.
Cư
Trần
Lạc
Ðạo
(Trọn
bộ 3 tập)
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
---
o0o
---
Tập
1
(11)
Thập Ðại Nguyện
Theo Kinh Ðại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm, Bồ Tát Phổ Hiền dạy rằng: "Nhược dục thành tựu thử công
đức môn, ưng tu thập chủng đại hạnh nguyện:
"Nhứt giả lễ kính chư Phật.
Nhị giả xưng tán Như Lai.
Tam giả quảng tu cúng dường.
Tứ giả sám hối nghiệp chướng.
Ngũ giả tùy hỷ công đức.
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân.
Thất giả thỉnh Phật trụ thế.
Bát giả thường tùy Phật học.
Cửu giả hằng thuận chúng sanh.
Thập giả phổ giai hồi hướng."
Nghĩa là nếu ai muốn trọn nên công đức của
Phật, thời phải tu mười điều hạnh nguyện rộng lớn như sau:
Một là thành tâm kính lễ các đức Phật.
Hai là khen ngợi, tán thán Như Lai.
Ba là thực hành hạnh cúng dường rộng rãi.
Bốn là ăn năn chừa bỏ các nghiệp chướng.
Năm là vui theo các công đức.
Sáu là thỉnh Phật thuyết pháp.
Bảy là thỉnh Phật trụ ở thế gian.
Tám là thường tu học theo lời Phật dạy.
Chín là luôn luôn tùy thuận lợi ích chúng sanh.
Mười là hồi hướng công đức khắp tất cả pháp giới.
1) Lễ kính chư Phật:
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số
Ðức Phật, chúng ta đều dùng thân khẩu ý, tam nghiệp thanh tịnh,
thường tu hạnh lễ kính. Nghĩa là chúng ta thường xuyên một lòng thành tâm
kính lễ chư Phật mười phương, điều này là lẽ đương nhiên đối với
những người Phật Tử. Ðiều quan trọng cần lưu ý là chúng ta không
những kính lễ mười phương chư Phật quá khứ, tức là chư Phật đã thành,
mà chúng ta luôn luôn kính lễ chư Phật trong ba thời: quá khứ, hiện tại
và vị lai. Chư Phật hiện tại và vị lai là những vị nào, ở đâu, làm sao
chúng ta biết được mà kính lễ?
Thông thường ở thế gian, chỉ khi nào các bậc thánh
nhân viên tịch, các nhà hiền triết qua đời rồi, người đời sau mới
nhận ra được và tôn sùng, chiêm bái. Còn khi các vị đó đương thời, tại
thế, vì mê muội, vì ganh tị đố kỵ, vì gièm pha phỉ báng, nói chung,
vì vọng tâm tham sân si che lấp, không có bao nhiêu người thấy được,
hiểu được, cảm nhận được sự siêu phàm, sự thanh cao bên trong cái hình
tướng thế nhân của các vị đó. Ðó là nói về các bậc chân tu thực
học, đạo cao đức trọng, còn đối với mọi người khác thì sao?
Con người thường tưởng tượng rằng thánh nhân phải
là những người có hình tướng dị thường, có hào quang tỏa khắp thân, có
phép lạ chữa lành bệnh tật, có thần thông đi mây, cưỡi gió, lướt trên
mặt nước, hô phong hoán vũ, làm được những chuyện kỳ đặc khác người.
Cho nên con người thích chiêm ngưỡng, lễ lạy các vách tường, nóc nhà, gò
mối, ụ đất, buồng chuối, cây cao, gốc cây sồi, ngọn cây sao, khe suối,
hốc đá, hang sâu, bất cứ chỗ nào có người phao tin rằng có tiên thánh
hiện ra nơi đó cứu người giúp đời! Hoặc là tôn sùng, lễ bái các
người có hình tướng dị kỳ, râu tóc xồm xoàm, mười năm chưa tắm, bụi bặm
dơ bẩn, móng tay cả tấc, thậm chí có người không bận quần áo gì cả! Hay
sùng bái các người làm những việc khác thường như ngồi trên bàn chông,
đi trên đống lửa, quanh năm chỉ ngồi không nằm, ăn cơm muối mè, không dùng
thức ăn nào khác, chỉ uống nước lạnh, không chịu uống thuốc men gì cả!
Sở dĩ có nhiều chuyện mê tín dị đoan như vậy,
kể cả những người gọi là học thức, trí thức thế gian, bằng
cấp này nọ, bởi vì con người thường quá quan tâm đến phương
diện vật chất, chỉ chú trọng đến cái thân xác của con người, mà
quên đi phần tâm linh. Ngay khi còn sống tại thế gian, cái thân xác này
còn không phải là mình, huống là sau khi chết. Tại sao vậy? Bởi vì chúng
ta ai ai cũng muốn được trường sanh bất tử, muốn thân xác này trẻ mãi
không già, đẹp mãi không nhăn, khỏe mãi không đau, sống hoài không
chết, nhưng nào có được đâu? Ðến khi nghỉ thở hai ba hôm là không
ai dám đến gần!
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhứt
thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh". Nghĩa là bất cứ chúng sanh
nào, bất cứ người nào trên thế gian này, không phân biệt hình
tướng, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt chủng tộc, không
phân biệt sang hèn, không phân biệt địa vị, không phân biệt nam
nữ, không phân biệt tuổi tác, không phân biệt học thức, không
phân biệt xuất xứ, không phân biệt gì hết, mọi người
đều có Phật tánh đồng như nhau, chỉ vì mê ngộ không đồng, nghiệp
chướng khác nhau, cho nên hình tướng bên ngoài có khác.
Chính vì con người chấp chặt cái hình tướng bên
ngoài cho nên phân biệt tốt xấu, phải quấy, đúng sai, không hiểu
được ngoài các thân xác ra, chính mình có Phật tánh, không hiểu được
mọi người đều có Phật tánh như nhau. Do đó phiền não khởi lên,
cuộc đời chìm đắm trong các sự tranh chấp, hơn thua, kiện thưa, đấu
tranh, giành giựt, phê phán, chỉ trích, chiếm đoạt. Nếu thực sự
hiểu được mọi người đều bình đẳng, đều có Phật tánh như
nhau, thì con người không dám xúc phạm lẫn nhau, dù bằng hành động, lời nói
hay ý nghĩ, huống là âm mưu hại nhau, kiện nhau ra trước ba tòa quan
lớn, đòi bồi thường vài triệu đô la, để cả nhà xúm nhau chia chác!
Thiệt là tội nghiệp lắm thay! Con người tạo nghiệp mà không hay,
không biết! Hoặc biết mà vẫn cố phạm!
Chư Tổ có dạy: "Chúng sanh nhìn chư Phật là
chúng sanh cho nên khổ đau phiền não. Chư Phật nhìn chúng sanh là chư
Phật cho nên niết bàn an lạc". Nghĩa là những người phàm phu
không biết mình có Phật tánh, không biết mọi người đều có
thể thành một vị Phật trong tương lai, thường mang tâm trạng tự ti, hèn
kém, luôn luôn mang "cặp kiếng chúng sanh", cho nên nhìn thấy tất
cả mọi người chung quanh đều là chúng sanh như mình, thường là
tệ hơn mình, xấu xa hơn mình, cho nên sanh tâm chán nản, ghét bỏ, khinh
khi, giận tức, bực dọc, từ đó phiền não khổ đau bắt đầu. Nói một
cách thông thường đó là: "suy bụng ta ra bụng người". Người mang
cặp kiếng màu đen, nhìn chỗ nào cũng thấy tối thui, nhìn người nào
cũng tưởng là ma đen thùi!
Còn chư Phật từ nhãn thị chúng sanh, thương nhìn cuộc
đời bằng Phật nhãn, với tâm bồ đề giác ngộ, với "cặp kiếng
bình đẳng", cho nên nhìn thấy rõ ràng người nào cũng có Phật tánh,
cũng có khả năng thành một vị Phật, nếu giác ngộ, biết quày đầu
hướng thiện, từ bỏ nghiệp chướng. Trong nhà Phật, mọi người trân
quí Phật tánh của nhau, nên thường chắp tay trước ngực, cúi đầu, chào nhau
bằng câu: "Mô Phật" hay "A Di Ðà Phật", ngụ ý rằng:
"Búp sen xin tặng người. Một vị Phật tương lai". Bởi vậy cho nên, tu
hạnh "Lễ Kính Chư Phật", chúng ta tạo không biết bao nhiêu phước
báu, tránh được biết bao nhiêu phiền não khổ đau, từ đó chúng ta
sống trong sự cảm thông, tương kính, cho nên cuộc đời của chúng ta sẽ
được an lạc và hạnh phúc, không nghi, dù chúng ta đang sống ở bất cứ nơi
đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào.
2) Xưng tán Như Lai:
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số
Ðức Phật, chúng ta đều dùng sức thậm thâm thắng giải hiện tiền
tri kiến thường tu hạnh xưng tán. Mỗi âm thinh diễn xuất tất cả ngôn
từ hải, khen ngợi tất cả công đức hải của tất cả Như Lai, bằng ba
nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, thường không hề nhàm mỏi.
Nghĩa là chúng ta luôn luôn xưng dương, tán thán, ca
tụng, ngợi khen công đức của chư Phật đã thành, với mục đích tự nhắc nhở
mình noi gương chư Phật, trong cuộc sống hằng ngày, giữ gìn ba nghiệp
thân khẩu ý được thanh tịnh, chứ không phải chúng ta ca ngợi chư Phật
để được ban phước, để được may mắn, để được như ý.
Chư Phật mười phương không cần chúng ta tán tụng như vậy đâu! Chúng ta
kính lễ chư Phật không phải chỉ ca tụng chư Phật, mà cần phải noi gương,
học và hành theo hạnh của chư Phật. Sách có câu: "Tôn sùng các bậc
vĩ nhân, không phải chỉ ca tụng họ, mà cần noi gương họ".
Khi nghe hoặc thấy một người lâm nạn đau khổ, chúng ta
liền khởi tâm từ bi thương xót. Ðó chính là xưng tán Như Lai. Nhưng
đến khi nhận biết kẻ lâm nạn là người đã từng hãm hại mình, là
người mình không ưa, thì chúng ta liền khởi tâm khoái chí. Ðó chính là
phỉ báng Như Lai. Xưng tán Như Lai còn có nghĩa là chúng ta tự nhắc nhở
chính mình, ai ai cũng có đức tính giác ngộ, sáng suốt, thanh tịnh và hòa
bình, tự nhắc nhở chính mình nên sống một cuộc đời tỉnh thức, không
để vọng tâm chi phối, không để tâm tham điều khiển, không
để tâm sân xui khiến, không để tâm si thúc đẩy, làm những
chuyện lợi mình hại người, vì quyền lợi nhỏ nhen của mình và người
thân của mình làm thiệt hại, gây đau khổ cho người khác và gia đình
họ, dù cho người đó là kẻ thù cũng vậy.
Xưng tán Như Lai không có nghĩa là chúng ta chỉ lo
chuyện xây chùa to, dựng tượng lớn, đọc các bài tán thán chư Phật
trong các thời khóa tụng kinh, làm thơ ca ngợi công đức chư Phật, tổ chức
hành hương thập tự, tham dự các khóa tu học, các khóa hành thiền.
Nếu chúng ta chỉ biết làm những chuyện như vậy mà thôi, còn trong
sinh hoạt hằng ngày, chúng ta sẵn sàng đấu tranh, giành phần hơn, giành phần
thắng, giành phần phải, giành phần tốt, giành phần ngon, giành phần lợi,
chúng ta để tâm tham sân si chi phối, sẵn sàng lôi người khác ra tòa, hạ
nhục kẻ khó ưa, thì thực sự chúng ta phỉ báng Như Lai, chứ không phải xưng
tán Như Lai vậy.
3) Quảng tu Cúng dường:
"Khởi thâm tín giải hiện tiền tri
kiến, tất dĩ thượng diệu chư cúng dường cụ nhi vi cúng dường".
Nghĩa là đối với chư Phật mười phương, chúng ta phát tâm hiểu
biết, tin tưởng sâu sắc, thành tâm dâng cúng những điều tốt đẹp,
những thành tựu cao quí nhứt trên bước đường tu học. Khi viếng chùa,
về phần sự tướng, chúng ta thường dâng cúng các phẩm vật cụ thể
như: hương, đăng, hoa, quả, tượng trưng cho những nghĩa lý cao thượng,
những yếu tố tâm linh siêu thoát.
Dâng cúng hương mang ý nghĩa dâng cúng những
hương thơm kết tụ do việc giữ gìn giới luật, những hương thơm
kết tụ do việc thiền định, những hương thơm kết tụ do
việc phát triển trí tuệ, những hương thơm kết tụ do việc
tu hạnh giải thoát và những hương thơm kết tụ do việc giải thoát
những hiểu biết phiền lụy của thế gian. Nói chung gọi là
Ngũ Phần Hương, gồm có: giới hương, định hương, tuệ hương, giải
thoát và giải thoát tri kiến hương.
Dâng cúng đăng, tức là dâng cúng đèn, mang ý
nghĩa dâng cúng ánh sáng trí tuệ sáng suốt, thắp sáng tâm trí, biết
nhận thức mọi sự mọi vật đúng như thực, không điên đảo, không mê
mờ, biết sống theo chánh kiến và chánh tín, tránh tà kiến và mê
tín dị đoan. Cho nên trên bàn thờ Phật tại tư gia, cũng như tại các tự
viện, luôn luôn có một ngọn đèn thắp sáng, mang ý nghĩa nhắc nhở
chúng ta luôn luôn sống trong tỉnh thức, sáng suốt, luôn luôn thúc liễm thân
tâm, luôn luôn sống theo lời chư Phật dạy.
Dâng cúng các loại hoa, mang ý nghĩa dâng cúng
những điều thiện lành, tốt đẹp, thơm tho, chúng ta làm được trong
cuộc sống hằng ngày theo lời chư Phật dạy. Chẳng hạn như chúng ta làm được
việc thiện nào trong ngày, chúng ta dừng được việc ác nào trong
ngày, đó là những bó hoa tươi thắm đem dâng cúng chư Phật.
Dâng cúng các loại quả, các loại trái cây, mang ý
nghĩa dâng cúng những thành tựu, những kết quả, do công phu tu học theo
đúng Chánh Pháp. Chẳng hạn như trước đây, những lời phê phán, chửi mắng
có thể làm chúng ta bực bội, khó ở, quên ăn, mất ngủ trong một thời gian
dài. Giờ đây, gặp những cảnh ngộ trái ngang như vậy, gặp những người gây
phiền não khó khăn như vậy, gặp những việc bất như ý đến
như vậy, chúng ta có thể khởi lên một niệm trong tâm, song nhận thức
được ngay, liền tan biến mất, hoặc là tâm hoàn toàn tĩnh lặng, vô
niệm khởi, tức là chúng ta đã thành tựu đạo quả, dù một cách viên
mãn, hay chưa viên mãn!
Ðể tâm trí được thanh tịnh, chúng ta hãy làm các
điều thiện, quảng tu cúng dường, vì chính những ích lợi của các
điều thiện ấy, chứ không phải vì quyền lợi cá nhân, vì quyền
lợi bản thân. Chúng ta có thể dễ chán những niềm vui mà chúng ta nhận
được, nhưng chẳng bao giờ chán những niềm vui mà chúng ta cho. Ðó là
ích lợi sâu xa của sự bố thí cúng dường của những người thiện tâm.
Tuy nhiên, trong các thứ cúng dường, pháp cúng
dường là hơn hết. Pháp cúng dường là: tu hành đúng theo lời Phật
dạy, làm lợi ích cho chúng sanh, chịu khổ thế cho chúng sanh, nhiếp
thọ chúng sanh, siêng năng tu tập các điều lành, tránh các điều
dữ, phát tâm bồ đề. Pháp cúng dường là sự cúng dường rộng lớn hơn
tất cả, được vô lượng vô biên công đức. Tại sao vậy? Bởi vì các đức
Như Lai tôn trọng Chánh Pháp, theo đúng Chánh Pháp mà tu hành, theo đúng
lời chư Phật dạy thì sanh ra các Ðức Phật. Ðó mới chính là mục đích cứu
kính của đạo Phật, chỉ dạy phương pháp, giúp đỡ con người, chuyển hóa
thành Phật, chứ không phải chỉ có những hình thức cúng kiến lễ lạy mà
thôi. Thực hành được như vậy mới gọi là quảng tu cúng dường.
4) Sám hối Nghiệp chướng:
Từ vô lượng kiếp về quá khứ, do lòng tham lam,
giận tức, si mê, khiến cho thân khẩu ý tạo vô lượng vô biên
nghiệp xấu ác, nghiệp bất thiện. Ngày nay chúng ta đem ba nghiệp
thanh tịnh thành tâm sám hối, nguyện về sau không tái phạm nữa.
Trong kinh sách có bài kệ sau đây:
Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thủy tham sân si
Tùng thân khẩu ý chi sở sanh
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
Nghiệp là những điều gì do thân làm, do
miệng nói, do ý nghĩ, thường xuyên hằng ngày. Nghiệp thiện là
những điều gì do thân khẩu ý, tạo ra ích lợi cho mình và cho người.
Từ xưa đến giờ, chúng ta tạo tác không biết bao nhiêu là nghiệp
xấu ác, nghiệp bất thiện, đều do tâm tham sân si, có từ vô thủy,
phát xuất ra hành động, lời nói hay ý nghĩ, làm lợi mình hại người,
gây đau khổ cho người khác. Tất cả hôm nay chúng ta đều thành tâm, ăn
năn sám hối, nguyện chừa bỏ, không tái phạm. Nghiệp thường gây những
chướng ngại trên đường đời, cũng như trên đường đạo, cho nên gọi
là nghiệp chướng. Chẳng hạn chúng ta tạo nghiệp thiện như: làm
phước, bố thí, cúng dường, đi chùa, lễ Phật, tụng kinh, niệm Phật,
nhưng thấy người khác không làm như vậy, đâm ra bực dọc, khinh khi, phỉ
báng, thì cũng chướng, cho nên gọi là nghiệp chướng. Còn đối với
những nghiệp xấu ác, nghiệp bất thiện, thì dĩ nhiên là nghiệp
chướng rồi, không cần phải giải thích dài dòng.
Tuy nhiên, trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhứt
thiết duy tâm tạo". Nghĩa là mọi sự mọi việc trong khắp
mười phương pháp giới đều do tâm tạo ra tất cả. Công đức cũng do tâm
tạo, nghiệp chướng cũng bởi tại tâm. Ðó chính là vọng tâm, lăng
xăng lộn xộn, sinh diệt thay đổi luôn luôn, thường do tham sân si chi
phối, thúc đẩy, điều khiển, cho nên chúng ta thường tạo nghiệp
xấu ác nhiều hơn là nghiệp thiện. Bởi vậy cho nên, có bài kệ
như sau:
Tội tùng tâm khởi tương tâm sám
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không
Thị tắc danh vi chơn sám hối.
Nghĩa là tất cả những tội lỗi gây ra, đều do
tâm của chúng ta chủ động, thì phải thành tâm, phải tự trong thâm tâm, mà
sám hối. Từ đó chúng ta phát nguyện không tái phạm, cho nên mỗi khi
từ vọng tâm khởi lên, tâm tham, tâm sân, tâm si, chúng ta liền
biết ngay, dừng lại, không làm theo sự điều khiển, sai xử của tham
sân si, thì tội lỗi sẽ không còn nữa. Khi tội lỗi không còn, vọng
tâm cũng lặng mất, chúng ta sống trong trạng thái tịch tịnh, bình yên của
tâm hồn. Ðó mới thực là sự sám hối chơn chánh.
Thân nhân kẻ bị hãm hại thường đau khổ, nhưng
nếu họ biết tha thứ cho kẻ xấu ác kia, thì họ sẽ sống trong an
lạc với tâm lượng từ bi hỷ xả. Con người dù xấu ác đến cở nào,
nhưng nếu biết thành tâm sám hối, đều có cơ hội trở thành
người thánh thiện. Không thiếu gì các vị thánh nhân trong lịch sử,
có quá khứ là kẻ bất thiện xấu ác trong xã hội. Chẳng hạn như gương
của Angulimala, nhờ thành tâm dừng các ác nghiệp, từ thân khẩu ý,
thực tâm sám hối, tinh tiến tu học, thực hành các lời dạy của Ðức
Phật, trở thành một vị đại đức chân tu đắc đạo. Bởi vậy cho nên, chúng
ta chỉ nên quán xét chính mình có biết sám hối chưa, chứ đừng quan
trọng đến quá khứ của người khác tốt hay xấu! Chuyện ai nấy lo
vậy!
Con người thường mang tâm niệm khinh khi, ghét bỏ,
nguyền rủa những kẻ bất thiện, mong muốn hình phạt nặng nề, cho
nên tâm trạng bất an, rất có thể trở nên kẻ xấu ác hồi nào không hay.
Chúng ta nên biết rằng nền tảng của hạnh phúc chính là sự bình yên
của tâm hồn. An lạc và hạnh phúc là điều mong ước của tất cả mọi
người trên thế gian này. Muốn được như vậy, trong đời sống hằng ngày,
chúng ta hãy luôn luôn tha thứ cho người khác, dù là kẻ thù cũng vậy, nhưng
đừng bao giờ tha thứ cho bản thân mình.
5) Tùy hỷ Công đức:
Từ lúc phát tâm bồ đề, vì muốn cầu đạo giải
thoát, chúng ta siêng tu cội phước căn lành, trải qua vô số kiếp, làm
tất cả những hạnh khó làm, thấy người khác tu tâm dưỡng tánh, làm bao
nhiêu công đức, chúng ta đều phát tâm tùy hỷ. Người tu tập các
nghiệp thiện lành như bố thí, cúng dường, giúp đỡ người gặp khó
khăn, nghèo đói, hoạn nạn, góp phần ấn tống kinh sách, đúc chuông, tạo
tượng, xây chùa, trường học, bịnh viện, tu tâm dưỡng tánh, tụng
kinh, niệm Phật, thiền quán, trì chú, giảng kinh, thuyết pháp,
được bao nhiêu công đức và phước đức, thì người tu hạnh tùy hỷ cũng
được bấy nhiêu công đức và phước đức. Tại sao vậy?
Bởi vì người tu hạnh tùy hỷ công đức là người
đã và đang dẹp được rất nhiều các vọng tâm ganh tị, đố kỵ,
nghi ngờ, tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ, bon chen, mới có thể thấy người
khác làm các việc thiện, việc lành mà vui theo. Như vậy người tu
tập các công đức lành và người tu hạnh tùy hỷ công đức, được
kết quả như nhau, không khác. Cũng ví như người có cây đuốc cháy sáng,
người khác đem cây đuốc của họ đến mồi, cây đuốc của họ cũng
được cháy sáng như vậy, không khác, mà cây đuốc của người kia không bị
giảm bớt chút ánh sáng nào cả vậy.
Người tu hạnh tùy hỷ công đức là người luôn
luôn nở nụ cười nhẹ nhàng, thanh thản trên gương mặt, tâm trí khinh an, từ
bi tâm rộng lớn, là người nhìn đời với cặp mắt hoan hỷ khi thấy những
người khác thành tựu các công đức, dễ gần gũi thầy tốt bạn lành. Bởi vậy
cho nên sách có câu: "Hãy gởi cho gió đóa hoa từ trên gương mặt rạng
rỡ nở hoa của bạn. Tôi sẽ ngữi mùi hương trên khắp các nẻo đường bạn đi
qua".
6) Thỉnh chuyển Pháp Luân:
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số
Ðức Phật, chúng ta đều thành tâm đem thân khẩu ý, dùng tất cả
những phương tiện ân cần thỉnh mời tất cả chư Phật nói pháp nhiệm
mầu. Chư Phật hiện đời chính là các bực chân tu thực học, đạo cao
đức trọng, mọi người đều có thể cảm nhận được khi gần
gũi. Các Ngài cũng như những cây cổ thụ bóng mát che rợp, cũng như nước
cam lồ ngọt lịm, đem lại sự mát mẽ, tươi vui, an lạc cho tất cả chúng
sanh đang chìm đắm trong bể khổ của cuộc đời, đang trôi lăn trong các
cuộc kiện thưa, tranh chấp về tiền bạc, về danh dự hão, về
địa vị dỡm, về chức tước hàm, về đủ mọi thứ khổ não,
phiền lụy trên đời.
Thỉnh chuyển pháp luân còn có nghĩa là thỉnh Phật
tánh chính mình chứng minh cho các hành động, lời nói và ý nghĩ của
chúng ta hợp với Chánh Pháp. Thỉnh chư Phật từ phương xa đến chuyển
pháp luân, nói cách khác là chuyển bánh xe pháp hay thuyết pháp, thực
là muôn vàn khó khăn. Còn Phật tánh thì luôn luôn có sẵn với chúng ta,
mỗi hành động, lời nói hay ý nghĩ đều hợp với Chánh Pháp, với
lời dạy của chư Phật mười phương, chính là thỉnh Phật chuyển pháp luân
vậy. Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, gọi tắt là Kinh Pháp Hoa, Ðức Phật
chỉ chấp nhận chư Bồ Tát "tùng địa dũng xuất" hộ trì Chánh Pháp
mà thôi. Nghĩa là chỉ có những người phát tâm bồ đề, tu hạnh bồ tát,
từ tâm địa mạnh mẽ xóa bỏ tham sân si, xa lìa mê tín dị đoan, không còn
nghĩ chuyện lợi mình hại người, từ tâm địa dũng mãnh phát khởi tứ vô
lượng tâm từ bi hỷ xả, phát khởi ý nghĩ quên mình vì người, mới
thực sự là những người thực hành Chánh Pháp, những người hộ trì Chánh
Pháp, những người đang chuyển bánh xe pháp, đang chuyển pháp luân
vậy.
Kinh sách có câu:"Nhược năng chuyển vật tức
đồng Như Lai". Nghĩa là nếu người nào có khả năng và thường
chuyển được mọi sự, mọi việc, mọi vật trên đời theo tâm
lượng từ bi hỷ xả, không để các vọng tâm tham lam, sân hận, si
mê chuyển, điều khiển, sai khiến, thì người đó đồng với Như
Lai, không khác. Trong các buổi tụng kinh, thuyết pháp hay bàn luận trong
nhà Phật, trước tiên mọi người đều niệm hồng danh Ðức Phật
để cầu gia bị, mang ý nghĩa thỉnh Phật chuyển pháp luân, trong
suốt thời tụng kinh, buổi thuyết pháp hay buổi họp đó, để được
trọn vẹn phước đức và công đức. Mọi người thỉnh Phật tánh của
chính mình, chuyển bánh xe pháp trong mọi hành động, mọi lời nói
hay mọi ý nghĩ, để làm gương cho kẻ khác có tín tâm với đạo
Phật, với Chánh Pháp.
Chư Tổ có dạy: "Tĩnh tọa thường tư kỷ
quá. Nhàn đàm bất luận nhơn phi". Nghĩa là khi ngồi yên một mình,
người nào thực tâm tu học, muốn thoát ly phiền não của cuộc đời,
thường suy nghĩ về những lỗi lầm, những sai trái của chính mình trong
mọi hành động, lời nói hay ý nghĩ. Còn trong lúc nói chuyện, đàm
luận với người, không bao giờ đề cập đến sự sai trái, khuyết
điểm, lỗi lầm hay tội lỗi của người khác, trong quá khứ cũng như
hiện tại. Do đó, chúng ta nên biết rằng những cách cư xử đẹp trên
đời không phải là việc vô ích, mà là kết quả của một bản tính cao
thượng, thanh nhã và một tinh thần chính trực, ngay thẳng, chí công, vô tư.
Ðược như vậy, cũng có nghĩa là chúng ta thỉnh Phật chuyển pháp luân
rồi vậy.
7) Thỉnh Phật trụ thế:
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số
Ðức Phật, chúng ta đều thành tâm đem thân khẩu ý, dùng tất cả
những phương tiện ân cần thỉnh mời tất cả chư Phật ở lại thế gian,
vì muốn tất cả chúng sanh được lợi lạc. Về phương diện toán
học, một với một là hai. Nhưng về phương diện Phật tánh, một với
một là không hai. Chúng ta thương yêu nhau, tinh thần chúng ta sẽ hợp
nhất. Chúng ta không tốt được với kẻ thù, thì chưa thực sự tốt hoàn toàn.
Chúng ta chưa nhận ra sự bình đẳng giữa các chúng sanh, giữa mình với
người, tức là chúng ta chưa thỉnh Phật trụ thế, Phật tánh của chúng ta
còn bị che lấp bởi phiền não và khổ đau của cuộc đời, còn bị người
đời hãm hại, thưa kiện, nên vọng tâm khởi lên sự tức giận, khó
kềm chế nổi.
Muốn thỉnh Phật trụ thế, còn có nghĩa là muốn
Phật tánh của chúng ta hiển lộ, chúng ta không nên làm bất cứ điều
gì, không nên nói bất cứ điều gì, không nên nghĩ bất cứ điều gì
nhằm mục đích hạ thấp người khác. Nhờ đó, chúng ta có thể thỉnh Phật
tánh của tất cả những người chung quanh trụ thế. Cuộc đời giữa những
người cư xử với nhau bằng chơn tâm, Phật tánh chắc chắn sẽ an lạc và hạnh
phúc, không nghi, không còn phải mong đợi cảnh giới cực lạc nào khác, ngoài
thế gian này nữa cả.
8) Thường tùy Phật học:
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số
Ðức Phật, chúng ta đều thành tâm đem thân khẩu ý, dùng tất cả
những phương tiện ân cần nương theo tất cả chư Phật, học tập, thực
hành các hạnh tinh tấn, không biếng trễ, thực hành các hạnh khó làm, ở
trong đạo tràng, cũng như ở khắp mọi nơi.
