|
Vì sao tin Phật
Hòa thượng K.
Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang
dịch Việt,
California,
Hoa Kỳ, 1997
Nguyên
tác: What Buddhists believe , Malaysia, 1987 |
---o0o---
Chương 8
GIỚI HẠNH VÀ SỰ TU
TẬP CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ
-ooOoo-
ĐẠO ĐỨC
Những qui luật và tục lệ về luân
lý do con người đặt ra không dựng nên được nền đạo đức
Phật Giáo.
Thế giới ngày nay ở
trong một trạng thái hỗn loạn; những nền đạo đức có giá
trị đang bị đảo ngược. Sức mạnh của chủ nghĩa hoài
nghi về vật chất đã quay bao lưỡi dao cắt đứt từng
mảnh các quan niệm truyền thống của những gì được coi là
phẩm tính của con nguời. Tuy nhiên, bất cứ ai quan tâm đến
văn hóa và văn minh sẽ tự mình cảm thấy lo lắng với
những vấn đề tu tập và đạo đức. Bởi vì đạo lý liên
quan đến hạnh kiểm của con người, đạo lý liên quan đến
sự giao tế giữa chúng ta và với người đồng loại.
Nhu cầu phải có đạo
lý phát xuất từ sự kiện là bản chất con người vốn không
toàn hảo: con người phải tự rèn luyện để thành lương
thiện. Cho nên luân lý trở thành phương diện quan trọng
nhất của cuộc sống.
Đạo đức Phật Giáo
không phải là những tiêu chuẩn tùy tiện do con người sáng
chế bởi con người với mục đích vị lợi cho chính mình. Cũng
chẳng phải đạo đức được đặt ra không mục đích.
Những qui luật và tập tục xã hội do người đặt ra không
dựng nên được căn bản đạo đức Phật Giáo. Thí dụ
lối ăn mặc thích hợp với khí hậu, thời điểm và văn
minh ở chỗ này có thể bị coi là không tề chỉnh ở chỗ
khác; nhưng việc này hoàn toàn là một vấn đề tập tục xã
hội không liên can gì đến đạo đức cả. Tuy nhiên, những
quy ước xã hội nhân tạo không ngừng bị lẫn lộn với
những nguyên tắc đạo đức vốn luôn có giá trị và không
thay đổi.
Đạo đức Phật Giáo
không đặt nền móng vào sự thay đổi của tục lệ xã hội
mà vào sự không thay đổi của các định luật thiên nhiên.
Giá trị đạo đức Phật Giáo thực chất là một phần của
thiên nhiên và sự không thay đổi của luật nhân quả
(Nghiệp). Sự kiện đơn giản là đạo đức Phật Giáo mọc
rễ trong định luật thiên nhiên khiến nguyên tắc của nó
vừa hữu dụng và vừa được thế giới tân tiến chấp
nhận. Thế nên quy tắc đạo đức Phật Giáo đã hình thành
trên 2500 năm vẫn không mất giá trị do đặc tính vượt
thời gian của nó.
Điểm thiết yếu
của đạo đức Phật Giáo là phải thực hành vì đạo đức
chỉ là một phương tiện dẫn đến mục tiêu cuối cùng
của hạnh phúc tối thượng. Trên con đường đi đến giải
thoát, nguời Phật Tử hoàn toàn chịu trách nhiệm mọi phước
báu hay bất hạnh của chính mình. Mỗi cá nhân phải tự mình
tu tập để tự giải thoát bằng sự hiểu biết và nỗ lực
của chính mình. Theo Đạo Phật giải thoát là kết quả của
sự trau dồi tinh thần của cá nhân chứ chẳng phải bị đặt
để hay cứu độ bởi một tác nhân bên ngoài nào cả.
Nhiệm vụ của Đức Phật là soi sáng cho con người thấy
được bản chất của kiếp sống và chỉ dạy họ cách hành
động tốt nhất cho hạnh phúc của chính mình và cho lợi ích
của người khác. Kết cục, đạo đức Phật Giáo không thành
lập do một mạng lệnh nào bắt buộc con người phải tuân
theo. Đức Phật dạy con người về những điều kiện lương
hảo nhất dẫn đến lợi ích dài lâu cho chính mình và cho người
khác. Thay vì gọi những người phạm tội với những từ
ngữ như " đáng xấu hổ", "độc ác", tệ
hại", "đáng khinh", và "đáng chửi
rủa", Ngài chỉ nói " Con thật dại dột hành động
như vậy vì hành động như thế sẽ mang phiền não cho chính
con và cho người khác ".
Lý thuyết về đạo
đức Phật Giáo tìm thấy ở sự giải thích thực tiễn trong
nhiều giới luật khác nhau. Những giới luật hay kỷ luật này
không gì ngoài những cách thức hướng dẫn đại cương chỉ
đường hướng cho người Phật Tử phải nương theo để
tiến tới giải thoát cuối cùng. Mặc dù nhiều giới luật
được trình bày dưới hình thức tiêu cực, chúng ta không nên
nghĩ rằng giới luật Phật Giáo chỉ gồm có việc tránh các
việc ác mà không có bổ sung làm các điều thiện.
Luân lý tìm thấy
trong tất cả các giới luật có thể tóm tắt trong ba nguyên
tắc đơn giản: "Chớ làm điều ác, hãy làm việc lành,
thanh lọc tâm ý, ấy là lời Chư Phật dạy" (Kinh Pháp
Cú, câu 183)
Trong Phật Giáo, sự
khác biệt giữa điều tốt và điều xấu rất đơn giản.
Tất cả những hành động bắt rễ từ tham, sân và si phát
xuất từ lòng vị kỷ nuôi dưỡng ảo tưởng tác hại chỉ
nghĩ đến mình. Những hành động đó đáng trách, lầm lỗi
và xấu xa. Những hành động này được gọi là Bất Thiện
Nghiệp. Tất cả những hành động bắt rễ từ những phẩm
hạnh khoan dung, tình thương, và trí tuệ, đều đáng ngợi
khen - Thiện Nghiệp. Tiêu chuẩn của thiện hay bất thiện áp
dụng do những tác động của tâm ý, lời nói hay việc làm.
ĐẠO ĐỨC
PHẬT GIÁO ĐƯỢC THIẾT LẬP TRÊN
Ý MUỐN HAY TÁC Ý.
Đức Phật dạy
"Nghiệp là tác ý". Hành động tự chúng chẳng tốt
mà cũng chẳng xấu nhưng chính tác ý và tư tưởng làm chúng
thành tốt hoặc xấu. Tuy nhiên, đạo đức Phật Giáo không xác
nhận rằng một người phạm những "tội lỗi" theo
quy ước có thể cho là mình làm vậy với dụng ý tốt. Nếu
phải giải quyết tình huống này, Phật Giáo sẽ tự giới
hạn về những vấn đề tâm lý và phải để mặt nhiệm
vụ thiết lập các tiêu chuẩn đạo đức và giới luật
hạnh kiểm lên trên mặt giáo lý giải thoát. Sự liên hệ
giữa ý nghĩ và hành động, giữa hành động tinh thần và
vật chất là sự mở rộng của tư tưởng. Không thể nào
phạm tội sát nhân với một tâm thiện vì giết một mạng
sống đơn giản chỉ là sự biểu lộ ra ngoài của một
trạng thái tâm ý bị chế ngự bởi sân hận hay tham lam. Hành
vi là sự cô đọng của tư tưởng giống như mưa là sự hóa
đọng của hơi. Hành vi thể hiện từ mái chót của hành động
chỉ là cái đã vi phạm trong căn phòng im lặng và bí mật
của con tim.
Do đó, một kẻ phạm
một hành động vô luân phải công nhận hắn không chế ngự
được trạng thái bất thiện của tâm ý. Cũng vậy, một người
có tâm ý trong sạch và sáng ngời, tư tưởng và cảm nghĩ
trong tâm hoàn toàn không còn ô trược, thì không thể nào
phạm những hành động vô luân.
Đạo Đức Phật Giáo
cũng thừa nhận tính cách khách quan của các giá trị tinh
thần. Nói một cách khác, nghiệp quả phát xuất phù hợp
với nghiệp luật thiên nhiên, bất chấp thái độ của cá nhân
hay bất chấp thái độ của xã hội với hành động đó. Thí
dụ say rượu có những nghiệp quả của nó; đó là điều
tội lỗi vì nó làm cho chính cá nhân đó không hạnh phúc và
còn làm cho người khác không hạnh phúc. Nghiệp quả của say
rượu vẫn hiện hữu dù rằng kẻ say hay xã hội nghĩ thế nào
về thói uống rượu. Những quan niệm và thái độ thông thường
bằng những sự kiện khách quan cũng không giảm thiểu được
tính bất thiện hiển nhiên của say rượu. Những hậu quả -
tâm lý, xã hội, và nghiệp - tạo thành những hành động
hợp luân lý hay vô luân lý - mà không cần đến thái độ
tinh thần của những ai phán xét hành động đó. Vậy nên
trong khi thuyết tương đối về đạo đức được thừa
nhận, điều này không làm suy giảm tính cách khách quan của
các loại giá trị .
LUẬT LÀ GÌ?
Luật là quy tắc kỷ
luật để tự tu tập do Đức Phật đặt ra cho các nam nữ tu
sĩ nghiêm trì. Luật đóng vai trò cột trụ trong đời sống
tu hành.
Đức Phật không
thiết lập quy tắc kỷ luật bằng một một sự rèn luyện
đơn phương. Tuy nhiên Ngài đặt ra một số điều luật khi
cần thiết. Luật Tạng và bộ chú giải chứa đựng nhiều câu
chuyện có ý nghĩa về nguyên nhân tại sao và như thế nào Đức
Phật lại đặt ra một số giới luật. Theo Ngài, hình thức
tốt nhất của Luật là đặt kỷ luật cho tâm ý, lời nói và
hành động. Những đệ tử đầu tiên của Đức Phật là
những bậc tinh thần phát triển cao độ nên không cần đến
luật lệ đặt ra cho các Ngài. Tuy nhiên khi đoàn thể Tăng Già
mở rộng, có nhiều người gia nhập, một số những người
này chưa được trau dồi về tinh thần. Từ đó phát xuất
một số vấn đề liên quan đến hạnh kiểm và lối sống như
tham gia vào hoạt động thế tục để mưu sinh và có khuynh hướng
bị cám dỗ bởi lạc thú giác quan. Do tình trạng này, Đức
Phật phải đặt ra nguyên tắc chỉ đạo cho các nam nữ tu sĩ
phải tuân hành để họ có thể thấy sự khác biệt giữa đời
sống tu sĩ và cư sĩ. Tăng đoàn và Ni đoàn là một đoàn
thể tôn giáo được thành lập rất hoàn chỉnh so với các
nhóm tu khổ hạnh khác lúc bấy giờ.
Đức Phật ấn định
tất cả cương lĩnh cần thiết để duy trì đoàn thể thánh
thiện Tăng Già trên mọi phương diện. Khi Đức Phật qua đời,
những điều luật này được đối chiếu kiểm tra để tăng
đoàn có thể dựa vào đó mà áp dụng. Quy tắc hạnh kiểm
ấn định bởi Đức Phật có thể chia thành hai lãnh vực
lớn. Giới Luật Tổng Quát, Lokavajja, áp dụng cho cả
đoàn thể Tăng Già và cho cả cư sĩ để sống một cuộc đời
đạo hạnh. Một số quy tắc kỷ luật hay luật lệ được
đặt ra để phù hợp với các điều đòi hỏi của quốc gia
về văn hóa và xã hội hiện hữu vào lúc nào đó được
gọi là Pannatti Vajja. Trong loại thứ nhất, Luật Tổng
Quát triệt để cấm mọi hành vi vô luân và tội lỗi. Loại
thứ hai luật áp dụng trực tiếp cho các nam nữ tu sĩ phải
tôn trọng về oai nghi, truyền thống, bổn phận, tục lệ, và
nghi thức. Vi phạm Luật Tổng Quát tạo tai tiếng và nghiệp
xấu, trong khi vi phạm giới luật căn cứ vào các điều
kiện xã hội không hẳn là tạo các nghiệp xấu. Tuy nhiên
họ vẫn phải bị chỉ trích vì phạm giới dù dưới hình
thức nào cũng có thể làm mất ô nhiễm tính trong sạch và
phẩm giá của đoàn thể thánh thiện.
Những điều luật này
phần lớn căn cứ vào tình hình văn hóa xã hội hoặc lối
sống thịnh hành tại Ấn cách đây 25 thế kỷ. Theo kinh Maha
Parinibbana Sutta (Đại Bát Niết Bàn), Đức Phật tuyên bố
rằng một số điều luật "thứ yếu" có thể thay đổi
và bổ sung cho thích hợp với thời gian và không gian với điều
kiện là chúng không khuyến khích tư cách vô luân hay có
hại. Thật ra, ngay trong thời Đức Phật hiện tiền, một
số luật thứ yếu đã được sửa đổi bởi các tỳ kheo
với sự chấp thuận của Ngài. Đức Phật cũng chấp thuận
nam nữ tu sĩ bị đau yếu được miễn chấp hành một số
giới luật.
Tuy nhiên khi các điều
luật đã được liệt kê bởi các đệ tử của Ngài trong
Kỳ Đại Hội Kiết Tập Lần Thứ Nhất triệu tập ba tháng
sau khi Ngài nhập diệt, tất cả các điều luật đều được
giữ lại hết vì lẽ không một ai có thể chắc chắn những
điều luật ấy có nên sửa đổi hay không. Cuối cùng các đệ
tử của Ngài quyết định giữ tất cả giới luật do Đức
Phật ban hành. Thời gian trôi qua, một số giới luật trở thành
lỗi thời và một số các đệ tử chính thống lại khăng khăng
nhấn mạnh rằng phải tuân hành chặt chẽ những giới luật
theo văn tự hơn là theo tinh thần. Sự kiện chính xác là Đức
Phật cũng muốn tránh việc chấp chặt vào giới luật như
vậy nên Ngài đã không đề cử một người nào kế nghiệp
Ngài cả. Ngài dạy rằng hiểu Giáo Pháp và duy trì Giáo Pháp
như vị thầy mình cũng đủ để giúp ta sống cuộc đời thánh
thiện. Một lý do khác là tại sao những đệ tử lúc ban đầu
của Đức Phật không tán thành thay đổi giới luật là vì các
Ngài không có lý do và cơ hội để thay đổi vì chỉ sống có
một thời gian ngắn sau khi Đức Phật nhập diệt. Hơn nữa vào
thời bấy giờ, đa số những người đã từ bỏ thế tục là
những người thành thực và quyết tâm xuất gia. Tuy nhiên khi
những điều kiện xã hội bắt đầu thay đổi, và khi Phật
Giáo lan tràn tại nhiều nơi tại Ấn và các quốc gia khác,
quyết định của các đệ tử không thay đổi một giới
luật nào tại Đại Hội Kiết Tập lần Thứ Nhất trở thành
một vấn đề rất to lớn vì một số giới luật không thích
ứng với những sự thay đổi về chính trị và kinh tế trong
những tình huống đổi thay.
PHÁT
TRIỂN CỘNG ĐỒNG TĂNG GIÀ
Cộng đồng Tăng Già,
theo dòng thời gian, cũng tự phân hóa thành nhiều hệ phái,
trong số này nhiều hệ phái trong khi tôn trọng một số
giới luật chính do Đức Phật ban bố lại có khuynh hướng
bỏ qua các giới luật thứ yếu. Hệ Phái Nguyên Thủy tỏ ra
chính thống hơn, trong khi Đại Thừa và một số hệ phái khác
có khuynh hướng tự do hơn về quan điểm và về cách thực hành
đạo lý. Hệ Phái Nguyên Thủy cố gắng tôn trọng Luật
từng ly từng tí mặc dầu hoàn cảnh và môi trường thay đổi.
Những sự thay đổi giới luật thứ yếu, thỉnh thoảng vẫn
có, nhưng không được công nhận ngay cả giữa những thành
viên của hệ phái Nguyên Thủy. Chẳng hạn chúng ta nhìn vào
giới luật về việc thọ thực sau giờ quy định trong ngày.
Hệ phái Nguyên Thủy không thừa nhận thẳng thắn sự kiện
về một số thay đổi có thể được chấp thuận trong
những hoàn cảnh đặc biệt. Trong khi những trường phái khác
tự cho phép mặc các y áo với mầu sắc và kiểu cách thích
hợp, Nguyên Thủy vẫn tiếp tục tôn trọng việc sử dụng các
y áo kiểu cũ theo truyền thống trước đây mặc dầu điều
kiện xã hội và khí hậu có thay đổi. Chỉ những ai sanh ra
trong truyền thống văn hóa Phật Giáo mới có thể hiểu
thấu đáo được nhiều cách thức hành tập của giới xuất
gia.
Ở một cực đoan khác,
có một số nhà sư nhất định yêu cầu chấp hành Giới
trong Tạng Luật theo từng chữ một hơn là chỉ theo tinh
thần, mặc dù hành động như vậy sẽ làm ngỡ ngàng những
người chung quanh. Thí dụ càng ngày càng có nhiều nhà sư
Phật Giáo được mời sang các quốc gia Tây Phương mà văn hóa
và khí hậu hoàn toàn khác hẳn Á Châu, các vị này có thể
bị coi như kỳ lạ và ngoại lai ở một bối cảnh khác. Nơi
đây nhà sư phải biết vận dụng cách ứng xử thông thường
để khỏi trở thành một trò hề dưới mắt thiên hạ.
Giới luật quan trọng phải triệt để tuân theo là không
tạo ra những hành động vô luân, ác độc, tác hại, và
khiếm nhã, và những tình cảm của con người phải được tôn
trọng. Nếu những nhà sư có thể sống một cuộc đời liêm
khiết, từ ái, vô hại, hiểu biết chúng sanh, bằng cách
giữ gìn nhân phẩm và kỷ luật của họ, thì những đức tính
này sẽ được trân trọng tại bất cứ nơi nào trên thế
giới này. Gìn giữ cái gọi là truyền thống và tập quán
của xứ sở mình ít có liên quan gì với thực chất của Giáo
Pháp do Đức Phật giảng dạy.
Lại có một vấn đề
khác nữa. Nhiều người, nhất là tại Phương Tây, chấp
nhận lối sống Phật Giáo, đọc giới Luật trong kinh, nghĩ
rằng các nhà sư phải tuân theo trọn vẹn tất cả các giới
luật trên bất cứ nơi nào trên thế giới đúng theo cách
thức đã đưọc ghi nhận trong sách. Chúng ta phải nhớ rằng
một số giới luật thực hành tại Ấn cách đây 25 thế kỷ
qua đã không còn thích hợp nữa ngay cả tại Á Châu ngày
nay. Phải mang trong đầu óc rõ ràng là Đức Phật đặt ra
giới luật chỉ để cho các thành viên của cộng đồng Tăng
Già sống tại Ấn, ngay tại miền Đức Phật sống. Những các
nhà sư này chưa bao giờ có kinh nghiệp về đời sống của các
quốc gia khác. Vấn đề quan tâm của họ là phải phát
triển tinh thần làm sao tránh sự chia rẽ, quấy rầy đến xã
hội mà họ sống. Nhưng nếu họ sống vào thời nay, họ sẽ
phải đối đầu với nhiều khó khăn mới nếu chỉ triệt để
tuân thủ tất cả các giới luật ở một quốc gia mà dân chúng
không cảm tình hay không hiểu họ.
Quy tắc kỷ luật cho
giới cư sĩ là làm sao cho người cư sĩ sống một cuộc đời
đạo đức cao thượng mà không cần phải từ bỏ nếp sống
thế gian. Lời khuyên của Đức Phật đều được đề cập
trong những kinh như Mangala, Prabhava, Sigalovada, Vasala và
Vygghapajja và trong nhiều kinh khác nữa.
Nhiều giới luật
chỉ áp dụng cho những người xuất gia. Đương nhiên, người
cư sĩ có thể vâng giữ một số giới luật nếu những
giới này tạo điều kiện cho họ mở mang tinh thần nhiều hơn
nữa.
