải thoát. Đạt
giải thoát có thể so sánh với sự chữa khỏi bệnh: Nếu
bị bệnh ta phải đi Bác Sĩ. Bác sĩ chẩn bệnh và cho toa
thuốc. Thuốc phải do chính bệnh nhân uống. Bệnh nhân không
thể đề cử một người khác nào đó uống thuốc thế cho mình.
Không ai có thể lành bệnh chỉ do chiêm ngưỡng thuốc hay tán
dương bác sĩ đã cho thuốc hay.
Muốn khỏi bệnh,
bệnh nhân phải chân thành theo đúng lời chỉ dẫn của bác
sĩ về cách thức uống cũng như giờ khắc uống thuốc, kiêng
cũ hàng ngày và sự thận trọng trong việc dùng thuốc.
Giống như vậy, ta phải giữ giới luật, lời chỉ dẫn hay
lời khuyên của Đức Phật (cho toa thuốc giải thoát) bằng cách
kiểm soát hoặc khắc phục tham sân si của mình. Không ai có
thể đạt giải thoát bằng cách chỉ tụng kinh tán dương Đức
Phật hay dâng cúng lễ vật cho Ngài. Cũng không ai có thể tìm
được giải thoát bằng cách ca tụng Đức Phật vào một
số ngày lễ quan trọng để vinh danh ngài. Phật Giáo không
phải là một tôn giáo mà tín đồ có thể đạt giải thoát
chỉ bằng cầu nguyện hay van vái để được cứu độ.
Phật Tử phải tinh tấn, nỗ lực kiểm soát mọi tham dục và
xúc cảm ích kỷ của mình để đạt giải thoát.
CON NGƯỜI CHỊU TRÁCH
NHIỆM MỌI THỨ
Khi ta biết sống như
một con người thực sự không làm quấy động kẻ khác, ta có
thể sống an lạc, không một điều gì sợ hãi trong tâm.
Theo Đức Phật, chính
ta là kẻ tạo ra định mệnh của mình. Ta không thể đổ
lỗi cho ai vì ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về kiếp sống
của chính ta. Đời ta có tốt hơn hay xấu hơn cũng là do ta làm
ra.
Đức Phật dạy: con
người tạo ra mọi thứ. Tất cả những đau buồn, nguy cơ và
bất hạnh đều do ta tự tạo ra. Chúng ta xuất thân không ngoài
nguồn gốc nào khác hơn là từ những lỗi lầm về tâm ý
của chúng ta. Chúng ta là kết quả của những hành động
tốt hay xấu trong quá khứ do ảnh hưởng của tham lam và mê
mờ. Và vì chúng ta đã biến chúng thành kiếp sống này nên
cũng bằng quyền lực của chính mình, chúng ta có thể vượt
qua những ảnh hưởng xấu và trau dồi bản tính tốt.
Tâm con người, giống
như tâm con vật, đôi khi bị chi phối bởi thú tính. Nhưng không
giống như tâm thú vật, tâm con người có thể được rèn
luyện để có phẩm chất cao hơn. Nếu tâm con người không
được trau dồi đúng mức sẽ tạo ra rất nhiều khó khăn
trong thế giới này. Đôi khi cách hành xử của con người còn
gây nhiều thiệt hại và nhiều nguy hiểm hơn cả loài vật.
Thú vật không có vấn nạn về tôn giáo, ngôn ngữ, chính
trị, xã hội và đạo đức, không có vấn đề kỳ thị màu
da. Chúng chỉ chiến đấu vì miếng ăn, chỗ ẩn trú và dục
tính. Nhưng nhân loại thì đã tạo ra cả ngàn vấn đề. Cách
hành xử của con người là họ không thể giải quyết một
vấn đề gì mà không tạo ra những vấn đề mới. Con người
không chấp nhận yếu điểm của mình. Con người không muốn
gánh trách nhiệm của mình. Con người lúc nào cũng có thái
độ muốn đổ lỗi cho người khác về sự thất bại của mình.
Nếu chúng ta càng biết trách nhiệm về hành động của mình
nhiều hơn, chúng ta có thể duy trì hòa bình và hạnh phúc.
CON NGƯỜI LÀ CAI
NGỤC CỦA CHÍNH MÌNH
Có sự thật nào không
trong đòi hỏi của con người muốn được tự do làm những
gì mình thích?
Khi đề cập đến
tự do, quả thật là khó khăn để tìm xem con người có
thực sự được tự do làm những gì theo sở thích của mình
hay không. Con người bị ràng buộc bởi nhiều điều kiện bên
ngoài lẫn bên trong: Họ được yêu cầu phải tuân hành
những luật lệ mà chính quyền đặt trên họ; họ phải gìn
giữ một số nguyên tắc về đạo giáo; họ phải cộng tác
với điều kiện tinh thần và xã hội trong xã hội mình
sống; con người phải theo một số tập tục và truyền
thống quốc gia. Trong xã hội tân tiến, con người có khuynh hướng
bất đồng với cuộc sống; con người được kỳ vọng là
phải tuân theo bằng cách phải hội nhập với lối sống
hiện đại. Họ bị buộc phải hợp tác với định luật thiên
nhiên và năng lượng vũ trụ, vì con người cũng là một
phần của năng luợng ấy. Con người phải lệ thuộc vào điều
kiện thời tiết và khí hậu trong vùng. Không những phải để
ý mạng sống của mình, hay vào các yếu tố vật chất, mà cũng
phải có quyết định kiểm soát những cảm xúc của chính mình.
Nói một cách khác, con người không có tự do để nghĩ sao thì
nghĩ vì con người bị áp đảo bởi những tư tưởng mới có
khả năng mâu thuẫn hay loại bỏ các tư tưởng và nhận
thức trước đó. Đồng thời, con người có thể tin rằng
phải vâng lời và làm theo ý muốn của Thượng Đế, mà không
theo ý muốn tự do của chính mình.
Xét qua tất cả
những điều kiện thay đổi trên đã ràng buộc con người,
chúng ta có thể hỏi: "Có sự thật nào không khi con người
đòi hỏi được tự do làm những gì mình thích?"
Tại sao con người
phải bị câu thúc chặt chẽ như vậy? Lý do vì có quá
nhiều yếu tố bất thiện khác nhau trong con người. Những
mầm mống ấy rất nguy hiểm và tai hại cho tất cả chúng
sinh. Trong vài ngàn năm qua, tất cả mọi tôn giáo đều cố
gắng thuần hóa thái độ khó tin cậy của con người và
dạy con người làm sao sống một cuộc đời cao thượng. Nhưng
bất hạnh nhất là con người vẫn chưa đáng tin cậy dù bên
ngoài có thể tỏ ra tốt lành. Họ vẫn tiếp tục che dấu
những yếu tố tội lỗi trong mình. Các yếu tố này không do
từ những nguồn gốc bên ngoài nhưng do chính con người tạo
ra. Nếu những tiềm năng bất thiện ấy do con người tạo ra
thì chính họ phải nỗ lực loại bỏ chúng sau khi nhận định
được sự nguy hiểm của chúng. Bất hạnh thay đa số con người
lại độc ác, xảo quyệt, tinh quái, vô ơn, bất khả tín, vô
lương tâm. Nếu con người được sống theo ý muốn tự do
của mình mà không biết điều độ và tự kiềm chế, đa
số sẽ vi phạm hòa bình và hạnh phúc của người dân vô
tội. Cách đối xử của con người có lẽ sẽ còn tệ hơn
những chúng sinh nguy hiểm. Do đó tôn giáo cần thiết để
huấn luyện con người sống một cuộc đời đáng kính, an
lạc và hạnh phúc ngay đây và sau này.
Một trở ngại khác
đương đầu với đời sống tôn giáo và tiến bộ tinh thần
là tính kiêu căng về chủng tộc. Đức Phật khuyên các đệ
tử của Ngài không nên khai thác bất kỳ vấn đề chủng
tộc nào khi hành đạo. Người Phật Tử được học cách dìm
đi dòng giống nguồn gốc, giai tầng xã hội hay óc phân
biệt giai cấp của mình. Tín đồ của tất cả tôn giáo không
nên kỳ thị một cộng đồng tôn giáo nào khác bằng cách
tuyên truyền đường lối riêng của mình. Họ nên đối xử
với nhau bình đẳng, nhất là trong lãnh vực tôn giáo. Bất
hạnh thay tín đồ của nhiều đạo giáo đã tạo nhiều kỳ
thị và thù địch với các nhóm tôn giáo khác khi hành hoạt
tôn giáo của mình.
Trong khi làm việc
với người khác, không nên quấy động họ bằng những cái
được gọi là truyền thống và tập tục của mình. Ta có
thể vẫn theo truyền thống và tập tục trong khi giữ nguyên
tắc đạo giáo và quy tắc đạo đức của tôn giáo mình.
Tính kiêu mạn về
chủng tộc là một chướng ngại lớn cho tôn giáo và tiến
bộ tinh thần. Có lần Đức Phật đã dùng thí dụ nước đại
dương để minh họa cho sự hòa hợp mà con người có thể
thực hiện được nếu biết quẳng đi lòng tự hào chủng
tộc: Có nhiều dòng sông khác nhau mang nhiều tên khác nhau. Nước
của dòng sông nào thì cũng chảy ra biển và trở thành nước
đại dương. Tương tự như vậy, tất cả những người dù
từ các cộng đồng và giai cấp khác nhau, phải quên đi
những dị biệt, và tự nghĩ mình cũng chỉ là những con người
mà thôi.
TỰ BẢO VỆ
"Bảo
vệ mình là bảo vệ người khác"
"Bảo vệ người khác là bảo vệ mình"
Một lần Đức Thế Tôn kể với chư tăng câu
chuyện như sau:
"Có một cặp
nghệ sĩ làm trò nhào lộn trên một cọc tre. Một hôm, thầy
bảo trò: "Hãy trèo lên vai ta và trèo lên cọc tre".
Khi trò đã làm xong, thầy nói: Bây giờ con hãy bảo vệ ta
cho kỹ và ta sẽ bảo vệ cho con. Bằng cách canh chừng lẫn
nhau chúng ta có thể trổ hết tài năng, sẽ rất có lợi và
con có thể từ cọc tre xuống an toàn". Nhưng trò đáp:
"Không được đâu thưa sư phụ. Sư phụ phải tự bảo
vệ lấy, và con cũng phải tự bảo vệ cho con. Tự bảo vệ
và tự canh chừng chúng ta mới an toàn thi triển tài nhào
lộn được".
"Đúng phải như
vậy", Đấng Thế Tôn nói và tiếp như sau:
"Đúng như lời trò
nói: Tôi sẽ tự bảo vệ lấy", phải thực tập chánh
niệm (Tứ Niệm Xứ ) bằng cách ấy. "Tôi sẽ bảo vệ
người khác", phải thực tập chánh niệm bằng cách ấy.
Bảo vệ mình là bảo vệ người khác; bảo vệ người khác
là bảo vệ mình.
"Và làm thế nào
một người trong khi bảo vệ mình là bảo vệ người khác?
Bằng cách luôn luôn và thường xuyên tu tập thiền định.
"Và làm thế nào
một người, nhờ bảo vệ người khác lại là bảo vệ mình?
Bằng nhẫn nại và chịu đựng, bằng bất bạo động và
sống lương thiện, bằng từ-ái và từ bi" (Satipatthanam
Samyutta, Câu 19)
"Bảo vệ mình là
bảo vệ người khác"
"Bảo vệ người khác là bảo vệ mình"
Hai câu này bổ túc
nghĩa cho nhau và không nên tách rời hay trích dẫn riêng rẽ.
Ngày nay, khi quá đa đoan
công tác xã hội người ta có khuynh hướng chỉ trích dẫn câu
thứ hai để hỗ trợ cho ý kiến của mình. Nhưng trích dẫn
một chiều như thế sẽ bóp méo lời dạy của Đức Phật.
