Hư Tâm Học Đạo
HT Thích Thiện Siêu
---o0o---
Phần
2
PHONG CẢNH TÒNG LÂM
Tòng Lâm vừa là một nơi chung cùng tu học
của các hàng xuất gia học Phật, vừa là cơ quan truyền bá Phật pháp, trung
tâm của hàng bao tín đồ Phật giáo Trung kỳ mà họ đã góp sức chung tiền gây
dựng. Chỗ này trước nguyên là một nơi chùa cũ hiệu là Kim Sơn Tự. Xây dựng
trên một đồi núi thuộc bộ phận làng Lựu Biểu, tỉnh Thừa Thiên chu vi ước
chùng 4 mẫu, lại có vài đồi núi khác nối tiếp chạy bọc đàng sau lưng,
nhưng không cao lắm, đến nỗi án những làn gió nhẹ của biển khơi thổi lại,
trái , lại chỉ làm tăng cho cảnh trí Tòng Lâm càng rộng rãi và khoáng đãng
hơn, đứng trên đây ta có thể thấy rõ Kinh thành Huế và trụ cờ của nước
Việt Nam, thấy những dãy núi Trường Sơn oằn oại chạy dài và đường cát
trắng xóa phơi mình nằm theo bờ biển, thật là một phong cảnh rộng rãi và
sảng khoái hơn các nơi đô thị nhiều!
Như thế nhưng không phải là hẻo lánh thâm
u bậc dấu chân người như những nơi rừng sâu núi thẳm, chân đồi lưa thưa
những đám ruộng trồng khoai gieo lúa cùng làng mạc liệt hàng ở khắp chung
quanh. Ấy phần nhiều là những nhà có đạo tâm với Phật pháp thường hay tới
lui giúp đỡ. Tòng lâm và lại cũng không phải ồn ào rộn rịp như nơi thị
thành buôn bán ngăn lại sự tu học của chúng tăng.
Ngoài thì giờ tu học nếu muốn hóng mát
thì rảo bước trên các đồi núi sau lưng Tòng Lâm sẽ có gió cả bốn bề thổi
lại, nếu muốn tắm giặt thì tất phải đi đến sông Bạch Yến cách 500 thước và
sông Hương cách chừng một cây số, song song chảy thẳng trước mặt chùa vừa
mát vừa trong. Tuy thế nhưng Tòng Lâm hiện nay chỉ còn ở vào thời buổi
phôi thai, trống trải, thiếu cây đại thọ, thiếu giếng nước trong, mùa đông
cũng như mùa hạ thiếu sự che gió đỡ mưa và ánh nắng gay gắt của mặt trời
mùa hạ, có lẽ đó cũng là một khuyết điểm làm giảm bớt phần thắng cảnh
thắng tích danh lam đủ điều hoàn mỹ đang làm nơi để ý của khách viễn
phương, song ai một khi đã bước chân đến, lúc ra về không thể không còn để
lại trong tâm một vài dấu vết thanh tao êm dịu. Ư! Tòng Lâm Kim Sơn là một
nơi tu học của các Tăng già, chỗ ấy không kém sự thanh tịnh mát mẻ, khoáng
đãng và thanh khí nhẹ nhàng !
(Ngày 16 tháng
3-2507 )
SỬA LẠI HỦ TỆ TRONG NHÀ CHÙA
Đại phàm ma là ma, còn Phật là Phật, ma
và Phật không thể đi đôi với nhau bao giờ, nên Phật càng cao lên thì ma
càng thấp xuống, hễ ma hiện ra thì Phật phải bị lu mờ. Nhân tính đối với
Chánh đạo cũng thế, ở đời Chánh pháp, Tượng pháp các vị xuất gia tu hành
dù phải lắm cực khổ, mặc chỉ phấn tảo đủ che thân, phải ở dưới cây và nơi
thanh vắng, như thế nhưng không bao giờ thối bỏ, đạo nghiệp càng ngày càng
trở nên trong sạch; trái lại, đời mạt pháp này thì khác hẳn, tổ chức thành
chùa thành điện, thành chúng điệu vẻ vang; sự ăn, mặc và ở so với xưa thì
đã thấy hơn trăm phần. Hơn thật, song hơn mặt vật chất trau dưỡng xác thân
chứ mặt đạo nghiệp để tô bồi cho tinh thần sáng suốt thì lại thua kém xa.
Chính đời Lương Võ Đế bên Trung Quốc
chẳng những là thời kỳ gần Chánh pháp hơn bây giờ, lại còn có Vua hết lòng
hâm mộ Phật pháp, thọ giới Phật, và ủng hộ Tăng –già, mà đời đó trong Tăng
giới đã lắm chuyện hủ tệ, nào ăn mặn, nào rượu chè làm cho vua phải một
phen ra sức chỉnh đốn. Tuy là Vua đem hết quyền lực và đạo đức ra mà chỉnh
đốn thật song đến tấm vải trắng giữ mãi cho đừng lấm lem là việc rất khó,
giáo pháp Phật khai thị cũng thuần một màu thanh bạch; học thông được, giữ
trọn được tất quyết định đến Bồ-đề, mà hiữ cho hoàn toàn theo giáo pháp ấy
lại khó hơn giữ tấm vải trắng đừng cho nhớp. Cho nên trong hành xuất gia
học đạo thì số ức số triệu mà kẻ chơn chánh tu hành chứng được đạo quả thì
chỉ còn lại không được một phần trăm, bậc tu hành thì thường hay tránh thị
phi hơn thiệt, ẩn tích dấu danh, kẻ ít học ít tu thì thường hay khoe
khoang xông pha ở giữa quần chúng, bởi thế mà tòa gia nghiệp to lớn của
đức Như Lai chỉ để cho phần nhiều người thiếu tu xem sóc, xe trước đổ thì
xe sau cũng đổ, người trưóc đã không hay thì người sau cũng hư hỏng, đó là
cái hủ tệ thiên niên vĩnh cửu không thể phá tan. Nếu có người hảo tâm vì
Đạo, thấy Phật pháp không hủ tệ mà vì người làm cho hủ tệ, Phật pháp không
phải thấp hẹp mà vì người làm cho thấp hẹp thì lấy làm động lòng muốn cứu
vãn. Song xưa nay những bậc ấy thường hay trái ngược với nhau, kẻ có đức
lại không có tài, người có tài lại thiếu đức, riêng mỗi mỗi người thì đều
ôm mỗi chí nguyện và nói rằng làm cho xiển dương Phật giáo mà hợp quần lại
không ai chịu dưới ai, nên sự hủ tệ trong nhà chùa mạnh ai nấy giữ, để cho
nó thản nhiên lưu hành !...
Muốn có một phương pháp để sửa chữa những
cái hủ tệ, hay hơn hết là nếu có bậc anh tài xuất chúng, có đạo đức cao
siêu để làm qui giảm, có tài thâm nhập Phật pháp đủ dẫn dạy cho mọi người
hay thâu phục đươc tất cả nhân tâm, hay hết lòng hy sinh vì Đạo, như vậy
là có thể cải đổi sự hủ tệ trong nhà chùa bằng sự thần phục nơi mọi người,
nhơn như vậy rồi sau mới đem những điều này mà ứng dụng vào từng công việc
trong nhà chùa, việc gì coi đó có lợi thì sửa đổi đi lần lần trở thành
hoàn toàn chuyện tốt. Nếu không được như thế thì có cơ sở chuyên dạy Phật
pháp để cải đổi tư tưởng thấp hèn của hàng Tín đồ đối với Phật pháp và của
kẻ Xuất gia để đào tạo cho mỗi Phật tử đều có sự hiểu biết cao thâm, có
thể hy sinh với Đạo, đối với công việc trong nhà chùa đều lấy sự hiểu biết
đem Phật pháp mà cân nhắc, rõ sự đáng làm, việc không đáng làm, điều này
hủ tệ, điều nào chơn chánh, lần lứa un đúc từ hàng xuất gia đến hàng cư sĩ
đều có tư tưởng sáng suốt thành kính Phật pháp, tư tưởng đã xoay thì việc
làm chắc được hoán cãi, những hành vi hủ tệ đều theo sự đào thải của tâm
niệm chánh đáng của quần chúng mà tiêu mòn, để cho hành vi tốt lành phát
hiện, trong mỗi chùa nhơn đó trở nên chốn đạo tràng thanh tịnh. Tuy vậy
song đây mới là một vài thô sơ của một Phật tử, chắc không đâu đủ làm
phương pháp hay có thể đem áp dụng sửa chữa cái hủ tệ trải bao thế kỷ,
huống gì trong công việc sửa chữa kia còn biết bao nhiêu điều rắc rối ngăn
đón công việc hoán cải phải ngưng bế trước khi hiện hành, cho nên đây chỉ
là vài điều phát họa tí ti giữa trăm ngàn việc lớn.
(Ngày
22 tháng 11 năm 2507 )
Ý NGHĨA CHỮ TỰ DO VÀ TỰ TẠI
Từ khi Âu hóa tran sang nước ta, thì bao
nhiêu danh từ mới mẻ nào bình đẳng, nào tự do cũng lần lữa phát hiện, nó
đã lan khắp các nơi, trên mặt báo chương trên chốn học đường, cho đến nơi
thị thành buôn bán không chổ nào là không thấy không nghe: Tự do! Tự do!
Những khách du đãng, các kẻ giang hồ, nói
con bất hiếu, học trò thất nghi khi nào cũng muốn phóng giãi tất cả lễ
nghi luật pháp ràng buộc để cầu được tự do, phóng thân chạy theo ý muốn,
nay non cao mai biển rộng, sớm đi đánh bạc, chiều đi coi hát khỏi bị điều
gì ngăn đón, như vậy là hạnh phúc của đời người; trong tâm đã sẳn sàng
phóng đãng như vậy ngoài lại đưọc khẩu hiệu tự do bảo toàn. Cho nên mặc
sức hành động, tự do đi chơi, tự do ăn mặc, tự do uống rượu, tự do lấn
hiếp kẻ hèn yếu v,v…Khiến cho lòng người trước còn sạch, sau trở nên đen
điu, trước vẫn nhân từ hiếu hạnh sau thành lần đổi thành độc ác vong ân,
những là thần phong mỹ tục đều phải tiêu mòn hủ nát; con có quyền tự do
của con, cha mẹ có quyền tự do của cha mẹ, không ai cản ai được. Vua tôi
thầy trò đều có quyền tự do của Vua tôi thầy trò không ai dạy ai nghe
v.v…Nói tóm lại, tự do nghĩa là không bị dưới quyền hạng chế của ai cả.
Song xét kỷ lại thì như vậy tuygọi là tự
do mà chưa hề tự do chút nào cả, chẳng qua phóng ý tư tình, buông lung
theo dục cảnh không bị pháp luật ngăn cản gọi là tự do sung sướng, kỳ thật
trong đó đã bị không biết bao nhiêu hoàn cảnh chi phối, gặp sắc đẹp tiếng
hay không thể không tham, đói cơm rách áo không thể không khổ, gặp nghịch
cảnh còn phải than buồn gặp thuận cảnh không khỏi réo rắc vui mừng, huống
hồ gì còn những khổ sống chết già đau muốn tránh xa mà không làm sao tránh
được, như vậy thì hai chữ tự do chỉ là thuận tình lưu dục còn phải khuyết
điểm, cho nên hơn một tằng trong đạo Phật thường dạy hai chữ "Tự tại”,
chẳng những không theo lòng dục vọng vượt bỏ pháp luật càng thường gây
thêm tội lỗi buộc ràng, làm cho thế đạo nhơn tâm lu mờ phế bỏ, mà lại còn
một lòng tin cho mọi người noi theo để cầu lấy hạnh phúc chơn thật hoàn
toàn.
Tự tại, là không ngăn ngại, là giải
thoát, là kết quả hoàn toàn của kẻ tu hành. Tự tại không bị sắc đẹp làm
lòa mắt, tự tại không bị ngũ dục làm loạn tâm, không vì nghịch cảnh không
vui bởi thuận cảnh không mừng không giận không ghét ưa, ở vào hoàn cảnh
nào cũng không việc gì bó buộc được, cho đến sanh tử không thể buộc ràng,
mặc dù vào sanh ra tử mà luôn luôn đặng tự tại; tự tại như vậy mới là chơn
thật tự tại mới là chỗ đáng chung cầu của muôn người muốn hết khổ được vui
vậy.
Như thế thì thấy rõ ý nghĩa của chữ “Tự
do” và “Tự tại” khác nhau như trời như vực, tự do thì vượt cương thường
đạo đức, pháp luật lễ nghi để làm theo ý muốn, tự tại thì giữ trọn đạo đức
để trau giồi tâm tánh mà không hề bị bó buộc, tự do thì thoát một bên lại
bị buộc một bên, còn tự tại thì hoàn toàn giải thoát, tự do còn phải sanh
tử đọa lạc, còn tự tại dầu sanh tử cũng không bị buộc ràng v.v…
Tự do ư? Tự tại ư ? Người muốn lập đức,
muốn được an vui tất phải nhận chân cho kỹ !
(
Ngày 17 tháng
2-1945-PL.2508 )
BIẾT NGƯỜI
Tằng lóm nghe sách Nho câu: “Kiến hiền tư
tề yên, kiến bất hiền nhi nội tự tĩnh dã”. Như vậy, thì sự biết người đâu
phải là việc dư mà chính là một điều có quan hệ lớn lao cho công việc tu
dưỡng đức tánh, thao luyện tài năng và giúp cho ta trọn nên tất công việc,
mà đời mình còn khuyết điểm chưa đủ kinh nghiệm đến.
Sanh ra đã dễ mấy ai Thánh hiền, không
học mà biết, không tập mà nên, phần nhiều đều phải soi gương kẻ trước để
làm một sự kinh nghiệm trước khi đi vào công việc, hay trong lúc học tập,
trong thời kỳ thơ ấu…
Song biết người ấy là một việc rất khó
lại là một việc rất dễ, dễ là chỉ biết qua mặt ngoài thô thiển của người,
còn khó là biết đến bên trong, biết đến chỗ động cơ sâu xa của người thật
là khó vậy. Bởi vậy ở đời lắm người coi cả thiên hạ toàn là rơm rác cả,
ngoài mình ra không ai là bậc Thánh hiền quân tử, ấy thế nên trong tâm
chứa đầy mối kiêu mạn, không dung ai, không chịu ai, của thiên hạ thì
không việc gì hay, còn của mình thì không điều gì dở, suốt đời không việc
gì đáng làm cả, tới lui cũng chỉ có mấy lời ngông cuồng kiêu ngạo, đến
chết vẫn còn ôm cái dốt nát vô vị đi theo…Đó là tại biết người không biết
cho thấu đáo, chỉ biết qua cái thô sơ thấp thỏi của người thôi vậy.
Trái lại, có người chỉ âm thầm mà sanh,
âm thầm mà sống, rồi lại âm thầm mà chết trong những nơi không người đến,
đi ra thấy người tưởng hoàn toàn là Tiên là Thánh cả, mà sợ như kẻ đỏ mắt
sợ mặt trời nhưng không biết rằng; "Dốt hay nói chữ” là bệnh chung của
một số đông người , từ lời nói thế cho đến công việc làm cũng thế, phần
nhiều là công việc lèo bề ngoài để gạt kẻ khác, nói thật hơn một chút, dẫu
có điều chơn thật lớn lao của số người thật biết mà làm ra, song đó không
phải chỉ riêng ai làm được mà thôi, chí ư những kẻ thất phu kia nếu muốn
làm cũng có thể làm được cả, biết vậy thì đâu còn thấp hèn mình xuống
ngang hàng với loài ký sinh, mà tôn người là hoàn toàn Hiền thánh, cho mọi
người đều là Chủ nhơn ông của mình.
Quá hèn hạ mình mà tôn trọng người lên
một cách quá đáng vô lý nghĩa; đó là cái hại chỉ biết cái hay về mặt ngoài
của người mà không biết chỗ sâu xa và không biết những chỗ ngang mình của
người, bất quá người từ đó mà tấn lên chỗ hoàn toàn, ta cũng từ đó mà thối
lui chỗ hèn hạ kém cỏi…
Như vậy thì nói
"Biết người mà làm cho
mình có lợi ích” là khó không phải quá đáng. Khó là vì một việc chúng ta
không thể không có, để bo bo giữ cái xấu xa cũ kỹ của mình mà không chịu
canh cãi.
Vậy biết người là biết gì về nơi người?
Biết người Hiền đức nhơn từ, không bao
giờ giận hờn thù oán ai, dầu ai có đem điều này đến khen ngợi, tâm không
xu phụ, ai đem việc xấu mà tra cho cũng không hờn trách, lại còn vui vẻ
giúp đỡ họ …Biết người vậy nghĩ lại thử mình có được chưa?
Người là bậc anh tài xuất chúng, học một
biết mười, nghe đâu nhớ đó, trăm pho sách đều tinh thông rành mạch, suy
nghĩ lời Thánh hiền mà quên ngủ quên ăn…biết người vậy nghi mình có được
như vậy chưa?
Người là đấng đại trượng phu, phá bỏ tâm
lượng hẹp hòi ích kỷ, phát lòng quảng đại, coi tất cả việc thiên hạ chúng
sanh đều là trọng trách của mình, hy sinh cho mọi người mà không cầu danh
vọng…Biết người vậy mà nghĩ mình đã được như vậy ư ?
Người là kẻ mục hạ vô nhơn, chỉ lấy mình
là trung tâm đặt điểm của xã hội mà không tài không đức, tâm lượng thấp
kém…Biết người như vậy mà nghĩ đến mình có phải đồng bạn với họ ư?
Người hay nhút nhát hẹp hòi, người tham
lam nhũng lạm, người dua dối bề ngoài, người hay khoe khoang tà ngụy.
Biết người vậy nghĩ mình có phải đồng
quyến với họ ư?
Biết người để xét lại mình, thấy người
hay thì nghĩ sao cho bằng, biết người dở thì để ngăn dè những điều của
mình dở, người ta ở đời chỉ khác nơi chỗ ấy, nếu người ta chờ đến khi thực
hành để nghiệm điều dở hay của mình thì trọn đời không mấy khi làm nên
việc tốt, nếu lấy người làm gương cho mình soi, biết người trước lại biết
mình sau, tất sau sẽ thành một người hoàn toàn thiện mỹ. Xưa nay những bậc
anh tài, bậc Hiền đức, làm nên công việc có phải là người biết người đấy
ư? Mạnh Thường Quân trọng đãi tiện khách mà sau khỏi nạn, có là người biết
người đấy ư ? Vua Quang Trung tôn thờ kẻ ẩn sĩ Cô Bận( La Sơn tiên sinh)
mà làm nên sự nghiệp một thời, có phải là nhờ biết người đấy ư ?
Chẳng những thế thôi còn biết người mà
thoát nạn như ông Di ông Tề; và ông Bột biết người để tiếp độ người là các
vị Bồ-tát các đức Phật.
Nho nói: Thấy người hiền thì nghĩ cho
bằng, thấy kẻ bất hiền thì xét nét mà sữa mình. Đó là dạy ta phải biết
người để tu thân vậy.
Còn đức Phật dạy: Trước khi nói Pháp phải
quán căn cơ chúng sinh. Đó là dạy ta biết người để mà tế nhơn vậy.
Như vậy, biết người để tự tĩnh, để độ
người , là kẻ trí, không biết người để tu tỉnh là người ngu, chúng ta
không lấy đó làm việc cầu cũng là việc đáng thận trọng làm sao?
(Ngày
19 tháng 9 năm 1944, PL. 2507 )
NHẬN THỨC MỘT SỐ NÉT TRONG LỐI GIÁO DỤC CỦA PHẬT ĐÀ
Từ đời sống cá nhân đến hoàn cảnh xã hội
được đổi thay tốt xấu đều do vấn đề giáo dục mà ra.
Vậy giáo dục là sự đào luyện con người để
hợp lý hóa sự sinh hoạt tinh thần cũng như vật chất trong đời sống chung.
Con người muốn tiến hóa hợp lý và siêu việt trên tất cả, cần phải có một
sự giáo dục hoàn mỹ, nghĩa là chính nó có thể tiêu diệt, ngăn đón mầm mống
xấu đang và sẽ xảy ra đối với xã hội và kiến tạo một xã hội tốt hơn cho
mọi người.
Xưa nay trong lịch sử vấn đề giáo dục đã
có nhiều chủ trương sai khác, nhiều sự tranh chấp tai hại, như giáo dục
quân quyền, giáo dục nhân quyền, giáo dục thần quyền, giáo dục vật
quyền…Mỗi chủ trương lập luận tùy nhận thức của mình chứ ít ai đứng ra
ngoài phạm vi cái Ta để nhìn lại, kiểm xét lập trường của mình cho rốt
ráo.
Vậy lối giáo dục của Phật là gì? Ngày xưa
Đức Phật Thích-ca không nói gì ngoài mục đích cứu khổ cho chúng sanh.Ngài
chỉ nêu lên những giáo lý, khế lý (đúng sự thật khách quan), sống khế cơ(
hợp tánh cá biệt) để giáo dục chúng sanh, khuyên bỏ đời sống mê mờ, chật
hẹp để sống đời giác ngộ giải thoát . Trước ai hết, Ngài là một nhà đại
giáo dục thế giới, chỉ chú trọng căn bản cuộc đời tốt xấu để đặt nguyên
tắc giáo dục, đinh ninh chỉ rõ, cương quyết phá trừ những nguồn gốc của
đen tối, phân rõ tham lam điên đảo, nghĩa là chú trọng cải tại kết quả,
mặc dù Phật thường dạy “đời là bể khổ”, nhưng cốt để tìm nguyên nhân, tát
cạn biển khổ của đời. Vì thế, đức Phật trở nên đấng Đạo sư của muôn loài
muôn vật vậy.
Trải gần ba ngàn năm lịch sử, cuộc diện
nhân sinh đã mấy lần thay đổi, bản đồ thế giới đã mấy lần sửa lại xóa đi,
nhưng tư tưởng hành động, giáo lý của Đức Phật vẫn còn được tôn sùng, quy
ngưỡng. Cận lai ông Vĩ Nhĩ Tư, tác giả cuốn
Thế
giới sử
cuơng có chép rằng: “Giáo nghĩa căn bản của
đức Cù Đàm (Phật) đến nay nghiên cứu cùng tột gốc ngọn, mới biết là đơn
giản rõ ràng, khế hợp quan niệm đời nay. Thật là một sự thành công của lý
trí siêu việt, quán suốt xưa nay, không cần phải biện luận nữa”. Chúng ta
hãy tìm hiểu thêm sự thành công ấy như thế nào?
I.Chứng minh chân lý
Ở đây, chúng tôi xin chứng minh về mặt
chân lý để làm sáng tỏ vấn đề: Đức Phật Thích-ca khi chưa xuất gia và sau
khi xuất gia năm năm, đã từng chịu sự giáo dục của đương thời, suy tìm
kinh nghiệm, Ngài thấy còn nông cạn, sai lầm, chưa giải quyết được thực
tướng của nhân sinh vũ trụ, bèn tự mình thực nghiệm, tĩnh tọa tham thiền
dưới gốc cây Bồ-đề và đã chứng ngộ chân lý.
1.Vũ
trụ không thật,
các pháp bình đẳng.
Nếu chúng ta còn mê lầm cố chấp các pháp
là thật hữu, thì ngược lại đức Phật đã chứng ngộ rõ ràng, thấy mỗi hiện
tượng trong vũ trụ, chẳng qua là những huyễn tướng của các nhân duyên biến
chuyển thuận ứng hoặc phản ứng với nhau mà hiển bày. Đứng về mặt thời gian
thì chỉ thấy tương tạo không ngừng từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại
cho đến vị lai.
Đứng về mặt không gian thì chỉ thấy phổ
biến liên quan, từ trong ảnh hưởng ra, từ ngoài chi phối vào, một quan hệ
tất cả, tất cả quan hệ một. Nhỏ từ một việc trong nhân sự giới, một vật
trong tự nhiên giới vậy, lớn ra toàn thể vũ trụ cũng như vậy, rốt ráo rỗng
không, trung tâm chẳng có chỉ là cá tánh thật hữu, tuy vẫn tương quan
tương duyên mà trình bày thiên hình vạn trạng. Đó là chơn lý bình đẳng của
vũ trụ, trong kinh thường gọi là "pháp nhĩ như thị, vô thỉ vô chung” vậy.
2.Vạn
hữu duyên khởi,
nhân sinh tự
do.
Không một sự vật gì thật có sinh ra nếu
không do sự quan hệ giữa không gian và thời gian tạm hiện, trong đó mối
quan hệ chủ lực là tâm lực. Cho nên muốn thực hiện một thế giới cực lạc
thì điều đáng chú ý nhất, cần làm trước nhất là phải cải huấn tư tưởng,
hành động nơi tâm lý con người. Tâm lực đã làm chủ lực tất cả, nên tâm lý
hành vi của người tốt lành thì nhân sinh sẽ được giải thoát. Như vậy con
người có tự do, lại có năng lực tạo thành tự do cho mình, chứ không phải ỷ
lại giao phó cho ai được.
Người sở dĩ thành người, người cùng với
người trên phương diện thời gian vẫn có tính cách tương tục, từ xưa đến
nay, cũng có tính cách đặc biệt phổ biến cả bốn bể năm châu không khác với
sự quan hệ thích ứng của một pháp. Đó là quan hệ hổ tương với nhau mà kinh
Hoa Nghiêm gọi là pháp giới trùng trùng duyên khởi. Cho nên mỗi cá nhân
đối với gia đình đoàn thể, xã hội, dân tộc, cần phải lãnh lấy một trách
nhiệm tương ứng hầu làm tròn thiên chức của mình và ngược lại. Đây đối với
kia, kia đối với đây, hỗ trợ tương nhiếp như ánh sáng muôn ngọn đèn trong
một gian nhà tuy dung hợp nhau mà đồng thời mỗi ngọn đèn có một cá thể
riêng, không hề xâm loạn. Lý trí Phật Đà triệt chứng lẽ ấy, cũng thấy mọi
người đồng có lý trí chứng như Ngài, nên không những Ngài tự tin, Ngài còn
làm chủ được vũ trụ. Ngài dạy: "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đã có
Phật tánh đều có thể thành Phật”. Nếu ai nấy đồng có sức tự tin ấy, đồng
một tâm đức ấy, tiến triển hợp lý thì thanh tịnh Phật quốc khó gì không
hiện hữu giữa nhân gian.
ÌI.Quy mô giáo dục
Đức Phật sau khi chứng ngộ chân lý rồi
không an hưởng cảnh tịch lạc một mình. Quốc độ uế trược này còn chứa đầy
những chúng sanh đau khổ, thì công hạnh giác tha của Ngài vẫn chưa được
dừng nghỉ. Vì thế, Ngài đã tuyên dương giáo pháp giải thoát, ánh minh
quang tỏa đầy 10 phương để cảm hóa người vô lượng vô biên.
Tìm hiểu sâu vào sự giáo hóa ấy, chúng ta
nhận thấy có mấy phương pháp sau đây:
1.Tri
thức giáo dục
Chơn lý của đức Phật đã giác ngộ, đem
giác ngộ cho mọi người cũng không ngoài ý muốn cho mọi người đồng giác ngộ
chơn lý ấy. Tuy vậy, chơn lý là chơn lý, chỉ do tâm đắc chứ không do ngoại
truyền; đức Phật dù Ngài có dùng ngôn ngữ khéo léo đến đâu cũng là lời nói
nắm gió bắt mây, không sao chỉ ngay sự thật đuợc, nên trong sự giáo dục
của đức Phật, không nói ngay đến chân lý, mà dùng hai phương diện sau đây
để giáo dục.
Phương diện giáo dục thì chữ “già” để
ngăn đón, phương diện tích cực thì cùng chữ “hiểu” để tượng trưng. Nếu
người ta chấp nhận
Muôn hữu thật
thể luận,
thì đức Phật phủ nhận khiến mọi người giác ngộ cái diệu lý "các pháp tánh
không”. Trái lại, khi người ta chủ trương
Hư
vô đoạn diệt
luận,
thì đức Phật tích cực khẳng định, bởi các pháp đều có tự thân làm nhân,
mọi cái khác làm duyên, mà hiện tồn tại, khiến mọi người giác ngộ cái diệu
lý "Muôn vật duyên khởi”. Tóm lại, chấp không hay chấp có đều là bức màn
ngăn cách giữa lý trí và chân lý, cho nên đức Phật không chủ trương theo
hai lối đó để giáo dục người.
2.
Đạo
đức giáo dục
Đạo đức giáo dục phải căn cứ trên trí
thức giáo dục mới có ý nghĩa. Phàm hành vi của con người nếu không thuộc
về thiện, ắt thuộc về ác, do bao nhiêu hành vi ấy của nhân loại sẽ hình
thành phong tục, tập quán, chế độ, pháp luật của xã hội: Nhiều hành vi ác
hợp thành một xã hội mất cả tự do, đi xa lẽ phải; nhiều hành thiện hợp lại
thành một xã hội an lạc tiếp cận với chân lý.
Nhưng vấn đề đạo đức hiện nay lấy gì làm
tiêu chuẩn. Cái mà thời xưa gọi là đạo đức thì nay không phải, có cái thời
nay bảo là đạo đức thì xưa cho là không phải, vấn đề này đức Phật đã giải
quyết rất rõ ràng. Ngài lấy hành vi con người phối hợp với chân lý như
trên, nếu hành vi thuần lý là thiện, là đạo đức, trái lại nghịch lý là ác,
là không đạo đức. Vũ trụ nhân sinh là một hợp thể, tuy đồng thời nhưng mỗi
thứ có một cá tính đặc biệt, cho nên mỗi khi người ta phát động một hành
vi gì, cũng phải có đủ năng lực tự giác và giác tha, để phát huy tự do an
lạc cho cá nhân và toàn thể, đưa đời sống nhân sinh đến gần với giác ngộ
giải thoát,mới gọi là chơn đạo đức. Và có giáo dục đạo đức như vậy thì trí
thức giáo dục ở trên mới khỏi bị chê là nói suông.
3.Tinh
thần giáo dục
Tức là thực nghiệm tâm lý: Đây là trung
tâm điểm của giáo dục Phật đà không thể xem thường được. Sở dĩ phương diện
trí thức Phật đà đã triệt ngô uyên thâm, cũng như phương diện đạo đức Phật
đà đã đầy đủ biểu hiện, toàn bằng vào sức thể nghiệm của tinh thần và gầy
dựng cả. Xưa nay trên thế giới các nhà giáo dục nếu không thiên về tâm để
diễn thẳng, một lối giáo dục chủ quan duy tâm luận, thì thiên về vật để
công bố một lối giáo dục khách quan Duy vật luận, khuynh về lối trước hay
khuynh về lối sau đều gây nên một sự độc đoán sai lầm, tai hại, không phải
đối với sự thật vũ trụ mà còn đối với hạnh phúc nhân sinh. Như vậy là đem
tự do của mình chôn xuống vực sâu, đem tự do của chơn lý đóng khung vào tự
ngã. Tinh thần giáo dục của Phật đà mới ngò qua in tuồng thiên về duy tâm,
nhưng kỳ thật là một quá trình tu dưỡng mà mọi người cần phải trải qua.Nói
cách khác, tinh thần giáo dục là một sự thể nghiệm chơn lý bằng cách trực
ngộ hóa, quảng đại hoá cá tính của mình để dung hợp đúng với chơn lý. Sau
khi tinh thần trải qua thời đào luyện thể nghiệm rồi thì phát động ra
những hành vi hợp lý. Xem thế, nếu không có tinh thần giáo dục thì bên
trong không thể nghiệm được chơn lý vũ trụ, mà bề ngoài cũng không thể
hoàn thành hành vi đạo đức đối với nhân quần. Ông Vĩ Nhĩ Tư chắc cũng đã
thấy rõ hai điểm chính là chứng minh chân lý, quy mô giáo dục của đức
Phật, đồng thời cũng thấy rõ cái xu thế chung của lòng người nên mới không
ngại ngùng viết ra mấy lời trong cuốn Lịch sử vĩ đại của ông. Nhưng xét kỹ
lại, những lối giáo dục được phát triển gần đây cũng chỉ ăn hợp với từng
bộ phận trong Phật giáo. Nếu tương lai nhân loại chung tiến trên con đường
rộng rãi quang minh thì sẽ đến ngày gặp đặng đạo Phật trên một điểm chung
là thực hiện một thế giới Cực lạc, trong đó mọi người đều đầy lòng từ bi
không có sự hiềm khích ác hại. Đầy trí giác ngộ, không có sự thiên chấp,
vọng tưởng./.
VÔ DUYÊN TỪ
Lòng từ bi của chư Phật, Bồ-tát thường
được mệnh danh là “vô duyên đại từ” và “đồng thể đại bi”.
Vô duyên từ
là tình thương yêu không do dự, thúc đẩy(duyên).
Từ bên trong
(như một tâm trạng đang cô đơn, trống trải muốn làm bạn để giải sầu), hay
bên ngoài, như khi thấy một đối tượng “hạp nhãn”. Vô duyên từ là tình
thương tự nhiên, không điều kiện, không nguyên nhân, không phải là một cảm
xúc giai đoạn, một cảm ứng bên trong(nội tâm) hay một kích động bên ngoài,
một tình yêu thường trực trong đó không có chủ tể “yêu” và đối tượng “bị
yêu”, hoàn toàn vắng bóng “cái tôi” trong đó.
Có thể nói, khi có “cái tôi” thì không có
tình yêu, và khi có tình yêu thì không có cái tôi. Hai chuyện ấy không thể
hiện hữu song hành. Vô duyên từ ví như hoa nở tỏa hương ngào ngạt khắp
không gian, nhưng hoa không bao giờ có ý rằng, tôi nở cho người ngắm và
ngửi đây. Hay lại ngắm tôi đi, nếu không tôi sẽ khép lại cho bõ ghét.
Không, hoa không bao giờ nghĩ như vậy, nở chỉ có việc nở và tỏa hương,
không cần so đo tính toán, mình hãy nở cho ai, vì ai. Vô duyên từ cũng
vậy, là một tình yêu vô lượng bủa khắp mọi người, mọi vật; không phân biệt
hữu tình hay vô tình. Đó là lòng thương chan chứa trải an vui hoà bình
trên khắp mọi người mọi vật, không nỡ nhìn một chúng sanh nào đau khổ, kể
cả chính mình, vì lòng từ không phân biệt mình, người. Cho nên hình ảnh
đức Bồ-tát Di Lặc tượng trưng tâm Đại từ (họ: Từ: Từ Thị) luôn có nét tươi
vui, hài hòa với tất cả. Một trong những đặc tính của tâm từ là chia sẻ
niềm vui, hay "vui với người vui” trong khi một đặc tính của tâm bi là
“khóc với người khóc”. Nhưng “vui với người vui”- đặc tính của tâm
từ-không có nghĩa là “vui đâu dốc đó”, mà là một đặc tính khó thực hiện,
còn khó hơn cả đặc tính "khóc với người khóc” ở tâm bi. Từ là có thể vui
cái vui của người khác ngay cả khi cái vui ấy được xây trên sự đau khổ của
chính mình. Ở đây, ta thấy về tâm từ khó thực hiện hơn bi rất nhiều: Tôi
dễ dàng chia sẻ nỗi buồn(bi) với bạn nếu bạn trượt trong khi tôi đậu,
nhưng thật khó cái vui của bạn nếu bạn đậu mà tôi rớt. Tâm từ là thể, cái
của tình yêu thương vô lượng, là tình yêu ấy khi ở trong trạng thái tỉnh,
vô hành , vô tướng. Nhưng không phải vì vậy mà tâm từ không có tác dụng;
ngược lại, nó là một chất xúc tác mạnh mẽ nhất khiến cho trời đất đổi mới,
vạn vật vui hòa. Cho nên, nơi nào có thánh nhân cư trú, thì do mãnh lực từ
tâm của vị ấy tỏa ra, trú xứ đó thường ít bị tai ương hoạn nạn. Khi gần
một vị có tâm từ, ta cảm thấy hoan hỷ, thoải mái, bình an, mặc dù vị ấy
không làm gì cho ta cả: Đó chính là mãnh lực của tâm từ.
Xưa, khi đức Thế Tôn trở về thăm phụ
vương sau khi đắc đạo, chú bé La Hầu La đứng bên Ngài, hoan hỷ thốt lên:
Chỉ cái bóng của Đại Sa-môn cũng làm cho con mát mẻ lạ thường!
Vì tâm từ là tình yêu vô lượng ở trạng
thái tỉnh, nên yếu tố phá hỏng tâm từ, nghịch với tâm từ chính là tâm sân.
Tâm từ làm cho mình, người mát mẻ bao
nhiêu, thì tâm sân, người nóng bức bấy nhiêu. Khi nổi sân là hết tâm từ,
trong lòng làm cho ta bồn chồn nóng bức và tỏa ra một làn ám khí vây bủa
mọi người xung quanh, một độc chất có thể giết người theo một thí nghiệm
khoa học hiện đại. Người ta đã làm thí nghiệm bằng cách lấy hơi thở của
một người đang sân hận cho vào trong một ống nghiệm, và để hơi thở ấy
ngưng tụ theo những điều kiện thích hợp, thì cuối cùng được đóng ống
nghiệm, người ta được một ít độc chất khá mạnh.
Bởi thế, người hay sân hận, lo nghĩ thì
thường dễ nhiễm bệnh nội thương do bởi chất chứa những độc chất kia.
Tâm sân và tâm từ là hai tâm sở không đội
trời chung. Cái này có thì cái kia không có. Do vậy, người sân hận nên
luyện tập pháp quán tâm từ. Nghĩa là tình yêu vô điều kiện, bình đẳng,
không nguyên nhân, không đối tượng.
Tình yêu thương ấy khi ở trạng thái động,
nghĩa là thể trở thành dụng, thì chính là “đồng thể đại bi”, lòng thương
xót rất đặc biệt đối với những chúng sanh đau khổ, cứu giúp những kẻ bị
hoạn nạn tai ách, “khóc với người khóc” như tục ngữ Ky Tô giáo nói: : Lòng
đại bi này cốt ở chổ "đồng thể”, xem người với ta đồng một thể không khác
gì cả, đồng đẳng hoàn toàn, không thấy có ngã cứu giúp và kẻ được cứu
giúp, nghĩa là không có “cái tôi”. Có xem đồng thể mới gọi là đại bi, nếu
không thì chỉ là sự thương hại, làm phước, kiểu ban ơn cho người để được
cầu danh lợi. Trong đồng thể đại bi cũng như vô duyên đại bi, “cái tôi”
hoàn toàn vắng bóng. Tình yêu không năng sở ấy, không phân biệt chủ thể
đối tượng, là một năng lực mãnh liệt ở khắp nơi như dòng điện, nên mới có
thể “ứng hiện tùy cơ”: vào quạt thì quạt chạy, vào bóng đèn thì có ánh
sáng, vào tủ lạnh thì biến nước thành băng…Nhưng khi có bóng dáng “cái
tôi” xen vào, thì những trục trặc xảy đến cho thế giới và tai họa cũng
không lường ( như tai họa gây bởi dòng điện): Yêu càng nhiều thì ghét càng
lắm. Năng lực ấy biến thành lực hận thù khi có “cái ta”, chủ tể của tình
yêu, thì bèn có vô số vấn đề xảy ra như: yêu nhân loại như ta đây mới đúng
cách, xê ra cho ta cứu nhân , độ thế v.v…
Nhưng khi tình yêu không chia năng sở,
không có người yêu và kẻ bị yêu, thì cũng không còn là hình dung tên gọi
nữa, nên tạm gọi là Vô duyên đại từ.
1942
VÔ THỈ
Trong kinh thường nói đến hai chữ Vô thỉ;
như kinh Lăng –Nghiêm nói: “Vô thỉ sanh tử căn bổn, tức là tâm phan duyên
hiện tiền của ông; Vô Thỉ Bồ-đề Niết-bàn, tức là thức tĩnh nguyên minh
hiện tiền của ông”. Và trong Khởi Tín luận nói: "Chúng sanh từ vô thỉ đến
nay niệm niệm nối nhau, chưa tằng ly niệm, nên gọi là vô minh”. Cùng nhiều
chổ khác cũng thường nói đến hai chữ ấy; Như vậy há lại không ý nghĩa gì
mầu- nhiệm hay sao?
Phật ra đời mục đích là phá chấp trừ
nghi, tồi tà hiển chánh; nên cũng theo chấp mà phá, theo tà mà tồi, không
khác nào vị y vương kia tùy từng bệnh mà cho thuốc, điều trị từng bệnh nên
thuốc nào cũng là thuốc cả, nhưng cũng vì bệnh lành nên món nào cũng không
phải thuốc; Phật pháp cũng thế đó mà thôi, vì chữa đặng bệnh mê chấp của
chúng sanh nên lời nào chữ nào cũng đều là Phật pháp, song vì bệnh hết nên
lời nào chữ nào cũng chỉ là quyền thị mà thôi chứ không phải thiệt pháp,
nên trong kinh Kim Cang nói: "Phật pháp tức phi Phật pháp, thị danh Phật
pháp”.
Song chúng sanh hiện đang mang đầy sự mê
lầm không ngằn mé, chưa có chơn huệ nhận thấy thật tướng của một chúng
sanh, của một pháp giới, nên Phật pháp vẫn còn là phương pháp không thể
bỏ, là phương pháp có công năng phá sự mê chấp và phát minh lý chơn thật
Vô thỉ.
Vô thỉ : Vô
là không , Thỉ là đầu, trước hiệp lại là không có đầu; chẳng những nghiệp
hoặc của chúng sanh không có đầu, mà chúng sanh cũng không đầu, chẳng
những chúng sanh không đầu mà thế giới, vạn sự vạn vật đều cũng không có
đầu. Vì có những ý nghĩa sau này:
1.Vì nhơn quả tương tục nên không có đầu.
Nhơn và quả không khi nào rời nhau, nghĩa là không khi nào có nhơn mà
không có quả, hay có quả không có nhơn, in như trồng cây lúa, thì hột lúa
là nhơn mà cây lúa là quả, song cũng từ quả mà có nhơn nên cây lúa lại
sanh thành hột lúa, xét đến thân phận và tâm niệm của chúng sanh hiện nay
cũng từ nhơn nghiệp ngày trước tuy làm nhơn cho thân này mà chính nó cũng
phải do thân trước gây nên, thân gây ra nghiệp, nghiệp cảm lấy thân, nào
nhơn nào quả, nào quả nào nhơn, lưu chuyển tương tục, không thể chỉ đâu là
đầu được; Ấy là Vô thỉ.
2.Thế giới chúng sanh từ “Mê” mà có, nên
không có đầu; Trong kinh nói: "Bởi tâm sanh nên các pháp sanh, bởi tâm
diệt nên các pháp diệt”. Hoặc nói: "Vì không rõ các pháp thật tướng nên
hữu tình sanh tử tương tục”. Tâm có sanh có diệt ấy là vọng không rõ các
pháp thật tướng ấy là mê. Bởi vì tâm mê vọng đó nên mới có thật cảnh thật
tâm, thật người và thật vật, cho đến mảy lông sợi tóc, cảnh khổ cảnh vui
v.v…đều không ngoài mê vọng ấy mà có, vậy nên trước mê vọng không chi đáng
gọi là thỉ, sau mê vọng không gì đáng kêu là chung. Nên gọi là Vô thỉ. (
Nên nói ví dụ chiêm bao để chỉ rõ).
3.Chơn vọng không hai thể, nên không có
đầu; Chơn và vọng cứ nơi dụng vẫn thấy có hai, nhưng cứ thế thì không bao
giờ sai khác. Hàng phàm phu chỉ một mặt đăm đăm theo vọng tướng giả cảnh,
trong hàng ngày sống trong chơn như mà không tự biết, cứ xoay theo tướng
phân biệt của vọng tâm, phải chết phải sanh mà không biết tâm ấy là vọng;
đến hành Nhị thừa thì nhận thấy sự sanh tử khổ não hoàn toàn do vô minh,
hoặc nghiệp ( vọng tâm) đồng thời cũng nhận có tâm chơn thật, quyết chí tu
hành dứt vô minh hoặc nghiệp để ngăn trừ sự già đau sống chết về tương lai
và nguyện chứng Niết-bàn là nơi chơn thật cứu sanh. Song chơn nào phải
ngoài vọng mà có, vọng đâu phải ngoài chơn mà thành; tùy theo duyên mà
vọng thì hiện ra đủ cảnh giới ô trược xấu xa, vô thường đau khổ, chơn thì
hiện ra chánh y trang nghiêm, an vui tự tại, nhưng chơn và vọng không phải
hai thể, hễ nói chơn ấy là thể của vọng, nói vọng ấy là thể của chơn, in
như song với nước vẫn đồng một tánh. Cho nên chơn đã Vô thỉ thì vọng cũng
Vô thỉ vậy. Lại cứ một niệm hiện tiền của chúng ta đây cũng tức chơn tức
vọng. Khi chánh quán hiện tiền là chơn, khi tham, sân phát hiện ấy là
vọng, đã duyên nhau nươngnhau, chơn Vô thỉ thì vọng cũng vô thỉ vậy.
4.Các pháp duyên khởi như huyễn, nên
không có đầu; Không luận thế giới hay một vi trần, chúng sanh hay quốc độ
đều là pháp duyên khởi như huyễn cả, nghĩa là không một món nào gọi là
pháp tự đứng riêng một mình mà có được, cần phải tuyên dương mới có, có đó
không phải thật có, chỉ là cái bóng giả hợp của các duyên nên gọi là như
huyễn. Vì tương duyên như thế nên một mảy bụi cũng đủ sức làm duyên cho
thế giới, mà thế giới cũng làm duyên thành hạt bụi. Không một món thì
không tất cả, trái lại một món có thì có tất cả, nên trong Kinh thường
nói: "Thử hữu cố bỉ hữu, bỉ hữu cố thử hữu, thử vô cố bỉ vô, bỉ vô cố thử
vô”, chính chỉ bày lý ấy. Các pháp đã duyên nhau thì không một pháp ra
ngoài làm nguyên nhân đầu tiên cho các pháp khác, các pháp như huyễn thì
đồng không hoa và mộng cảnh, nói: "thật có còn là kẻ rờ voi, huống chi
chấp “có đầu” thì khác nào như người tìm sừng thỏ! Nói Vô thỉ mà ý trùm cả
vô chung, song Vô thỉ Vô chung cũng đều là quyền thuyết, nên trong Luận
Trí Độ ngài Long Thọ nói: “Hữu thỉ vô thỉ câu vi tà kiến, nhi Phật đa phá
Hữu thỉ minh ư Vô thỉ”.
Phật dạy hai chữ Vô thỉ gồm nhiều ý nghĩa
sâu xa như vậy, nên đối với lối chấp lầm của chúng sanh, ngoại đạo thành
ra một phương pháp Vô thượng.
Đem tình chấp nhỏ hẹp, chổ kiến giải đảo
điên thì dầu nói hữu thỉ hay Vô thỉ, hữu biên hay vô biên cũng đều là hý
luận, đều thành một câu hỏi mà khi Phật còn tại thế thường dùng lối "Trí
đáp” để đón trừ. Tuy vậy mà Phật thường dạy Vô thỉ vì có những lợi ích sau
này:
1.Phá chấp về thời gian; thời gian không
thật có, chỉ là sự liên cấu của sắc tâm, chúng phàm phu cố chấp cho là
thật, có thời xưa, thời nay, ngày sau, vì vậy nên trên tâm niệm mê lầm lại
phú thêm một lần đen tối. Phật dạy: Vô thỉ tức là không đầu, không đầu thì
không quá khứ cho đến không cả hiện tại và tương lai.
2.Phá chấp “Có đầu” chấp “Có đầu” là một
bệnh chung cho cả phàm phu và ngoại đạo, khi chưa thấy được chánh đạo,
biết thân là giả dối vô ngã thì chưa dễ phá trừ chấp ấy, chỉ chấp chặc
thân là thực có, thật sanh, thật tử, khi sanh ra là có là đầu, khi chết là
không là chung. Đến những kẻ ngoại đạo cho mình sơ là đầu của vạn pháp, tự
tại thiên là ông chủ sơ khai v.v… Vì kiến giải đã sai lầm, thì dầu gắng
công khổ hạnh, quyết chí cầu trời, cũng chỉ kết thêm hoặc nghiệp, theo
những hành vi hữu lậu cảm lấy sự sanh tử đời đời, hiểu Vô thỉ thì mê lầm
ấy không còn.
3.Cốt để khuyến hàng Nhị thừa hằng ngày
quán sát sự sanh tử vô biên, khổ não vô lượng, sanh tâm nhàm lìa, tìm
đường giải thoát.
Tóm lại, trong một lời Phật dạy mà có ý
nghĩa sâu xa, như hai chữ "Vô thỉ” đây, nếu suy tìm cho thấu đáo, thì
cũng có thể dứt hết mê lầm, chứng được thật tướng, lại khỏi phải cái tệ
chấp ngón tay quyên bóng nguyệt, tránh nạn lửa lại sa vào hầm nước vậy.
(
Phật lịch
2507 ngày 22 tháng 9 năm 1944 )
BỒ ĐỀ HẠNH
Khi nghe nói đến Phật, tất chúng ta nhớ
ngay đến các vị Bồ-tát là những bậc tận tâm trợ hóa của chư Phật, tinh
thần cao thâm của Phật pháp đều phú thác ở Bồ-tát, Phật pháp thiệt hiện
hay không, ở đời lâu dài hay không cũng đều từ nơi Bồ-tát mà ra cả. Như
vậy, thì chúng ta muốn nhớ đến ơn sâu rộng của Bồ-tát, muốn tự độ lấy mình
một cách triệt để, muốn giáo hóa mọi người để báo đáp Phật ân thì không
thể không biết đến công hạnh lớn lao của chư vị Bồ-tát mà ta thường nhắc
đến tên hoài.
Nhưng nói đến công hạnh của Bồ-tát thì ba
tạng giáo pháp cũng duy ghi chép bấy nhiêu việc đó ; Vậy trước khi nói đến
một vài yếu hạnh của Bồ-tát sau này, có thể nói một câu bao quát mà sâu xa
rằng: "Tất cả công việc lợi ích lớn lao cho mọi người, mọi loài, dù về
quá khứ, hoặc hiện tại và tương lai, dù ở nơi các bậc Thánh nhơn, thiên,
nhơn, đàn ông, đàn bà, cho đến ở nơi các loại côn trùng cũng thế, công
việc ấy chính là công hạnh của Bồ-tát “làm” vậy . Như vậy thì đem hết tài
trí thông minh, thần thông diệu lực mà suy tính cũng không sao hết được,
nên nay muốn nói đến hạnh của Bồ-tát thì chỉ là nói qua các hạnh có rõ rệt
hơn trong các hạnh khác và bao trùm hơn trong các hạnh khác mà thôi.
Bồ-tát khi ra làm một việc, hay tu một
hạnh gì cũng đều vì hai ý nghĩa:
1.Là hoằng pháp để báo chúng sanh ân.
2.Là giáo hóa chúng sanh để báo đáp Phật
ân.
Không bị mê man theo ngã chấp, ích kỷ,
các Bồ-tát đủ trí sáng suốt, tâm lượng rộng rãi ra ngoài một thân giả,
quốc độ giả, giống loài giả, ngộ nhận vạn vật dữ ngã đồng nguyên, chúng
sanh dữ ngã đồng tánh, không nỡ nào bỏ qua mà không rat ay tế độ, huống
chi nhiều đời nhiều kiếp nương nhau mà sống, nhờ nhau mà còn, cho đến
Bồ-tát làm được một công đức bằng mảy lông sợi tóc cũng đều nhờ ở chúng
sanh, cũng như ông Đề-bà-đạt-đa là thiện tri thức của đức Phật Thích-ca
hay cho đến tất cả chúng sanh là thiện tri thức của các vị thành Phật sau
này vậy. Cho nên Bồ-tát bao giờ cũng nhớ đến ơn chúng sanh, vui đồng
hưởng, họa đồng ưu, mà ra công truyền trì Phật pháp để báo ơn chúng sanh
bằng cách hóa đạo chúng sanh đồng nhập Phật pháp. Vả chăng đem Phật pháp
mà hóa độ chúng sanh là công việc chánh của Bồ-tát làm, vì chư Phật thường
đinh ninh dạy bảo và phú chúc các vị Bồ-tát rằng: "Có các chúng sanh đầu
thai sanh hay hóa sanh, dầu thấp sanh cho đến noãn sanh, tôi đều hóa độ
cho đồng nhập Vô dư niết bàn” Các Bồ-tát có thực hành theo lời phó chúc
đó, đem hết thân tâm mà dắt dẫn chúng sanh đồng được giải thoát, mới gọi
là báo Phật ơn trong muôn một.
Trên thì mang ơn chư Phật, dưới thì chịu
ơn chúng sanh, nên Bồ-tát không khi nào sanh tâm giải đãi, để thực hành
theo những pháp hạnh lợi tha sau này:
Bố
thí : Bố thí là công hạnh đầu tiên của Bồ-tát làm; mở rộng tấm lòng
ra , xả tất cả tâm bỏn xẻn mà bố thí cứu giúp cho tất cả chúng sanh bị
thiếu thốn hơn mình về mọi phương diện, hoặc tài của, đao pháp hoặc là vô
úy: quên tất cả sự nguy hiểm, điều thiếu thôn nơi thân phận bà con mình để
ngó đến kẻ khác mà thí giúp cho họ, người thiếu áo thì đem áo thí cho, kẻ
thiếu cơm thì đem cơm giúp đỡ, đến những đồ cần dùng trong nhật dụng nếu
có kẻ xin, Bồ-tát liền vui lòng xả thí; lâm thời của hết cơm không, thì hy
sinh thân mạng để cứu vớt chúng sanh thoát khỏi cơn đói nghèo vất vả…Đó là
chưa nói đến quên cả cực nhọc thuyết pháp giáo hóa chúng sanh, bởi chúng
sanh khổ không những chỉ vì thiếu áo che thân, thiếu cơm nuôi mạng, mà chỉ
khổ vì hoặc chướng sai lầm, ở trong biển nghiệp mờ mờ, không biết đến con
đường sáng để thoát thân, nên đã vùi lấp tâm linh thanh tịnh, luống chịu
khổ sanh tử rất là oan uổng đáng thương! Bởi vậy các vị Bồ-tát không nài
gì chỗ trọc, không ham đến cảnh vô vi, thường thường theo đợi chúng sanh
mà nói pháp giáo hóa, tùy theo trình độ mà thí pháp không bỏ một ai, gặp
kẻ nhiều tánh tham thì thuận với tánh tham, nói pháp hóa độ; gặp người
nhiều giận, nhiều ngu si, thì thuận với tánh giận, tánh ngu si, thuyết
pháp hóa độ, ham nghe nhiều thì nói nhiều, ưa nghe ít thì nói ít, không
biết nhàm mỏi. Khi thấy người hiểu được chánh pháp, làm được một đôi hạnh
lành gì, thì đem lòng mừng rỡ, dùng lời tùy hỷ khuyên lơn, còn khi thấy ai
lâm phải cảnh hoạn nạn, lo sợ thì thương xót, nói năng khuyên giải, đem
hết tài năng dõng mãnh cứu vớt, không luận thân sơ, hèn, quý; Cho nên
chúng sanh tuy còn là chúng sanh, khổ vẫn chưa hết khổ, song cũng vẫn được
nhờ ân vô úy thí của Bồ-tát, ỷ y nơi Bồ-tát mà bớt lòng lo sợ được an lạc
đôi phần trong đường sanh tử, và hầu mong một ngày kia đồng lên bờ giác.
Trì giới : Giới vẫn có ba là Nhiếp luật nghi giới,
để ngăn trừ điều ác; Nhiếp thiện pháp giới, để tu hành việc thiện; Nhiêu
ích hữu tình giới, để lợi ích chúng hữu tình. Song lòng đại bi của Bồ-tát
thường thường nhớ đến chúng sanh hơn nhớ đến phận mình, hể thấy còn một
chúng sanh bị khổ là thề chưa vội chứng Bồ-đề, nên tuy nói ba giới mà cốt
thâu về nơi một giới là Nhiêu ích hữu tình. Bồ-tát phát tâm học hành tu
tập đều vì lợi ích chúng sanh, hằng giữ tâm nguyện ấy cho đến ngày chứng
quả, không khi nào sai, hễ sai chạy tâm niệm lợi tha là phạm lỗi, không
hoàn toàn một vị Bồ-tát chơn chánh, nên cũng gọi là giới; Chăm chăm giữ
gìn Nhiêu ích hữu tình giới, thì dầu giữ Nhiếp luật nghi giới, cũng cốt
thành tựu tư cách khả quan có dung nghi đúng đắn để phát khởi lòng ham mộ
cho chúng sanh trong khi thọ hóa còn giữ Nhiếp thiện giáp giới là cốt gây
cho mình đầy đủ phước đức, để phòng những lúc làm Phật sự lợi ích chúng
sanh, còn vô tâm sanh lời nói ác, gây ra nghiệp ác; không lo ngại, không
thối thất, thì Nhiêu ích hữu tình giới kia dầu tột ngằn mé vị lai cũng chỉ
được tăng tấn chớ không bị khuy khuyết.
Vậy, nên Bồ-tát giữ giới không bao giờ
cùng, không những một đời một thân, dầu cho trãi qua vô lượng đời, thọ vô
lượng thân cũng vẫn giữ giới, khi nào Nhiêu ích hữu tình giới hoàn toàn
Bồ-tát mới không còn giữ giới. Và lại giữ rất cần mật, rất e dè, lúc đi
lúc đứng, khi nằm khi ngồi, trước quần chúng hay ở một mình đều giữ gìn
thanh tịnh cho đến một ý nghĩ cũng thanh tịnh như công việc làm, trong
ngoài một mực, trước sau không hai, trong như tuyết và sạch như băng vậy.
Nhẫn
nhục
: Nhẫn là an nhẫn, nhục là nhục nhã. Trước nói Giới nói Thí, đây nói Nhẫn.
Kiếp cưa Nhẫn nhục Tiên nhơn ở tu trên núi, nhơn một ngày quốc vương dẫn
các cung nga thị tỳ vào núi dạo chơi, nhơn lòng nghi kỵ Tiên nhơn trong
lúc thuyết pháp dạy các thị tỳ của vị quốc vương, mà Tiên nhơn bị cắt tay
cắt mũi, tuy vậy mà tâm tu an nhẫn của Tiên nhơn không có chút gì là hờn
giận, lại còn phát nguyện độ vị quốc vương ấy trước khi thành đạo quả. Đó
là hạnh nhẫn nhục của Bồ-tát.
Lại, ngày xưa có vị đệ tử Phật, xin Phật
để đi giáo hóa vào một xứ nọ, Phật sợ ông không đủ sức nhẫn nại bao nhiêu
việc đắng cay độc ác của dân xứ ấy, mới bảo rằng: Dân nhơn xứ ấy rất dữ,
bản tính cang cường khó bề giáo hóa:
*Như một ngày kia người đến đó dạy bảo,
họ không nghe lời, còn trở lại chưởi mắng ngươi, thì ngươi nghĩ sao ?
Ấy là họ thương tôi, chỉ mắng tôi bằng
lời chớ không đánh tôi bằng dao gậy.
*Như họ đánh ngươi bằng roi thì nghĩ sao
?
Ấy là họ thương tôi, nên chỉ đánh tôi
bằng roi, chớ không hại tôi bằng đá sỏi.
*Như họ không hại ngươi bằng đá, mà họ
đâm ngươi bằng gươm dao thì nghĩ sao?
Ấy là họ thương tôi, chỉ đâm tôi bằng dao
chớ không giết tôi chết hẳn.
* Như họ giết ngươi chết hẳn thì nghĩ
sao?
Ấy là họ thương tôi, làm cho tôi thoát
báo thân khổ não mà hưởng sự an vui sau này”… Đó là hạnh nhẫn nhục của
Bồ-tát.
Bồ-tát khi đã nhận thấy nguyên nhân của
sự nhục, người làm nhục, kẻ thọ nhục, như hoa đốm giữa hư không, như bóng
trăng lòng đáy nưóc, nhất tâm sáng suốt, cứng chắc, đối với các cảnh
thuận nghịch ở ngoài đưa đến, xem như trò hý thuật của bọn huyễn sư, dầu
nghịch cảnh không sanh tâm sân giận báo thù, gặp thuận cảnh cũng không
cho là sung sưóng, sẳn lòng tha thứ những điều nhục nhã của chúng sanh,
lại kham an trong tất cả hoàn cảnh, hoặc nóng hoặc lạnh, hay là đói hay là
khát v.v…cùng tất điều chướng ngại, các kiết hoặc trong đường tu hành, đều
vững tâm an chịu, bình tĩnh mà tu theo chánh pháp đối trị; song cũng không
lấy đó làm điều để khoe khoang trước công chúng; dầu chở toàn cõi đại địa
mà không bị nao núng, để một mảy lông cũng chẳng nhe chút nào…Nhẫn nhục
như vậy ngoài các bậc Bồ-tát, thì không ai làm nổi, nên Phật thường than
là "Nan nhẫn năng nhẫn”
Tinh tấn : Cứ tinh thuần mà tấn vậy.
Trách nhiệm của vị Bồ-tát rất lớn lao:
"Hộ trì Phật pháp, giáo hóa chúng sanh”. Không thể một ngày một kiếp mà
phải trải qua ba vô số kiếp mới mong hoàn toàn mỹ mãn. Bởi vậy khi phát
tâm Bồ-đầ lại phải sắm sẵn tinh thần tinh tấn, bước qua tất cả sự chướng
ngại, mà giải đãi, đeo đuổi tham học các pháp môn nội minh, nhơn minh,
thanh minh, công sảo minh và y phương minh, có một lời rât cạn cợt, hay
một pháp gì tuy là thấp thỏi song là một pháp có thể lợi ích cho mình và
người trong muôn vạn phần thì tinh tấn cầu học, học cho biết để đem dạy
bảo quần sanh, nên không chán mỏi, biết được một điều là siêng năng học
một điều, tu được một hạnh rồi thì siêng năng tu thêm hạnh khác; cúng
Phật, nghe Pháp nói Kinh v.v…đều quên sự lao khổ, tinh tấn thực hành, cho
nên ba vô số kiếp đối với chúng ta, đối với hàng Thanh-văn là dài mà đối
với Bồ-tát chỉ coi bằng nháy mắt, huống gì trong 7 ngày dở chơn ngưỡng tán
đức Phật Để-sa thì đối với tâm linh tấn vô biên của Bồ-tát còn là ý nghĩa
gì. Như vậy thì chắc chắn đến quả vị Bồ-đề, nên cũng có thể cắt nghĩa hai
chữ tinh tấn của Bồ-tát là thẳng đến chổ tinh thuận tuyệt đối.
Thiền định
: Tư duy quan sát là thiền duyên. Chú tâm vào một cảnh là Định. Đây cũng
là một hạnh rất hệ trọng của Bồ-tát vậy; trong lúc tu hành hóa tha muốn
cho đạt mục đích thì cần có thiền định.
Một: Là vì các tập khí lâu đời không dễ
đốn trừ được, tuy Bồ-tát có phát tâm mạnh mẽ giới tu nhẫn. Song thiếu định
tâm thì những chủng tử phiền não kia nối nhau sanh khởi.
Hai : Là khi giáo hóa quần sanh nếu không
định thì không thể quán biết căn cơ mà nói pháp cho xứng đáng; lại có
chúng sanh không thể dùng mà hóa được lại vần phải thần thông diệu dụng để
hàng phục trong lúc sơ cơ, thần thông là tác dụng của thiền định. Xem thế
thì muốn có định lực, có thần thông lực để lợi tha không quên thiền định
được vậy.
Song thiền định của Bồ-tát không phải hẹp
hòi và ngắn ngủi như các thiền định khác, mà là Đại thừa quang minh định
(hay phát trí quang minh mà chiếu liễu giáo lý hạnh quả của Đại thừa). Tập
phước vương định ( hay giữ gìn tất cả pháp hiền thiện thế và xuất thế).
Kiến hành định ( Kiến lập pháp hành dạy bảo chúng sanh ), và Thủ Lăng
Nghiêm định ( tất cả thế giới chúng sanh đều y vào đây mà an lập tồn tại,
tất cả định đều từ đó mà xuất sanh). Bởi trí huệ của Bồ-tát sáng suốt, soi
thấu các pháp đều đồng một tâm, tâm đồng một tánh, đối với sự vật bặt hết
các tướng, cũng tức hết các tướng, thường vắng lặng mà thường sáng soi,
thường chơn không mà tùy duyên huyễn có, nên tâm thường tự tại, trí thường
tự tại không bị một món gì hệ phược làm cho lay động, cũng có thể tự hiện
thần thông để làm Phật sự, lợi ích chúng sanh …lúc nào cũng như lúc nào và
chổ nào cũng như chỗ nấy, không đổi không thay, không xuất không nhập, nên
Kinh có câu; “Na-già thường tại định, vôhữu bất định thời” cũng là chỉ cho
đại định của Bồ-tát vậy.
Trí tuệ :
Dẫu cũng chỉ ba món là văn huệ, tư huệ và tu huệ. Song trí huệ của Bồ-tát
thường nghe các pháp Đại thừa thật tướng, suy nghĩ pháp Đại thừa thật
tướng và quan sát chứng ngộ các pháp Đại thừa thật tướng như trong kinh
Kim Cang nói "Ngã đại linh nhập Vô dư niết-bàn, như vô chúng sanh đắc
diệt độ giả” đó là do sức đại trí quán thấy các pháp một cách thấu đáo,
thì chỉ toàn là không vô tự tánh mà thôi, chớ không có tướng gì đáng gọi
là chúng sanh, không tướng gì là diệt độ, dầu đại địa hay một mảy lông của
chúng sanh cũng đồng "Không tướng” ấy mà thôi, bình đẳng không hai. Đã
không tướng bình đẳng thì còn gì đáng chấp, nên Bồ-tát tu hành đầy đủ muôn
hạnh muôn đức mà không chấp trước với một hạnh nào hay một đức nào cả.
Không bị sở tri chướng ngại, nên công hạnh càng lớn, công hạnh lớn nên
phước đức vô biên vô lượng.
Nói tóm lại, tất cả pháp môn không thể kể
xiết, nhưng chỉ tóm trong ba món giới định và huệ, mà sáu món này thì
giới, nhẫn thuộc về giới, định là định, huệ là huệ, còn tinh tấn thì trùm
cả ba, cho nên tất cả các vị Bồ-tát đều lấy đó làm phương châm, gắng bó tu
trì, tu một món là tròn nên cả 6 món, tu chỉ 6 món mà đầy đủ tất cả các
hạnh khác và công đức khác. Tuy vậy, mà 6 món này tuy lợi tha mà còn gồm
tự lợi, nếu pháp hoàn toàn tự lợi tha ứng dụng thì có 4 món Nhiếp pháp là:
1.Bố
thí : Muốn dạy chúng sanh biết chánh pháp giải khổ về đường vô minh
thì trước phải bố thí cướp giúp chúng sanh đỡ khổ về xác thịt, về đường
sanh nhai sau mới hiệu quả, nên món bố thí hơn thiên về tài thí hẹp hơn
món Bố thí trước.
2.
Ái ngữ : Nói
lời hoà diệu ngọt ngào…
3.Lợi
hành : Làm các việc lợi ích
4.
Đồng
sự : Đồng với chúng sanh một hạnh nghiệp, một công việc làm để dễ
giáo hóa.
Và 4 món Vô lượng tâm:
1.Từ
: Thương xót, ban cho chúng sanh đều vui.
2.Bi
: Cứu vớt chúng sanh thoát khổ.
3.Hỷ
: Vui mừng mình khi làm lợi ích chúng sanh và mừng chúng sanh khi theo con
đường thiện.
4.Xả
: Tâm thường theo lẽ bình thường, không thái quá, không bất cập, không
quá từ bi mà không hỷ, không quá hỷ mà không từ bi; và lại dầu đã thực
hành Từ, Bi, Hỷ, song không trụ trước nơi một công đức nào hay chúng sanh
nào cả.
Công hạnh Bồ-tát ước lược là như thế, nếu
rộng ra và tỉ mỉ không khi nào nói cho cùng. Tuy vậy, mà chúng ta nhận
thấy chí nguyện lớn lao, tâm trí cương quyết của Bồ-tát khi ra thực hành 6
độ, hoặc 4 Nhiếp hay 4 món Vô lượng tâm v.v…trải trần sa kiếp cũng không
sờn bỏ, lắm lúc hiện làm vua để thực hành hạnh lợi tha, hiện làm tướng để
thực hành môn háo độ, làm thỏ bạch để cúng dường thân cho vị đạo sĩ, làm
con nai vàng cứu kẻ chết trôi, làm gái chèo đò, làm ông mang bị vải trăm
ngàn vạn thân hiện ra đều vì các chúng sanh chưa tự độ mà phương tiện dắt
dìu; vậy thì Bồ-tát đối với chúng sanh có công ơn biết là dường nào, không
thể không ghi nhớ, mà muốn ghi nhớ một cách có lý thú và chánh đáng thì
không thể quên các pháp hạnh của Bồ-tát làm mà không tập tánh theo được.
1944
NGHIỆP ĐẠO
Nghiệp là sự hành động tạo tác, có năng
lực để chiêu kết những quả báo tương lai. Đạo là con đường đi, là hay
thông đến. Chung lại mà nói thì có hai nghĩa:
1.Nghiệp tức
đạo :
Các hạnh nghiệp ở thân, khẩu và ý của chúng sanh, đều là những thế lực đưa
chúng sanh thường thọ sanh trong ba cõi sáu đường.
2.Nghiệp chi đạo
: Trong Câu Xá nói: "Nghiệp chi đạo cố, thủ nghiệp đạo sanh” và trong
Ưu-bà tắc giới kinh cũng nói ý đó. Nghiệp lấy từ tâm sở làm thể, 10 nghiệp
( Thân tam v.v…) của chúng sanh là con đường dẫn nghiệp đi nên gọi là
nghiệp đạo.
Trong Kinh thường nói hoặc nghiệp và khổ,
thường tương tục liền nhau như chum trái ác-xoa. Tuy vậy song nghiệp là
món quan trọng hơn cả, nó là môi giới cho hoặc và khổ; hoặc tuy mê nhơn
song không đủ thế lực cảm triệu ra quả, gây nên đời sống của chúng sanh;
còn khổ là sự rất khuyết điểm đáng chán của một đời người, song tự nó
không thể gây thành mà phải nhờ nghiệp. Vậy nên trong con đường tối tăm
khổ sở mà muốn tìm đến một cõi có vui sướng hơn, bớt khổ não hơn, thì
không gì nhận xét cho kỷ càng về các hành vi tạo tác của mình mà tìm
phương cải bỏ. Khi ấy dầu cho sự mê hoặc tuy chưa trừ nhưng cũng nhẹ bớt,
khổ quả tuy không can phạm đến mà vẫn tự tiêu ma, và ven lần đến nơi hoàn
toàn giải thoát.
Nghiệp đạo muốn nói cho rành rẽ thì nên
chia ra làm 4 đoạn sau này:
1.Nghiệp mà không phải đạo; theo nghĩa
"Nghiệp chi đạo” và nghiệp tức đạo trên, thì trong Ưu Bà Tắc giới Kinh nói
: Ba món nghiệp về ý nó không có thế lực dẫn chúng sanh thọ thai ttrong
các thú, và nó chỉ phát ra ở thân, khẩu 7 nghiệp, nó khắp trong 7 nghiệp
nên chỉ là nghiệp mà không phải đạo.
2. Đạo mà không phải nghiệp; ba cõi sáu
đường chỉ là chỗ của hữu tình nương tựa, của hữu tình đi qua. Lại không
động lực cũng không thể dẫn chúng sanh thọ sanh vào trong ấy.
3.Cả nghiệp và đạo đức; tức là 7 nghiệp
nơi thân khẩu, chúng sanh sỡ dĩ có khi hợp khi tan, đời này chung một cõi,
ngày sau lại khác loài, kiếp này chia ly kiếp sau sum hợp, đều tự thế lực
của 7 nghiệp ấy làm cơ quan làm chủ động; và nó cũng là con đường đi của
tư nghiệp, nên tưởng ngoài nó ra thì không còn sanh tử nghiệp đạo nữa vậy.
Nhưng trong Trí Độ luận nói: "Ba món nghiệp về ý thông cả đạo và nghiệp”
phải chăng ý nghiệp có thế mạnh thông qua 7 nghiệp trước chăng?
4.Không phải nghiệp cũng không phải đạo,
tức ngoài những món nói trên ra, thì tất cả pháp khác đều không phải
nghiệp và đạo vậy.
Tóm lại, nghiệp đạo thì không ngoài thân
3 món, khẩu 4 món, và ý 3 món; Nếu thân, khẩu, ý ấy thuận theo lẽ phải, y
theo chánh đạo mà thi hành thì thành 10 món nghiệp đạo lành. Trái lại,
thiếu lương tâm mà tàn nhẫn, làm những điều khốc hại cho kẻ khác và di học
cho mình vể hiện tại và ngày sau thì thành 10 món nghiệp đạo ác. Lành thì
hưởng thú hơn thiên, ác thì sa đạo tam đồ khổ sở. Đã có nghiệp thì tất có
quả báo, dầu nhỏ dầu lớn đều đi lại một vài vang bóng cho ngày sau. Khác
nào hình đối với bóng, tiếng đối với vàng, muốn tiếng thẳng bóng ngay tất
phải sửa tiếng nghiêm hình; muốn được an vui cũng phải từ nghiệp nhơn mà
cải chữa. Cải chữa được nghiệp nhơn là công năng của Giới luật. Nhăn ngừa
10 nghiệp ác là ly ác giới, tấn hành 10 nghiệp lành là thiện tịnh giới,
tận lực vì chúng sanh là nhiêu ích hữu tình giới. Cho hay giới là món đứng
đầu trong tất cả hạnh cũng vì để đối trị nghiệp đạo là món rất hệ trọng
trong công việc gây nên kiếp khổ luân hồi vậy.
(Ngày
28 tháng 10 năm 1944)
PHÂN
BIỆT LỢI HẠI
TRONG SỰ TUYÊN TRUYỀN PHẬT PHÁP
Không bệnh nào là bệnh không thuốc chữa,
nếu có bệnh mà không có thuốc chữa thì bệnh ấy một ngày một bị trầm trệ,
không chúng sanh nào là chúng sanh không có Phật pháp, nếu chúng sanh mà
không có Phật pháp để khai thị thì chúng sanh mãi phải ở trong vòng trầm
luân khốn khổ không phương gì thoát được. Bởi vậy cho nên chúng sanh với
Phật pháp, Phật pháp với chúng sanh quan hệ nhau rất mật thiết, dẫu bất
tương tức song mà bất tương ly. Từ Phật các vị Bồ-tát và cho đến những
hàng xuất gia chơn chánh thường thường vì đã nhận rõ chỗ đó, nên không ai
là không tuyên truyền Phật pháp, tuyên truyền Phật pháp tức là hóa độ
chúng sanh, mà cũng tức là làm tròn chính vụ của người Phật tử vậy.
Thế nhưng thời kỳ Thế Tôn còn tại thế,
thời kỳ chánh pháp tượng pháp sẳn người chánh truyền và sẳn người chánh
thọ, nên công việc tuyên dương pháp sự lợi nhiều hơn hại; trái lại ngày
nay sự mê mờ sự đấu tranh đã bám sâu vào tâm trí con người, tranh nhau ở
thần quyền hơn tranh nhau về chơn lý, luyện mưu kế hơn luyện trí tuệ đạo
đức v.v…đó là những nguyên nhân nếu Phật pháp tuyên truyền ra thì hay gặp
hại nhiều hơn gặp lợi, nên người có tâm hoằng pháp không ai không tính
từng ly, lường từng ý để thấy rõ điều hại mà tránh, điều lợi mà theo.
Lợi tức là công việc tuyên truyền được
nhiều điều thuận ứng với mục đích, nghĩa là Phật ra đời cốt dạy cho chúng
sanh đều được giác ngộ, vậy nên tuyên truyền Phật pháp cũng cốt gieo vào
tâm niệm chúng sanh một lòng chánh tín kiên cố mà thôi, ngoài ra không vì
một lẽ gì riêng khác, như vậy là lợi, nếu trái với mục đích, ngăn ngại mục
đích đó là hại.
1.Thể theo lòng từ bi của Phật, đúng với
chánh pháp mà tuyên truyền, đem giống Bồ-đề gieo khắp chúng sanh, tùy căn
cơ lãnh thọ của mọi người mà dắt dìu cho họ bằng pháp sự chớ không đem
cường quyền ép chế bảo theo, thì dầu thế nào Phật pháp cũng giữ được phần
thuần túy, không ỷ lại tha lực, không bị tiêu mòn được trong khi tâm quần
chúng đã tận tình cảm phục tín ngưỡng không nghi ngờ không oán hận được
như thế là lợi, trái lại là hại.
2.Cơ quan tuyên truyền phải có hệ thống
mọi người ai cũng thế, trước có thấy thô rồi sau mới nhận tế, trước thấy
sự say mới thấy lý, trước có cảm sau mới thuận theo. Phật phàp có một giáo
lý rất thậm thâm vi diệu nếu đem nói thẳng ra thì ít ai thừa nhận nổi và
lại cũng không dễ đem Phật pháp ra mỗi người nói mỗi thế được , nên cần
phải có cơ quan làm nơi đào luyện tăng tài, làm nơi tuyên truyền Phật
pháp, đó chính là nơi vững chắc các ngoại đạo bất đắc lạm xưng để làm chỗ
tin cậy của quần chúng,vậy nên chỗ các cơ quan ấy cần phải có hệ thống
mới, có lợi, nếu không có cơ quan tuyên truyền, không hệ thống là hại.
3.Những người đảm nhận tuyên truyền phải
là người nhứt tâm nhứt đức đối với Đạo và phải có sự học hỏi, công tu hành
đáng làm mô phạm cho quần chúng, khi ra làm chức vụ gì dạy, giảng phải có
oai nghi đặc biệt hơn những hạng người khác để tránh khỏi làm kẻ lạm dụng
đôi câu Kinh kệ trong Tam tạng đem truyền rao hoặc chúng vu dân và gây tai
hại cho Phật pháp…như thế mới thấy diệu pháp của Phật là cao quý thuần
tịnh, nếu không thì dễ bị hạng người lợi dụng đem Phật pháp bán rao, di
hại không biết sao kể xiết.
4.Hạng người có tâm với mục đích với
hoằng truyền Phật pháp thì phải quên cái lợi nhỏ nhen của mình mà kính vì
tất cả pháp hữu khác, không tôn mình lên mà chê bai kẻ khác, vì làm như
thế là biêu cái lỗi người lỗi mình cho công chúng chỉ trích làm cho giá
trị của người tuyên truyền bị hạ xuống, còn cao quí gì nữa mà bảo nói cho
người ta nghe; nếu ai cũng nhận thấy chỗ khuyết điểm đó mà thật tâm sửa
chửa cho nhau đều trở nên hoàn toàn Pháp tử là có lợi còn không là có hại.
5.Quán thời cơ mà phương tiện tuyên
truyền giáo pháp, lễ nghi v.v…điều này cũng là điều rất quan hệ, vì Phật
pháp là bất định pháp, chỉ tùy theo căn bệnh của chúng sanh mà chế ra,bởi
thế cho nên từ xưa lại đây Phật pháp vẫn giữ một mục đích dắt người lên bờ
giác, song về đường giáo hóa đã tùy phong tục, quốc độ tính tình dân chúng
mà phương tiện biến đổi nhiều,có thể Phật pháp mới có chiều phổ cập
được.Cái phương châm khôn khéo đó chính đời Phật Ngài đã dùng cho đến sau
các Bồ-tát cũng đã dùng, vậy sự tuyên truyền Phật phápngày nay cũng không
thể không học theo phương châm ấy.Nếu lại một mặt nê chấp văn tự cổ truyền
mà trông mong cái kết quả ai cũng hiểu Phật pháp và tu theo Phật pháp
không bao giờ được. Cho đến những lễ nghi đạo nghệ của Tăng đồ cũng có thể
tùy trình độ mọi người mà dẫn phát tín tâm cho họ thì lợi ích vô cùng,
trái lại thỉ hại không kể xiết.
Nói tóm lại, đức Phật đã có lời huyền ký
thời đại này là thời đại đấu tranh kiên cố, đấu tranh bằng gươm dao, bằng
ngôn luận, bằng tâm niệm; Chẳng những người Bạch y đấu tranh với Bạch y mà
người trong đạo cũng khó dung hòa nhau được huống gì công việc tuyên
truyền Phật pháp là việc lớn lao vô hạn, chẳng phải kẻ tưởng tướng hay đảm
đương mà lại đem truyền vào thời đại khó khăn, hoc thuyết phức tạp, thực
là ôm đá qua sông trừ những kẻ lội tài bơi giỏi ra thì mấy ai làm mà mong
có hiệu quả! Nhưng dồn đá thành núi, góp cây thành rừng, ai đã nhận thấy
sự quan hệ của Phật pháp đối với chúng sanh phi tức mà phi ly, thì đều
phải lo dự vào một phần hoằng pháp, vậy nên trên đây kể mấy điều lợi hại
trong sự tuyên truyền Phật pháp là chỉ góp vài phần nhận xét của một tâm
trí thô sơ, chớ không phải bấy nhiêu là đủ được, cần yếu nhất trước khi
làm phải tính toán lo liệu điều hơn lẽ thiệt đừng có nhắm mắt đưa chân thì
cũng mong ngày đạt đến chỗ mỹ mãn.
1945
CHỐN TỔ KHANG TRANG
Chúng tôi rất vui mừng khi được quý vị
đáp lời mời của chúng tôi hoan hỷ đến tham dự lễ Khánh thành tổ đình Thiền
Tôn hôm nay.
Như vậy, chứng tỏ Tổ đình Thiền Tôn đã có
một vị trì đặc biệt đóng góp vào sự hoằng dương chánh pháp, đóng góp vào
sự lợi lạc an dân ngay trong thời kỳ khi người dân chúng ta mới bước vào
lập nghiệp ở cõi đất mới.
Đồng thời ngày hôm nay tổ đình Thiền Tôn
cũng có thể đóng góp một phần kiến thức văn hóa cho Thừa Thiên Huế.
Trong công việc trùng tu này chúng tôi
cảm thấy có một sự kỳ diệu rung cảm; lúc đầu tôi tưởng rằng chúng tôi phải
bước trăm bước khó khăn vất vả mới đạt đến đích, nhưng không ngờ chỉ mới
bước đến ba bước mà đã đạt đến mục đích, đó là nhờ sự nhiệt tình, tán trợ
của Giáo Hội Phật giáo Thừa Thiên Huế, nhờ chính quyền tạo thuận duyên.
Nhờ các hàng Tăng ni Phật tử trong nước cũng như ngoài nước đã tận tình
giúp đỡ chúng tôi, mỗi người một viên gạch, mỗi người mười viên gạch trăm
viên gạch, có những viên gạch to, có những viên gạch nhỏ, có những viên
gạch vừa và có những viên gạch thật to. Mỗi viên gạch đều là những viên
gạch cứng, đẹp đẽ, manh nặng tình đạo, thắm thiết, mong mỏi góp sức xây
dựng tổ đình được trang nghiêm tốt đệp, để xứng đáng với nơi sáng lập của
một vị tổ sư đã từng giáo hóa, đã từng làm lợi lạc cho bao nhiêu thế hệ!
Nhờ đó mà Tổ đình Thiền Tôn được thành
tựu như ngày hôm nay, công đức lớn lao của quí vị, chúng tôi hết sức ghi
nhận.
Giờ đây, dưới ánh hào quang Tam bảo, dưới
sự chứng minh của Phật Tổ, tôi xin chân thành tán dương tất cả quý vị đã
có tham gia đóng góp, tinh thần, vật chất vào trong sự trùng tu này.
Trong khi Khánh thành chùa Thiền Tôn
chúng tôi cũng có cảm tưởng rằng giờ phút này hành Phật tử chúng ta đóng
góp xây dựng chùa đồng thời chúng ta cũng Khánh thành một tâm nguyện của
chúng ta, bởi vì có những công việc chúng ta mong mỏi, muốn làm, muốn
thành tựu, mà không bao giờ thành tựu được, không bao giờ Khánh thành
được, Đây là ước mong chúng ta trùng tu lại ngôi tổ đình cho được khang
trang, ước mong đó đã được thành đạt. Cho nên khánh thành ngôi chùa đồng
thời khánh thành tâm nguyện của chúng ta đó là ta làm tròn bổn phận một
việc làm rất công đức và ích lợi.
Tôi xin chân thành tán dương tất cả công
đức và nguyện rằng phước báo này sẽ đi theo cùng quý vị trên cuộc đời hạnh
phúc an vui.
Trước khi dứt lời chúng tôi xin chân
thành cám ơn tất cả Quý vị đã hoan hỷ tham dự buổi lễ hôm nay, kính chúc
tất cả quý vị thân tâm thường an lạc.
Nam Mô Bổn sư
Thích-ca-Mâu-ni Phật.
2000.
NHẬM CHỨC VIỆN TRƯỞNG
Trước hết chúng tôi xin chân thành cám ơn
Hòa thượng Viện trưởng V.H. Đ và Thượng tọa Tổng vụ trưởng Tổng vụ Giáo
dục, đã giành cho chúng tôi một chức vụ khá quan trọng: Chức vụ Viện
trưởng Viện Cao đẳng Phật học, một chức vụ mà không bao giờ chúng tôi nghĩ
đến.
Trong nhiều năm qua, song song với các
Phật sự khác, chúng tôi vẫn để tâm lo lắng, dạy dỗ các hành hậu tiến, coi
như là sở nguyện của chính mình. Tuy nhiên không bao giờ chúng tôi muốn
mang thêm một danh nghĩa gì khác, ngoài danh nghĩa thầy dạy; mà thầy dạy
cũng chưa tròn, có đâu làm chuyện lớn.
Chúng tôi rất sợ cái danh và cái thực một
khi đã không tương xứng, thì chỉ có hại chứ không có lợi; chẳng bằng cứ
thầm lặng, khiêm tốn, thành thật mà làm, rồi kết quả vẫn đến. Nhưng hôm
nay quý vị lại giao cho chúng tôi chức vụ Viện trưởng, một chức vụ mà khả
năng và sức khỏe của chúng tôi không cho phép chúng tôi nhận lãnh; nếu
không vì đã thấy rõ hoàn cảnh của anh em học Tăng vừa tốt nghiệp Trung
đẳng Phật học tại Hải Đức, đang cần có cơ hội để tiếp tục học thêm, mà
chức vụ Viện trưởng này là một trong những yếu tố đó. Trước sự kiện nhận
lãnh chức vụ này, chúng tôi coi như một sự tùy hỷ đứng làm nhịp cầu tạm
trong một giai đoạn để cho an hem học Tăng khỏi mất và tiến bưóc mà thôi.
Với trách nhiệm nặng nề của chức vụ Viện
trưởng, chúng tôi cũng thấy rõ bao nhiêu khó khăn trở ngại đang trải đầy
trước mắt, trước khi có thể đạt đến thành công. Như quý vị đã biết, việc
giáo dục là một việc thiêng liêng, nên cũng rất khó.Chẳng những đói hỏi
phải có tài năng và ý chí bên trong, có đòi hỏi đầy đủ thiện duyên bên
ngoài mới mong thực hiện nổi. Đặc biệt là vấn đề đào tạo Tăng tài, chúng
tôi muốn nói, đây là vấn đề quá khó chứ không phải là quá mới.
Ngay dưới thời Pháp thuộc, Phật giáo lâm
vào cảnh rời rạc suy vi, vì bị áp lực của ngoại nhân cùng sự thiếu vắng
nhiều vị cao Tăng thạc đức và cư sĩ tín đạo uyên thâm, nhưng vẫn có rải
rác đó đây những khóa học Phật đặt dưới sự hướng dẫn lẻ loi của íy vị cao
Tăng ưu hoài tiền đồ đạo pháp. Và trước đó, khoảng cuối thể kỷ 17, và thế
kỷ 18 cho nên đến thế kỷ 19, một số tác phẩm của các vị cao Tăng trước tác
bằng chữ Hán hay bằng chữ Nôm mà Giáo sư Lê Mạnh Thát vừa sưu tầm được tại
các chùa cổ ở Huế và các nơi khác, là một khích lệ lớn lao, chứng minh
rằng dù dưới thời đại nào, sức sống đạo vẫn mien trường bất tận qua các
bậc Chân tu. Nhờ vậy mà giáo lý được truyền dạy liên tục, khi phôi thai,
khi tổ chức thành lớp thành trường với sự dạy dỗ mỗi ngày một quy mô hơn,
dẫu sự thành công vẫn không bao giờ được như ý nguyện.
Ngày nay chúng ta được cái may mắn có đủ
tiện nghi học tập và dạy dỗ hơn trước. Những kinh nghiệm mà chúng ta thu
thập được từ các chương trình đi trước đã giúp chúng ta rất nhiều trong
việc thiết lập một chương trình mới khả dĩ thích ứng cho học Tăng trong
một xã hội không ngừng giao động. Tuy nhiên, chúng tôi cũng khó tin chắc
rằng chúng tôi có thể làm được gì hay hơn, giỏi hơn người trước, vì mọi
kết quả việc làm của chúng ta hẳn phải tùy thuộc hoàn cảnh của Giáo hội,
của tình hình đất nước cũng như của các trào lưu tư tưởng nhân loại. Vì
vậy chúng tôi không giám vội vã lớn tiếng đưa ra một đường lối chương
trình nào trước khi bắt tay vào việc. Chúng tôi đã từng nghe bao nhiêu
đường lối chương trình của nhiều lãnh vực được công bố rầm rộ, nhưng rốt
cuộc thực hiện không được, một phần mười hay năm phần trăm. Phải chăng nói
bao giờ cũng dễ, làm bao giờ cũng khó?
Khó nhất là khi việc làm đó là việc làm
của sự giác ngộ, siêu thoát trước mọi quyền lực đẫm lệ đang ẩn núp trong
tâm niệm luân trầm, như từng khiến bao kẻ hăng hái lên đường, nhưng một
thời gian sau nhìn lại thấy mình đang thối lui hoặc dẫm chân tại chỗ.
Chúng tôi chỉ còn chút hy vọng nhờ kiểm điểm lại lịch sử diễn tiến xưa
nay, trong đó có nhiều trường hợp giúp chúng tôi xác tín hơn lên về sức
mạnh của ý chí, của tinh thần giác ngộ đã có thể làm chủ được mọi sự kể cả
cái bản ngã ươn hèn của mình.
Đây là niềm tin cần thiết cho mọi người
học Phật và hành đạo, để tiến dẫn công trình của mình ngày càng tăng
tiến.Và bằng vào niềm tin đó mà Viện Cao Đẳng này được thành lập và phát
triển, để an hem học Tăng trong những năm đeo đuổi tu học sẽ nhận chân
rằng chỉ lấy chí nguyện giải thoát làm nền tảng và lấy sự nghiệp hoằng
pháp lợi sanh thượng tầng kiến thiết, mới mong xây dựng cho mình thành một
Tăng sĩ đủ tài đủ sức, đủ ý chí và khả năng phục vụ chúng sinh, phụng sự
đạo pháp, hoặc ở Tự viện, hoặc ở sơn gian thọ hạ hay xông pha giữa xã hội
vẫn không rời xa hạnh nguyện giải thoát và độ sanh của mình.
Để dạt được hướng dẫn hiểu biết tường
tận giáo lý caothâm tiềm tang trong Tam tạng giáo điển; lấy đó làm ngọn
đèn soi sáng nội tâm, soi sáng trần thế, hầu giải quyết mọi khủng hoảng
trầm trọng, con đẻ của tính chấp ngã nhỏ nhen. Dù đây mới chỉ là chuyện
nghĩa học, nhưng cũng phải chú tâm theo dõi tới kỳ cùng mới mong khai
thông được Phật lý để tiến dần đến giác ngộ.
Và bên cạnh công phu nghiên tầm nội điển,
Tăng sinh còn cần có những kiến thức bao trùm các ngành văn hóa, dù là
kiến thức đại cương nhưng không thể không có, mà có thể đáp ứng được thời
cơ, vận dụng khả năng hoằng pháp vào mọi trường hợp, để chuyển hướng lòng
người về đường giác ngộ. Ngày xưa, đức Phật đã từng cùng bốn tất đàn trong
việc hóa đạo, nên Ngài đã nhiếp hóa được mọi người đủ mọi trình độ. Ngày
nay, một nhà Đạo sĩ, nếu chưa thành tựu được quán chiếu, thì đồng thời
phải là một nhà văn hóa mới mong phát huy sự nghiệp hoằng hóa của mình
trước mọi biến chuyển của thời đại.Do đó, những môn văn chương, triết lý,
sinh ngữ đều được kèm theo chương trình nội điển từ thấp lên cao.
Tóm lại, trên đây là những điều hy vọng
đại cương chứ chưa hẳn là cao vọng, mà chúng tôi tạm đưa ra để hướng dẫn
công tác của mình. Đối với chúng tôi, vấn đề giáo dục vẫn là cả một tiền
đồ man mác, nếu thiếu một khả năng siêu đẳng, thì không cách gì thực hiện
đúng đắn. Nhưng điều này lại vượt quá sức mình, nên chúng tôi chỉ còn cách
là cố gắng và cố gắng trong sự hỗ trợ và hợp tác thường xuyên của quý vị.
Với những ưu tư về một trách nhiệm quá
lớn, chúng tôi khó tỏ bày hết nỗi kín trong lòng; chúng tôi nhất tâm
ngưỡng cầu Tam Bảo gia hộ và thiết tha mong đợi sự tiếp tay nồng nhiệt của
Hòa thượng Viện trưởng V.H. Đ, Thượng tọa Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Giáo dục,
quý vị trong ban giảng huấn. Ban Giám đốc và các bậc Thiện tri thức xa gần
trong sứ mạng chung; đó là giúp các học Tăng giải quyết phần nào nhu cầu
học hỏi cấp thiết của họ.
Đến đây, chúng tôi xin tuyên bố khai
giảng niên học đầu tiên của Viện Cao đẳng Phật học Hải Đức.Chúng tôi xin
các anh em Tăng sinh hãy dồn mọi ý chí và nỗ lực vào sự học hỏi và tu
luyện như các anh em đã từng làm trong nhiều năm trước, để đi cho hết
chương trình đã vạch,hầu tạo đủ điều kiện thích ứng cho mình sau này ra
phụng sự Đạo pháp, gánh vác công việc Giáo hội, mà Giáo hội đang đặt nhiều
kỳ vọng, vào lớp người như anh em.
*.Diễn
từ nhậm
chức Viện
trưởng Viện
Cao đẳng Phật
học Hải
Đức-Nha Trang (Ngày 28.11.1974 tại
chùa Long Sơn-Nha
Trang).
THAM LUẬN
Nam mô Bổn sư Thích-ca mâu-Ni Phật.
Trước hết, chúng tôi xin thay mặt đoàn
Đại biểu GHPGVNTN kính lời chào mừng chân thành hòa hợp cùng toàn thể Đại
hội.
Sau đây, tôi xin đọc bản tham luận của
đoàn Đại biểu chúng tôi.
…….
Kể từ nước Việt Nam ta độc lập đến nay,
đạo Phật đã chan hòa vào đời sống dân tộc. Bất cứ thời nào, đạo Phật cũng
không thiếu những nhà sư cũng như nam nữ Phật tử hiến thân phụng sự Đạo,
làm lợi ích cho dân tộc, cho đất nước. Lịch sử đã có những trang rõ nét
với những danh hiệu như Thái sư, Quốc sư, Thượng sĩ. Bên cạnh đó, còn bao
nhiêu trang sử bất thành văn, kể cả ngoài sự ghi nhận và biết đến của bao
nhiêu người không tên tuổi đã âm thầm xây dựng đạo đời. Thành tích của họ
như "nhạn lướt mặt hồ không để ảnh; gió luồng khóm trúc chẳng lưu vang”.
Đối với đạo Phật, đạo và đời không thể tách rời nhau được. Chính vì vậy mà
đạo Phật đã trở thành một thực thể trong tinh thần , tư tưởng và truyền
thống của dân tộc và thể hiện ra mọi mặt trong đời sống.
Từ cái điểm chung làm ra đạo, tức vận
dụng cái tinh thần đạo vào việc lợi ích mình, lợi ích đất nước, dân tộc,
chúng sanh trong tinh thần từ bi, trí tuệ, vô ngã, giải thoát phục vụ cho
sự an vui lợi lạc về tinh thần cũng như vật chất, đời này cũng như đời
sau.
Vì vậy cho nên trong quá khứ lịch sử, đạo
phật Việt Nam đã tùy hoàn cảnh khách quan mà thể hiện, đó gọi là tùy căn
cơ, thời sự, mượn những hình thức tổ chức làm phương tiện ứng đạo vào đời,
sao cho có lợi ích, còn nội dung bản chất, tinh thần đạo Phật vẫn là một.
Điểm nổi bậc rõ nét trong Phật giáo sử là đạo Phật Việt Nam không có đường
phân chia rõ rệt, mang tính mâu thuẫn giữa các giáo phái, tôn phái, hệ
phái. Tinh thần chân chính của đạo Phật Việt Nam là bao giờ trong tâm niệm
cũng thấy đạo Phật Việt Nam là một thể thống nhất, một khối không thể tách
rời ra được.
Tâm niệm đó đã được cố gắng thể hiện qua
bao nhiêu giai đoạn của lịch sử đất nước, mà giai đoạn cao nhất phải nói
là sự thành lập GHPGVNTN tại miền nam trước đây. Đó là sự thực hiện trong
một giai đoạn lịch sử khó khăn và không phải đã không có những hy sinh cao
đẹp đối với dân tộc và đạo pháp mà kẻ hữu tâm với đạo, với đời hằng thương
kính.
Nhưng Giáo hội chúng tôi không lấy đó làm
thỏa mãn, vì sự thống nhất đó chưa trọn vẹn.
Sauk hi nước ta được hoàn toàn giải
phóng, Giáo hội chúng tôi đã đạt nguyện vọng lên chính phủ, xin giúp đỡ
cho Phật giáo được tiến hành thống nhất trong cả nước. Nay cơ duyên đã đầy
đủ, cả nước thống nhất mọi mặt và đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
được Đảng, Chính phủ và Mặt trận giúp đỡ, hai năm qua Ban vận động thống
nhất Phật giáo đã tích cực hoạt động để có ngày hôm nay. Đây là một sự
kiện có ý nghĩa rất trọng đại đối với tiền đồ Phật giáo.
Giáo hội chúng tôi tán đồng nghị quyết
đầu tiên của Ban vận động là : "Mở ra một hướng phát triển mới trong lịch
sử Phật giáo nước nhà, làm lợi ích cho Tổ quốc và nhân dân, làm sáng chói
tinh thần Phật giáo trong thời đại nước Việt Nam độc lập thống nhất, phát
huy cao hơn nữa truyền thống gắn bó hài hòa giữa đạo Phật và dân tộc, bảo
đảm truyền thống tín ngưỡng và phương pháp tu hành của Tăng Ni đồng bào
Phật tử đúng theo lời Phật dạy”.
Trong niềm tán đồng đó , chúng tôi cầu
chúc Đại hội này sớm đạt được việc xây dựng một cơ chế hợp lý, hợp tình,
sao cho mãn nguyện vọng, gây được lòng hoan hỷ tin tưởng của tất cả Tăng
Ni Phật tử để họ có thể yên tâm kết hợp thành một khối để phát huy hơn nữa
truyền thống phục vụ đạo pháp không quên dân tộc, phục vụ dân tộc không
quên đạo pháp.
Có thể mới thể hiện tinh thần hòa hợp mà
luật Tứ phần đã dạy rằng: “Cùng
học một
thầy, cùng
nhau hòa hợp
như nước
với sữa mới
được lợi ích an vui trong Phật
pháp”. Nếu không, danh nghĩa không những chỉ là danh nghĩa, mà còn
vì danh nghĩa làm hại bản chất.
Để chấm dứt, chúng tôi xin gởi lên Đại
hội một lời Phật dạy trong Trung Bộ kinh là :
“Hội
họp trong
đoàn kết, giải tán trong đoàn kết,
làm việc
trong đoàn kết”.
Xin hồi hướng công đức này cho đạo pháp,
dân tộc và sự lợi lạc cho tất cả chúng sinh.
Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
*.Hội
nghị Đại
biểu Thống
Nhất PGVN
ngày mồng
04,05,06 và tháng 11 tại
Thủ đô Hà Nội
năm 1981. Tham luận
của đoàn Đại biểu
Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống
nhất.(do Thượng
tọa Thích Thiện
Siêu đọc)
PHÁT BIỂU ĐÓNG GÓP
Chăm chú theo dõi các bài tham luận của
quý vị trong các phái đoàn Phật giáo Trung tâm ABCP. Chúng tôi rất thông
cảm về nỗi lo lắng của quí vị trước tai họa chiến tranh vũ khí, tai họa
phá hoại môi trường sống, tai họa của sự khủng bố đang và sẽ xảy ra phát
xuất từ ba độc tham sân si của con người, nhất là từ những thế lực tham
vọng quyền hành thống trị thế giới, thống trị khu vực, thống trị sắc
tộc,cho đến cả thống trị tôn giáo.
Đứng trước cái tai họa đó, chúng tôi tin
chắc không những Phật tử Châu Á mà Phật tử khắp thế giới cũng đều xót xa
và lo lắng, nên làm cái gì đây để ngăn chặn. Nhưng phải thẳng thắn nhìn
nhận rằng chúng ta đã quá yếu kém và rời rạc trong sự truyền bá giáo pháp
mạnh về tâm linh như lời phát biểu của phái đoàn Thái Lan đã đề cập.
Bởi vậy chúng tôi đề nghị Trung tâm ABCP
nên đặt định một phương pháp như thế nào cho có hiệu lực để phổ biến sâu
rộng lời dạy của đức Phật: “Hận thù không trừ hận thù, chỉ có từ bi mới
trừ được hận thù” cho thật nhiều người hiểu rõ. Như chúng ta đã biết đức
Phật không bao giờ chỉ trích ai, nhưng tất nhiều lúc Ngài chỉ trích thậm
tệ những tính xấu tham-sân-si và các hành vi tội ác, bởi dưới mắt đức Phật
chỉ có hành động chứ không có người hành động và bởi lòng từ bi của đức
Phật luôn gắn liền với trí tuệ vô ngã khác với lòng bác ái, nhân, hay kiêm
ái thông thường. Nhờ vậy mà những ai dù hung hăng độc ác đến mấy khi được
nghe Phật thuyết cũng phải dịu lòng như chàng Vô Phật thì chắc chắn chúng
ta sẽ gây được sự đồng tình thông cảm giữa con người, và khi đó Trung tâm
ABCP không chỉ là diễn đàn của Phật tử Châu Á mà có thể là của Phật tử
khắp nơi và những bạn hữu trên thế giới có sự đồng cảm với chúng ta góp
chung tiếng nói, góp chung hành động trong sự ngiệp chống chiến tranh,
chống tai họa để đem lại hạnh phúc an lành cho mọi người, sẽ đạt được
nhiều kết quả thiết thực.
Đây là một ý kiến nhỏ của chúng ta xin
trình hội nghị xem xét.
Xin cám ơn Hội nghị.
*Phát
biểu của
Hòa Thượng
Thích Thiện
Siêu truớc Hội nghị
giải trừ
quân bị của
ABCP tổ chức
tại Hà Nội
tại khách sạn
Tây Hồ từ
29-31/3/93.
CƠ BẢN PHẬT HỌC LÀ GÌ?
Giáo hội nghĩ đến trường Co bản Phật học
cốt là để các vị giáo thọ ở trong địa phương có duyên dìu dắt Tăng ni đệ
tử của mình. Việc làm này Giáo hội Trung ương chỉ yểm trợ bằng tinh thần
nhiều hơn, đó là cách hỗ trợ gián tiếp. Còn trực tiếp là do các vị ở địa
phương. Giáo hội chủ trương mở trường mà trường đó là Trường Cơ bản để đào
tạo Tăng tài. Sở dĩ gọi là cơ bản vì đây là một bậc cơ bản , dạy cho học
tăng học ni đang trẻ tuổi, mới bước chân vào đạo, có một sự hiểu biết cơ
bản về giáo lý của đức Phật; đồng thời có một nếp tu hành cho nên chúng
tôi mong quý vị cái gì cũng thật sự là cơ bản. Ở lớp dưới dạy cho học
tăng học ni có sự hiểu biết cơ bản, tu hành cho có cơ bản thì khi lên các
lớp trên mới vững vàng chắc chắn. Nếu cơ bản mà lỏng lẻo, mong manh thì
lên trên chắc sẽ éo ọp, khó vững. Cho nên ý mở Cơ bản là vậy.
Chúng tôi xin nhấn mạnh: Cơ bản khôngcó
nghĩa là sơ đẳng, cũng không có nghĩa là Trung đẳng mà cũng có thể là đại
học, cũng kêu là cơ bản. Bởi vì đối với giáo lý của đức Phật, chúng ta tu
một cách cơ bản, học một cách cơ bản, nếu thực hiện cho được cũng rất khó.
Ban Giáo dục Trung ương gọi là một Ban
Giáo dục chứ kỳ thật Giáo hội chẳng chi cho một xu nào hết! Nếu ở ngoài
đời, Bộ giáo dục trích một năm mấy trăm ngàn tỷ…để lo cho vấn đề giáo dục,
còn đối với Phật giáo chúng ta, Ban giáo dục từ khi đặt ra để trình làng
chứ còn muốn sống cách nào thì sống, làm sao thì làm, muốn đi thăm ai thì
đi, chớ Giáo hội không có chỉ thị nào hết. Cho nên sự đi thăm viếng cũng
là tự xoay sở trong an hem và các Phật tử quen biết để họ cúng cho mà đi
thôi. Nói vậy chúng tôi cũng không mong quý vị giúp cho chúng tôi thêm mà
mong quý vị thông cảm hoàn cảnh Phật giáo chúng ta từ Trung ương cho đến
địa phương cùng hoàn cảnh như nhau. Hiểu nhau như vậy để chúng ta khắc
phục khó khăn, vì tương lai Phật pháp mà gắng sức chung lo Phật sự. Trung
ương cũng không đòi hỏi địa phương, địa phương cũng không đòi hỏi Trung
ương. Trung ương nếu có tiền cũng chỉ là quyên góp ở nơi các Phật tử nơi
địa phương mà thôi. Thành thử cũng mong quý vị cố gắng mặc dù chưa biết
chừng nhờ sự chật vật này mà tinh thần học đạo của chúng ta vững chắc và
sự dạy dỗ đạo của chúng ta thêm quyết tâm. Chúng ta đều ý thức rằng trường
chúng ta là trường học đạo, mặc dù cũng còn phải học thêm các môn khác nữa
để bồi dưỡng thêm kiến thức. Các môn học gọi là ngoại điển không phải là
chính mà cái chính là học đạo, đó là cốt lỏi của việc học đạo. Nếu môn học
ngoại điển kém thì có thể tha thứ chứ môn học Phật học mà kém thì không
thể chấp nhận được. Vì ở đây chúng ta học đạo là chính.
Như
các vị cũng
biết, thế hệ
chúng tôi không học
trường đời mà 10 năm ở
trường,
chúng tôi chuyên học
đạo mà cụ
thể là học
Kinh, Luật,
luận bằng
chữ Hán
thôi. Sau này sở
dĩ viết lách đuợc
đôi chút là nhờ
tự mình tìm
tòi học hỏi
thêm. Nhưng
sự cố
gắng này
cũng cơ bản
từ nơi
giáo lý. Nếu
viết văn cho hay mà không có giáo lý thì văn đó cũng
là cái văn bên ngoài, chớ
không mang tính chất
đạo lý
ở bên trong lời
văn.Cho nên các vị
cũng nên chú ý học
như thế nào để
thấm nhuần
giáo lý của
đức Phật.
Sự thấm
nhuần ấy
truớc tiên
nó ăn sâu vào trong tâm hồn
chúng ta, Giáo lý của
đức Phật chỉ
bày cho ta con đường
phá sự hắc
ám vô minh, hiểu
đuợc như thế
thì chúng ta mới
nhận thức được
sự học
và sự tu của
chúng ta là cốt
lợi mình lợi người,
trong toàn bộ
giáo lý của
đức Phật
dạy chúng ta
cái gì? Chắc
không phải
vì câu văn hay cũng không phải
biện ngữ
giỏi mà cốt
là tìm lời dạy cao siêu để
trừ vô minh
và ngã chấp.
Đó là cơ bản
vậy.
THĂM TRƯỜNG PHẬT HỌC LONG AN
Từ khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được
thành lập năm 1981 đến nay, nhà nưóc đã cho phép mở trường Cao cấp Phật
học tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Huế. Tại Thành phố Hà Nội
đã mở được hai khóa Cao cấp. Tại Tp. Hồ Chí Minh đã mở được 3 khóa Cao
cấp. Còn trường cơ bản thì hiện có 24 trường. Tại miền Bắc trong thời gian
chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ thì Trường Cơ bản không có. Các thầy đi
tu chùa nào học theo chùa đó một cách lẻ loi đơn độc. Nhờ thống nhất Phật
giáo cho nên ngày hôm nay ở miền Bắc cũng mở được 5 trường. Tại miền Nam
cho đến nay cũng mở được 19 trường mà trường Cơ bản Phật học Long An là
một trong số 19 trường Phật học đó. Một điểm đặc biệt nữa là những nơi từ
trước giải phóng chưa có trường Cơ bản Phật học tỉ dụ như ở đây cũng như ở
các tỉnh phía Bắc và ngay cả các tỉnh thuộc phía Nam này trước giải phóng
chưa hề co trường Cơ bản. Nhưng sau khi giải phóng rồi nhờ sự thống nhất
Giáo hội cả nước, nhờ sự quan tâm giúp đỡ của nhà nước từ Trung ương đến
địa phương cho nên đã mở được rất nhiều trường Co bản Phật học. Đó là một
điểm công tác quý báu lớn lao của Giáo hội PGVN hôm nay và chúng tôi trong
Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương rất mừng là đã góp phần đóng góp được công
việc đó để mở các trường.
Chúng tôi cũng biết mở trường Phật học
không phải là điều đơn giản, bởi vì tăng trường Cơ bản không phải học mà
còn phải tu nữa, chứ không phải như học sinh ở ngoài đời. Học sinh ở đời
chỉ biết học chứ còn vấn đề hành động đạo đức thì nhà trường chỉ quan tâm
một phần nhỏ, chứ không quan tâm hết. Ngược lại, ở Trường Cơ bản Phật học
là đào tạo những con người để sau này đứng trong hàng ngũ Tam bảo, họ có
trách nhiệm hướng dẫn tín đồ nên phải nghiêm túc và thận trọng với một
tinh thần trách nhiệm cao. Vì vậy sự dạy dỗ ở trường Cơ bản ngoài việc dạy
cho họ học giáo lý nhà Phật, còn phải dạy cho họ con đường tu hành nữa.
Hai nhiệm vụ vừa là học chữ vừa là học tu song song với nhau, tạo thành
một Tu sĩ gương mẫu, có đạo đức và học vấn tương đương để họ có thể đảm
đương công việc hoằng pháp sau này.
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng: Phật
giáo chúng ta đã gắn liền với đất nước Việt Nam từ thế kỷ thứ nhất đến
nay. Chính Lý Công Uẩn ra làm Vua mở mang triều đại nhà Lý đầu tiên là một
người đã học từ trong nhà chùa mà ra. Triều đại nhà Trần cũng có những vị
Vua như Trần Nhân Tông, nữa đường nhường ngôi cho con và đi tu làm Trúc
Lâm đệ nhất tổ. Như vậy Phật giáo đã gắn liền với đất nước và dân tộc này
khi thăng trầm cũng như khi vinh nhục. Phật tử luôn luôn có mặt và đóng
góp với dân tộc để xây dựng đất nước Việt Nam trải qua các thời kỳ khó
khăn nhất cũng như khi vinh quang tốt đẹp nhất.
Bây giờ đất nước Việt Nam đang lúc xây
dựng, phát triển thì không lý gì Phật giáo Việt Nam lại không xây dựng,
không phát triển. Phật giáo không thể bị tụt hậu. Nếu Phật giáo tụt hậu
thì không những thiệt thòi cho Phật giáo mà đồng thời cũng thiệt thòi cho
đất nước. Bởi vì từ trước tới nay khi nào đất nước thạnh thì Phật giáo
thạnh, Phật giáo thạnh thì đất nước thạnh. Hai việc đó gắn liền song song
với nhau, nên khi Phật giáo kém cỏi thì cũng là một phần thiệt thòi cho
đất nước. Vì vậy việc mở trường Cơ bản Phật học là một thao thức chung
không những cho Giáo hội mà còn cho các vị lãnh đạo nhà nước, các vị yêu
nước và muốn xây dựng đất nước có một sắc riêng gọi là sắc thái dân tộc
hay là trở về nguồn. Vì sao vậy ? Vì sợ mất gốc, tha hóa theo văn minh vật
chất Tây phương. Khi văn minh Âu tây tràn vào không được chọn lọc thì giá
trị văn hóa đạo đức thuần túy của dân tộc sẽ bị băng hoại. Đào tạo tăng ni
có học có tu cũng là nhằm tới việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc vậy.
Cho nên khi đào tạo chúng tôi không những nhắm tới đào tạo một Tu sĩ để
truyền bá đạo Phật mà còn nhắm giữ gìn bản sắc văn học dân tộc nữa. Khi
truyền bá đạo Phật, bản thân đức Phật Ngài không cần chúng ta quy phụng gì
cho Ngài hết, nhưng Ngài cần chúng ta truyền bá giáo lý của Ngài để đem
lại hạnh phúc và an lạc cho nhân dân. Đó là hoài bảo lớn lao của đức Phật.
Nếu thực hiện hoài bảo đó của Ngài tức là chúng ta đã phụng sự đức Phật
đồng thời cũng góp phần đem lại lợi ích cho nhân quần xã hội và nói rộng
ra là chúng sinh theo danh từ nhà Phật. Cốt tủy của đạo Phật không ngoài
từ bi và trí tuệ. Trí tuệ để giải thoát cho chính mình, Từ bi để lợi lạc
cho chúng sinh, vì thế ngươi ta ,luôn tôn xưng đức Phật là đấng giác ngộ
và Đạo Phật cũng được gọi là Đạo giác ngộ. Vậy đạo Phật giác ngộ cái gì ?
Giác ngộ cái vô minh hàng ngày của chúng ta. Hàng ngày nếu chúng ta không
có sự tỉnh giác thì lòng tham lam ích kỷ giận hờn… nó sẽ cho mất làm u ám
tâm trí chúng ta. Khi tâm trí bị che mất thì chúng ta nhìn cuộc đời theo
cái bản ngã hẹp hòi ích kỷ của chúng ta. Cuộc đời theo bản ngã hẹp hòi đó
không làm sao đem đến an lạc được, Cho nên muốn giải thoát phải có trí
tuệ. Muốn giác ngộ thì phải tỉnh giác, tỉnh giác trong từng giây từng phút
từng giờ và cả trong từng hành động, từng tâm niệm của chúng ta. Tỉnh giác
để biết công việc mình làm, làm việc đó đúng hay sai, việc làm đó đem lại
kết quả như thế nào? Nó có lợi cho ai và có hại cho ai? Đó là một sự tỉnh
giác. Chính sự tỉnh giác đó nó gột bỏ lần lòng ích kỷ, tham lam đắm đuối
dục lạc của chúng ta , để chúng ta trở nên con người lương thiện, đạo đức
tao nhã. Một con người lương thiện là một viên gạch quí để xây dựng một xã
hội tốt. Một xã hội là một tập thể do từng cá nhân góp sức xây dựng nên,
nếu cá nhân xấu thì nhất định xã hội xấu, cho nên xây dựng cá nhân tốt thì
xã hội sẽ tốt.Vì vậy chúng ta nằm trong xã hội lại càng phải hướng thiện
để xã hội tốt hơn. Sự tu học của chúng ta để hoằng dương đạo pháp lợi lạc
quần sanh cùng thúc đẩy xã hội hướng thiện, đem lại lợi ích chung xã hội.
Muốn thế cá nhân phải tỉnh giác. Phật dạy: Ai hay chuyển được vật thì
người đó là Phật. Nếu gặp danh đắm danh, gặp lợi đắm lợi, gặp sắc đắm sắc,
gặp tình đắm tình, gặp của đắm của hay gặp chi đắm nấy thì không thể gọi
là Phật được. Gặp tình huống ấy mà làm chủ được thì đó là Phật chứ không
có gì khác. Cho nên đức Phật đã nói rằng: Ta là Phật đã thành, các người
là Phật sẽ thành, bởi vì đức Phật thấy chúng ta có đủ sức, có đủ khả năng
để chuyển vật y như Ngài, tức là chúng ta có tâm chuyển và có ý thức
chuyển. Nếu chúng ta không có ý thức đó thì chúng ta là con người nô lệ
của tất cả dục vọng, nô lệ của tất cả danh lợi, tiền của, chúng ta lúc bấy
giờ chính tự mình đã không lợi thì chi cho chính mình thì làm sao mà làm
lợi ích cho ai được nữa. Cho nên với ý thức tinh thần Phật giáo như vậy,
Giáo hội mở trường Phật học để đào tạo Tăng Ni có trình độ Phật học, khi
đó mới đem lại ích lợi cho người khác.
ĐẠO TỪ
1
Sự nghiệp đào tạo nhân tài là sự nghiệp
cần thiết và cao cả mà bất cứ lúc nào, ở đâu cũng được quý trọng. Do
đó,nên khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, thì đã đặt vấn đề
đào tạo Tăng Ni lên hàng đầu và là hàng quan trọng nhất trong mục tiêu của
Giáo hội.
Ngay từ đầu, Giáo hội đã mở được Trường
Cao cấp Phật học Việt Nam cơ sở I tại chùa Quán Sứ- Hà Nội và tiếp theo là
2 khóa Cao cấp Phật học tại Tp Hồ Chí Minh. Kết quả đó đã đưa đến ngày mãn
khóa hôm nay cho Trường Cao cấp Phật học khóa 2. Sở dĩ có sự thành tựu như
thế này chính là nhờ chư vị Tôn túc Giáo phẩm, chư vị Phật tử nhiệt tâm
tán trợ giúp đỡ từ tinh thần đến vật chất và quí hơn nữa, hôm nay quý vị
đã đến để dự lễ mãn khóa, làm cho sự nghiệp đào tạo Tăng Ni của chúng tôi
có thêm ý nghĩa, và có thêm giá trị.
Chúng tôi xin thay mặt Ban Giáo dục Tăng
Ni Trung ương chân thành tri ân tất cả quí vị.
Bây giờ cho chúng tôi được phép nói với
toàn thể Tăng Ni sinh.
Cùng các anh em Tăng Ni sinh,
Qua những giờ giáo dục giảng dạy cho anh
em cũng như một số luận văn tốt nghiệp mà tôi đã chấm, tôi thấy anh em đã
có một trình độ học vấn vững vàng dù chưa sâu, chưa rộng lắm nhưng mà đã
có một bước đi chắc chắn để cho sự học hỏi, tu tập của mình sau này khỏi
bị lạc đường lệch hướng. Nhờ đó nên anh em mới có được thành quả hôm nay
để lãnh bằng tốt nghiệp ra trường.