XÃ HỘI THAY ĐỔI
Khi xã hội thay đổi,
nhà sư không thể duy trì truyền thống mà không đáp ứng
với những sự thay đổi mặc dù đã lìa bỏ đời sống
thế gian. Một số người không hiểu tình trạng này nên đã
phê phán tư cách đạo đức của một số nhà sư vì những
sự thay đổi này. Tuy nhiên, khi những nhà sư muốn sửa đổi
một vài giới luật thứ yếu, cũng phải có sự phê chuẩn
của một Hội Đồng Tăng Già chính thức. Cá nhân những nhà
sư không có quyền tự do sửa đổi bất luận một giới
luật nào theo sáng kiến hay sở thích của mình. Thành viên
của Hội Đồng Tăng Già cũng có thể ban một số hình phạt
với những nhà sư vi phạm trầm trọng giới luật hay tư cách
đạo đức làm Tăng Già mất uy tín. Đức Phật thiết lập
Hội Đồng để giúp các nhà sư tránh các hành động tội
lỗi và tránh các cám dỗ của đời sống trần tục. Giới
luật là những điều hướng dẫn hơn là những định luật
bất khả xâm phạm ban xuống từ một chức quyền thần thánh
nào đó. Đặc biệt tại một vài quốc gia Á Châu, chư tăng
hết sức được kính trọng và tôn sùng. Cư sĩ kính trọng
chư tăng như các bậc đạo sư và như là các người đã hy
sinh cuộc đời thế tục để sống một cuộc đời thánh
thiện. Chư tăng dâng hiến đời mình cho việc nghiên cứu và
tu tập Giáo Pháp và không kiếm tiền để sinh sống. Cho nên
cư sĩ, cung cấp nhu cầu vật chất cho chư tăng để đổi
lại được hưởng nhu cầu tinh thần từ các chư tăng.
Như vậy, các nhà sư
phải tự mình biết cư sử thế nào để có được sự kính
trọng và tôn sùng của cư sĩ ngoài xã hội. Thí dụ, nếu
một nhà sư được trông thấy tại một nơi không chính đáng,
nhà sư đó vẫn b? phê bình dù là không gây nên một hành động
vô luân nào cả. Cho nên bổn phận của nhà sư là tránh
những môi trường xung quanh không thích hợp để giữ phẩm
giá của Đoàn Thể thánh thiện.
Nếu một nhà sư không
kính trọng cảm nghĩ của ngưòi cư sĩ và cứ cư xử theo ý
mình mà cho là đúng, cư sĩ sẽ nhất định không lưu ý gì
đến nhu cầu của nhà sư nữa. Có nhiều trường hợp được
ghi nhận trong các kinh sách là ngay cả trong thời kỳ Đức
Phật hiện tiền, cư sĩ đã từ chối không săn sóc gì các
nhà sư cao ngạo, hay gây gỗ và vô trách nhiệm. Các nhà sư có
thể bị chỉ trích nếu làm một số việc thế tục nào đó
mà lẽ ra chỉ những người cư sĩ mới được làm.
PHÁP VÀ LUẬT
Nhiều người vẫn chưa
hiểu rằng Pháp, Chân Lý do Đức Phật khám phá, không thể
thay đổi dưới bất cứ hoàn cảnh nào. Một số giới luật
cũng được liệt vào loại như vậy và không bao giờ thay đổi
trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nhưng một số giới luật khác
phải thay đổi để ngăn ngừa những bất lợi quá mức. Pháp
và Luật không giống nhau. Một số các nhà sư cố gắng
chấp giữ một số truyền thống như là những nguyên tắc đạo
lý quan trọng mặc dù những người khác không hề tìm thấy
được ý nghĩa hay ẩn dụ đạo giáo nào trong những cách tu
tập của họ. Đồng thời một số người ích kỷ và xảo
quyệt lại cố gắng duy trì một số biểu hiện trong sạch
bề ngoài để lừa dối các tín đồ ngây thơ coi họ là
những nhà sư chân tu và thành thực. Nhiều cách hành trì cho
là của Phật Giáo trong các quốc gia Á Châu với các nhà sư
và các tín đồ không cần đến giới luật tôn giáo mà chỉ
tu tập theo truyền thống dân gian. Mặt khác, một số cách
thức nhằm cho các nhà sư tuân thủ giới luật đã thực sự
duy trì được phẩm giá và sự thanh tịnh của đoàn thể tăng
già. Mặc dù truyền thống và tập tục đạo giáo có thể
tạo nên một không khí thích hợp cho việc phát triển tinh
thần, một số giới luật cần phải được sửa đổi cho phù
hợp với sự thay đổi các điều kiện xã hội. Nếu sự
thay đổi này không thực hiện, các nhà sư sẽ phải đối đầu
với nhiều khó khăn trong tiến trình sống còn của họ và
trong sự kết hợp với đại chúng.
Một số các cư sĩ
chỉ trích các nhà sư về việc nắm tiền bạc. Rất là khó
khăn để thi hành các hoạt động tôn giáo và muốn tích
cực trong xã hội tân tiến mà không liên hệ đến tiền
bạc. Điều mà một nhà sư phải làm là tự coi mình như không
ràng buộc gì với tiền bạc, của cải như là tài sản riêng
tư của mình. Đó là điều mà Đức Phật muốn nói. Đương
nhiên có một số khác tự do giải thích sai giới luật hầu
được lợi dưỡng. Họ sẽ phải lãnh những hậu quả của
sự bất lực của mình trong sự nghiệp phát triển tâm linh.
Tuy nhiên, những ai thích
tự thu thúc ở một nơi hẻo lánh để thiền định cho tâm
được thanh tịnh, cũng vẫn có thể thi hành bổn phận đạo
lý mà không bị chướng ngại do những công việc thế tục có
khi rất nặng nề. Tuy nhiên trước tiên họ phải chắc chắn
là họ có đủ tín chủ ủng hộ những nhu cầu cho họ. Trong
khi có các nhà sư muốn rút lui hẳn ra khỏi xã hội, thì cũng
phải có đủ một số nhà sư ra ngoài xã hội để đáp ứng
nhu cầu tôn giáo cần thiết cho đại chúng. Nếu không, người
dân sẽ nghĩ rằng Phật Giáo không thể đóng góp gì vào đời
sống hàng ngày của họ.
ĐẶC TÍNH
CỦA MỘT NHÀ
SƯ
Một số trong những
đặc tính nổi bật của một nhà sư là tính trong sạch,
sống an bần (lạc đạo), khiêm tốn, đơn giản, phục vụ
bất vụ lợi, tự chủ, kiên nhẫn, từ bi và không làm hại
ai. Nhà sư phải giữ bốn loại giới trọng sau đây:
1) Patimokkha Sila
- Quy Tắc Giới Luật Căn Bản (Đại Tội liên quan đến
những hoạt động vô luân, tàn ác, tác hại, và ích kỷ) .
2) Indriyasamvara Sila
- Giới luật liên quan đến ý thức tự kiềm chế (tự thu
thúc lục căn)
3) Ajivaparisuddhi Sila
- Giới luật liên quan đến sự sinh sống trong sạch.
4) Paccayasannissita
Sila - Giới luật liên quan
đến cách sử dụng vật dụng cần thiết cho đời sống.
Bốn loại giới luật
gọi chung là Sila-Visuddhi (Sự trong sạch của giới
hạnh, Giới Thanh tịnh).
Khi một người gia
nhập Đoàn Thể Tăng Già và thọ giới, người đó được
gọi là Sa Di. Sa Di phải giữ mười Giới Luật Sa Di
với một số quy tắc kỷ luật sống cuộc đời trong tu
viện cho đến khi được thọ giới cao hơn - Upasampa (Cụ
túc giới)- để trở thành một Tỳ Kheo hay một nhà sư hoàn
toàn.
Một tỳ kheo
hay nhà sư phải giữ bốn loại giới trọng kể trên gồm có
227 điều luật với một số giới thứ yếu.
Bốn giới trọng
phải triệt để tuân hành là: sống độc thân, không trộm
cắp, giết người, xuyên tạc cấp trên. Nếu vi phạm một
trong bốn giới trên, vị sư này kể như là bị loại ra
khỏi cộng đồng Tăng Già. Nhà sư này cũng sẽ bị Tăng Đoàn
tước đi một số quyền lợi về tôn giáo. Trong trường
hợp vi phạm các điều giới cấm khác, nhà sư đó phải
chịu nhiều hậu quả và phải sửa chữa tùy theo mức quan
trọng của tội vi phạm.
Một tỳ kheo không
phải có lời thề nguyền nào. Trở thành một vị tỳ kheo là
do sự tự nguyện của chính mình để sống một cuộc đời
thánh thiện trong bao lâu mà mình thích. Cho nên không cần
thiết cho vị tỳ kheo phải bị vương mắc vào lời thề trước
đây và bị coi như đạo đức giả vì chính vị tỳ kheo tự
quyết định tuân theo hay không tuân theo giới luật. Tỳ kheo
hoàn toàn tự do rời bỏ Tăng Đoàn bất cứ lúc nào để
sống cuộc đời cư sĩ nếu muốn.
MƯỜI THIỆN NGHIỆP VÀ
MƯỜI BẤT THIỆN NGHIỆP.
Con người hữu phúc
hay bất hạnh là tùy vào thiện nghiệp hay bất thiện nghiệp
của cá nhân đó.
Làm những hành động
tốt tạo công đức, một đức tính làm thanh tịnh và trong
sạch tâm ý. Nếu tâm không được kiểm soát, tâm sẽ có
khuynh hướng ngả về tội lỗi, dẫn ta làm những hành vi
xấu ác và gây khó khăn cho ta. Công đức giúp thanh lọc tâm
ý khỏi những khuynh hướng tội lỗi của tham sân si. Tâm
tham thúc đẩy con người tham dục, tích lữy và cất dấu
của cải; tâm sân lôi kéo con người đến ghét bỏ và giận
dữ; và tâm si làm con người trở nên vương mắc vào tham và
sân mà lại nghĩ rằng những gốc rễ tội lỗi đó là đúng
và thích đáng. Những hành vi thất đức gây nhiều đau khổ
và giảm thiểu cơ hội cho ta hiểu biết và tu tập Giáo Pháp.
Công đức rất quan
trọng theo hỗ trợ ta trong suốt quãng hành trình của cả
cuộc đời. Công đức liên quan với những gì tốt và lợi
lạc cho mình, cho người khác, và làm tăng phẩm chất của tâm.
Trong khi của cải vật chất của một người gom góp có thể
bị tiêu tan vì trộm cắp, nước, lửa, bị tịch thu vân vân...,
phước báu của công đức theo ta kiếp này đến kiếp khác và
không thể bị mất, mặc dù công đức có thể bị cạn hết
nếu không biết vun bồi thêm nhiều công đức nữa. Một người
chứng nghiệm hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ cũng như
về sau này là do tạo được công đức.
Công đức là một điều
kiện thuận lợi to lớn: Nó mở cánh cửa cơ hội khắp mọi
nơi. Một người có công hạnh sẽ thành công trong bất cứ
một lãnh vực nào mà người đó tham gia. Nếu người đó
muốn hoạt động thương trường, người đó sẽ có ngay cơ
hội gặp gỡ và bạn bè. Nếu người đó muốn trở thành
học giả, người đó sẽ được trợ cấp học bổng và sự
ủng hộ của các nhà bảo trợ cố vấn học thuật. Nếu người
đó muốn tiến bộ về thiền định, người đó sẽ gập
một đạo sư giỏi thiền hướng dẫn để phát triển tinh
thần. Giấc mơ của người đó sẽ thành sự thật nhờ kho tàng
công đức của người đó. Chính công đức làm cho một người
tái sanh vào thiên giới, và cung cấp cho người ấy những điều
kiện thích ứng và giúp người đó đạt Niết Bàn.
Có một số phước điền
(nơi thọ nhận) phong phú đem kết quả vô lượng cho nguời
tạo hành vi thiện. Giống như một số đất tốt có thể
sản xuất mùa gặt tốt hơn (đất mầu mỡ so với đất
sỏi đá), một hành vi thiện hồi hướng cho một số người
có thể đem nhiều công đức hơn là cho những người khác.
Những lãnh vực gieo công đức phong phú gồm Tăng Già hay các
vị thánh thiện, mẹ, cha và người nghèo túng. Hành thiện
nghiệp cho những người trên đây qua nhiều hình thức khác
nhau sẽ là nguồn gốc của những kết quả kỳ diệu.
Đức Phật dạy mười
điều công đức (Thập Thiện Nghiệp) cho chúng ta thi hành để
đạt một cuộc đời hạnh phúc và an lạc và cũng để phát
triển kiến thức và sự hiểu biết. Mười điều công đúc
đó là:
1. Bố Thí
2. Trì Giới
3. Rèn luyện tinh thần
4. Lễ Độ
5. Phục vụ tha nhân
6. Hồi hướng công đức
7. Hoan hỷ với những công đức của người khác
8. Thuyết giảng và dạy Pháp
9. Nghe Pháp
10. Trau dồi chánh kiến.
Làm mười thiện
nghiệp trên không những đem lợi ích cho chính mình, mà còn
đem lợi ích cho những người khác, ngoài phần đem lợi lạc
cho người được hưởng. Giới hạnh đem lợi ích tất cả
chúng sinh mà ta tiếp xúc. Trau dồi tinh thần mang an lạc cho
người khác và gợi ý cho họ tu tập Pháp. Lòng tôn kính gây
hài hòa trong xã hội, và sự phục vụ người khác khiến đời
sống của họ cải tiến. Chia sẻ công đức với người khác
cho thấy sự quan tâm của mình đến hạnh phúc của người
khác, và trong khi vui với công đức của người khác khuyến
khích họ tạo nhiều công đức hơn nữa. Dạy và nghe Pháp là
những yếu tố quan trọng cho hạnh phúc của cả vị thầy
lẫn người nghe, và khuyến khích cả hai sống đúng với Pháp.
Trau dồi chánh kiến của mình sẽ làm cho người khác thấy
được cái đẹp của Giáo Pháp. Trong Kinh Pháp Cú, Đức
Phật dạy:
"Nếu đã
làm việc lành
Hãy nên thường làm mãi
Nên vui làm việc lành
Vì hạnh phúc là sự tích lữy điều thiện - (Pháp cú,
câu 118)
Chớ nên coi nhẹ điều
lành nhỏ mà cho rằng
"Điều đó chẳng đến gần ta"-
Từng giọt nước nhỏ lâu cũng đầy bình
Giống như vậy, người trí thâu thập từng chút thiện
Khiến người đó trở nên toàn thiện." - (Pháp
cú, câu 122)
MƯỜI ÁC NGHIỆP
Người Phật Tử hay
được nhắc nhở phải tránh xa mười hành vi bất thiện.
Những hành vi này bắt nguồn từ tham, sân, si, gây đau khổ
cho người khác nhưng nhất là cho chính mình ngay trong kiếp này
và những kiếp sau. Khi một người hiểu Nghiệp Luật và
nhận thức được những hành vi bất thiện mang lại kết
quả xấu, người đó sẽ tu tập chánh kiến và tránh những
hành động này.
Có ba hành động bất
thiện nghiệp thuộc về thân: (1) Giết hại chúng sanh, (2)
Trộm cướp, và (3) Tà dâm. Những thân nghiệp này tương
ứng này với ba trong năm giới của người cư sĩ phải vâng
giữ.
Hậu quả của giết
hại là phải chịu vắn số, tật bệnh, luôn luôn đau buồn
vì phài xa lìa các người thân, sống trong sợ hãi thường
xuyên. Những hậu quả xấu do trộm cướp là nghèo túng, cùng
cực, thất vọng, và phải sống nhờ vả. Hậu quả xấu
của tà dâm là có nhiều kẻ thù, thường xuyên bị người oán
ghét, gặp vợ hoặc chồng không vừa ý.
Bốn hành động bất
thiện nghiệp thuộc về lời nói (khẩu) là: (1) Nói dối, (2)
Nói lưỡi hai chiều, (3) Nói lời hung ác, (4) Nói chuyện tầm
phào vô ích. Ngoài điều nói dối, những bất thiện nghiệp
của lời nói được xem là phần mở rộng của Giới Thứ Tư
của người cư sĩ.
Những người nói
dối sẽ bị hậu quả xấu là bị lăng mạ, phỉ báng, không
được ai tin cậy, và sức khỏe yếu kém. Hậu quả cho người
nói lưỡi hai chiều là mất bạn vô cớ. Những kẻ nói lời
hung ác sẽ bị người khác ghét và có giọng nói thô bỉ.
Hậu quả không tránh được của kẻ nói phiếm là thân bị
khiếm tật, và không ai tin tưởng vào lời nói của kẻ đó.
Ba bất thiện nghiệp
về tâm ý là: (1) tham, hay ham muốn những gì thuộc về người
khác, (2) ác ý, (3) và tà kiến . Ba hành vi này tương ứng
với ba gốc rễ tội lỗi của tham sân, và si. Giới Thứ Năm:
không được dùng những chất say (rượu, độc dược) vì ma
túy không những dẫn tâm phạm ba điều bất thiện trên khi
bị say sưa nhiễm độc mà còn làm thân và khẩu phạm những
hành vi thất đức.
Hậu quả tác hại
của tham ái là sự không đạt được ước nguyện của mình.
Hậu quả của ác ý là bị xấu xí, nhiều bệnh, và có một
tâm địa đáng ghét. Cuối cùng, hậu quả cho kẻ nhiều tà
kiến là nhiều dục vọng thô lỗ, thiếu trí tuệ, đần độn,
mang bệnh tật kinh niên và ý tưởng đáng chê trách.
Ta nên luôn luôn làm
điều thiện và tự kiềm chế khỏi các hành động sai
quấy. Tuy nhiên nếu một người phạm một hành động tội
lỗi, người đó cần phải nhận thức được đã sai lầm
tại chỗ nào và cố gắng đừng tái phạm lỗi lầm ấy
nữa. Đó mới là ý nghĩa thực sự của sám hối, và chỉ làm
như vậy ta mới tiến bộ trên con đường cao thượng giải
thoát.
Cầu nguyện được
tha tội sẽ vô nghĩa, nếu sau khi cầu nguyện, người đó
vẫn tiếp tục tái phạm các hành động ác hại. Ai ở đấy
mà rửa sạch tội lỗi của mình ngoại trừ chính mình?
Phải bắt đầu với sự nhận thức, chất liệu tẩy trừ
tuyệt diệu. Trước tiên, kẻ đó phải nhận thức được
bản chất hành vi của mình, và tầm mức tác hại của nó.
Kế đến, người ấy nhận thức được hành vi ấy là bất
thiện, rút bài học từ đó và và hạ quyết tâm không tái
phạm. Tiếp theo, phải cố gắng làm điều lành cho phía bị
thiệt hại cũng như cho những người khác, càng nhiều càng
tốt. Bằng cách đó, người ấy, nhờ hàng loạt hành động
thiện lành sẽ lướt qua được ảnh hưởng do việc xấu ác
của mình.
Theo Phật Giáo, người
lầm lỗi nào cũng có thể chuộc tội hay cứu vãn được đặc
biệt bằng sự tỉnh thức và Chánh Tinh Tấn (Nỗ Lực) của
họ. Tin tưởng rằng một người có thể "rửa
sạch" tội lỗi nhờ một phương cách thần diệu nào đó
hoàn toàn chỉ là mê tín dị đoan nhưng còn tệ hại hơn
nữa là không giúp ích gì được cho việc trau dồi tinh thần
của chính mình. Làm như vậy chỉ sẽ khiến cho kẻ đó
tiếp tục bị ngu muội và tự mãn. Nói tóm lại, chính niềm
tin đặt không đúng chỗ này lại còn tai hại nhiều hơn là
những hậu quả những hành vi lầm lẫn do người đó gây ra
và sợ hãi.
GIỚI LUẬT
Giữ giới không
những chỉ trau dồi sức mạnh tinh thần, mà còn phục vụ
hữu hiệu nhất cho người đồng loại.
Mỗi quốc gia hay xã
hội đều có kỷ cương riêng được coi là những hành động
luân thường đạo lý trong phạm vi xã hội. Những quy tắc này
thường liên quan đến quyền lợi xã hội và pháp luật của
nước đó. Một hành động được coi như đúng khi không vi
phạm luật lệ và vượt quá tình cảm quần chúng hay cá nhân.
Những quy tắc nhân tạo này linh động và thỉnh thoảng được
điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi hoàn cảnh.
Những tiêu chuẩn nhân tạo ấy tuy quan trọng đối với xã
hội nhưng không thể dùng làm cương lãnh đáng tin cậy cho
một số nguyên tắc luân lý được áp dụng chung quát.
Ngược lại, đạo đức
Phật giáo không do trí óc con người phát minh ra. Nó cũng
chẳng phải căn cứ vào luân lý sơ khai được dần dà thay
thế bởi các bộ luật nhân văn. Đạo đức Phật Giáo căn
cứ trên định luật nhân quả phổ quát (Nghiệp), và xem
một hành động thiện hay bất thiện tùy theo cách thức nó
ảnh hưởng cho chính mình và cho người khác. Một hành động,
tuy mang lợi lạc cho mình, cũng không thể cho là một hành động
thiện nếu nó gây đau thương vật chất và tinh thần cho người
khác.
Đạo đức Phật Giáo
nhằm vào một câu hỏi rất phổ thông nhưng chủ yếu: Làm
sao ta có thể phán đoán một hành động là tốt hay xấu?
Theo Phật Giáo, câu trả lời rất đơn giản. Tính chất của
một hành động được căn cứ trên tác ý hay động lực thúc
đẩy bắt nguồn. Nếu một người làm một việc thúc đẩy
bởi tham sân và si, hành động này là hành động bất
thiện. Mặt khác, nếu người đó làm một việc phát xuất
từ tình thương, nhân ái, và trí tuệ, hành động này là hành
động thiện. Tham, Sân, và Si là "ba Gốc Rễ Tội
Lỗi", trong khi tình thương, lòng nhân và trí tuệ là
những "Gốc Rễ Thiện". Từ ngữ "Gốc Rễ"
ám chỉ tác ý mà hành động bắt nguồn. Cho nên, mặc dù là
kẻ đó che đậy bản chất hành động của mình thế nào đi
nữa, sự thật vẫn hiển bày bằng cách tra xét tư tưởng nào
đó tạo thành hành động ấy. Tâm là nguồn gốc của tất
cả lời nói và hành động.
Trong Phật Giáo,
nhiệm vụ hàng đầu của một người là tự mình gột sạch
những ô trược tinh thần của tham, sân và vô minh. Làm việc
này không phải do sợ hãi hay để vừa lòng một đấng thần
linh nào đó. Nếu ai vì lý do này mà làm, người ấy vẫn còn
thiếu trí tuệ. Kẻ đó hành động do sợ hãi chẳng khác gì
trẻ nít sợ bị phạt vì nghịch ngợm. Người Phật Tử hành
động từ sự hiểu biết và trí tuệ. Người Phật Tử hành
các hạnh lành vì hiểu rằng nhờ làm điều thiện, sức
mạnh tinh thần sẽ phát triển và vun bồi nền móng cho tâm
linh dẫn đến giải thoát. Hơn nữa, người đó nhận thức
được là hạnh phúc hay đau khổ của mình do mình tự tạo
qua sự vận hành của Nghiệp Luật. Muốn giảm thiểu những
phiền muộn và khó khăn trong đời sống, người đó phải
nỗ lực kiềm chế hành động tội lỗi. Người đó làm điều
thiện vì hiểu rằng việc đó sẽ đem lại an lạc và hạnh
phúc cho mình. Vì ai ai cũng mưu tìm hạnh phúc trong đời
sống, và vì người đó có thể tạo được điều kiện để
đạt hạnh phúc, thì không có lý do nào người đó lại không
làm việc thiện và tránh điều tội lỗi. Xa hơn nữa, sự
nhổ gốc rễ những ô nhiễm tâm này, nguồn gốc của những
hành động chống xã hội, sẽ đem lại lợi ích lớn cho
những ngưòi khác trong xã hội.
NĂM
GIỚI
Đạo đức của của
hàng cư sĩ Phật Tử tiêu biểu trong Năm Giới có thể được
nhìn ở hai mức độ. Trước tiên giới hạnh giúp con người
ở những cộng đồng có văn hóa cùng chung sống trong tương
kính và tín nhiệm lẫn nhau. Kế đến, đó là điểm khởi đầu
cho cuộc hành trình tinh thần tiến tới Giải Thoát. Không
giống như những điều răn do mệnh lệnh của thần linh ban
xuống con người, chính đương nhân tình nguyện thọ giới,
nhất là khi người ấy đã nhận thức được lợi ích của
việc vâng giữ những điều luật cho thân, khẩu và ý. Hiểu
biết hơn là không vì sợ hãi hình phạt là lý do giữ giới.
Một Phật Tử tốt nên tự nhắc nhớ tới việc gìn giữ năm
giới hàng ngày. Đó là:
"Tôi tôn trọng quy luật tu tập để tránh:
1. Giết hại sinh
vật
2. Lấy một thứ gì không được cho
3. Tà dâm
4. Nói dối
5. Dùng ma túy và rượu."
Ngoài tinh thần hiểu
biết rằng Năm Giới chỉ là một nhóm điều lệ để ngăn
chận, một Phật Tử nên tự nhắc nhở là qua việc giữ
giới, ta cũng hành tập được năm Đức Hạnh Cao Quý. Trong
khi Năm Giới dạy điều gì không nên làm, Năm Đức Hạnh Cao
Quý cho biết những phẩm tính nào cần phải trau dồi như
hạnh từ bi, buông bỏ, tri túc, thành thực, và chánh niệm.
Khi ta giữ Giới Thứ Nhất không giết hại, ta kiểm soát được
tâm sân hận và trau dồi tâm từ ái. Ở Giới Thứ Hai, ta
kiểm soát được lòng tham và tập hạnh buông bỏ hay không
luyến ái. Ta sẽ kiểm soát lòng tham muốn nhục dục và rèn
luyện hạnh tri túc của mình ở Giới Thứ Ba. Ở Giới Thứ
Tư, ta tránh nói dối và đồng thời trau dồi đức thành tín,
và trong khi tự khắc phục khỏi những kích thích tinh thần
bất thiện, ta vun bồi chánh niệm ở Giới Thứ Năm. Một khi
đã hiểu được những điều cao quý trên, ta sẽ nhận thức
được rằng giữ gìn Năm Giới không làm cho mình trở thành
lãnh đạm, chủ bại và tiêu cực, nhưng tạo một nhân cách
tích cực đầy tình thương và cẩn trọng cùng các phẩm tính
khác cũng được tăng trưởng nơi một con người sống một
cuộc đời đạo hạnh.
Giới là sự tu tập căn
bản trong Phật Giáo. Mục đích giữ giới là để loại trừ
những tham ái thô thiển biểu lộ qua tư tưởng, lời nói và
hành động. Giới cũng là nền tảng rất cần thiết cho
những ai muốn trau dồi tâm ý. Nếu không theo một số giới
hạnh căn bản, công năng của thiền định có thể bị sử
dụng vào những động cơ sai lầm và ích kỷ.
TÁM GIỚI (Bát Quan
Trai Giới)
Trong nhiều xứ Phật
Giáo, các tín đồ thuần thành thường theo thông lệ thọ Tám
Giới (Bát Quan Trai Giới) vào một số ngày nào đó trong tháng,
như ngày rằm và những ngày trăng mới mọc. Những người này
đến Chùa từ sáng sớm và ở lại 24 giờ tại chùa, tu tập
bát quan trai giới. Giữ Tám Giới này, họ tự cắt khỏi
cuộc sống trần tục hàng ngày dồn dập bởi bao đòi hỏi
về vật chất và giác quan. Mục đích của việc giữ Tám
Giới là để được thoải mái và yên tĩnh, để rèn luyện
tâm ý, và để tự phát triển tinh thần.
Trong thời gian giữ các
giới này, họ dành thì giờ đọc tụng kinh sách, nghe giảng
Giáo Lý của Đức Ph?t, thiền tập, và tham gia công quả trong
mọi sinh hoạt của ngôi chùa. Sáng hôm sau ngày bát quan trai
giới, họ trở lại thọ Năm Giới hàng ngày và trở về nhà
tiếp tục đời sống bình thường.
Tám Giới đó là tránh
không:
1. Giết hại
2. Trộm cướp
3. Hành dâm
4. Nói dối
5. Uống rượu
6. Ăn quá giờ Ngọ
7. Khiêu vũ, ca hát, nghe nhạc, xem các màn trình diễn không
đứng đắn, dùng tràng hoa, dầu thơm, phấn sáp và những
loại tô điểm sắc đẹp,
8. Dùng giường cao lộng lẫy.
Một số người cảm
thấy khó hiểu ý nghĩa một vài giới luật này. Họ cho
rằng Phật Tử chống lại khiêu vũ, ca hát, âm nhạc, chiếu
bóng, vật thơm, và những món trang sức xa hoa. Thật ra trong
Phật Giáo không có luật nào bắt buộc người cư sĩ không
được dùng các loại trên. Những người chọn lựa tránh
những thú tiêu khiển ấy là những Phật Tử thuần thành
chỉ giữ những giới ấy trong một thời gian ngắn như một
lối kỷ luật tự giác. Lý do tránh các loại giải trí và
vật trang sức là để lắng đọng giác quan trong vài giờ và
để rèn luyện tâm ý khỏi bị lệ thuộc vào các lạc thú
giác quan. Những hình thức vui chơi ấy gia tăng sự say mê
của tâm ý và phát sanh cảm xúc làm trở ngại cho việc phát
triển tinh thần của cá nhân. Tự khắc phục được các thú
tiêu khiển này, ta có thể đạt tiến bộ, chế ngự được
các nhược điểm, và kiểm soát chính mình được nhiều hơn.
Tuy nhiên, Phật Giáo không kết tội các loại giải trí này.
Thực hành việc giữ
giới (Năm Giới và Tám Giới) bằng một tâm ý nhiệt thành
chắc chắn là một công đức tốt đẹp mang nhiều lợi lạc
ngay trong kiếp này và các kiếp sau. Cho nên nếu có thể được
ta nên cố gắng hết lòng thường xuyên giữ giới với sự
hiểu biết.