Phải nhớ là trong câu chuyện trên đây, Đức Phật chấp
nhận lời của trò, đó là ta phải cẩn thận canh chừng bước
đi của chính mình nếu muốn bảo vệ người khác khỏi bị
hại. Kẻ nào tự dẫm vào bùn lầy, không thể giúp người
khác thoát ra được. Trong nghĩa ấy, tự bảo vệ không có
nghĩa là bảo vệ có tính cách ích kỷ. Đó là sự trau dồi
sự tự kiểm điểm, và sự tự phát triển đạo đức và
tinh thần.
Bảo vệ mình là bảo
vệ người khác - sự thật của câu này bắt đầu ở mặt
đơn giản và thực tiễn. Về mặt vật chất, sự thật này
tự nó quá rõ rệt mà chúng ta chỉ cần nói không ngoài một
ít lời. Hiển nhiên sự bảo vệ sức khỏe của ta sẽ là
sự bảo vệ sức khỏe cho môi trường kề cận hay môi trường
rộng hơn, nhất là nơi có những bệnh truyền nhiễm. Sự chú
ý và thận trọng trong tất cả những việc làm và hoạt động
của chúng ta sẽ bảo vệ người khác khỏi bị hại do sự
cẩu thả và chểnh mảng của chúng ta. Thận trọng khi lái
xe, không uống rượu, tự kiềm chế trong trường hợp có
thể dẫn đến bạo động, bằng tất cả những điều trên
đây và nhiều phương cách khác nữa, chúng ta bảo vệ người
khác bằng cách bảo vệ mình.
Bây giờ chúng ta bước
sang mặt đạo đức về sự thật này. Tự bảo vệ phẩm
hạnh sẽ bảo vệ người khác, cá nhân và xã hội, chống
lại những say mê phóng dật và những thôi thúc ích kỷ của
chính mình. Nếu ta để Ba Gốc Rễ của tội lỗi, Tham, Sân và
Si, mọc sâu trong tâm chúng ta, những gì nẩy mầm từ gốc
rễ tội lỗi này sẽ lan tràn khắp nơi giống như rừng cây
leo bóp nghẹt và giết chết những mầm tốt và cao quý. Nhưng
nếu chúng ta tự bảo vệ chúng ta chống lại Ba Gốc Rễ
Tội Lỗi, người đồng loại sẽ được bảo vệ tránh
khỏi cái tham lam liều lĩnh để có của cải và quyền lực,
cái thèm khát và nhục dục, cái đố kỵ và ghen ghét của chúng
ta. Họ sẽ tránh khỏi những hậu quả xâu xé, hay cả đến
bị phá hoại và tàn sát do sân hận và thù nghịch, tránh
khỏi những cơn giận nẩy lửa, khỏi bầu không khí tranh
chấp và gây hấn lan tràn làm cho những người chung quanh không
thể chịu đựng nổi. Nhưng những hậu quả tai hại của lòng
tham và sân hận với người khác không chỉ giới hạn trong
trường hợp họ trở thành đối tượng hay nạn nhân của sân
hận, hoặc do lòng tham muốn những gì họ có. Tham và sân
với sức mạnh truyền nhiễm độc có thể nhân lên gấp
bội hậu quả tội lỗi. Nếu tự chúng ta chẳng nghĩ gì ngoài
tham dục và bám níu, tạo tác và chiếm hữu, nắm giữ và ôm
ấp, là chúng ta có thể khơi dậy hay làm tăng trưởng bản năng
sở hữu này nơi người khác. Gương xấu của ta sẽ trở thành
cách hành xử mẫu mực cho môi trường chung quanh chẳng hạn
như con cái, đồng nghiệp vân vân... Hạnh kiểm của ta có
thể xui khiến người khác rập theo trong việc thỏa mãn
thuờng tình lòng khao khát tham lam; hay ta có thể sanh khởi ý
nghĩ oán giận và tranh đua với người muốn hơn thua với ta.
Nếu ta đầy nhục dục, ta có thể khơi dậy ngọn lửa thú tính
nơi người khác. Sân hận của ta có thể gây sân hận và
trả thù nơi người khác và biết đâu cũng có khả năng liên
kết với người khác hay xúi bẩy họ vào những hành động
oán ghét và thù nghịch.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ TỰ
CỨU MÌNH?
Chính ta mới là vị
cứu rỗi của ta, để làm gì nếu có vị cứu rỗi khác?
Chỉ khi bản thân khéo biết tu tập, mới giải quyết được
vấn đề tìm vị cứu rỗi bên ngoài.
-- (Kinh Pháp Cú, Câu 166)
Lúc Đức Phật sắp
nhập Niết Bàn, các đệ tử từ bốn phương xa gần, tấp
nập về với Ngài. Trong khi các bạn đồng môn luôn luôn túc
trực bên cạnh Ngài và rất đau buồn vì sắp mất vị Bổn
Sư, một thầy tỳ kheo tên Attadatta lại rút về tịnh thất và
chuyên cần hành thiền. Những vị tỳ kheo kia nghĩ rằng sư
Attadatta không quan tâm gì đến việc chăm sóc Đức Phật, nên
bất bình và báo cáo sự việc lên Ngài. Sư Attadatta mới thưa
như sau: "Bạch Đức Thế Tôn, vì Ngài sắp nhập diệt, nên
con nghĩ rằng cách tốt nhất để tỏ lòng tôn kính Ngài là
đạt được đạo quả A La Hán lúc Ngài con hiện tiền
". Đức Phật ngợi khen thái độ và phẩm hạnh của vị
tỳ kheo này và dạy ta không nên từ bỏ lợi ích tinh thần
của chính mình vì mải lo cho lợi ích của người khác.
Câu chuyện này đã nêu
lên được một trong những khía cạnh quan trọng nhất trong
của Đạo Phật. Ta phải luôn luôn giác tỉnh để tự giải
thoát khỏi Luân Hồi, và sự cứu thoát này phải do chính cá
nhân mình. Ta không thể trông cậy vào bất cứ một sức
mạnh hay tác động nào từ bên ngoài để giúp ta đạt được
Niết Bàn.
Người không học
Phật thường hay chỉ trích quan niệm này, và cho Đạo Phật
là một tôn giáo ích kỷ, chỉ thuyết về sự quan tâm giải
thoát khỏi khổ đau và phiền não của riêng mình. Điều này
không đúng chút nào cả. Đức Phật tuyên bố rành mạch là
người Phật Tử không ngừng làm việc vì phúc lợi tinh
thần và vật chất cho tất cả chúng sinh, đồng thời chuyên
cần theo đuổi mục đích đạt Niết Bàn của mình. Đức
Phật luôn luôn đề cao sự phục vụ vị tha.
Lại nữa, người không
hiểu Đạo Phật có thể hỏi: "Có thể là đúng đối
với một số người may mắn, có đầy đủ súc mạnh tinh
thần, tìm Niết Bàn bằng chính nỗ lực của mình. Nhưng
với những người mà tinh thần và thân thể hay cả vật
chất bị khiếm khuyết thì sao? Làm sao họ có thể tự tin
được? Họ có cần sự giúp đỡ của một oai lực bên ngoài
như Thượng Đế hay chư thiên phù hộ cho họ không? "
Câu trả lời là người
Phật Tử không tin là sự giải thoát cuối cùng nhất thiết
phải đạt được ngay trong kiếp này. Tiến trình có thể
mất một thời gian dài, trải qua nhiều kiếp sống. Ta phải
tự trau dồi với tất cả khả năng tốt đẹp, và từ từ
phát triển sức mạnh của tự tin. Cho nên, cả đến những
người bị tật nguyền về tâm linh, tinh thần và vật chất
cũng phải cố gắng dù là rất ít để bắt đầu vào tiến
trình giải thoát này.
Một khi bánh xe đã
được khơi động, cá nhân dần dần tự mình trau dồi để
phát triển sức mạnh của lòng tự tin. Một quả sồi nhỏ bé
một ngày nào đó sẽ trở thành một cây sồi to lớn nhưng
đâu phải chỉ qua một đêm. Kiên nhẫn là chất liệu thiết
yếu trong tiến hành khó khăn này.
Thí dụ, do kinh
nghiệm chúng ta biết nhiều bậc cha mẹ đem hết khả năng mình
làm mọi việc để nuôi nấng con cái theo hy vọng và hoài bão
của mình. Nhưng khi những đứa con đó lớn lên, chúng phát
triển theo đường lối riêng của chúng, không nhất thiết
phải theo con đuờng mà cha mẹ chúng muốn. Theo Phật Giáo,
trong khi người khác có thể tạo ảnh hưởng đến đến đời
sống một cá nhân nào đó, nhưng cuối cùng cá nhân vẫn
tạo Nghiệp riêng của mình và chịu trách nhiệm những hành
động của chính mình. Trong lý giải cuối cùng, không con người
hay chư thiên nào có thể điều khiển, hay kiểm soát sự đạt
giải thoát tối hậu của một cá nhân. Đó là ý nghĩa của
sự tự nương tựa.
Điều này không có
nghĩa là Phật Giáo dạy con người ích kỷ. Theo Đạo Phật,
khi một người với nỗ lực của chính mình tìm cách đạt
Niết Bàn, người đó đã quyết định không giết, ăn cắp,
nói dối, tham lam, hay không kiểm soát được giác quan do ma túy
độc dược. Khi người đó tự kiểm soát lấy mình được,
tự động người đó đã góp phần vào hạnh phúc của người
khác. Cho nên cái gọi là "ích kỷ" đó không phải là
điều thiện cho phúc lợi của người khác sao?
Ở một mức độ
thế tục hơn nữa, người ta đã hỏi làm thế nào các dạng
thức thấp kém của sự sống có thể tự vượt thoát ra được
khỏi chu kỳ vô nghĩa của sự hiện hữu. Chắc chắn trong
trạng thái không nơi nương tựa ấy, phải cần đến một
sức mạnh từ thiện bên ngoài để kéo chúng sinh bất hạnh
kia ra khỏi cát lún. Để trả lời câu hỏi này, ta cần
phải nhắc đến kiến thức về thuyết tiến hóa. Thuyết này
nói rõ ràng sự sống bắt đầu từ những dạng thức rất
thô sơ - không hơn một tế bào nổi trong nước. Cả trên
triệu triệu năm qua, những dạng thức sống căn bản này
tiến triển và trở thành phức tạp hơn, thông minh hơn. Do
mức độ thông minh hơn, các dạng thức sống đó có khả năng
tổ chức, có tư tưởng độc lập, có hình thành khái niệm
vân vân ...
Khi người Phật Tử nói
về khả năng tự cứu, họ muốn nhắc đến dạng thức
sống ở mức độ cao của sự phát triển tinh thần. Trong
những giai đoạn đầu của sự tiến hóa, sức mạnh của
nghiệp và tinh thần hãy còn ở trong trạng thái bất động,
nhưng qua không biết bao nhiêu lần tái sanh, một chúng sinh
sẽ tự mình phát triển đến mức có tư tưởng độc lập,
có khả năng biết đối xử theo lý trí hơn là theo bản năng.
Ở giai đoạn này chúng sinh ấy nhận thức được sự vô nghĩa
của việc phải lăn trôi bao tái sanh vô tận gắn liền với
bao đau đớn và phiền não. Chúng sinh đó có khả năng quyết
định chấm dứt tái sanh và tìm hạnh phúc thực sự bằng cách
đạt giác ngộ và Niết Bàn. Với mức độ cao của trí thông
minh, đương nhiên một cá nhân có đủ khả năng để tự
cải tiến và tự phát triển.
Tất cả chúng ta đều
biết rằng con người sanh ra ở rất nhiều mức độ khác
nhau về trí thông minh và năng lực lý luận. Một số sanh ra
như thần đồng, trong khi một số khác ở cuối đầu bên
kia, trí thông minh lại rất thấp kém. Tuy nhiên mọi chúng
sinh đều có khả năng phân biệt giữa những sự lựa chọn
hay tùy thích, nhất là về vấn đề sống còn. Nếu chúng ta
mở rộng sự kiện sống còn ra thế giới loài vật, chúng ta
có thể phân biệt con vật nào thấp hay cao cấp hơn với cùng
một bản năng này (ở nhiều mức độ khác nhau) để chọn
lựa hầu được sinh tồn.
Vì lý do đó, cả đến
một dạng thức sống thấp kém cũng có tiềm năng để tạo
Nghiệp tốt, tuy nhiên bị giới hạn ở tầm xa. Do tinh tấn
phát huy và sự tăng trưởng lần lần nghiệp tốt, một chúng
sanh tự mình có thể nâng cao mức sống và hiểu biết.
Nhìn vấn đề ở
một góc độ khác, chúng ta có thể d?a vào một trong những tích
chuyện đầu tiên cho thấy Đức Phật-Sẽ-Thành (Bồ Tát)
hạ quyết tâm tiên khởi như thế nào để phấn đấu đạt
Giác Ngộ. Trong rất nhiều kiếp trước khi sanh ra là Tất Đạt
Đa, Ngài sanh ra là một con người bình thường.
Một hôm khi Bồ Tát cùng
với mẹ đi trên một chiếc thuyền, một cơn bão lớn nổi lên,
lật úp con thuyền, và quăng tất cả những người trên
thuyền xuống biển dữ.
Không nghĩ gì về sự
an toàn cho chính mình, Đức Phật tương lai cõng mẹ trên lưng
và cố gắng bơi vào bờ. Nhưng trước mặt Ngài, mặt nước
mênh mông, Ngài không biết phải đi hướng nào. Trong khi Ngài
đang trong tình thế lưỡng nan không biết phải quay về
huớng nào thì sự can đảm của Ngài đã thấu đến một chư
thiên. Vị này không thể thị hiện để giúp đỡ Ngài, nhưng
cũng có thể làm cho Đức Phật tương lai biết hướng nào
phải đi. Chàng thanh niên (Bồ Tát) theo lời chư thiên này cùng
mẹ đã thoát hiểm. Nơi ấy và lúc ấy Ngài đã quyết tâm
nhất quyết không nghỉ ngơi cho đến cuối cùng khi nào đạt
được Giác Ngộ.
Câu chuyện trên đây
nêu rõ một sự kiện là các Phật Tử có thể tìm và được
sự giúp đỡ của chư thiên trong đời sống hàng ngày. Một
vị chư thiên là một chúng sinh do đức hạnh đã tạo được
công đức cao cả (như vua của các vị trời) được sanh ra có
thần thông để giúp đỡ chúng sanh khác. Nhưng năng lực này
chỉ giới hạn về vật chất và thể chất. Trong cuộc sống
hàng ngày ta có thể tìm sự giúp đỡ của chư thiên (khi bị
bất hạnh, khi cần được yên tâm, khi bị đau yếu hay sợ hãi
vân vân...)
Sự kiện con người tìm
sự giúp đỡ của chư thiên có nghĩa là ta vẫn còn ràng
buộc với thế giới vật chất. Phải chấp nhận sự kiện là
khi được sanh ra ta đã lệ thuộc vào các ham muốn nhu cầu
về vật chất. Và không có gì sai quấy trong việc thỏa mãn
những nhu cầu ấy trong một phạm vi giới hạn. Khi Đức
Phật chủ trương Trung Đạo, Ngài dạy không nên tự say đắm
vào xa hoa và cũng chẳng nên tự chối bỏ hoàn toàn những
nhu cầu căn bản cho đời sống.
Tuy nhiên ta không nên
dừng tại đấy. Trong khi ta chấp nhận những điều kiện
của kiếp nhân sinh, ta cũng phải hết sức cố gắng, tu tập
theo Bát Chánh Đạo, tiến đến mức độ phát triển để có
thể chứng nghiệm được rằng luyến ái vào thế giới vật
chất này chỉ tạo đau đớn và phiền não.
Nhờ mở mang sự
hiểu biết qua bao lần sanh không kể siết, nên càng ngày ta càng
giảm thiểu tham đắm về những lạc thú của giác quan. Ở
giai đoạn này ta thực sự tin cậy vào chính mình. Tại giai
đoạn này các chư thiên không còn thể giúp ta được nữa, vì
ta không còn tìm cầu để thỏa mãn nhu cầu vật chất của
ta.
Người Phật Tử khi
đã hiểu biết bản chất phù du của thế giới sẽ tu tập
để buông bỏ những lợi ích vật chất. Đương nhân không còn
bám níu vào lợi ích trần tục, cho nên họ chia sẻ những
lợi ích cho những người bất hạnh hơn mình - người đó tu
tập hạnh bố thí cúng dường. Bằng đường lối như vậy,
họ lại đóng góp vào phúc lợi của người khác.
Khi Đức Phật đạt
Giác Ngộ do kết quả những nỗ lực của chính Ngài, Ngài không
ích kỷ giữ kiến thức này cho riêng mình. Hơn thế Ngài đã
phổ biến tiến trình của Ngài trong 45 năm không những cho
con người mà còn cho cả cho chư thiên. Điều này là một thí
dụ quan trọng nhất trong Phật Giáo về lòng vị tha và sự
quan tâm cho hạnh phúc của tất cả chúng sanh.
Ta thường nói Đức
Phật giúp đỡ người trong cơn khổ nạn không phải bằng
thần thông phép lạ như làm người chết sống lại vân vân...,
nhưng bằng những hành động trí tuệ và từ bi của Ngài.
Trong một dịp, một
phụ nữ có tên là Kisa Gotami tìm đến Đức Phật yêu cầu
Ngài cứu sống đứa con của bà mới chết. Biết không thể
lý luận với bà ta vì bà đang tuyệt vọng và phiền muộn,
Đức Phật bảo bà ta hãy đi kiếm một nắm hạt cải của
một người chưa từng có người thân nào chết cả. Người
đàn bà quẫn trí này chạy hết nhà này đến nhà khác, và
ai ai cũng muốn cho bà hạt cải nhưng chẳng ai có dám nói là
mình không có người thân nào đó đã bị chết. Thế rồi
Kisa Gotami mới tự hiểu được cái chết là chuyện sẩy ra
tự nhiên cho tất cả chúng sinh đã sanh ra làm người.
Hiểu thấu, bà ta quay
trở lại với Đức Phật và cảm ơn Ngài đã dạy cho bà
biết sự thật của cái chết.
Điểm đáng nêu ở đây
là Đức Phật quan tâm nhiều đến sự hiểu biết của người
đàn bà về bản chất của cuộc đời hơn là làm cho bà ta vơi
đi nỗi buồn đau tạm thời bằng cách cứu sống lại đứa
con cho bà - đứa trẻ lớn lên, già và rồi cũng chết. Với
sự nhận định thông suốt, Kisa Gotami không những có thể
hiểu biết hiện tượng của cái chết mà còn biết được
nguyên nhân của phiền não do luyến ái. Bà ta có thể hiểu
luyến ái gây phiền não, và khi luyến ái bị tiêu diệt thì
phiền não cũng chấm dứt.
Cho nên trong Phật Giáo,
một người có thể tìm sự hỗ trợ của những tác nhân bên
ngoài (như chư thiên) trong việc mưu tìm hạnh phúc tạm bợ,
nhưng vào những giai đoạn phát triển sau đó, khi tâm bám níu
vào các điều kiện thế gian chấm dứt, sẽ khởi đầu con
đường từ bỏ thế tục và giác ngộ mà đương nhân phải
tự độ. Khi một người tìm giải thoát để phá vỡ vòng
sanh tử hầu đạt sự nhận thức và giác ngộ, người đó
chỉ làm được bằng nỗ lực của chính mình, bằng sự
tập trung sức mạnh ý chí của chính mình.
Phật Giáo cho con người
phẩm giá vĩ đại. Phật Giáo là một tôn giáo duy nhất cho
rằng con người có sức mạnh để giúp đỡ và giải thoát
chính mình. Trong những giai đoạn kế phát triển tiếp theo,
con người không phải chịu quyền lực của bất cứ một
sức mạnh hay một tác nhân bên ngoài nào mà họ phải làm
vừa lòng bằng hình thức thờ phượng hay dâng cúng tế
vật.
-ooOoo-
Ðầu
trang | Mục lục | 01
| 02 | 03 |
04
| 05a | 05b |
06
| 07 | 08 |
09
| 10 | 11 |
12
| 13 | 14 |
15
| 16 | 17
--- o0o ---
Trình bày:
Chân Đức & Nguyên Thảo
Cập
nhật
ngày:
01-11-2002
|