Nhưng chúng ta cốt ở nơi trí tuệ, Có trí
tuệ mới đoạn hoặc chính chơn, mới nhập triền thùy thủ. Nếu không có trí
tuệ không thể đoạn hoặc chính chơn, không thể nhập triền thùy thủ. Trí tuệ
trong Phật giáo gồm có văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ. Không phải chỉ nghe
không biết không mà đủ. Nó phải có ba bước đi tuần tự là văn tư tu.
-Văn tuệ thì biết được danh
chứ chưa biết được nghĩa.
-Tư tuệ thì biết được nghĩa.
-Tu tuệ thỉ biết cả danh cả
nghĩa.
Đó là ý trong luận Câu xá. “Danh
câu nghĩa” đó là đối tượng của văn tư tu tuệ.
Xuyên qua câu chuyện chăn trâu trong
Thiền tông để minh họa cho anh em rõ hơn . Ví dụ một người đi tìm trâu để
hiểu thêm văn tưu tu tuệ này. Văn tuệ chỉ như người đi tìm trâu, mới thấy
được cái dấu chân mà chưa thấy trâu. Khi nào thấy được trâu thì khi ấy mới
gọi là tư tuệ. Khi nào xỏ mũi dắt trâu về cột lại để điều luyện nó , thuần
hóa nó, sử dụng nó lúc ấy mới gọi là tu tuệ.
Bằng cấp của anh em hôm nay cũng chỉ là
bằng cấp ở nơi văn tuệ, nghĩa là chỉ nơi là dấu chân trâu. Còn mặt tư tuệ,
tu tuệ như thế nào thì bản thân anh em phải cố gắng tiến và cầu tiến hơn
nữa mới có thể đạt được. Nếu an hem nghĩ rằng, bằng cấp của mình hôm nay
là đủ rồi thì không khác nào kẻ tìm trâu mới thấy dấu chân mà cho đó là
con trâu thì chưa đúng. Khi lấy dấu chân làm con trâu thì bỏ mất công phu
tiến bộ và lấy dấu chân làm con trâu thì chẳng có ý nghĩa gì hết.
Cho nên bằng cấp của anh em hôm nay là
cái dấu chân để từ đó anh em lần đi tìm ra con trâu thật, thấy con trâu
thực và dắt con trâu thực về để đào luyện cho nó trở thành con trâu thuần
hòa hữu dụng.
Điều đó còn tùy thuộc nơi mọi người. Con
trâu của mình đã thả đi xa bao nhiêu, nó đến chừng nào thì tùy theo mỗi
người. Nếu con trâu lòng của mình thả đi quá xa thì phải dụng công rất
nhiều mới tìm thấy nó. Nếu con trâu lòng của mình thả đi gần thì dụng công
ít cũng có thể tìm thấy nó. Điều cần thiết là phải tìm cho thấy trâu và
cần thiết phải luyện cho được trâu thì mới hữu dụng. Nếu hai điều đó không
có mà chỉ lấy dấu chân trâu thì không hữu dụng và không đạt đến đâu hết.
Cho nên sau khi ra trường, anh em không
thể lấy cái bằng cấp này làm đủ mà chỉ nên coi nó như là dấu chân trâu
mình bắt đầu thấy được. Từ dấu chân trâu đó lần hồi tìm cho thấy được
trâu, nhưng thấy được trâu rồi mà cũng phải bắt trâu về cột lại, luyện tập
để cho nó thuần thành. Khi đó mới đạt được; kết quả viên mãn. Cho nên bước
đi trên đường học đạo, tu đạo của chúng ta còn dài, chứ không phải ngang
hôm nay đã chấm dứt.
Lấy một lời kinh nghiệm nơi bản thân, tôi
không giám đem cái tôi của mình ra đây để khoe khoang, nhưng qua kinh
nghiệm đó để tâm tình với anh em cách xử lý tình tiết ứng xử bất chợt khi
có người cật vấn…
Trong kỳ họp mặt thứ nhất Quốc hội khóa
IX, khi ra đứng đợi xe, thì có một ký giả báo Tiền Phong Chủ Nhật đến hỏi
tôi.
-Thưa Hòa thượng, trong lúc nhà nước mở
rộng kinh tế thị trường thị liệu Phật giáo có giúp được gì không?
-Có chứ ( tôi đáp nhanh quá, khẳng định
tức khắc). Khi ấy tôi đoán thấy anh ta nghĩ rằng, Phật giáo có mở một xí
nghiệp gì đó lớn lắm nên Hòa thượng mới trả lời nhanh và mạnh như thế.
-Vậy Phật giáo giúp cái gì?
-Tôi nói: Lâu nay anh có nghe nhà nước
chống tham nhũng không? Có nghe nhà nước chống buôn lậu không? Nghe nhà
nước chống tham ô lãng phí không?
-Có nghe.
-Tôi nói với anh ta, vì sao mà có buôn
lậu, vì sao mà có tham ô lãng phí, vì sao mà có tham nhũng anh có biết
không ?
-Anh ta nói, dạ con biết, vì tham lam quá
!
Tôi nói với anh ta. Đó chính là điều mà
Phật giáo chú ý đó.
Lúc đức Phật còn ở đời, những ai đến với
đức Phật, lời đầu tiên Ngài dạy là phải nên bố thí. Lời dạy ấy nhắm vào
tâm lý của chúng sinh. Trong mỗi người đều có sẳn 3 thứ độc là tham, sân,
si, trong đó lòng tham đứng đầu, chính nó gây ra tai họa cho bản thân và
xã hội, nên Phật mới chỉ cho họ thấy phải hạn chế bớt lòng tham bằng cách
bố thí, chứ Ngài chưa dạy gì cao xa hết. Lời dạy của Ngài rất nhẹ nhàng,
mới nghe qua tưởng y như không có đạo lý gì xa xôi hết, nhưng chính đó là
một cái mốc, cốt xây dựng cho con người bước đầu hãy mở rộng lòng thương,
lòng bố thí, sau đó mới có thể tiếp thu được đạo lý cao diêu của Ngài.
Nếu bây giờ đem lời dạy của đức Phật áp
dụng vào trong cuộc đời, cho xã hội bớt lòng tham đi một chút thì tôi chắc
rằng trên thị trường sẽ làm ăn phát triển, chứ không có cái nạn buôn lậu,
tham nhũng, nạn làm hàng giả huống chi những người đến với đức Phật, Ngài
còn dạy giữ Tam qui, ngũ giới…
Tôi cắt nghĩa sơ qua cho anh ta nghe, anh
ta nói, ôi chao ôi, Hòa thượng nói đúng quá. Tôi nói tiếp, khi con người
có đạo đức rồi thì đi buôn cũng tốt, làm thầy giáo cũng tốt, làm bác sĩ
cũng tốt, làm công nhân viên cũng tốt…Và ngược lại, con người không có đạo
đức thì làm cái gì cũng xấu hết. Cho nên chúng tôi chăm sóc, giúp đỡ về
mặt đạo đức đó chứ chúng tôi không rành về kinh tế thị trường.
Bây giờ anh em tiếp tục suy nghĩ, nếu lỡ
anh ta hỏi tiếp:
-Thưa Hòa thượng, rứa mỗi ngày Hòa thượng
làm gì?
-Nếu anh ta hỏi tiếp và dồn dập quá, tôi
nghĩ rằng tôi cũng phải kiếm cách tôi nói. Nhưng may xe tới thành tôi lên
xe. Tuy lên xe tôi tránh được nhưng rồi đây an hem cũng sẽ vấp vào cái nạn
khác, rằng thầy ra trường rồi thầy sẽ làm gì ? Xin thầy cho con biết một
chút coi thử?
Bây giờ lấy kinh nghiệm bản thân tâm tình
thêm với anh em , nếu anh có hỏi tiếp thì tôi cũng khai, tôi khai tôi có
chương trình để khai chứ không phải không.
Sáng dậy:
4giờ tịnh niệm
5 giờ tập thể dục
5g30 uống trà,
rửa mặt
6 giờ lên chùa
tụng kinh
7g30 điểm tâm.
Sau đó làm các công việc khác hoặc viết
sách, hoặc dạy học, hoặc đọc sánh kinh và làm các công việc Phật sự khác,
trừ khi đi ra các nơi xa xôi lạ lùng, gặp duyên không thuận tiện lắm thì
có thể gia giảm. Nếu anh ta hỏi tiếp thì chắc tôi cũng sẽ nói như vậy.
Nhưng tôi nghĩ nói như vậy cũng còn mắc cỡ, ít quá! Tu chi ông mà tu chừng
ấy. Làm tới Hòa thượng mà tu chừng ấy thôi sao? Ít quá thì tôi chắc tôi
cũng mắc cỡ. May anh ta không hỏi. Vậy tôi mong rằng, anh em bây giờ có
trưởng thành lên một bước rồi thì từ nay anh em không còn ở trong nhà
trường để chịu cái sự điều khiển giờ giấc của nhà trường nữa, anh em phải
cố gắng hoạch định cho mình mỗi người một chương trình. Khuya dậy làm gì?
Sáng dậy làm gì? Trưa chiều nay làm gì? …Hoạch định cho mình một chương
trình như thế rồi, để sau đó cái gì là điều thiết yếu nhất thì phải cố
gắng chấp chặt lấy nó đừng bỏ, mà phải tùy duyên hành sự. Cái đó phải tùy
theo từng lúc một. Đeo đuổi được chương trình như thế, đó là một cách đi
tìm trâu. Nếu không đeo đuổi chương trình đó , ngang đây anh em chỉ vin
lấy dấu chân trâu mà nói trâu chứ chưa thấy trâu đâu cả, mà cũng chưa dắt
trâu về cột để huấn luyện như thế nào?
Do đó tôi mong rằng, cái sự hiểu biết của
anh em đã có một phần, nhưng sự tu hành thực hành của anh em sau này tiếp
tục và sự tiếp tục sau này càng khó hơn là trong khi đang ở trong nhà
trường. Trong khi ở trường anh em phải cố gắng chịu cực chịu khổ, chịu
khép mình vô khuôn khổ, phải có giờ có giấc, có một phần cực, nhưng cái
cực đó nó không bằng sau này khi anh em sống riêng rẽ một mình thiếu thầy
thiếu bạn, thiếu sự dẫn dắt, khi ấy mình phải tự giác rất cao, mình phải
có tinh thần tự giác cao độ thì khi ấy mới khỏi bị sa ngã, mới có thể tiến
lên được.
Cuộc lễ phát phần thưởng hôm nay đó là
một vinh dự lớn lao cho anh em , nhưng tôi nghĩ rằng đó cũng là một điều
rất cần suy nghĩ, đó là trách nhiệm của anh em. Anh em làm thế nào để sau
khi ra trường-là một Tăng sinh tốt nghiệp Trường Cao cấp Phật học, dự được
một buổi lễ mãn khóa rất long trọng thì thế nào anh em cũng khác hơn là
trước khi vào trường. Thế nào anh em cũng có một phần gương mẫu để cho
lớp anh em sau noi theo. Nếu tấm gương của anh em quá lu mờ thì người ta
không soi vào đâu được và khi ấy người ta sẽ soi cái gương mờ đó nên họ
cũng thành mờ luôn. Đó là một điều phụ bạc với lòng trông mong của các bậc
Tôn túc mình mà cũng có một phần phụ bạc cái sự mong mỏi, của các bậc giáo
dục ân sư của mình.
Tôi mong rằng anh em tâm tâm niệm niệm
điều đó, một lẽ khác để báo ân Tam Bảo, báo ơn sự giúp đỡ của thập phương
thiện tín để làm tròn cái bổn phận: Một Như Lai sứ, hành Như Lai sự của
mình, cùng chung với Giáo hội, để tạo thành khai sáng Phật giáo để lợi lạc
chung cho Phật giáo cũng như đất nước chúng ta.
Trước khi dứt lời, tôi xin cám ơn và cầu
chúc tất cả được thân tâm an lạc.
Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật.
*Đạo
từ cho Tăng sinh Trường
Cao cấp Phật
học Việt
Nam khóa 2 nhân ngày tốt
nghiệp- 1992
2
Cổ đức có nói:
"Nhơn
năng hoằng đạo
phi đạo hoằng
nhơn”.Nghĩa là "Người có thể hoằng đạo chẳng
phải đạo hoằng người”. Hiểu rõ thâm ý câu nói của các bậc tiền đức, nên
Giáo hội luôn luôn chú trọng đến giáo dục thế hệ trẻ Tăng Ni kế thừa. Đó
là trọng tâm hàng đầu của Giáo hội.
Ý thức như vậy Giáo hội đã mở trường Cơ
bản Phật học và Cao cấp Phật học. Hiện nay trường Cơ bản 4 trên phạm vi cả
nước hiện có 25 trường, Cao cấp Phật học hiện có hai trường, mai đây cũng
sẽ có thêm một trường nữa đặt tại Cố đô, Huế. Như vậy trong tương lai Giáo
hội sẽ có ba trường đặt tại ba miền để gánh vác trọng trách giáo dục đào
tạo Tăng tài cho Giáo hội.
Giáo hội chúng ta chỉ có cái tâm chú
trọng mở trường, trường có đó nhưng chúng ta còn thiếu thốn mọi mặt: Từ
nhân lực đến vật lực. Những việc đó chúng tôi rất ưu tư và lo lắng. Giáo
hội mở trường mà không khác như dẫn trâu vào rú để kiếm ăn, kiếm ăn sao có
thì kiếm, miễn tối dẫn trâu về đủ thì thôi.
Nhưng may thay nhờ Ban Giám Hiệu, quý vị
Giảng sư, quý vị Bảo trợ và tất cả thiện tín nam nữ đã thông cảm, cùng
chia xẻ với Giáo hội, chung lo cho trường Cao cấp Phật học luôn được tiếp
tục các khóa học mà ngày hôm nay tại đây đã thành tựu một cách viên mãn.
Khóa học thứ ba với 234 Tăng Ni sinh đã tốt nghiệp ra trường. Sự thành tựu
đó, trước hết là nhờ công đức của Ban Giám Hiệu, các vị Giảng viên và tất
cả các vị thiện tri thức. Thay mặt Giáo hội, tôi xin tán than công đức của
tất cả quý vị đã đóng góp cho trường suốt khóa học bốn năm nên mới có kết
quả này. Cầu chúc đạo tâm của quý vị luôn luôn dõng tiến, dang tay tiếp
sức với Giáo hội để thực hiện sứ mệnh hoằng pháp lợi sanh trong những ngày
sắp tới.
Sau đây tôi xin phép quý vị hiện diện có
đôi lời với Tăng Ni sinh tốt nghiệp.
Cùng các Tăng
Ni sinh!
Các Tăng Ni sinh hẳn đã biết rằng: Chí
nguyện của người xuất gia là lấy việc lợi sanh làm sự nghiệp, lấy hoằng
pháp làm gia vụ. Nhưng làm sao để thực hiện điều đó, nếu không có thực học
thực tu, các thầy các cô đã bốn năm ghép mình vào khuôn khổ, chịu khó chịu
nhọc, cần mẫn siêng năng, theo dõi, ghi chép, học tập những lời dạy của
các Hòa thượng, Thượng tọa, các vị Giảng sư, Giáo sư nên đã thu nhập được
một số kiến thức cần thiết để làm hành trang cho cái chí nguyện hoằng pháp
vi gia vụ của mình. Nhưng đó chỉ là kết quả bước đầu. Các thầy các cô nên
nhớ lời đức Phật dạy trong kinh Thí dụ lõi cây( Maha-soropamasuttam)rằng:
"Người cầu đạo giải thoát cũng như người đi tìm lõi cây. Trong khi đi tìm
lõi cây, trước một cây to lớn đứng thẳng có lõi, có người bỏ qua, chỉ chặt
cành lá mang về mà không biết rằng trong cây ngoài lá, cành còn có giác,
vỏ trong vỏ ngoài. Vì vậy người có mắt( có trí) thấy vậy bèn nói: Thật sự
người này không biết lõi cây, không biết giác cây và cành lá. Muốn tìm lõi
cây, người này khi tìm lõi cây đã bỏ qua và chỉ chặt cành lá mang về tưởng
là lõi cây. Như vậy người này không đạt được mục đích” (1).
Các Thầy các Cô cũng thế , đừng như là
người ví dụ ở trên, trước một câu to lớn đứng thẳng, nếu không biết rõ
ràng cành lá, không phân biệt được vỏ ngoài, vỏ trong, không biết rõ giác
cây và lõi cây, chỉ chặt một số cành lá đem về rồi cho đó là lõi cây, rồi
hoan hỷ tự mãn, khen mình chê người, rồi dừng lại ở đó.
Sự thành công của các Thầy các Cô hôm nay
có thể ví như Kinh Thí dụ lõi cây ở trên. Nếu các Thầy Cô tự kiểm lại,
mình đã gặt hái được những gì tronglời dạy của đức Phật, đừng là người chỉ
chặt cành lá mang về và cho là lõi cây. Cho dù lấy được lõi cây thì các
Thầy các Cô cũng chỉ được phép hoan hỷ, chứ không được phép tự mãn, lại
càng không được phép khen mình chê người. Nếu còn khen mình chê người, nếu
còn tự mãn, thì người ấy chỉ mới lấy được vỏ cây,lá cây chứ chưa được lõi
cây. Các Thầy các Cô phải cố gắng làm thế nào để cho mình thật sự lấy được
lõi cây.
Thiết tưởng, chúng ta ai cũng biết Ngài
Tam Tạng pháp sư Huyền Trang, một vị Cao tăng thông bác tu hành tinh tấn,
nhưng Ngài vẫn rong ruổi tìm cầu học hỏi để cầu tiến, Ngài đã nhập Trúc
cầu pháp và đã thực hành một cuộc cầu pháp vô tiền khoáng hậu. Cuộc cầu
pháp ấy Ngài đã trải qua, đã gặp phải bao nhiêu gian nan nguy hiểm mà
chúng ta đã biết rõ qua lịch sử, qua truyện Tây Du, qua phim ảnh…Cuộc
thỉnh kinh trong 16 năm đi cầu pháp, đến khi về nước suốt 19 năm phiên
dịch kinh không rời cây bút cho đến ngày nhắm mắt, cũng nhắm mắt trên ngòi
bút đang dịch dang dở. Ngài đã làm việc âm thầm chuyên chú, không ồn ào,
không phô trương, nhưng sự thành công của Ngài đã để lại cho chúng ta thấy
quí giá vô cùng . Cuộc thỉnh kinh của Ngài đã đúc kết trong một bộ sử
truyện gọi la Tây Vức Ký. Sau này ông Ngô Thừa Ân tiểu thuyết hóa thành bộ
Tây Du Ký và gần đây các nhà đạo diễn dựa vào đó mà dựng thành phim gọi là
truyện Tây Du hay là Đường Tam Tạng thỉnh kinhv.v…Trong cuộc thỉnh kinh
của Ngài vô cùng gian nan nguy hiểm, cách trở khó khăn. Nhìn thấy sự khó
khăn đó mà Ngô Thừa Ân đã tiểu thuyết hóa thành động ma, động quỉ. Trong
đó có một lần Tam Tạng pháp sư đã nói với Tôn Ngộ Không rằng: “Đường xá xa
xuôi cách trở, gian nan nguy hiểm như thế này làm sao mà đi đến Tây Trúc
Ngộ Không hè?”. Ngộ Không thưa: "Thầy có thuộc Bát Nhã Tâm Kinh không mà
thầy nói thế?”. Tam Tạng nói: "Thầy chùa ma không thuộc Bát Nhã Tâm Kinh
à ?” "Ta đọc ngược còn được nữa là”.
Khi ấy Ngộ Năng xen vào nói với Ngộ
Không: “Thế
thì anh có hiểu
không mà anh làm tang”.
Ngộ Không làm thinh, Tam tạng nói: “Nó
làm thinh thế
là nó hiểu”.
Ngộ Không được đà nói tiếp:
"Làm thinh, làm
thinh, làm thinh thấu
trong ruột,
đi hoài cũng thấu”.
Vậy chúng ta hãy học cách làm thinh đó.
Học cách làm thinh đó thì học hoài cũng thấu, tu hoài cũng thấu, chứ
thường thường chúng ta hay thắc mắc cái bịnh ồn ào, ồn ào nơi miệng, ồn ào
nơi thân, ồn ào cả nơi tâm nên học không chu đáo, tu không chu đáo. tại
sao chúng ta học và tu không chu đáo? Vì chúng ta đang học cái này mà qua
học cái kia, cái kia chưa xong nhảy qua cái nọ. Đang tu pháp môn này nhảy
qua tu pháp môn khác, cứ chạy vô chạy ra làm ồn ào cái tâm, xôn xao cái
miệng, nên mục đích không đi đến đâu hết !
Vậy tôi mong rằng Tăng Ni sinh tốt nghiệp
hôm nay, mới đi được một bước chứ chưa phải hoàn toàn đến nơi đến chốn.
Phải cố gắng tích cực nhiều hơn nữa, phải nhận thức được trong cái học đó
cái nào là chính, cái nào là phụ. Các Thầy các Cô phải biết rằng: Tác dụng
của mỗi môn học khác nhau. Ví dụ: Chúng ta học văn để làm văn, học toán để
làm toán, vậy thị học Phật để làm gì? Tức nhiên để làm Phật.
Do đó đừng quan niệm rằng: Học Phật cũng
như học văn, vì học văn chỉ biết làm văn chứ không thể làm Phật, học toán
chỉ biết làm toán chứ không thể làm Phật. Đặc biệt học Phật chỉ để làm
Phật mà thôi. Nhưng nếu học Phật mà không làm được Phật thì cũng bằng như
chưa học. Một người học Phật cũng bằng như chưa học. Một người học Phật ra
đi dạy nó khác với dạy văn, dạy toán. Dạy Phật là rao truyền cái pháp thâm
sâu, vi diệu theo cái hướng của đức Phật, theo cái nguyện của đức Phật,
chứ không phải un đúc một số kiến thức mà không tiêu thụ được. Như các
Thầy các Cô biết, không phải chỉ biết chữ nhiều mà giải thoát được ,lại
càng không phải rành ngôn ngữ nhiều mà được giải thoát hơn. Vậy sự giải
thoát đó nằm ở chổ nào? Đó là một cách đặt vấn đề để chúng ta tìm một cái
hướng suy tư, tìm học và thực hành để nhắm tới. Khi nào các Thầy các Cô
đạt được cái đích đó khi ấy tự nhiên sẽ trở thành một con người không phụ
công ơn giáo hoá của đức Phật, không phụ ơn Thầy Tổ dẫn dắt và cũng không
phụ công ơn của tất cả các vị thiện tín đã giúp đỡ trong bước đường tu
học.
Bấy nhiêu lời tôi mong mỏi các Thầy các
Cô cố gắng giữ gìn thiện ý cao quý của mình, tiếp tục con đường tu và
phụng sự chánh pháp, lợi lạc quần sanh, báo đáp công ơn Phật Tổ.
(*) Lời dặn
của Hoà thượng Thích Thiện
Siêu, phó chủ
tịch thường trực
HĐTS kiêm Trưởng
ban Giáo dục
Tăng Ni TW,tại
lễ tốt
nghiệp khóa
III của Tăng
Ni sinh Trường
Cao Cấp Phật
học Việt
Nam tại Tp.Hồ
Chí Minh ngày 14/1/97.
(1) Đại Kinh Thí dụ
lõi cây (Mahasoropama-suttam). Kinh Trung bộ 1, tr.303. Hòa thượng
Minh Châu dịch..
3
Tôi vô cùng hân hoan, được tham dự buổi
lễ Khánh thành cơ sở mới của Học viện Phật giáo Việt Nam tại Tp Hồ Chí
Minh, được tổ chức trang nhghiêm, long trọng và đầy đạo vị hôm nay. Tôi
không ngăn được niềm hỷ lạc khi nhìn thấy tòa kiến trúc mới khá đồ sộ,
vững chãi, với sự hài hòa giữa tính hiện đại và tính truyền thống trong
nghệ thuật và kỹ thuật xây dựng, tạo thành một hình ảnh độc đáo, tổng hợp
của sự tiện nghi và của mỹ thuật. Tôi lại càng vui mừng, vì thấy được
không khí đầm ấm hôm nay, với sự hiện diện quí báu và chân tình của Chư
tôn giáo phẩm, Chư Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni, Chư vị Đại
diện chính quyền, Đoàn thể ban ngành, Chư vị Phật tử và đặc biệt là Thượng
tọa Thích Quảng Tâm, cùng Chư vị Đại diện Hội Phật giáo Đồng tu Đài Bắc
Đài Loan, là ân nhân lớn, đối với cơ sở này và nhiều côngtrình Phật sự của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Sự việc này, một lần nữa khẳng định rằng,
công tác Phật sự của Giáo hội, cụ thể là của Học viện Phật giáo Việt Nam
tại thành phố Hồ Chí Minh, đã được sự ủng hộ nhiệt tình của đông đảo các
giới, các ban ngành và quần chúng.
Sự thành tựu, một lần nữa, chứng tỏ hiệu
năng của tinh thần vượt khó, ý chí phấn đấu và sức xoay sở, vận động kiên
trì của Học viện Phật giáo Việt Nam tại Tp Hồ Chí Minh, của Hòa thượng
Viện trưởng Thích Minh Châu, người mà nhiều chục năm qua , đã đóng góp
tích cực, cho Phật giáo Việt Nam, qua những công trình dịch thuật, nghiên
cứu Kinh tạng, nỗ lực tham gia lãnh đạo Giáo hội,và đặc biệt qua việc phát
triển giáo dục Phật giáo Việt Nam.
Thế là từ nay, Học viện Phật giáo Việt
Nam đã có một kiến thức tốt đẹp, phù hợp với một cơ sở Đại học, mà mọi
sinh hoạt,hiển nhiên là thuận tiện hơn trước nhiều. Dĩ nhiên một cơ sở
khang trang và tiện nghi, không phải là yếu tố chủ yếu quyết định, sự
thành công của Học viện, mà điều quan trọng nhất, vẫn là sự tổ chức, vấn
đề nhân sự và chất lượng sinh hoạt, giảng dạy và học tập. Đến đây , tôi
xin được nhắc lại một số nét cơ bản về giáo dục Phật giáo, đào tạo Tăng
Ni.
Từ “Giáo dục” chỉ xuất hiện tại Việt Nam
từ đầu thế kỷ 20, cũng như nhiều từ khác của văn hóa, khoa học Tây phương,
được người Nhật dịch ra tiếng Nhật, theo cách viết chữ Hán, và lại được
người Trung Hoa chấp nhận và sử dụng. Trong Phật giáo tương đương với từ
“Giáo dục” có cả một nhóm từ đồng nghĩa: Cảm hóa, giáo hóa, nhiếp hóa,
khuyến hóa, giáo thụ, giáo giới…Tất cả những từ trên, đều đặt trách nhiệm
vào người thầy, người thực hiện giáo dục, nhằm giúp người học vững tiến
trên con đường giải thoát, diệt trừ các ác pháp, tăng trưởng các pháp
thiện, bằng sự thực hiện Giới Định Tuệ. Mặt khác từ “Học” đã xuất hiện từ
lâu ở Trung Quốc, cũng như ở Việt Nam: học nhi tri, học nhi thời tập chi(
học ăn học nói học gói học mở). Trong kinh sách Phật học, từ “Học” nhằm
chỉ tính cốt yếu và thực tiễn của việc nghiên cứu chân lý, tu tập để đoạn
trừ vọng tưởng vô minh. Học bao gồm cả văn, tư, tu, lắng nghe, suy nghĩ,
tu tập Giới Định Tuệ. Cho nên học được xem là đồng nghĩa với tu học, tu
tậo, tu đạo, hành đạo, đều nhắm đến sự hướng thiện, tiến bộ và giải thoát.
Kinh Tạp A-hàm quyển 14 ghi lời Phật dạy: "Vị Tỷ-kheo ấy yểm ly, ly dục;
hướng đến diệt tận, đấy gọi là học”. Như thế, việc học trong Phật giáo,
chỉ nhằm mục đích tối hậu là giải thoát và học để hướng thiện, để hành cho
tốt đẹp, viên mãn. Đây chính là ý nghĩa đạo đức nổi bậc trong Phật học.
Từ đầu thế kỷ 20, Phật giáo lần lượt phát
triển ở các nước Âu Mỹ. Rất nhiều trường đại học lớn trên thế giới, đã
nghiên cứu và đưa Phật học vào giảng dạy, thành lập những phân khoa Phật
học, có đông đảo sinh viên theo học. Tại Châu Á, ngoài các đại học Tổng
hợp. còn rất nhiều trường Đại học Phật học ở Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Ấn Độ, Thái Lan, tại Việt Nam, hiện có ba Học viện Phật giáo Việt Nam ở Hà
Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh, đang tổ chức và sinh hoạt theo thể cách
của những trường Đại học Phật giáo. Cũng như các Trung cấp Phật học,các
học viện Phật giáo Việt Nam chỉ nhằm giáo dục và đào tạo Tăng Ni. Từ đó,
một nội dung giáo dục được nêu rõ là giáo dục đạo đức, rèn luyện phẩm chất
của người tu sĩ Phật giáo. Kinh nghiệm cho thấy, những Tỷ-kheo phải hoàn
tục, phần lớn là những người có học, được nhiều người biết đến, và có được
sự sống vật chất khá đầy đủ, mà như đức Phật đã dạy, đấy là nguyên nhân dễ
đưa đến sự phạm pháp hữu lậu, khiến Ngài phải vì hàng Tỷ-kheo mà kiết
giới. Do đó, mọi cơ sở giáo dục Phật giáo, trước hết cần phải là một cơ sở
giáo dục về đạo đức Phật giáo.
……..
Đã 14 năm trôi qua, kể từ khi thành lập
trường Cao cấp Phật học Việt Nam và chuyển đổi thành Học viện Phật giáo
Việt Nam tại thành phố Hồ Chí minh, cơ sở giáo dục này đã phát triển không
ngừng và đạt được những thành tựu khả quan. Tôi hết sức tán than khả năng
cao, nỗ lực lớn và kinh nghiệm phong phú của Hòa thượng Viện trưởng và của
Hội đồng Điều hành Học viện. Tôi tin với cơ sở này từ nay Học viện sẽ
tránh khỏi nhiều khó khăn trong việc tổ chức sinh hoạt. Trong Tương Ưng Bộ
Kinh, đức Phật nói với các Tỷ -kheo rằng: Đây là điềm đi trước, là tướng
báo trước mặt trời mọc, tức là rạng đông; cũng vậy, đây là điềm đi trước,
là tướng báo trước sự giác ngộ như thật Tứ Thánh đế, tức là chánh tri
kiến. Học theo ý đó, chúng ta có thể nói cơ sở này là điềm đi trước, là
tướng báo trước cho sự phát triển giáo dục Phật giáo có quy mô, đạt nhiều
hiệu quả hơn.
*Đạo
từ của
Hòa thượng Trưởng
ban Giáo dục
Tăng Ni Toàn quốc
nhằm dịp Khánh thành cơ
sở mới
Học viện
PGVN tại TP.
Hồ Chí Minh,
ngày 23-4-1999.
PHÁT TRIỂN CƠ SỞ ĐỂ ĐÀO TẠO TĂNG NI TÀI ĐỨC
1
Kể từ đầu thế kỷ 20, Phật giáo tại ba
miền Bắc Trung Nam được chấn hưng sau ngót bốn thế kỷ suy thoái, Phật giáo
Huế, từ sau thập niên 30 đã trở thành điểm trọng yếu của sự phát triển.
Nơi đây đã qui tụ nhiều bậc Cao tăng thạc đức trong rừng Thiền cùng các vị
cư sĩ mộ đạo vừa lo tổ chức Phật giáo thành Tỉnh hội, khuôn hội; vừa lo mở
trường đào tạo Tăng tại để có người hoằng dương Chánh pháp. Nhưng sau đó
thì hoàn cảnh chiến tranh nặng nề tại Huế và sau năm 1963, trung tâm hoạt
động của Phật giáo Huế đã thuyên chuyển vào Nam cùng với quý vị lãnh đạo
cao cấp Phật giáo. Từ đó Huế trở nên ngày càng đi vào thầm lặng: nhẹ về
giáo dục văn hóa và nặng về các hình thức sinh hoạt, tín ngưỡng.
Mãi đến năm 1994 mới đủ cơ duyên mở
trường Cơ bản Phật học với tổ chức tương đối ổn định để đào tạo cho Tăng,
Ni ba mặt Văn, Tư, Tu. Song song với tổ chức trường Cơ bản, nay một Đại
học Phật giáo lấy tên là Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế được ra đời.
Tháng 9 năm nay, 1997, Học viện Phật giáo đầu tiên tại Huế này đã khai
giảng để tiếp nối truyền thống Đại học Phật giáo tiền thân thành lập từ
trước năm 1945 tại Huế, mà đã đào tạo thành công nhiều vị tài đức đã và
đang đảm nhiệm nhiều trọng trách trong giáo hội.
Chúng tôi và chư Tăng, Ni, Phật tử Huế
rất vui mừng, xúc động trước sự kiện này, nhưng đồng thời chúng tôi cũng
rất âu lo vì sự thiếu thốn về cơ sở trường ốc, nhân viên giảng huấn và
ngân sách điều hành trong các ngày tháng dài trước mắt. Niềm âu lo ấy là
nhân duyên viết ra thư ngỏ này, mong được toàn thể Quý vị thông cảm, hổ
trợ chúng tôi về tinh thần, ý kiến và tài vật để xây dựng được một học
viện Phật giáo có quy mô, lợi ích cho cả hiện tại và tương lai.
Chúng tôi rất tin tưởng, với lòng tin Tam
bảo, tin Chánh pháp và tin vào một tương lai sáng lạng của Đạo pháp và Xứ
sở; với sự hỗ trợ của toàn thể Quý vị, Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế
sẽ được phát triển tốt đẹp.
Với niềm tin ấy, chúng tôi trân trọng
kính gởi đến toàn thể Quý vị lòng tri ân và lời cầu chúc tốt đẹp nhất.
Nam mô Thường Hoan Hỷ
Bồ-tát ma ha
tát.
2
Nam mô Bổn sư Thích-ca-mâu-ni Phật
Trước thềm năm mới, xin thay mặt Hội đồng
Điều hành Học viện và Ban Giám hiệu Trường Cơ bản Phật học cùng toàn thể
Tăng ni sinh, tôi cầu chúc quý Phật tử và gia quyến một mùa xuân an lạc và
hạnh phúc.
Trong nhiều năm qua, Nhà trường nhận được
rất nhiều ưu ái từ chư Tôn đức Tăng ni, quý Phật tử trong và ngoài nước,
nhất là đã nhận được sự hỗ trợ thường xuyên của quý vị, làm cho chúng tôi
vô cùng xúc động và rất tin tưởng, vào tiền đồ của Học viện. Vì thế, mặc
dù gặp rất nhiều khó khăn, chúng tôi đã cố gắng mạnh dạn thành lập Học
viện Phật giáo, mong sao cho tương lai Phật pháp luôn phát triển.
Chúng tôi không làm sao quên được rằng,
ngay từ khi thành lập Trường Cơ bản Phật học, quý vị đã mau mắn thông cảm
với Phật sự đào tạo Tăng tài này mà đã hết mình hỗ trợ thường xuyên trong
hơn 4 năm dài, cho đến gần đây khi học viện sắp thành lập và đang tiến
hành công tác xây dựng, quý vị cũng đã chung lo với chúng tôi, chia sẽ một
phần gánh nặng, nhờ vậy mà Trường Cơ bản cũng như Học viện được tiến hành
đều đặn tốt đẹp. Trước những thịnh tình ấy, xin thay mặt Hội đồng Điều
hành Học viện, Ban Giám hiệu Trường Cơ bản và toàn thể Tăng ni sinh cảm ơn
nhiệt tâm của quý vị, cầu nguyện ơn trên Tam bảo gia hộ quý vị và gia
quyến luôn sống an lạc, hạnh phúc trong giáo pháp từ bi của Phật.
Một lần nữa xin cầu chúc quý vị một mùa
xuân Mậu Dần thân tâm an lạc, đức trí vẹn toàn.
Phật
lịch 2541,
Huế, ngày 18
tháng 01 năm 1998.
3
Sau một thời gian dài chuẩn bị, vận động,
tổ chức và tiến hành các thủ tục. Hoc viện Phật giáo Việt Nam tại Huế đã
long trọng khai giảng với một Hội đồng Điều hành một bộ phận Văn phòng,
một Ban Học vụ, Ban Giảng huấn, Ban Bảo trợ…đầy đủ khả năng, kinh nghiệm
để đào tạo hơn 160 Tăng Ni sinh ở cấp Đại học Phật học. Thay mặt Ban Giáo
dục Tăng Ni Trung ương, toi xin bày tỏ niềm hân hoan, sự tán than nhiệt
tình trước thành tựu ý nghĩa này.
Thế là tâm nguyện của Cố Hòa thượng Pháp
chủ GHPGVN đã được thực hiện, ba miền của đất nước đã có ba cơ sở Đại học
của Phật giáo, chứng tỏ một bước phát triển lớn của Phật giáo Việt Nam
trong hướng vươn lên mạnh mẽ của đất nước. Giáo hội ghi nhận quyết tâm
phát triển của Tỉnh hội Phật giáo Thừa thiên- Huế, của chư Hòa thượng,
Thượng tọa, Đại đức Tăng, Ni cùng chư vị cư sĩ Phật tử đã bỏ ra bao nhiêu
công sức mới có được thành tựu này. Giáo hội cũng ghi nhận sự lưu tâm chí
tình của Nhà nước, đặc biệt là của Chính quyền Thừa Thiên-Huế đã làm hết
sức mình để cho Học viện sớm được thành lập. Giáo hội cũng chân thành cảm
ơn chư Tăng, Ni Phật tử cùng các Tổ chức thân hữu, các vị hảo tâm ở trong
và ngoài nước đã đóng gớp ý kiến, khích lệ và đã phụ trợ tài chánh, hiện
vật cho Học viện. Tất cả những nghĩa cử cao quý này hẳn là sự động viên
mạnh mẽ, những cơ duyên thiện lành để Học viện ngày càng phát triển và đạt
những thành quả tốt đẹp.
Thừa Thiên-Huế được kể là một trung tâm
Phật giáo kể từ khi đất nước mở rộng về phía Nam hơn 300 năm qua, đã là
nơi xuất thân của nhiều bậc Cao tăng thạc đức đã đóng góp lớn lao cho sự
nghiệp đào tạo Tăng tài, truyền bá Chánh pháp, xây dựng văn hóa, tổ chức
Giáo hội…Các cơ sở nổi danh là những trung tâm đào tạo Tăng tài như Tây
Thiên, Kim Sơn, Tường Vân, Từ Đàm v.v…và đặc biệt là 4 Báo Quốc. Học viện
Phật giáo Việt Nam tại Huế nay được thành lập trên đất thần kinh này mà
ảnh hưởng Phật giáo đã vô cùng sâu đậm với những truyền thống tốt đẹp.
Chúng tôi tin tưởng rằng Học viện sẽ vươn lên mạnh mẽ, sẽ được ủng hộ
nhiệt tình của Chư Tăng Ni, Phật tử cũng như của Chính quyền, nhân dân, sẽ
tô điểm thêm nét đẹp trong học thuật và văn hóa của Cố Đô và của cả nước
ta. Chúng tôi nhận rõ những khó khăn mà Học viện cũng như hầu hết mọi cơ
sở Phật giáo hiện nay đang gặp phải, đó là những khó khăn về tổ chức, nhân
sự, cơ sở và tài chánh. Học viện phải cần đến sự giúp đỡ tinh thần và vật
chất, sự bổ sung nhân sự để phát triển trong tư thế vững vàng. Học viện
còn cần phải mở rộng giao lưu đến các cơ sở thân hữu, cụ thể là các trường
Đại học, các cơ quan văn hóa, các tổ chức thiện chí trong và ngoài nước,
để có thể được hỗ trợ, được triễn khai khả năng phát triển của mình.
Mới đây, Giáo hội đã có văn thư gởi đến
các Ban Trị sự Tỉnh, Thành hội Phật giáo trên cả nước, yêu cầu giúp đỡ Học
viện Phật giáo tại Huế. Nay một lần nữa, Giáo hội kêu gọi sự đóng óp của
quý cơ sở cũng như sự ủng hộ của Chính quyền, của các tổ chức thân hữu, cá
nhân Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước để Học viện Phật giáo Việt Nam
tại Huế thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục và đào tạo Tăng Ni mà Giáo hội
giao phó, đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn phát triển mới của đất nước và
của Giáo hội.
Thành phần nhân sự của Học viện hiện nay
bao gồm nhiều Cao tăng, Giáo sư, Học giả và chuyên viên trong Giáo hội tại
các trường Đại học; các Học viện tại Huế, tại thành phố Hồ Chí Minh và cón
có thể ở nhiều nơi khác, đều là những vị có đầy đủ khả năng, king nghiệm.
Tăng Ni sinh ở Huế vốn có truyền thống học giỏi, đạo đức, cần cù. Chúng
tôi mong mỏi các Tăng ni sinh của khóa đầu tiên này thể hiện truyền thống
tu học của Thừa Thiên-Huế, tích cực tham gia mọi sinh hoạt của Học viện,
tiếp thu tốt nội dung Giới-Định-Tuệ mà Học viện truyền đạt.
Giáo hội và nhất là Ban Giáo dục Tăng Ni
Trung ương đặt niềm tin ở Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế.
Chúng tôi mong mỏi các cơ quan Ban ngành
từ Trung ương đến địa phương tiếp tục ủng hộ, tạo điều hiện tốt cho Học
viện hoạt động hữu hiệu.
Ngưỡng cầu Tam bảo gia hộ cho toàn thể
chúng ta trong tất cả Phật sự vì Đạo vì Đời.
Nam mô Thường Hoan Hỷ
Bồ-tát Ma ha
tát.
(Lời phát biểu
của Hòa thượng
Thích Thiện
Siêu, Phó Chủ
tịch Thường
trực kiêm Trưởng
Ban Giáo dục
Tăng Ni Trung ương
nhân lễ khai giảng
Học viện
Phật giáo Việt
Nam tại Huế,
ngày 12-9-1997)
4
Tại Đại Hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc
mở tại chùa Quán Sứ để thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam cuối năm
1981, khi Đại hội suy củ Hòa thượng Thích Đức Nhuận, 85 tuổi lên ngôi Pháp
chủ Giáo hội, Hòa thượng có đưa ra 3 đề nghị.
1.Phật giáo được phép mở trường Phật học
để đào tạo Tăng tài trước tiên tại Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh.
2.Phật giáo được phép nuôi chúng điệu để
có người thừa kế.
3.Tín đồ Phật giáo được tự do đi lễ chùa,
nghe giảng.
Ba đề nghị này được toàn thể Đại hội rất
hoan nghênh và được cũ Phạm Văn Đồng, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lúc bấy
giờ chấp nhận.
Từ đó các Tỉnh bắt đầu liên tục mở
Trường, đến nay cả nước đã có hai Trường Cao cấp Phật học và 22 Trường Cơ
bản Phật học. Ngay tại miền Bắc đã mấy chục năm qua không có Trường, thì
nay cũng đã mở được mấy trường, tại miền Nam có 17 trường; những Tỉnh như
Long An, Mỹ Tho, Ba Rịa- Vũng Tàu. Lâm Đồng xưa nay chưa có Trường đến nay
cũng đã có. Thế mà ở Huế chúng ta hôm nay mới bắt đầu khai giảng . Nếu so
với các Tỉnh khác thì Huế bị tụt hậu hơn 10 năm, đây là một trong những
điều đã làm mất đi thiện cảm trọng nễ của các nơi khác dành cho Phật giáo
Huế, từ hơn nữa thế kỷ qua. Thế nhưng hình thành cho được buổi lễ khai
giảng hôm nay cũng không phải dễ nếu không có sự kiên trì, nhẫn nại của
Ban Trị Sự và nhiều vị khác khuyến khích ủng hộ; cũng như sự quan tâm giúp
đỡ của chính quyền. Mặt trận, Ban Tôn giáo tỉnh. Hơn nữa là sự hiện diện
quí báu của quí vị hôm nay thì buổi lễ này tưởng đã không có được.
Vậy chúng tôi xin chân thành cám ơn quí
vị, cầu chúc quí vị luôn luôn an lành và mong được quí vị luôn hỗ trợ cho
chúng tôi để chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ cao cả đào tạo nên sứ giả tốt
cho đạo mà cũng là những người bạn lành chân thật cho đời trong hướng đi
lên xây dựng cuộc đời an lành hạnh phúc.
Giờ đây, tôi xin phép quí vị để nói với
học Tăng học Ni.
Các học Tăng, học
Ni thân mến
!
Các con nên lấy buổi khai giảng hôm nay
làm vui mừng,vì đây là một cơ hội tốt cho các con tiến lên con đường học
tập có qui cũ. Nhờ sự học tập có qui cũ các con mới hiểu đức Phật như thế
nào? Rồi mới có thể tu hành đúng đắn theo đạo Phật, mới trở thành một
người xuất gia có ích lợi cho chính mình, có ích lợi cho Đạo. Nếu tu mà
không học là tu mù; nếu học mà không tu là học què. Mù và què thì không đi
đến đâu được cả. Cho nên học và tu là hai điều song song luôn luôn phải
trau dồi tiến bộ. Đối với đạo Phật chúng ta, học và tu gắn liền nhau, chứ
không phải ngày hôm nay học để ngày mai mới tu. Chính trong lúc học là học
để mà tu, tu để mà học. Bởi vì bao nhiêu lời dạy của đức Phật đều là những
lời dạy răn nhắc, khai mở tâm trí cho chúng ta đi trên con đường giải
thoát, chứ không phải chỉ đưa ra những kiến thức suông, kiến thức khoa học
mà không tương quan gì đến nhân phẩm đạo đức đời sống của con người. Vậy
cho nên học Tăng học Ni phải cố gắng xem đây là một cơ hội tốt, không nên
lơ là bỏ qua mà đem hết tâm chí của mình tận lực học hỏi những lời của
thầy đã truyền trao lại cho mình, hầu một ngày kia có một căn bản giáo lý
rồi từ đó các con mới có thể phát triển lên được. Trong tuổi thơ ấu là
tuổi ngọc này, nếu các con lơ là bỏ qua thì sau này khó có thời gian học
lại được, cho nên Thầy mong tất cả các con cố gắng, dù gặp khó khăn gì,
trở ngại gì , cũng không nên lùi chí trên con đường học tập của mình.
Nếu các con còn trong tuổi trẻ mà không
học, các con sẽ mù mịt trong ngày tương lai khi làm thầy. Thầy kể cho các
con nghe câu chuyện như thế này. Một chú tiểu ngày ngày cứ ngâm nga 1 bài
kệ rằng: "Nhơn sanh bách tuế, bất kiến thủy lão hạt, bất như sanh thất
nhật, nhi đắc kiến chi”. Nghĩa là ; "Người sống 100 tuổi, không thấy con
hạc già, thì chẳng bằng sống chỉ một ngày mà thấy được con hạc già”. Và
chú cứ ngâm nga bài kệ đó mãi. Hôm nọ, Tôn giả A-nan nghe được bèn hỏi:
bài kệ đó ai dạy cho con? Chú tiểu thưa rằng: Dạ, Thầy dạy cho con. Thầy
con nói rằng bài kệ đó chính Phật truyền lại. Tôn giả A-nan nghĩ rằng:
Phật truyền lại bài kệ đó bao giờ, ta là một người đa văn gần Phật nghe
suốt cuộc đời thuyết giáo của Ngài, ta đâu có nghe Phật dạy bài kệ lạ lùng
như thế, lại không có ý nghĩa gì cả. À, chắc là con đã học nhầm rồi, để ta
nhắc lại, chỉ lại con đọc cho đúng. Ngài liền đọc lại như thế này: "Nhơn
sanh bách tuế, bất kiến sanh diệt pháp, bất như sanh nhất nhật, đắc kiến
sanh diệt pháp” ( Người sống 100 tuổi không thấy lẽ vô thường biến dịch
của vũ trụ, không bằng chỉ sống một ngày mà thấy được lẽ vô thường biến
dịch của vũ trụ). Con hãy đọc lại cho đúng như thế. Chú tiểu liền đọc lại
theo lời Tôn giả A-nan. Ông thầy nghe được lời đọc lại đó, trái tai, kêu
học trò tới đánh, và bảo: Tại sao ta đã dạy như kia, bây giờ mầy lại đọc
như thế này; vậy ai dạy mầy, ai bảo mầy mà lại đọc sai lời ta dạy như vậy?
Chú tiểu thưa rằng : Đó là do Tôn giả A-nan chỉ lại cho con như thế? Ông
thầy lại nói rằng: Ồ! Tôn giả A-nan đã già nên lú lẫn, đâu có hiểu gì nữa
mà nói cho đúng, cứ đọc nguyên như cũ cho ta.
Than ôi! Khi làm tiểu đọc như thế, đến
lúc làm thầy cũng đọc như vậy, thì còn gì là Phật pháp.
Cho nên, đến ngày hôm nay chúng ta nếu
không học, thì chúng ta cũng chỉ là một chú tiểu và cũng chỉ là một ông
thầy dạy cho học trò đọc cây kệ vô nghĩa đó thôi. Khi một người xuất gia
đọc lời Phật vô nghĩa, thì người đó giáo hóa ai được, truyền bá cho ai
được, một người xuất gia tự mình không lợi, cũng không lợi cho người khác,
thì thử hỏi đời sống xuất gia còn có ý nghĩa gì, có đúng với hoài bảo của
đức Phật dạy: Tự giác, giác tha, tự lợi, lợi tha hay không?
Thế cho nên các con hãy cố gắng, cố gắng
học hết sức. "Dầu ai nói ngả nói nghiêng, ta cứ vững như kiền 3 chân”,
gắng mà học chứ không có thay đổi gì hết, đừng nghe hôm nay người ta nói
học chi rứa mà học, học để làm công cụ, người khác nói, học chi mà học,
học tào lao không phải học chí xuất gia. Đừng, đừng có nghe lầm như thế.
Các con đã gặp cơ hội học, bao nhiêu những cái gì trái, gắng để ra ngoài
tai.
Muốn tiến bộ phải theo minh Sư.
Muốn hiểu đạo phải có minh sư, phải có
bạn lành. Đức Phật đã dạy: Bạn lành là một nửa phần cho sự đắc đạo giải
thoát của chúng ta. Vậy cho nên trên bước đường học, ngoài thầy minh sư
ra, các con nên chọn bạn mà chơi, đức Phật dạy: Nếu không gặp người hơn
mình, không gặp người ngang mình để kết bạn, thà sống một mình còn hơn kết
bạn với người ngu; kết bạn với người ngu là người tham lam, ích kỷ, nhỏ
mọn, hẹp hòi, nhát nhớm và đọc những lời lời Phật mà sai đi như chú tiểu
kia thì thật là uổng phí.
Các con nên nhớ như vậy, để cố gắng tiến
bộ trên bước đường học tập của mình. Thầy thấy rằng đây là một cơ duyên
rất tốt, các con có thể khó mà gặp lại được. Bởi vì, các con đã biết xứ
Huế này là đã thụt lùi thua người ta về việc mở trường Cơ bản Phật học này
rồi, cho nên ngày hôm nay được cơ hội là học, chứ không nói tới nói lui,
nói qua nói lại gì hết, chăm chỉ một đường tiến tới mà thôi.
Tiếp theo chúng tôi xin kính thưa các vị
Giảng viên.
Giáo dục là nền tảng của văn hóa, văn
minh. Văn hóa văn minh nhờ giáo dục mà có, qua văn hóa văn minh người ta
biết đến sự giáo dục như thế nào, con người có văn hóa văn minh mới thành
con người. Nếu không có văn hóa văn minh thì cũng khó mà thành được một
con người đúng nghĩa cao quý của nó. Nhưng mà có được sự giáo dục phải nhờ
thầy hay, tận tâm tận lực với học trò, đem hết kiến thức tâm tư của mình
để trao truyền những điều haylẽ phải cho học trò.
Không ai sanh ra đã biết, nhờ học mà biết, nhờ khốn cùng mà biết, "sanh như tri, học
như tri, khốn
như tri”, rất khó, đó là một điều cần học,
nhưng làm sao học nếu không có Thầy.
Cho nên việc giáo dục, làm thầy là ngôi
sao sáng dẫn đường cho học trò, ngôisao sáng chừng nào thì học trò càng
thấy sáng đường mà đi chừng nấy được. Vì thế, cho nên vị trí của một vị
giáo sư cao quí. “Nhứt
tự vi sư,
bán tự vi sư”.Dù
dạy chỉ một chữ , học trò cũng phải tôn trọng là Thầy, dù dạy nửa chữ học
trò cũng phải tôn trọng là Thầy, cao quí như thế. Bởi vì sao, nửa chữ một
chữ ấy cũng là một ngọn, một tia lửa sáng để soi đường cho chúng ta đi ra
khỏi chổ tối tăm. Cao quí ấy, vì thế cho nên chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ
giáo dục để giúp cho các học tăng học ni được càng ngày càng tiến bộ.
Tiếp đến chúng tôi cũng xin thưa các vị
Bổn sư của học Tăng học Ni. Các vị cho đệ tử của mình đến học đây, không
có nghĩa rằng, các vị giao phó người đệ tử của mình cho trường, mà đồng
thời các vị còn có bổn phận nhắc nhở đệ tử của mình từ việc học cho đến
việc tu. Vì vậy nếu một học tăng hay học ni có điều không đúng, học nhát
nhớm, chơi bời lêu lỏng, hạnh kiểm không tốt, cái đó không phải nhà trường
chịu trách nhiệm hết đâu. Nhà trường chỉ chịu trách nhiệm một phần nhỏ mà
thôi, chính các vị chịu trách nhiệm phần rất lớn. Cho nên mong mỏi các vị
luôn luôn để tâm dìu dắt hàng đệ tử của mình để khỏi thua chúng kém bạn,
Và tiếp đến tôi cũng xin thưa Ban bảo
trợ. Nói gì thì nói, Trường có được đứng vững hay không, lâu bền hay
không, được phát triển tốt đẹp hay không cũng đều do sự bảo trợ của sự của
các vị. Nếu sự bảo trợ này mà yếu,nhất định sự phát triển của trường cũng
yếu, nên việc đó mong mỏi các vị cố gắng, tích cực, vui vẻ, coi như là một
nhiệm vụ công đức lớn lao, để giúp chúng tôi được hoàn thành trên phương
diện giáo dục các tăng ni, để làm xây dựng một Tăng Ni tốt, thì tương lai
sẽ thành một Tăng Ni tốt, một vị thầy tốt. Thì đó là một điều chúng ta đã
thực hiện theo bản hoài của đức Phật.
Trước khi dứt lời,một lần nữa tôi kính
cầu chúc tất cả quí vị luôn luôn được an lành mạnh khỏe.
Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật.
(* Lời phát biểu
của HT.
Thích Thiện
Siêu, Hiệu
trưởng Trường
Cơ bản
Phật học
Tỉnh Thừa Thiên- Huế.)
5
Hôm nay,ngày 04 tháng 06 năm Tân Tỵ, PL.
2.545 (24/07/2001). Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế long trọng làm lễ
Tốt nghiệp và Cấp phát văn bằng Cử nhân Phật học cho Tăng Ni sinh khóa I
(1997-2001). Đây là một cái mốc đánh dấu thành quả sau những năm tháng
chuẩn bị đầy khó khăn thiếu thốn, vừa lo thực hiện kế hoạch xây dựng phát
triển cơ sơ vật chất, vừa lo điều hành hoạt động của ngành giáo dục Tăng
Ni Thừa Thiên-Huế, trong ý hướng xây dựng nền Đại học Phật giáo, đào tạo
Tăng Ni có đủ tài đức có thể đáp ứng giai đoạn phát triển mới của đất nước
và của Giáo hội. Tôi vô cùng hân hoan và cảm kích trước sự hiện diện quý
hóa, chân tình và đầy khích lệ của chư liệt vị và chúng tôi vững tâm tin
tưởng rằng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế sẽ còn đạt được những thành
tựu khả quan hơn, các Phật sự sắp đến sẽ vẫn luôn được sự ủng hột thịnh
tình của chư liệt vị.
Chúng tôi xin bày tỏ lòng tri ân của
chúng tôi đối với sự lãnh đạo của Giáo hội, đối với sự giúp đỡ của các cấp
Chính quyền. Ban Tôn giáo: sự nhiệt tình bảo trợ của chư vị ân nhân thân
hữu. Chúng tôi không quên ơn chư Tôn túc, chư vị Giáo sư trong Ban giảng
huấn, chư vị thành viên trong Văn phòng Học viện đã tận tình đóng góp khả
năng, công sức của mình trong suốt khóa học vừa qua. Trong nỗ lực làm tròn
nhiệm vụ giáo dục rất cao quý mà cũng rất khó khăn này, nếu có được những
thành tựu nào, chúng tôi xin hồi hướng công đức đến hết thảy chư vị ân
nhân tâm huyết ấy. Để đáp lại công lao và nhiệt tình hỗ trợ của chư liệt
vị, chúng tôi nguyện sẽ cố gắng hết sức để tiếp tục xây dựng và phát triển
mọi mặt hoạt động của Học viện đúng theo chủ trương giáo dục Phật giáo đã
được Giáo hội đề ra và đã được nhà nước đồng tình ủng hộ. Đó xây dựng một
nền giáo dục dựa trên giáo lý trí tuệ và từ bi của đức Phật, nhằm đào tạo
những người hảo tâm xuất gia vững tiến trên con đường giải thoát, diệt trừ
các ác pháp, tăng trưởng các thiện pháp, góp phần xây dựng đạo đức, an
sinh xã hội mà thời đại chúng ta đang rất cần đến.
Khẩu hiệu của học viện tại Huế là
“Văn-Tư-Tu”, tức là nghe giảng và thu thập kiến thức từ giáo lý của đức
Phật qua kinh điển, lời giảng dạy của các thiện tri thức giáo thọ sư; tư
duy, suy nghĩ, phân tích những điều đã được nghe, được nhận; tu tập, thực
hành và phát huy những gì đã được nghe biết, được tư duy và chấp nhận. Tất
cả sẽ đưa đến cái trí tuệ sáng suốt về sự nghe biết, sự tư duy, sự tu tập.
Học viện chúng tôi giúp các Tăng Ni sinh phát triển trí huệ. Trí tuệ là
Phật trí, trí tuệ soi sáng con đường giải thoát, trí tuệ vạch ra phương
cách hành động, trí tuệ giúp từ bi phát triển. Trí và bi là cốt lõi tạo
nên tính cách nhân bản của Phật giáo vậy. Học viện nỗ lực nhằm phát triển
Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ ở mỗi Tăng Ni sinh. Chúng tôi mong được góp phần
cụ thể vào việc tạo điều kiện thuận lợi cho người học trên đường tự giải
thoát, giải thoát tha nhân, phục vụ hữu hiệu cho xã hội, đất nước.
Đến đây ,tôi xin được có vài lời cùng các
Tăng Ni sinh Tốt nghiệp Cử nhân Phật học khóa I của Học viện.
Các con thân
mến
!
Thế là các con đã trải qua bốn năm học
tập dưới mái trường Học viện này, một cơ sở được thành tựu do bao công sức
của bao nhiêu là ân nhân tình nghĩa. Các con đã trãi qua một chương trình
học được dày công nghiên cứu cho phù hợp với mục tiêu đào tạo Tăng tài của
Giáo hội trong giai đoạn phát triển mới giữa xu thế của thời đại.
Văn bằng Cử nhân Phật học mà các con sắp
được nhận lãnh sẽ như là một chứng tích của công sức học tập bốn năm của
chương trình Phật học cao nhất hiện nay của hệ thống giáo dục Tăng Ni của
giáo hội, đồng thời cũng là một kỷ niệm của nghĩa cả tình thâm dưới mái
trường Học viện này.
Văn bằng Cử nhân Phật học mà các con sắp
nhận lãnh, được giáo hội công nhận, là thước đo nhân sự để Giáo hội giao
phó các Phật sự, được nhiều trường Đại học ở nhiều nước công nhận, được
ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương có căn cứ để chuẩn bị cho các cấp Cao học,
Tiến sĩ Phật học trong kế hoạch phát triển giáo dục lâu dài, cũng như phát
triển cấp sơ học, trung học Phật giáo.
Văn bằng Cử nhân Phật học mà các con sắp
được nhận lãnh, sẽ là một cơ duyên tốt cho các con tiến lên, chứ không
phải ngược lại. Phật dạy: “Pháp của Ta đến để mà thấy , không phải đến để
nhờ người khác thấy”. Cho nên những pháp mà các con đã được nghe rồi phải
cố gắng làm sao để thấy nữa. Các con lúc này như người đi tìm trâu mà mới
tìm thấy dấu chân, còn phải dày công theo dấu chân đi tìm thấy trâu thật
rồi, luyện tập trâu cho thuần bạch, thì còn là cả một quá trình đầy khó
khăn, nếu không kiên gan bền chí thì không vượt qua được. Vậy thầy khuyên
các con hãy cố gắng. Cầu mong Tam bảo hộ trì cho các con.
Chúng tôi rất tin tưởng và cầu mong chư
tôn Thiền đức, chư vị Phật tử, chư vị hảo tâm trong và ngoài nước đặc biệt
lưu tâm và ủng hộ chúng tôi về vật chất và tinh thần để khóa II (
2001-2005) của Học viện được thành tựu viên mãn.
Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật.
6
Năm 1981 trong đại hội thành lập Giáo hội
Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) , Hòa thượng Pháp Chủ Thích Đức Nhuận đã xin
nhà nước mở trường đào tạo tăng tài và được cụ Phạm Văn Đồng, Thủ tướng
lúc bấy giờ chấp nhận liền.
Sau khi thành lậo Giáo hội xong, các tỉnh
Giáo hội bắt đầu xin phép mở trường Phật học. Do điều kiện chủ quan và
khách quan có nơi mở trước có nơi mở sau, nhưng tiếp tục từ đó đến nay,
1995, đã có 24 trường Cơ bản Phật học. Có nơi từ trước tới nay chưa có
trường Cơ bản Phật học như ở miền Bắc, mấy chục năm ở trong tình trạng
kháng chiến chưa mở được thì nay đã mở được 5 trường. Ở miền Nam cũng có
nơi trước đây chưa hề có thì nay cũng có trường Cơ bản Phật học. Đó là
điều đáng mừng trong sinh hoạt của GHPGVN. Bởi vì Giáo hội ý thức được
rằng, Phật giáo Việt Nam (PGVN) đã gắn liền với dân tộc từ thế kỷ thứ I
cho đến ngày nay. Thời nào lúc nào cũng vậy, có những vị cao tăng hữu đức
hoằng dương chánh pháp để cùng với dân tộc giữ gìn đất nước thì thời đó
thạnh trị. Chẳng hạn như đời Lý, đời Trần, trong lịch sử Việt Nam là một
minh chứng. Trong đời Lý có Lý Công Uẩn xuất thân từ nhà chùa mà lên ngôi
Hoàng đế, mở đầu triều đại nhà Lý đầu tiên. Triều đại nhà Trần, vua Trần
Thái Tông trước khi lên làm vua đã lên núi Yên Tử tầm sư học đạo, nhưng
sau vì lòng mong mỏi của dân chúng đã trở về làm Vua. Cho nên hai triều
đại đó đã mang sắc thái của Phật giáo trong sự cai trị đất nước, đọc lịch
sử chúng ta cũng thấy rõ điều đó. Chính nhà sử học Trần Xuân Hãn nói:
Triều đại Lý là triều đại thịnh trị nhất trong lịch sử Việt Nam chúng ta.
Triều đại nhà Lý là một triều đại đứng vững nhất, tồn tại vững chắc sau
bao nhiêu năm chúng ta bị Bắc thuộc bầm dập. Khi nổi lên tự chủ được ba
năm thì sập xuống. Phải đến triều đại nhà Lý thì nền độc lập mới vững vàng
trên 200 năm xây dựng cơ sở độc lập cho đất nước Việt Nam. Kể từ đó cho
đến ngày hôm nay, Việt Nam đã có tiếng tăm, sánh vai cùng bè bạn năm châu
trên thế giới, trong đó Phật giáo đã góp một phần không nhỏ.
Ngày hôm nay nhà nước kêu gọi tất cả mọi
người phải ý thức bản sắc của dân tộc, trở về cội nguồn dân tộc. Chính
trong sự trở về nguồn ấy cũng có sự trở về của tư tưởng, phong tục tập
quán, văn hóa trong đó có tôn giáo Phật giáo chúng ta, là một bộ phận xoay
quanh vấn đề văn hóa và tập quán không thể tách rời.Cho nên việc đào tạo
tăng tài cũng phải nhắm vào ý hướng đó, nhằm giáo dục một thế hệ tăng ni
trẻ có tài có đức để cùng nhau hoằng dương Chánh pháp, góp phần xây dựng
giữ gìn nền văn hóa Việt Nam trước một trào lưu vật chất ồ ạt xâm nhập, mà
nếu chúng ta không khéo thì chúng ta tự phá vỡ bản sắc dân tộc của chính
mình. Cho nên Giáo hội rất thao thức đến điều này nhưng lực bất tòng
tâm.Mặc dù các vị có đề nghị với Ban Giáo dục mở một lớp đào tạo giảng
viên có sư phạm và chuyên môn sâu để dạy dỗ cho đàng hoàng, chúng tôi rất
hoan nghênh. Các vị cũng đề nghị có giáo trình giáo án đề nghị có giáo
trình giáo án để phổ biến cho các trường trong nước và giúp cho các trường
Cơ bản thêm tài chánh để tạo cho cơ sở thêm phương tiện đầy đủ hơn.Chúng
tôi cũng xin hoan nghênh.
Nhìn chung những đề nghị trên là cần
thiết và chúng tôi cũng thấy là cần thiết và chúng tôi cũng thấy là cần
thiết.Nhưng cũng rất tiếc lực bất tòng tâm.Ban Giáo dục chưa thể thực hiện
được, mong các vị thông cảm cho.
Phật giáo chúng ta làm việc trên sự phát
tâm, trên sự hảo tâm của tín đồ. Phật giáo không có một cơ sơ tài chính
nào cả, ngay cả Giáo hội Trung ương cũng sinh hoạt trên sự phát tâm của
tín đồ mà thôi, huống chi Ban Giáo dục lại không rành và chuyên môn kinh
tài. Cho nên về phương diện vật chật thì khá eo hẹp ( quá eo hẹp) hay nói
đúng là không có chi ! Có mà nói nghèo, chứ còn đây không có chứ không
phải nghèo được. Nghèo nhưng còn có chút ít thua nghèo,nhưng không, ở đây
là không có chi cả thì nói không phải nghèo được.Cũng vì lẽ đó mà lắm
khi chúng tôi muốn đi thăm các trường Cơ bản nhưng có phần hơi e ngại, khi
đi thăm khích lệ không, lần đầu có thể rất mặn nồng, ấm cúng, nhưng lần
thứ hai, thứ ba không có gì kèm theo thì chắc không khích lệ được! Vì vậy
trong sự đi thăm viếng của chúng tôi cũng có một phần nào e ngại là vậy.
Vấn đề giáo trình giáo án. Phật giáo
chúng ta mở trường như thế này thật rất bầm dập. Mỗi nơi có trường Phật
học riêng, ai đâu biết nấy chứ chưa có sự thống nhất trong cả nước. Khi
trải qua thời gian chiến tranh, một số phải đóng cửa không dạy được. Phải
đợi đến năm 1981, sau đó các trường Phật học mới mở để đào tạo, kể từ đó
mới có qui củ trên phương diện nội dung và tinh thần. Chúng tôi hy vọng
sau Đại hội Phật giáo kỳ IV thế nào cũng có các lớp gọi là bồi dưỡng sư
phạm cho các trường Cơ bản Phật học.Còn giáo trình giáo án thì có lẽ từ
các vị giảng viên của các trường Cơ bản nộp về cho Ban từ đó Ban mới dựa
vào đó rút kinh nghiệm và sẽ phổ biến thị tiện hơn.
Qua lời phát biểu và đón tiếp của quí
vị,chúng tôi rất có cảm tình sâu đậm đối với Giáo hội và Ban Giám hiệu ở
đây. Tôi xin tán thán. Cầu chúc quí vị luôn luôn dũng mãnh để làm tròn
nhiệm vụ quí báu của mình đối với công cuộc Hoằng dương Đạo pháp và đào
tạo tăng tài ở tỉnh nhà.
7
Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Nâu Ni Phật.
Vừa qua cũng tại
truớc Tam Bảo
ở đây, Tỉnh
hội Phật giáo Thừa
Thiên đã làm lễ
khai giảng
trường Cơ
Bản Phật Học
Thừa Thiên-
Huế. Một buổi
lễ khai giảng
sau bao nhiêu chờ
đợi mong mỏi
của các vị Hòa thượng,
Thượng tọa
Đại đức
Tăng Ni trong Giáo hội
cũng như học
Tăng học Ni.
Một buổi lễ
khai giảng với
một sự
phấn khởi hăng hái tham gia, chỉ là chiêu sinh trong một chốc
lát, nhưng
đã có trên 300 học
tăng học ni đăng ký tình nguyện xin nhập
học. Buổi
lễ khia giảng
với một
sự mong mỏi
tin tuởng cuả
toàn thể Tăng Ni Phật
tử trong tỉnh
Thừa Thiên-Huế
và cũng như
là một sự vui mừng
của Phật
giáo cả nuớc.
Bởi vì các Tỉnh
hội khác, sau khi Giáo hội Phật
giáo Việt
Nam đuợc
thành lập thì bắt
đầu mở
trường, cho đến
ngày hôm nay cả
nước được 42 Trường
cơ bản
Phật học.
Thế mà tại
tỉnh Thừa
Thiên- Huế
có thể nói rằng một
Tỉnh hội
đã có một thành tích mở
trường sớm
hơn hết
khi Phật
giáo được phục hưng.
Tại tỉnh
Thừa Thiên- Huế
đã mở trường
Phật học
từ năm 1035,
mà chính chúng tôi là những
người đuợc
may mắn dự
học trong trường
Phật học đầu
tiên của hội
An Nam Phật
học mà hiện
tại ngôi trường
ở bên cạnh
sẽ làm
trường học
cho học tăng
học ni truờng Cơ
bản mai đây,
chính là chỗ
của chúng
tôi năm xưa
đã ở đó 10
năm, vừa học vừa
ở, vừa ngủ,
vừa ăn chung
nơi một ngôi nhà không mấy
rộng rãi. Tưởng
rằng truyền
thống giáo dục
trường học
Phật giáo tỉnh
Thừa
Thiên-Huế
bao giờ cũng như
bao giờ. Nó
sẽ được đi trước,
dẫn đầu
với các nơi
khác. Nhưng
không ngờ,
không may tại
Tỉnh hội
Thừa Thiên
này bị bao
nhiêu trắc
trở mải
đến ngày hôm
nay mới khai
giảng, mới
mở trường
Cơ bản
Phật học, so với
các nơi khác
đã thụt lùi
hơn họ
trên 10 năm. Do đó, nên khi nghe chuyện
khai giảng
trường Cơ bản
Phật học, thì những
nguời có tâm
huyết với đạo,
thao thức với
sự học
hành đào tạo
tăng ni rất
vui mừng phấn
khởi. Và
chính chúng tôi mặc
dù sức yếu,
mặc dù nhiều
việc, nhưng
cũng vì hoàn cảnh
khó khăn của
địa phươ