LÒNG TỪ-ÁI
Điều thiếu sót trong
thế giới ngày nay là lòng từ-ái hay thiện chí.
Thế giới ngày nay, có
đủ của cải vật chất. Có rất nhiều nhà trí thức tiên
tiến, nhiều văn nhân lỗi lạc, biết bao hùng biện gia,
triết lý gia, tâm lý gia, khoa học gia, cố vấn tôn giáo tài
năng, những nhà thơ vĩ đại, và những nhà lãnh đạo thế
giới uy quyền. Mặc dù có bao nhà trí thức như trên, vẫn không
có hòa bình và an toàn thực sự cho thế giới ngày nay. Còn
thiếu một điều gì. Đó là lòng từ-ái hay thiện chí giữa
nhân loại.
Vật chất đạt được
chính nó không bao giờ có thể mang lại hòa bình và hạnh phúc
vĩnh cửu. Hòa bình thoạt tiên phải hiện hữu trong tâm mình,
trước khi có thể mang cho người khác và toàn thể thế
giới. Con đường thực sự đi đến hòa bình là theo lời
khuyên của các đạo sư tôn giáo.
Muốn thực hành lòng
từ-ái, trước nhất ta phải tu tập Nguyên Tắc Cao Thượng
của bất bạo động, phải luôn luôn sẵn sàng thắng lướt
tính vị kỷ và nêu cho người khác thấy chánh đạo. Sự
chiến đấu không phải nơi thân xác vật chất, vì tính
chất độc ác của con người không ở nơi thân mà ở tâm.
Bất bạo động là một khí giới rất hiệu quả để chống
lại tội lỗi hơn là trả thù. Bản chất thực sự của
trả thù chỉ làm tăng tâm tính độc ác.
Muốn hành tập lòng
từ-ái, ta cũng phải xả bỏ tính ích kỷ. Bao nhiêu tình thương
trong thế giới vị kỷ này tựu trung chỉ là tình thương cho
chính mình:
"Không phải vì tình
thương ban cho người chồng yêu dấu; nhưng chồng mình sở dĩ
được yêu là do mình yêu chính mình. Con cái được cha mẹ yêu
thương, không phải do tình thương ban cho con cái, mà do cha
mẹ thương yêu chính họ. Thần thánh được yêu kính, chẳng
phải vì cho thần thánh, mà là kính yêu cho chính mình. Chẳng
phải người nào đưọc yêu thương là do ai hiến tặng thương
yêu, nhưng chính do lòng tự yêu mình của ai đó".
Con người phải học
hỏi cách thể hiện lòng vị tha hầu duy trì được hòa bình
thực sự và cho sự giải thoát của chính mình. Giống như
tự tử giết đi thân xác, tính ích kỷ giết đi tiến bộ tâm
linh. Tâm từ trong Đạo Phật chẳng phải là cảm xúc và cũng
chẳng phải ích kỷ. Đó là sức truyền cảm do tâm thanh
tịnh tỏa ra sau khi đoạn trừ được hận thù, ghen ghét, độc
ác, thù địch và hằn học. Theo Đức Phật, Metta, lòng bi
mẫn là phương pháp hữu hiệu nhất để giữ tâm thanh tịnh
và trong sạch hóa bầu không khí tinh thần bị ô nhiễm.
Từ ngữ "tình thương"
dùng để bao gồm một tầm mức rộng lớn những cảm xúc mà
con người kinh nghiệm. Mức nghiêng nặng về thú tính tham
dục đối với một người khác phái sẽ làm mất quan niệm
về tình thân thiện giữa các chúng sanh. Theo Phật Giáo, có
nhiều loại cảm xúc, tất cả những cảm xúc ấy đều được
gọi thông thường là "tình thương". Trước tiên, có
tình thương ích kỷ và tình thương không vị kỷ. Kẻ có tình
thương ích kỷ khi kẻ đó chỉ quan tâm đến thỏa mãn cá nhân
mình mà thôi còn không quan tâm gì đến như cầu hay cảm nghĩ
của người đồng loại khác. Ghen ghét thường là một
triệu chứng của lòng vị kỷ. Mặt khác, tình thương không
vị kỷ được cảm nhận thấy khi một người quên thân mình
làm điều tốt cho người khác - cha mẹ thường đối với
con cái bằng tình thương như vậy. Thường thường con người
hay pha trộn giữa hai tình thương vị kỷ và vị tha trong các
mối tương giao. Thí dụ, trong khi cha mẹ có những hy sinh to
lớn cho con cái, họ cũng thường mong mỏi được đền đáp.
Một loại tình thương
khác, cũng liên hệ mật thiết với loại trên, là tình huynh
đệ hay tình bằng hữu. Về ý nghĩa, loại tình cảm này có
thể coi như ích kỷ vì tình thương này chỉ giới hạn trong
một số người đặc biệt mà không nới rộng ra nhiều người
khác. Trong một loại nữa, có tình yêu xác thịt giữa hai người
khác phái đến với nhau do sự lôi cuốn thể chất. Đó là
loại tình yêu được các ngành giải trí hiện đại khai thác
tối đa, bao gồm từ sự cuồng dại đon sơ của lứa trẻ
mới lớn cho đ?n những liên hệ phức tạp nhất giữa người
đã trưởng thành.
Cao cả hơn những tình
thương nói trên là Tình Thương Đại Đồng hay Tâm Từ
(Metta). Tình thương bao quát này là đức hạnh vĩ đại thể
hiện nơi Đức Phật. Chẳng hạn, Đức Thế Tôn đã từ bỏ
vương quốc, gia đình và mọi lạc thú để tận lực tìm ra
phương cách giải thoát nhân loại khỏi kiếp sống khổ đau.
Để đạt được Giác Ngộ, Ngài đã phải chiến đấu qua không
biết bao nhiêu kiếp sống. Người yếu kém chắc phải ngã lòng,
nhưng Đức Phật thì không. Do đó người ta gọi Ngài là
"Đấng Từ Bi". Tình thương bao la vô bờ bến của Đức
Phật không chỉ riêng cho loài người mà cho tất cả các sinh
vật. Tình thương ấy không phải là cảm xúc hay ích kỷ, mà
là một tình thương vô biên giới, không kỳ thị. Không
giống như loại tình thương khác, tâm từ bi không bao giờ
chấm dứt trong thất vọng hay bất mãn vì tình thương này không
mong được đền đáp. Người trau dồi tâm từ bi cũng trau
dồi tâm hỷ và tâm xả, và người đó sẽ đạt đến tình
trạng siêu phàm.
Trong cuốn "Con
Đường Xưa của Đức Phật", Hòa thượng Piyadassi nói:
"Tình thương là
một sức mạnh tích cực. Mỗi hành động của tình thương
thể hiện với một tâm ý trong sạch để nâng đỡ, cứu
trợ, khích lệ, giúp người khác tiến bước dễ dàng, êm ái
và thích nghi hơn cho việc chiến thắng phiến não, đạt
hạnh phúc tối thượng.
"Phương cách để
phát triển tình thương là suy niệm về những điều sai trái
của sân hận, đến những lợi ích của tâm không-sân, suy
nghĩ theo thực tại, theo nghiệp luật rằng không có gì để
sân hận, rằng sân hận là một cảm giác điên rồ nuôi dưỡng
càng ngày càng nhiều tối tăm, che lấp sự hiểu biết chính
đáng. Sân hận kìm hãm, thương yêu cỏi mở. Sân hận bóp
nghẹt, thương yêu giải phóng. Sân hận đem dầy vò, thương
yêu đem an lạc. Sân hận chao đảo, thương yêu bình thản, an
nhiên, tĩnh lặng. Sân hận chia rẽ, tình thương đoàn kết. Sân
hận làm khô cứng, tình thương làm mềm dịu. Sân hận cản
ngăn, tình thương giúp đỡ. Như thế do nghiên cứu và nhận
định chính xác những hậu quả của sân hận và những lợi
ích của tình thương, chúng ta nên phát triển tình thương
rộng lớn".
Trong Kinh Metta, Đức
Phật giải thích cặn kẽ tình thương trong Đạo Phật.
Chẳng khác gì người mẹ che chở đứa con duy nhất của mình
dù phải hy sinh tính mạng, đến như vậy ta cũng nên trau
dồi tình thương vô biên đối với tất cả chúng sanh. Hãy
trải tâm từ rộng lớn của mình tỏa khắp toàn thể thế
giới, bên trên, bên dưới, ngang qua không chướng ngại nào,
không sân hận nào, không thù hằn nào".
LÒNG NHÂN TỪ THỰC
SỰ
Lòng nhân từ thực
sự là "cho mà không mong gì đền đáp lại".
Cốt lõi của lòng nhân
từ thực sự là cho mà không mong cầu gì đền đáp lại món
quà mình tặng. Nếu một người tìm cầu một lợi lạc vật
chất nào từ tặng phẩm của mình, hành động ấy chỉ có tính
cách đổi chác mà không phải do lòng nhân. Một người nhân
đức không nên làm cho người khác cảm thấy thiếu nợ mình
hay dùng lòng nhân như một phương cách để kiểm soát họ.
Người đó cũng không mong mỏi gì người ta phải biết ơn mình
vì phần đông con người hay quên và không hẳn họ đều là
người vô ơn. Một hành động do lòng nhân thực sự là một
hành động thiện lành, không vương mắc để người cho cũng
như người nhận đều cảm thấy tự do.
Tôn giáo nào cũng đều
tán thán công đức từ thiện. Những ai có mức sống đầy
đủ nên nghĩ đến người khác, mở rộng hạnh bố thí vào
những trường hợp thích đáng. Trong hàng những người làm
việc từ thiện, có một số dùng việc cho tặng như một phuơng
tiện để lôi cuốn người khác theo tôn giáo hay tín điều
của mình. Hành động "cho" như vậy với một động
cơ kín đáo để đổi chác không thể là lòng nhân từ thực
sự được. Người Phật Tử quan niệm từ thiện là một hành
động để giảm thiểu lòng tham, một tâm bất thiện làm ngăn
trở sự phát triển tâm linh. Ai đang trên con đường rèn
luyện tinh thần đều phải cố gắng giảm thiểu tính vị
kỷ và tâm tham ái mạnh mẽ muốn có thêm và thêm mãi. Ta nên
giảm thiểu lòng luyến ái vào các vật sở hữu, vì nếu ta
không tỉnh thức, chúng sẽ có thể biến ta thành nô lệ cho
lòng tham ái. Thay vào đó ta nên sử dụng chúng để đem lợi
ích và hạnh phúc lại cho người khác như các thân hữu và
những ai cần đến sự giúp đỡ của mình.
Khi cho, ta không chỉ
thể hiện lòng nhân từ như một nghĩa cử của thân mà thôi,
mà với cả con tim và khối óc. Phải có một niềm vui mỗi
khi cho. Có một sự khác biệt giữa một hành động từ
thiện và bố thí (dana). Trong hành động phước thiện
bình thường, do lòng trắc ẩn và tính tình tử tế, ta cho
khi nhận thấy một người nào đó thiếu thốn cần sự giúp
đỡ, và ta đang ở trong tư thế phát tâm muốn giúp đỡ. Còn
đối với người hành hạnh bố thí, cho ở đây là một phương
tiện để trau dồi tâm nhân ái, một đức hạnh để giảm
thiểu tính vị kỷ và tham đắm của chính mình. Người này
đang trau dồi trí tuệ khi nhớ rằng bố thí là một phẩm
hạnh rất quan trọng mà mỗi người Phật Tử phải tu tập và
là ba la mật đầu tiên (Bố Thí Ba La Mật) mà Đức Phật hành
trì trong nhiều tiền kiếp của Ngài trên đường tìm Giác
Ngộ. Ta thực hành hạnh bố thí để tỏ lòng tri ân những
phẩm tính và cao cả của Tam Bảo.
Có nhiều thứ mà ta có
thể cho. Có thể tặng vật dụng như thực phẩm cho người
đói, tiền bạc, quần áo cho người nghèo. Cũng có thể
cống hiến kiến thức, kỹ năng, thì giờ, nghị lực và cố
gắng vào những kế hoặch mang lợi ích cho người khác. Ta cũng
có thể lắng nghe với thái độ thiện cảm và trao vài lời
khuyên tốt đến người bạn đang gập khó khăn. Cũng có
thể tự kiềm chế việc giết hại các chúng sanh khác, và làm
như vậy chính là đã tặng lại đời sống cho những sinh
vật yếu đuối này lẽ ra có thể bị giết chết. Ta cũng có
thể hiến tặng một phần thân thể của mình để cứu người
khác, chẳng hạn như cho máu, cho mắt, thận vân vân....
Những ai tu tập đức hạnh này, thúc đẩy bởi tâm đại bi
cao cả đối với người khác cũng có thể có thể hy sinh đến
tính mạng của mình nữa. Trong nhiều tiền kiếp của Ngài,
Bồ Tát (Tất Đạt Đa) đã nhiều lần cho những phần thân
thể của Ngài để cứu các người khác. Ngài cũng đã hy
sinh cả mạng sống của Ngài để cho người khác được
sống, tấm lòng quảng đại và bi mẫn của Ngài thật to
lớn.
Nhưng chứng tích vĩ
đại nhất về lòng từ bi vô bờ bến của Đức Phật là
tặng phẩm vô giá cho nhân loại, Giáo Pháp giúp tất cả chúng
sinh có thể giải thoát khỏi khổ đau. Đối với người
Phật Tử, tặng phẩm cao quý nhất trong tất cả tặng phẩm
là Phật Pháp. Tặng phẩm này có sức mạnh vĩ đại thay đổi
đời sống. Khi một người nhận Phật Pháp với một tâm ý
trong sạch và tu tập chân lý nghiêm chỉnh, người đó không
thể nào không thành công được. Người đó đạt nhiều
hạnh phúc to lớn hơn nữa, an lạc và hoan hỷ trong cả tim
lẫn óc. Nếu người đó có lần độc ác, thì nay người đó
sẽ sinh lòng trắc ẩn. Nếu người đó đã có lần trả thù,
thì nay người đó biết tha thứ. Nhờ Phật Pháp, kẻ sân
hận trở thành bi mẫn hơn, kẻ tham lam biết mở lòng rộng rãi
hơn, và kẻ bất an tìm được sự thanh thản hơn. Khi một người
hưởng hương vị của Giáo Pháp, người đó không những
chứng nghiệm hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ, mà còn hưởng
hạnh phúc trong những kiếp sau, và trong cuộc hành trình
tiến đến Niết Bàn.
THÁI ĐỘ
PHẬT GIÁO VỚI ĐỜI SỐNG CỦA LOÀI
VẬT
Nếu chúng ta tin rằng
thú vật được tạo ra cho con người, thì chắc phải tin là
con người được tạo ra cho loài vật bởi vì có một số thú
vật ăn thịt người.
Ngưòi ta nói rằng loài
vật chỉ ý thức về hiện tại. Chúng sống không quan tâm gì
đến quá khứ và tương lai. Giống như vậy, trẻ nít hình như
không có khái niệm gì về tương lai. Chúng chỉ sống với
hiện tại cho đến khi khả năng về trí nhớ và tưởng tượng
phát triển.
Con người có năng
khiếu lý luận. Sự cách biệt giữa người và vật chỉ là
ở chỗ con người biết phát triển khả năng lý luận và hành
động phù hợp. Người Phật Tử chấp nhận rằng con vật không
những có sức mạnh trực giác mà cũng có khả năng suy nghĩ
tuy ở một mức độ kém hơn
Trong vài phương
diện, con vật cao hơn con người. Loài chó có thính giác
nhậy bén hơn; côn trùng có khứu giác tinh tế hơn, diều hâu
có tốc độ nhanh hơn, chim phượng hoàng có tầm nhìn xa hơn.
Chắc chắn con người khôn ngoan hơn nhưng cần phải học
hỏi nhiều điều nơi con kiến và con ong. Tuy loài vật có
một số khả năng như vậy nhưng loài người còn có nhiều hơn
nữa: Chúng ta có tiềm năng phát triển tinh thần.
Phật Giáo không chấp
nhận là do ai đó con vật được tạo ra cho con người; nếu
vậy hóa ra loài người cũng được tạo ra cho loài vật vì có
một số con vật ăn thịt người.
Người Phật Tử được
khuyến khích nên thương yêu tất cả sinh vật, và không nên
chỉ hạn hẹp trong tình thương cho con người mà thôi. Họ nên
thực hành lòng từ-ái với tất cả mọi sinh vật. Đức
Phật dạy rằng quả không hợp lý nếu con người lấy đi đời
sống của bất cứ sinh vật nào vì mỗi chúng sinh đều có
quyền tồn tại. Con vật cũng sợ hãi và đau đớn như con người.
Tước đoạt mạng sống của chúng thật là sai quấy. Ta không
lạm dụng trí thông minh và sức mạnh để tàn hoại sinh
vật mặc dù đôi khi chúng gây thiệt hại cho ta. Loài vật
cần thiện cảm của con người. Giết hại chúng đâu phải là
biện pháp duy nhất để tống khứ chúng. Mỗi sinh vật đều
đóng góp vào việc bảo tồn thế giới này. Thật là bất công
khi ta tước đi quyền sống của chúng.
Trong cuốn Handbook of
Reason (sách nói về lý trí), D. Runes nói:
"Thật khó nói
về đạo đức trong sự tương quan với các sinh vật mà con
người đã ăn nuốt một cách có hệ thống, hầu hết bằng
cách thui nướng và đôi khi ăn sống. Có nhi?u người thực hành
hạnh thương yêu súc vật như ngựa chó mèo ... Nhưng chính
những người này lại có thể túm cổ con hươu, con nai, đâm
họng chúng hứng huyết uống tươi hoặc làm dồi tiết, và
cắn lấy thịt tươi. Và ai là người nói con ngựa mà họ cưng
cao quý hơn con hươu họ ăn? Thật ra có người ăn thịt mèo,
chó, và ngựa nhưng lại chỉ dùng bò như loài gia súc để làm
việc".
Có người khóc than
một con chim nhỏ hay một con cá vàng mới chết; Lại có kẻ
lặn lội thật xa bắt cá bằng một lưỡi câu ghê tởm để
ăn hoặc chỉ để tiêu khiển hoặc tìm vui trong thú bắn
chim. Có kẻ đi vào tận rừng sâu săn giết thú như một
loại thể thao trong khi có kẻ khác lại tiêu rất nhiều
tiền để nuôi những con vật này tại nhà như những gia súc
yêu quý.
Có người nuôi ếch
nhái để tiên đoán thời tiết; người khác lại cắt đùi
chúng đem chiên. Một số nuôi chim trong những chiếc lồng hào
nhoáng; một số khác lại dùng chúng để ăn điểm tâm. Tất
cả hầu như lẫn lộn nhau. Trong một thế giới mà người đánh
người để kiếm tiền hoặc chỉ để đổ máu chơi, quả là
khó khăn mà có đủ thì giờ cân nhắc về đạo đức của
con nguời trong mối tương quan với loài vật.
Tôn giáo nào cũng khuyên
ta thương yêu đồng loại. Có đạo còn khuyên ta thương yêu
nhau nhiều hơn nếu cùng thuộc về một tín ngưỡng. Nhưng
Phật Giáo cao cả hơn ở chỗ dạy chúng ta thể hiện quan tâm
và lòng bi mẫn đồng đều cho khắp mỗi chúng sinh trên vũ
trụ này. Sự phá hoại bất cứ sinh vật nào đều gây rối
cho nền Trật Tự của Vũ Trụ.
Trong những lời dạy
của Ngài, rõ ràng Đức Phật chống lại mọi hình thức độc
ác với bất cứ chúng sinh nào. Một hôm Đức Phật thấy
một người đang sửa soạn giết súc vật để làm lễ tế
thần . Hỏi tại sao lại đem giết con thú vô tội này, người
đó trả lời là để làm vừa lòng thánh thần. Đức Phật
bảo vậy hãy giết Ngài đi để tiến lễ, vì nếu mạng
sống của súc sanh có thể làm họ toại ý thì mạng người
ắt còn làm cho họ vừa lòng hơn nữa.
Sự độc ác đối
với loài vật còn là hình thức biểu lộ của lòng tham bất
trị của con người. Ngày nay nhân loại tiêu hoại cầm thú và
tước đi quyền sống của chúng để mở rộng môi sinh cho
sự tiện nghi của mình. Nhưng chúng ta đã phải trả đắt giá
về hành động độc ác và ích kỷ này. Môi sinh của chúng
ta đang bị báo động và nếu chúng ta không có những biện
pháp nghiêm ngặt để bảo vệ sự sống còn của các sinh
vật, sự hiện hữu của chính chúng ta trên trái đất này cũng
không thể được bảo đảm. Sự có mặt của một số sinh
vật quả cũng có đe dọa đời sống con người. Tuy nhiên chúng
ta lại chẳng bao giời lưu ý rằng con người chính là mối
đe dọa to lớn nhất đối với tất cả sinh vật trên trái
đất và trong không gian, trái lại sự hiện hữu của vài
sinh vật chỉ là một nguy cơ nhỏ đối với một số khác mà
thôi.
Vì mỗi sinh vật đều
đóng góp cho sự bảo tồn hành tinh và bầu khí quyển, tiêu
diệt chúng không phải là một giải pháp để khắc phục
những sự xáo trộn của chúng ta. Con người phải dùng các
biện pháp khác để duy trì mức cân bằng của thiên nhiên.
LÒNG KHOAN DUNG CẦN
THIẾT CHO THỜI ĐẠI NÀY
"Nếu ai dại
khờ làm điều sai trái với Như Lai, trở lại Như Lai sẽ che
chở cho y bằng một tình thương vô bờ bến. Hắn càng làm
tội lỗi bao nhiêu thì Như Lai lại càng cho y thiện ý bấy
nhiêu. Lúc nào Như Lai cũng chỉ tỏa ra hương thơm của điều
thiện" (Đức Phật)
Con người ngày nay
bất an, lo lắng với bao sợ hãi và bất mãn. Họ bị đầu
độc bởi lòng ham muốn được danh tiếng, của cải và uy
quyền. Họ tham đắm trong sự thỏa mãn giác quan. Họ sống
qua ngày trong sợ hãi, nghi kỵ và bất ổn. Trong thời điểm
rối loạn và khủng hoảng này, con người thật khó sống
chung hòa bình với bạn đồng loại. Thế nên lòng khoan dung
trong thế giới ngày nay tối thiết phải có thì sự sống
chung hòa bình giữa các dân tộc mới có thể thành tựu được.
Thế giới đã đổ máu
và thống khổ bởi căn bệnh giáo điều và cố chấp. Mảnh
đất của nhiều quốc gia ngày nay đã bị đẫm ướt bởi máu
đổ trên bệ thờ do các loại đấu tranh chính trị giống như
những bầu trời ở thời đại hoàng kim xa xưa đã bị bao
phủ bởi khói thiêu các vị thánh tử đạo của nhiều tín
ngưỡng khác nhau.
Trong tôn giáo hay chính
trị, con người vẫn hay cho mình có sứ mệnh mang nhân loại
vào cách sống của mình và hay công kích những cách sống khác.
Đương nhiên, sự bất khoan dung của tinh thần Thập Tự Chinh
đã làm hoen ố sử sanh tôn giáo.
Chúng ta hãy nhìn lại
thế kỷ hiện tại mà "TIẾN BỘ" được quảng cáo
rầm rộ - một thế kỷ của máy móc và phát minh. Sự trưng
bày các phát minh khoa học và kỹ thuật mới làm ta chóa mắt
- điện thoại, điện cơ, máy bay, vô tuyến, truyền hình, điện
toán, tầu không gian, vệ tinh và các dụng cụ điện tử. Nhưng
cũng trong thế kỷ này, những đứa con của trái đất đã
triển khai bao phát minh cực kỳ tiến bộ ấy, vẫn là những
người đó đã giết hại cả triệu người khác bằng lưỡi
lê, súng đạn hay hơi độc. Tinh thần khoan dung ở đâu,
giữa tất cả tiến bộ vĩ đại đó?
Ngày nay con người đang
ra sức thám hiểm ngoại tầng không gian. Nhưng người và người
hoàn toàn không thể cùng nhau sống trong thái bình và hài hòa.
Con người rồi đây sẽ làm mất tính chất thiêng liêng của
mặt trăng và các hành tinh khác.
Để mưu lợi vật
chất, con người hiện đại xâm phạm thiên nhiên. Hoạt động
tinh thần lại quá đặt nặng về hưởng lạc nên họ không
tìm ra mục đích của cuộc đời. Cách hành xử trái tự nhiên
của nhân loại ngày nay do kết quả quan niệm sai lầm về đời
sống con người, và về mục tiêu chủ yếu. Đó là nguyên nhân
của bao thất vọng, sợ hãi, bất an và cố chấp của thời
đại ngày nay.
Tóm lại, ngày nay thái
độ thiếu bao dung vẫn còn thể hiện dưới danh nghĩa tôn giáo.
Người ta chỉ nói suông về tôn giáo và hứa hẹn con đường
tắt tiến tới thiên đường mà không lưu tâm gì đến việc
thực hành. Nếu người Cơ Đốc Giáo sống theo Bài Thuyết Giáo
Trên Đồi, nếu người Phật Tử hành theo Bát Chánh Đạo,
nếu người Hồi Giáo thực sự theo quan niệm Tình Anh Em, và
nếu người Ấn Độ Giáo sống theo khuôn khổ tinh thần
nhất như, nhất định nhân loại sẽ có hòa bình và hòa
hợp trên thế giới này. Bất chấp những giáo lý vô giá
của những đạo sư tôn giáo vĩ đại, người ta vẫn không
nhận thức được giá trị của lòng khoan dung. Nhân danh tôn
giáo để biểu lộ thái độ cố chấp thật là tệ hại và
đáng trách.
Đức Phật có dạy:
"Sung sướng thay
ta sống không thù hận những người thù hận ta.
Giữa những người thù hận, ta sống không thù hận.
Sung sướng thay ta sống không tật bệnh giữa những người
tật bệnh.
Sung sướng thay ta sống không tham dục giữa những người
tham dục"
-- (Kinh Pháp Cú, Câu 197, 200)
LỀ NGHI TANG CHẾ
PHẬT GIÁO
Đám tang thực sự
theo Phật giáo là một nghi lễ tôn giáo đơn giản, nghiêm túc
và trang trọng.
NGÀY TANG LỀ
Một đám tang cử hành
đúng theo tinh thần đạo Phật tại các xứ Phật Giáo là
một nghi lễ đơn giản, nghiêm túc và trang trọng. Nhưng không
may nhiều người đã đưa thêm lắm tiết mục ngoại lai không
cần thiết cùng các hình thức dị đoan vào trong tang lễ.
Những nghi thức xa lạ trên được thay đổi tùy theo truyền
thống và tập tục của người dân địa phương. Những điều
này được ứng dụng từ rất lâu đời bởi những người có
lẽ không hiểu gì về bản chất của đời sống, và của cái
chết, và về kiếp sống sẽ ra sao sau khi chết. Khi những ý
kiến bổ sung này được sát nhập vào tang nghi theo Phật Giáo,
người ta có khuynh hướng chê trách đạo Phật vì tang lễ
tốn kém. Nếu đại chúng Phật Tử được thân cận đúng người
đã thâm hiểu Giáo Pháp và truyền thống thực sự của
Phật Giáo, họ sẽ nhận được lời khuyên phải tổ chức
tang lễ như thế nào. Điều đáng tiếc nhất là các sự
kiện trên đã gieo một cảm tưởng xấu rằng Đạo Phật
khuyến khích người dân phung phí tiền bạc và thì giờ vào
những hình thức không cần thiết. Phải nên hiểu minh bạch
là Phật Giáo không liên quan gì đến những thủ tục thấp kém
ấy.
Người Phật Tử không
quan tâm đặc biệt gì về chôn hay thiêu một xác chết. Trong
nhiều xứ Phật Giáo, hỏa táng là một tục lệ. Thiêu được
khuyến khích vì lý do vệ sinh và kinh tế. Ngày nay, dân số
trên thế giới đang gia tăng nếu ta tiếp tục để xác chết
chiếm một số đất đai có giá trị, rồi một ngày nào đó,
tất cả đất đai còn lại sử dụng được đều sẽ bị người
chết dành hết, và người sống sẽ không còn chỗ mà sống.
Vẫn còn có một số
người phản đối việc thiêu xác chết. Họ cho là hỏa thiêu
trái với luật của thượng đế, cũng một lập luận như
vậy, họ đã phản đối nhiều điều khác trong quá khứ.
Những hạng người như vậy phải cần một thời gian mới
hiểu được là hỏa thiêu thích hợp và hiệu quả hơn chôn
cất.
Mặt khác, người
Phật Tử không tin rằng ngày nào đó có một đấng nào đó
sẽ đến đánh thức hương linh người quá cố từ ngôi mộ
hay tro cốt trong bình đựng và quyết định ai sẽ đuợc lên
thiên đường, ai sẽ phải xuống địa ngục.
Thức hay năng lực
tinh thần của người quá vãng không có liên quan gì nữa
với cái thân xác, bộ xương hay tro cốt để lại. Nhiều người
lại còn tin rằng nếu người chết không được chôn đúng cách
hay mộ chí đã được làm phép mà không được để vào
nấm mộ, linh hồn người chết sẽ lang thang khắp bốn phương
trời khóc than rên rỉ, và đôi khi quay trở về quấy phá người
thân. Trong Phật Giáo không hề có lối tin như vậy.
Người Phật Tử tin
rằng một người khi chết sẽ tái sanh ở một nơi nào đó tùy
theo hành động tốt hay xấu của người đó. Khi mà người
đó còn tham sống, người đó phải tái sanh. Chỉ có các đấng
A la Hán, đã vượt qua tất cả các tham ái mới không còn tái
sanh và sau khi chết các Ngài sẽ đạt mục tiêu cuối cùng là
Niết Bàn.
-ooOoo-
Ðầu
trang | Mục lục | 01
| 02 | 03 |
04
| 05a | 05b |
06
| 07 | 08 |
09
| 10 | 11 |
12
| 13 | 14 |
15
| 16 | 17
--- o0o ---
Trình bày:
Chân Đức & Nguyên Thảo
Cập
nhật
ngày:
01-11-2002
|