Sách có câu: "Không biết thì hỏi, không giỏi
thì học", hay "Không thầy đố mầy làm nên". Ở đời, muốn
có trí tuệ, muốn được thông minh, muốn sự hiểu biết được sâu
rộng, chúng ta nhứt định phải học hỏi từ sách vở, từ những bực
thiện hữu tri thức, từ những bực tiền bối có nhiều kinh nghiệm,
hay từ những người đồng trang lứa, thậm chí từ những người trẻ tuổi hơn
hơn chúng ta nữa. Người biết đặt câu hỏi, biết được chỗ dốt
của mình, sẽ chỉ ngu dốt trong nhứt thời. Còn người không chịu học hỏi,
sẽ không hiểu không biết suốt đời. Khi biết được mình dốt
điểm nào thì bắt đầu hết dốt. Người trí là người biết mình
không biết điều gì, còn người ngu là người tưởng mình biết
hết tất cả mọi việc trên đời!
Trong đạo Phật cũng vậy, chư Phật và chư Tổ mười
phương cũng từng giảng dạy những pháp môn tu học trong tam tạng kinh
điển, để giúp chúng sanh thoát ly khỏi luân hồi, khỏi trầm luân sanh
tử, đạt được cứu kính niết bàn. Do đó chúng ta cần nên gần gũi các
bực thầy lành bạn tốt để học hỏi đạo lý, không ai có thể
tự mình trở thành Phật mà không cần tu học theo đúng Chánh Pháp, theo
lời chư Phật dạy, cũng như người đi đường cần có bản đồ, có địa bàn,
có hướng dẫn, có hỏi thăm mới có thể đến nơi đến chốn như
ý muốn được.
Chư Tổ có dạy: " Tu mà không học là tu
mù.Học mà không tu là đãy sách". Nghĩa là người phát tâm tu
theo đạo Phật, nhứt định phải học hỏi Chánh Pháp, mới tránh được tình
trạng tu mù, dễ lầm đường lạc lối, theo tà ma ngoại đạo, mê tín dị đoan.
Ở đây, chúng ta cần nên biết rằng: dù có thờ Phật tại gia hay tại
chùa, ngoài Tâm cầu Phật đều gọi là ngoại đạo, không phát tâm bồ
đề mà làm Phật sự, chẳng qua đó là ma sự!
Trái lại, những người học cao hiểu rộng,
trí thức thế gian, nhưng không chịu, không biết tu tâm dưỡng tánh,
tức là những người có tài học, mà không có đức độ, thì chẳng ích
lợi gì cho ai, có khi còn gieo tai họa cho đời, khi họ đem sở
học, sự hiểu biết phục vụ những mưu đồ của bản thân, gia đình
hay phe nhóm. Họ ỷ thế học rộng biết nhiều, về luật
pháp chẳng hạn, khinh khi mọi người, muốn làm giàu nhanh, làm ăn bất
chánh, kiếm được nhiều tiền, xúi giục người khác, nổi lòng tham
lam, kiện tụng lung tung, đòi tiền thiệt hại. Suốt đời của họ,
chỉ biết có tiền! Những người nghiên cứu kinh điển, chỉ nhằm mục
đích, thỏa mãn nhu cầu, hiểu nhiều biết rộng, đem đi tranh cãi,
lý luận phê bình, chỉ trích soi mói, nhưng không áp dụng, thực hành lời
Phật, trong đời sống này, chẳng thể thoát ly, sanh tử luân hồi, chẳng ích
lợi gì cho đời sống tâm linh, ví cũng như cái đãy đựng sách, cái tủ
chưng sách, hay cái tàng kinh các mà thôi.
9) Hằng thuận Chúng sanh:
Trong khắp pháp giới, mười phương ba đời, bao nhiêu
chúng sanh sai khác về sắc thân, về tướng mạo, về hình trạng,
về tâm tánh, về tri kiến, chúng ta đều tùy thuận tất cả, mà
thực hành các sự tôn kính, cúng dường không phân biệt. Tôn trọng,
tùy thuận, cúng dường, phụng sự chúng sanh chính là tôn trọng, tùy
thuận, cúng dường, phụng sự chư Phật. Nếu làm cho chúng sanh vui mừng,
thì chính là làm cho tất cả Như Lai hoan hỷ. Tại sao vậy?
Bởi vì các đức Như Lai dụng tâm đại bi làm thể,
nhơn nơi chúng sanh mà sanh lòng đại bi, nhơn nơi lòng đại bi mà phát tâm
bồ đề, nhơn nơi tâm bồ đề mà thành bậc vô thượng chánh đẳng
chánh giác. Bởi vì đối với tất cả chúng sanh, mà đem tâm bình đẳng đối
xử, thì có thể sanh lòng đại bi đầy đủ hoàn toàn. Dùng tâm đại bi mà
tùy thuận chúng sanh thì có thể thành tựu pháp cúng dường Như Lai. Những
người tu hạnh Bồ Tát, tùy thuận chúng sanh như thế ấy. Chứ tùy thuận
chúng sanh không có nghĩa là bị chúng sanh sai xử, xui khiến, xúi giục,
làm theo tất cả những gì chúng sanh đòi hỏi, những gì chúng sanh mong muốn.
Trong gia đình, cũng như ngoài xã hội, tùy thuận chúng sanh không có nghĩa
là nhắm mắt hùa theo, làm theo, ủng hộ những việc làm bất thiện, bất
lương. Chẳng hạn như con cái không thể tùy thuận cha mẹ, làm những
việc sai lời Phật dạy, trả thù báo oán, sát nhân hại vật. Ngược lại,
cha mẹ cũng không thể tùy thuận con cái, chiều theo con cái, muốn gì
được nấy, thưa kiện hại người, dù đó là người thân hay kẻ thù cũng
vậy. Tùy thuận cũng không có nghĩa là tự do muốn làm gì thì làm, tự do
muốn làm gì cũng được. Chúng ta cần nên nhớ rằng: mọi thứ tự do
đều được giới hạn ở chỗ đụng chạm tới tự do của kẻ khác.
Ví như giữa chốn rừng sâu, có cây cổ thụ to lớn, nơi
gốc cây được nước tưới nhuần, thì cành lá hoa quả thảy đều sum sê
tươi tốt. Trong vòng sanh tử luân hồi, cây bồ đề cũng vậy, tất cả
chúng sanh là cội rễ, Bồ Tát là hoa, chư Phật là quả. Dùng nước đại bi
đượm nhuần gốc rễ chúng sanh, thì có thể trổ bông Bồ Tát trí tuệ,
và kết thành quả Phật toàn giác. Nghĩa là chư Phật và chư Bồ Tát không
từ trên mây rơi xuống, không từ dưới đất chui lên, mà từ những chúng sanh
biết tu tâm dưỡng tánh, biết chuyển hóa tâm địa, biết tu hạnh
nhẫn nhục, biết từ bỏ các việc lợi mình hại người, biết dừng
các nghiệp báo, biết trưởng dưỡng tâm từ bi hỷ xả, biết cứu
người giúp đời, biết vì người quên mình, biết tùy thuận chúng sanh,
để hướng dẫn chúng sanh vào Bát chánh đạo.
10) Phổ giai Hồi hướng:
Từ sự lễ kính ban đầu nhẫn đến tùy thuận có bao
nhiêu phước đức và công đức, thảy đều đem hồi hướng cho tất cả
chúng sanh khắp trong hư không pháp giới. Nguyện cho tất cả chúng sanh
thường được an lạc, không các bịnh khổ, muốn thực hành các pháp ác
đều không thành, còn tu các nghiệp lành thì đều mau thành tựu.
Nếu các chúng sanh nhơn vì trước kia chứa nhóm các nghiệp ác nên
chiêu cảm tất cả quả khổ, chúng ta đều phát nguyện chịu thế cho,
khiến chúng sanh đều được giải thoát, rốt ráo thành tựu quả vô
thượng bồ đề. Những người tu hạnh Bồ Tát, hồi hướng như vậy.
Hồi hướng như vậy, người tu học sẽ dẹp được
các vọng tâm tham lam, ích kỷ, bỏn sẻn, keo kiệt, trừ được tâm
sân hận căm tức, bực dọc thù hằn, phá được tâm si mê u tối, không
biết lẽ phải, không thấy chánh đạo, tâm từ bi hỷ xả sẽ phát
triển, ngày một to lớn hơn, tâm thiện lành ngày một bao trùm, khắp
các hành động, lời nói, ý nghĩ. Con người sẽ ngày một gần với chư
Phật hơn, cuộc đời ngày một an lạc và hạnh phúc hơn. Niết bàn hay quả
vị Phật ngày một gần hơn, không còn bao xa nữa vậy.
* * *
Tóm lại, nếu chúng ta quyết tâm, trì chí tu tập
theo mười điều nguyện lớn thì có thể thuần thục tất cả chúng
sanh, trọn đủ các hạnh nguyện hải của ngài Bồ Tát Phổ Hiền, các
loài ma quân, quỉ dữ thảy đều tránh xa, các hạng phát tâm tu tập gần
gũi, tuy vẫn sống trong thế gian, nhưng không gặp chướng ngại.
Lúc lâm chung tất cả các căn thân đều hư hoại,
tất cả thân thuộc đều phải xa lìa, tất cả oai phong đều phải thối
thất, tất cả của cải, tài sản, công danh, sự nghiệp đều không đem
một món nào theo được. Chỉ có mười điều nguyện lớn này chẳng rời
người mà thôi. Người nào được nghe mười điều nguyện lớn này,
luôn luôn giữ gìn, giảng giải cho người, tất cả hạnh nguyện đều
được thành tựu, phước đức vô lượng, công đức vô biên, có thể ở
trong biển đau khổ phiền não tự cứu được mình, giúp đỡ chúng sanh,
khiến được giác ngộ, đạt được Niết bàn.
---
o0o
---
Mục Lục
Tập
1:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11|
12
Tập
2:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
Tập
3:
1|
2
|
3
|
4|
5|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
12|
13|
14
|15|
16
---
o0o
---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ
Chính
Trực
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ
sách
này
(Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục