.
CHÂN ĐẾ & TỤC ĐẾ
Nguyên Quang
Trong các danh từ chuyên môn của đạo Phật, có
lẽ không có từ ngữ nào mà người học Phật cần phải hiểu và cần phải phân
biệt rõ ràng, nếu như muốn hiểu giáo lý thâm diệu của đạo Phật như hai từ
"Chân Đế" và "Tục
Đế".
Thật vậy, Đức Phật, vì muốn độ chúng sinh thoát khổ sinh tử nên mới nương
vào thế giới Tục đế mà nói pháp, nhằm chỉ bày cho chúng sinh thấy được cái
bản chất chân thật tự nhiên của Tâm vốn sẵn có, để chúng sinh, tự nỗ lực
tu hành giải thoát khỏi khổ đau sinh tử, lìa khỏi thế giới Tục đế, đến thế
giới Chân đế.
Cũng vì thế mà ngài Long Thọ Bồ tát nói rằng "...
Các Đức Phật vì chúng sinh, y vào Nhị đế mà
nói pháp, thứ nhất là Thế tục đế và thứ hai là Đệ nhất nghĩa đế. Nếu
người nào không nhận thức được hai chân lý này, thì đối với Phật pháp sâu
xa, không thể hiểu được chân nghĩa. Nếu không nương tựa vào tục đế, thì
không thể thấy được chân lý; nếu không thấy được chân lý, thì không thể
ngộ được Niết bàn..."
Tục đế
là một hợp từ: "tục" nghĩa là thế tục hay phàm tục, "đế" nghĩa là chân
lý. Tục đế có nghĩa là những cái gì mà người thế tục đồng ý với nhau, gọi
là chân lý quy ước hay còn gọi là chân lý tương đối. Còn
Chân đế, cũng là một hợp từ, có nghĩa là
chân lý chân thật không hư vọng, là chân lý tuyệt đối, là chân lý tối
thượng, cũng còn gọi là Đệ nhất nghĩa đế, là chân tâm, giác tánh, chân
như...
Chân lý tuyệt đối là gì? Không ai biết được ngoại trừ chính chư Phật và
chư Tổ đã giác ngộ. Các ngài cũng không thể nói cho chúng ta biết được.
Toàn bộ giáo điển của chư Phật là pháp phương tiện, Ngài "dùng pháp thế
gian, (tức thế tục đế) để giảng nói cho chúng sinh" , cốt để chúng sinh
ngộ được cái chân lý tuyệt đối như Ngài vì Ngài thấy Tâm Phật và Tâm chúng
sinh vốn không khác, vốn tự đầy đủ mênh mông khắp không gian và thời
gian.
Thật vậy, xuyên qua lời dạy của Phật và chư Tổ, sở dĩ có sự sai khác là vì
tâm chúng sinh bị mê mờ ô nhiễm. Cái Tâm bị bao vây bởi tham sân si, bởi
vọng tưởng điên đảo, bởi tham nhiễm các pháp có không. Ngài Sogyal
Rinpoche, một đại sư Tây tạng, ví Tâm chúng ta bị vây kín trong một cái
bình mà "khoảng không trong bình cũng giống
như khoảng không bên ngoài. Khi chúng ta giác ngộ, thì cũng như cái bình
vỡ tan thành mảnh vụn... Ngay lúc đó và tại chỗ đó, chúng ta trực nhận
được rằng chúng chưa từng bao giờ có sự ngăn cách hay sai khác..."
Vì
tâm sinh diệt của chúng sinh luôn luôn dính mắc vào các pháp "có không"
nơi thế giới hiện tượng tức thế giới tục đế, nên Đức Phật thấy thật là khó
nói về cái mà Ngài đã chứng ngộ, chẳng hạn như nói về Phật tánh, chân tâm,
vốn không hình tướng, không số lượng. Nếu nói chúng sinh có Phật tánh là
chấp trước, nói không có Phật tánh là hư vọng, nói Phật tánh cũng có cũng
không là nói trái ngược nhau, nói Phật tánh chẳng có chẳng không là hý
luận. Nên Phật mới dùng các pháp thế gian phương tiện, "giả lập kệ pháp,
giả lập danh tự, vốn chẳng phải Phật, nói với họ là Phật, vốn chẳng phải
Bồ Đề, Niết Bàn, giải thoát, nói với họ là Bồ Đề, Niết Bàn, giải thoát,
... Biết họ gánh trăm tạ chẳng nổi, tạm cho họ gánh một lon, một chén,
biết họ khó tin giáo liễu nghĩa, tạm nói với họ giáo bất liễu nghĩa, tạm
được pháp lành lưu hành còn hơn là pháp ác...".
Cũng chính vì chân lý tuyệt đối này rất khó hiểu, khó nhận, khó nói nên
đôi khi Ngài phải dùng những thí dụ bằng lời nói, như trong kinh Pháp Hoa,
Phật dùng bẩy thí dụ, trong đó có hai thí dụ là cái nhà lửa và câu chuyện
đứa con cùng tử mà ai cũng biết. Ngoài ra còn nhiều kinh khác như Bá Dụ
Kinh, Tạp Thí Dụ Kinh, Bồ Tát Bổn Sanh Kinh, ... Các thí dụ Ngài nói
trong kinh dùng phương thức ngụ ngôn, hàm chứa những ý nghĩa thâm thúy, ám
thị lý tuyệt đối mà chân lý tuyệt đối này không thể dùng lời trực tiếp mà
giảng giải vì lời chỉ là khí cụ diễn đạt cái tư tưởng tương đối, cái có
hình, có tướng trong thế giới nhị nguyên.
Chư tổ chứng ngộ cũng vậy, không thể nói cho chúng ta biết được chân lý
tuyệt đối là gì, mà quý ngài chỉ dùng những câu chuyện ngụ ngôn, như câu
chuyện con rùa và con cá để làm thí dụ mà thôi. Rằng con rùa từ dưới nước
bò lên mặt đất, đi một vòng rồi trở về nước, bơi cạnh con cá, kể chuyện
đất liền cho nó nghe. Nhưng con cá, vì chưa bao giờ rời khỏi nước, không
thể tưởng tượng nổi lại có một môi trường có thể sống được mà không có
nước, không bơi lội. Cho nên con rùa đành chịu mang tiếng là nói chuyện
viển vông hoang đường, không có trong thực tế.
Cảnh giới tuyệt đối, chân tâm, giác tánh, chân như, mà Phật đã giác ngộ
không thể nói cho người chưa chứng ngộ biết được. Vì lẽ đó mà người đời
đôi khi cũng phê bình: "Đạo Phật cao siêu quá, không có trong thực tế".
Nhưng chính đó mới là cốt tủy của Phật Giáo.
Kinh Kim Cang là kinh liễu nghĩa, nói về cốt tủy của đạo Phật, về chân lý
tuyệt đối, cho nên không có pháp gì để nói. Những lời Phật dạy trong kinh
chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến
chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời vốn là nhân kiên cố của vòng
xích luân hồi, đã lôi kéo chúng sinh vào vòng trầm luân muôn vạn kiếp.
Ngài phá bỏ không còn một kiến chấp nào và Ngài cũng tuyên bố luôn là Ngài
không thuyết pháp: "- Tu Bồ Đề! Ông chớ cho Như Lai có nghĩ rằng: "Ta có
nói pháp". Ông chớ nghĩ như vậy. Bởi vì sao? - Vì nếu người nào nói
rằng: Như Lai có nói pháp, tức là chê Phật, không hiểu được lời của ta
nói. Tu Bồ Đề! Nói pháp, là không có pháp gì nói được, ấy gọi là nói
pháp." Có nghĩa là Phật không nói về cái chân lý tuyệt đối, về cái chân
tâm, Phật tánh, Chân Như, vì chân lý tuyệt đối vốn chẳng thể dùng ngôn ngữ
tương đối thế tục để biểu thị. Ngài chỉ dùng ngôn ngữ thế gian tức chân
lý thế tục để chỉ bảo chúng sinh, mà ngôn ngữ thế tục, là pháp tương đối
thì không có tự tánh, chỉ do nhân duyên hòa hợp, và do nhân duyên hòa hợp
nên không có thật.
Đến đây, chúng ta trở lại bài kệ của Bồ Tát long Thọ đã nêu trên phần mở
đầụ. Bồ Tát dạy chúng ta rằng nếu chúng ta không phân biệt được chân lý
tương đối và chân lý tuyệt đối, tức thế tục đế và chân đế, thì chúng ta
không thể hiểu được đạo Phật. Do sự không hiểu và không phân biệt rõ này,
chúng ta lại nhập nhằng đem lời Đức Phật nói "Không thể nói pháp Tuyệt
Đối", mà cho là Đức Phật nói "Không nói pháp tương đối" là chúng ta vô
tình vướng mắc vào sự hủy báng kinh, chứa đựng những lời tâm huyết của Đức
Phật. Ngài đã dùng ngôn ngữ và chân lý thế tục để dạy người thế tục biết
cách mà tiến dần trên con đường từ bỏ thế tục, trở về bản thể tuyệt đối.
Nếu chúng ta không hiểu được điều đó, mà tưởng rằng Đức Phật không nói
pháp, thì chúng ta sẽ mất niềm tin nơi kinh, sẽ mất cơ hội có bản đồ chính
xác để tìm đường trở lại bản thể chân tâm tuyệt đối.
Source:
www.jps.net/hoasen
---o0o---
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-12-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục