.
Bốn Chân Lý (Tứ Diệu
Đế)
Thích Viên Giác
A/- Dẫn nhập
Một hôm, Đức Phật đang ở tại Kosambi trong rừng cây simsàpa, Ngài nhặt một
ít lá simsàpa đưa lên hỏi: "Này các Tỳ kheo, các ông nghĩ thế nào? Lá
simsàpa ở trong tay ta nhiều hay là ở trong rừng simsàpa nhiều?".
"Bạch Đức Thế Tôn, lá trong tay Thế Tôn quá ít, còn lá trong rừng simsàpa
thì quá nhiều". Phật dạy: "Cũng vậy, này các Tỳ kheo, điều ta biết thì quá
nhiều, nhưng những gì ta dạy cho các ông thì rất ít; nhưng đó là những gì
cần thiết và căn bản cho sự giải thoát. Những gì ta đã dạy cho các ông?
Chính là "Đây là Khổ", "Đây là Khổ tập", "Đây là Khổ diệt", "Đây là con
đường đưa đến Khổ diệt" (Tương Ưng V).
Giáo lý Tứ đế là nền tảng của hệ thống giáo lý đạo Phật. Ngay sau khi Đức
Phật thành đạo, Ngài đến vườn Nai thuyết pháp cho năm anh em Kiều Trần
Như, những bạn tu khổ hạnh với Ngài trước đây; nội dung bài thuyết giáo
đầu tiên ấy là Tứ diệu đế. Từ đó, xuyên suốt hành trình hoằng hóa của
Ngài, giáo lý Tứ diệu đế được triển khai, mở rộng. Đức Phật nhiều lần xác
định về tầm quan trọng và siêu việt của giáo lý Tứ đế, Ngài dạy: "Những
bậc A La Hán chánh đẳng giác ở trong quá khứ, ở trong tương lai hay hiện
tại, được coi là vị Chánh đẳng giác đúng nghĩa là Chánh đẳng giác về Bốn
thánh đế" (Tương Ưng V).
Mục đích của đạo Phật là giải thoát mọi đau khổ, vì vậy các pháp môn được
thiết lập, mọi nỗ lực tu tập đều hướng về mục tiêu ấy. Giáo lý Tứ điệu đế
được coi là thiện pháp tối thắng. Ngài Xá Lợi Phất nhận định: "Ví như tất
cả dấu chân của mọi loài động vật đều bị nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu
chân này lớn nhất trong tất cả dấu chân. Cũng vậy, chư hiền giả, tất cả
các thiện pháp đều tập trung trong Tứ thánh đế" (Trung Bộ kinh I). Đức
Phật cũng dạy: "Này các Tỳ kheo, nếu có ai nói rằng không cần xây dựng
tầng dưới của ngôi nhà, tôi sẽ xây tầng trên của ngôi nhà, sự kiện này
không thể xảy ra. Cũng vậy, nếu có ai nói rằng không cần giác ngộ Tứ thánh
đế, ta sẽ đoạn diệt khổ đau, sự kiện này không thể xảy ra" (Tương Ưng V).
Cho đến lúc sắp nhập Niết bàn dưới cây sa la song thọ, một lần cuối, Ngài
nhắc lại giáo lý Tứ đế: "Các thầy Tỳ kheo, đối với Bốn chân lý, các thầy
còn hoài nghi chỗ nào thì có thể chất vấn tức khắc, không nên giữ sự hoài
nghi mà không cầu giải đáp" (kinh Di Giáo, Trí Quang dịch).
Như vậy, tầm quan trọng của giáo lý Tứ diệu đế đã được xác định bởi chính
Đức Phật và những đệ tử xuất sắc của Ngài. Trải qua hơn 2.500 năm, giáo lý
Tứ diệu đế vẫn được tất cả các bộ phái Phật giáo, Nguyên thủy hay Đại
thừa, đều xiển dương và hành trì.
-
B/- Nội dung
-
I- Định nghĩa
Tứ
diệu đế là Hán dịch từ chữ Phạn Catvary Aryasatyani. Arya là Diệu, cao
quý, mầu nhiệm; Satya là Đế, là sự thật, là chân lý. Tứ diệu đế còn được
gọi là Tứ chân đế, Tứ thánh đế, Bốn chân lý mầu nhiệm.
1-
Khổ đế (Dukkha): là thực trạng đau khổ của con người.
2-
Tập đế (Samudaya): là nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến thực trạng đau
khổ.
3-
Diệt đế (Nirodha): là sự kết thúc hay sự chấm dứt khổ đau.
4-
Đạo đế (Magga): là con đường hay phương pháp thực hành dẫn đến chấm dứt
khổ đau.
Giáo lý Tứ diệu đế được nói đến trong các kinh: Đế phân biệt tâm kinh
(Trung Bộ III), kinh Phân biệt thánh đế (Trung A Hàm), kinh Chuyển pháp
luân (Tương Ưng & Tạp A Hàm), và rải rác trong kinh tạng Pàli cũng như Hán
tạng.
II- Nội dung Tứ
diệu đế
1)- Khổ đế (Dukkha): Khổ đau là một thực trạng mà con người cảm
nhận từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, không ai phủ nhận
điều ấy. Con người luôn có xu hướng vượt thoát khổ đau, tìm kiếm hạnh
phúc, nhưng vì không hiểu rõ bản chất của khổ đau nên không tìm được lối
thoát thực sự; đôi khi ngược lại, càng tìm kiếm hạnh phúc càng vướng vào
khổ đau.
Khổ đế là một chân lý, một sự thực về bản chất cái khổ. Đức Phật dạy: "Này
các Tỳ kheo, sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thương yêu
mà biệt ly là khổ, mong cầu mà không được là khổ. Tóm lại, chấp thủ năm
uẩn là khổ" (Tương Ưng V). Như vậy, Khổ có thể chia làm 3 phương diện như
sau:
a)- Về phương diện sinh lý: Khổ là một cảm giác khó chịu,
bức xúc, đau đớn. Khi ta bị một gai nhọn đâm buốt bàn chân hay một hạt cát
vào trong mắt khó chịu..., đây là sự bức bách đau đớn của thể xác. Sự đau
đớn của thể xác rất lớn, như Lão Tử nói: "Ngô hữu đại hoạn do ngô hữu
thân" (Có thân nên có khổ). Con người sinh ra đã vất vả khốn đốn; lớn lên
già yếu, bệnh tật khốn khổ vô cùng; và cuối cùng, cái chết: sự tan rã cuối
cùng của thể xác đem đến khổ thọ lớn lao.
b)- Về phương diện tâm lý: Là sự khổ đau do không toại ý,
không vừa lòng v.v... Sự không vừa ý sẽ tạo nên nỗi đau đớn về tâm lý.
Những mất mát, thua thiệt trong cuộc đời làm mình khổ. Người mình thương
muốn gần mà không được, người mình ghét mà cứ gặp gỡ hoài, mình muốn tiền
tài, danh vọng, địa vị nhưng nó cứ vụt qua ngoài tầm tay của mình. Cuộc
đời như muốn trêu ngươi, những ước mơ không toại ý, lòng mình luôn trống
trải, bức bách v.v... Đây là nỗi khổ thuộc về tâm lý.
c)- Khổ là sự chấp thủ năm uẩn (Upadana-skandhas): Cái khổ
thứ ba này bao hàm hai cái khổ trên, như trong kinh đã dạy: "Chấp thủ năm
uẩn là khổ".
Năm uẩn là 5 yếu tố nương tựa vào nhau để tạo thành con người, gồm có:
thân thể vật lý và cấu trúc tâm lý như: cảm giác, niệm tưởng, hành và thức
(sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Nói một cách tổng quát, khi ta bám víu vào
5 yếu tố trên, coi đó là ta, là của ta, là tự ngã của ta, thì sự khổ đau
có mặt. Ý niệm về "thân thể tôi", "tình cảm tôi", "tư tưởng tôi", "tâm tư
tôi", "nhận thức của tôi"... hình thành một cái tôi ham muốn, vị kỷ; từ
đó, mọi khổ đau phát sinh. Mọi khổ đau, lo lắng, sợ hãi, thất vọng, điên
cuồng đều gắn liền với ý niệm về "cái tôi" ấy.
Tóm lại, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của
hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý. Về mặt bản chất, khổ đau là do
sự chấp thủ, ngã hóa năm uẩn.
2)- Tập đế (Samudaya): Tập là tích tập, các phiền não tụ hội tạo
thành năng lực đưa đến khổ đau; đây là nguyên nhân, là nguồn gốc của các
khổ. Khi nhận thức được bản chất của khổ một cách rõ ràng, ta mới có thể
đi vào con đường đoạn tận khổ đau (Đạo đế).
Cuộc đời là khổ đau hay không khổ? Câu trả lời là tùy thuộc vào thái độ
tâm lý, cảm thọ và nhận thức của mỗi người; nguyên nhân của khổ có nguồn
gốc sâu xa trong tâm tưởng của con người. Phật giáo cũng nhìn thấy các
nguyên nhân của đau khổ; có cái phát sinh từ vật chất hay hoàn cảnh xã
hội, nhưng nguyên nhân thật sự vẫn là tâm thức.
Nguyên nhân của khổ thường được các kinh đề cập chính là tham ái, do tham
ái mà chấp thủ, bám víu vào các đối tượng của tham ái. Sự khao khát về dục
lạc sẽ dẫn đến khổ đau, bởi vì lòng khao khát ấy không bao giờ thỏa mãn.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không
thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi,
đều vô thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở
trong chúng. Do không thấy rõ nên sinh tâm tham muốn, ôm giữ lấy các đối
tượng lạc thú. Do không thấy rõ mới lầm tưởng rằng "cái tôi" là quan trọng
nhất, là cái có thực cần phải bám víu, củng cố và thỏa mãn nhu cầu của nó.
Nói cách khác, do vô minh mà có chấp thủ "cái tôi" và "cái của tôi" như
thân tôi, tình cảm tôi, tư tưởng tôi..., người yêu của tôi, tài sản của
tôi, sự nghiệp của tôi... Do những chấp thủ ấy mà có những nỗi thống khổ
của cuộc đời.
Tóm lại, chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do
lòng mình; lòng mình đầy tham lam, chấp thủ, nhận thức sai lầm thì khổ là
chắc chắn. Nói cách khác, do cái nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có
khổ hay không. Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng vị kỷ hay phiền não
khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc, hạnh
phúc.
3)- Diệt đế (Nirodha): Diệt là chấm dứt, là dập tắt. Diệt đế là sự
chấm dứt hay dập tắt phiền não, nguyên nhân đưa đến đau khổ và sự chấm dứt
khổ đau; cũng có nghĩa là hạnh phúc, an lạc. Diệt đế đồng nghĩa với Niết
bàn (Nirvana/Nibbàna).
Đạo Phật xác nhận cuộc đời đầy dẫy những đau khổ, đồng thời cũng xác định
có một sự thật khác nữa là an lạc, hạnh phúc. Vì vậy mà có sự tu tập để
đạt được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Hạnh phúc có các mức độ khác nhau.
a)- Hạnh phúc tương đối: Một khi bạn đã làm lắng dịu lòng tham ái,
chấp thủ, thì những nỗi lo âu, sợ hãi, bất an giảm hẳn, thân tâm của bạn
trở nên thanh thản, đầu óc tỉnh táo; bạn nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản
và rộng lượng hơn. Đó là một hình thức của hạnh phúc. Kinh Trung Bộ có một
ví dụ: Có một người con trai đang yêu một cô gái. Tình cờ, anh ta bắt gặp
cô gái nói chuyện, cười đùa với một chàng trai khác. Tâm hồn của người con
trai đang yêu ấy bị xáo trộn mạnh mẽ, khó chịu, bực bội và đau khổ. Thời
gian sau, người con trai ấy không còn yêu thương cô gái ấy nữa; lần này,
anh ta gặp cô ái ấy đang nói chuyện, cười đùa với những chàng trai khác,
nhưng hình ảnh ấy không làm tâm hồn anh ta đau đớn nữa. Cũng vậy, nhờ tâm
trí không bị chi phối bởi những tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị đun nóng
bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng, sợ hãi, mà tâm ý của bạn trầm tĩnh
và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc và chính
xác hơn, bạn tạo nên một phép lạ: thân tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử
của bạn đối với mọi người độ lượng, bao dung và khiêm tốn; đối với của
cải, tài sản, danh vọng trở nên thanh thản hơn, không còn bị áp lực của nó
đè nặng lên trái tim mình. Trên cơ sở ấy, bạn hưởng thụ đời sống có phẩm
chất hơn.
Tóm lại, tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham, sân và vô minh đến mức độ
nào thì đời sống của bạn sẽ được tăng phần hạnh phúc lên mức độ ấy.
Nếu bạn phát triển hạnh phúc tinh thần cao hơn bằng cách tu tập thiền định
thì bạn sẽ có sự an lạc tuyệt vời. Đức Phật dạy: "Có người có thể không bị
bệnh về thể xác trong một năm hay có thể đến cả trăm năm, nhưng thật hiếm
có người không bị bệnh về tinh thần, dù chỉ trong một phút". Những tâm lý
được coi là bệnh của tinh thần gồm có 5 trạng thái tâm lý, thường gọi là 5
triền cái: tham lam, sân hận, hôn trầm ngủ nghỉ, dao động và hối hận, hoài
nghi và do dự. Khi 5 loại tâm lý này có mặt, nó sẽ trói buộc và ngăn che
tâm trí bạn; loại trừ chúng thì tinh thần sẽ sáng tỏ thanh tịnh và an lạc
như mặt trăng thoát khỏi mây che. Các trạng thái hạnh phúc tinh thần này
được gọi là Tứ thiền.
b)- Hạnh phúc tuyệt đối: Trên nền tảng hạnh phúc tinh thần, bạn
phát triển tuệ quán, hướng tâm đến đoạn trừ toàn bộ phiền não vi tế, thâm
sâu, bạn có thể đạt hạnh phúc tuyệt đối, tối thượng là Niết bàn. Diệt đế
chính là Niết bàn. Niết bàn là sự thanh tịnh, là hạnh phúc tuyệt đối. Đức
Phật dạy: "Vô bệnh lợi tối thắng, Niết bàn lạc tối thắng" (K.Magandiya,
TBK II).
Niết bàn còn được diễn tả dưới nhiều danh từ khác nhau, tiêu biểu như: vô
sanh, giải thoát, vô vi, vô lậu, đáo bỉ ngạn, tịch tịnh, chân như, thực
tướng, pháp thân... Niết bàn không phải là đối tượng của tư duy, khái niệm
hay ngôn ngữ. Đây là trạng thái an lạc, hạnh phúc tuyệt đối khi tâm ý đã
vắng mặt tham, sân, si.
Chúng ta thường quan niệm Niết bàn như một cảnh giới, một cõi nào đó cao
cấp hơn cõi người, như là cõi thiên đường của các tôn giáo khác; đó là một
sai lầm lớn. Niết bàn vượt thoát mọi khái niệm đối đãi về thời gian, không
gian, có, không, lớn, nhỏ... Dù vậy, Niết bàn không phải là hư vô, mà là
một thực tại thanh tịnh, siêu việt, không nằm trong phạm vi phân biệt của
ý thức, hay nói cách khác, không thể nhận thức được Niết bàn khi đang còn
tham, sân, si. Một vị Thiền sư nói: "Hãy nhìn những rặng núi, những con
suối chảy, những rừng cây xanh ngắt đẹp tuyệt vời kia. Khi biết nhìn mọi
vật với một nhãn quan mới, một nhãn quan không bị chi phối bởi tham sân
si, thì cảnh đẹp kia chính là Niết bàn đó ! Niết bàn không phải là một nơi
chốn nào khác biệt với thế gian, một cảnh giới nào mà người ta có thể tìm
đến. Niết bàn chính là ở đây". Đức Phật và các vị Bồ Tát, A La Hán đã đạt
Niết bàn ngay trong đời sống này. Điều đó nghĩa là Niết bàn nằm ngay trong
tầm tay của mỗi người. Biểu hiện của Niết bàn là không còn tạo nghiệp và
không còn tái sinh.
4)- Đạo đế (Magga): Đạo là con đường, là phương pháp thực hiện để
đạt được an lạc, hạnh phúc trong đời sống hàng ngày hay hạnh phúc tuyệt
đối Niết bàn. Như vậy, toàn bộ giáo lý mà Đức Phật đã dạy đều là Đạo đế,
tổng quát và căn bản gồm có 37 pháp, thường gọi là 37 phẩm trợ đạo. Đức
Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, đây là những pháp do ta chứng ngộ và giảng
dạy, các con phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập, truyền bá rộng rãi để
chánh pháp được trường tồn, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho
chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư
Thiên và loài người. Đó là Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn thần túc, Năm
căn, Năm lực, Bảy Bồ đề phần, Tám thánh đạo phần" (kinh Đại Bát Niết Bàn).
Trong 37 pháp thì Tám thánh đạo được coi là tiêu biểu và căn bản nhất của
Đạo đế. Tám thánh đạo, còn gọi là Tám chánh đạo - con đường chân chính -
có 8 chi phần:
1)- Chánh kiến (Sammà Ditthi): Thấy và hiểu đúng đắn, nghĩa
là nhận thức đúng về đạo đức của cuộc sống, cái nào là thiện, cái nào là
ác. Nhận biết đúng về bản chất của sự vật là vô thường, vô ngã, duyên
sinh. Nhận thức rõ bản chất của khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và
con đường đưa đến hết khổ.
2)- Chánh tư duy (Sammà Sankappa): Suy nghĩ đúng đắn, nghĩa
là đừng để đầu óc của mình nghĩ ngợi những vấn đề bất thiện như tham dục,
tức tối giận hờn, bạo động hãm hại... dẫn tư duy của mình hướng về tâm cao
thượng như tư duy về sự buông thả, sự giải thoát, về thương yêu giúp đỡ
chúng sinh, về sự bất bạo động, nhẫn nhục, trầm tĩnh.
3)- Chánh ngữ (Sammà Vàcà): Ngôn ngữ đúng đắn, nghĩa là
không nói những lời đưa đến đau khổ, chia rẽ, hung bạo, căm thù. Nói những
lời lẽ đưa đến xây dựng niềm tin, đoàn kết hòa hợp, thương yêu và lợi ích.
4)-
Chánh nghiệp (Sammà Kammanta): Hành vi đúng đắn, nghĩa là không có
hành vi giết hại, trộm cướp, hành dâm phi pháp. Thực hành sự thương yêu,
cứu giúp, không ham muốn thú vui bất thiện.
5)- Chánh mạng (Sammà Ajivà): Đời sống đúng đắn, nghĩa là
phương tiện mưu sinh, nghề nghiệp chân chính, không sống bằng những nghề
phi pháp, độc ác, gian xảo.
6)- Chánh tinh tấn (Sammà Vàyàma): Nỗ lực đúng đắn, nghĩa là
nỗ lực đoạn trừ điều ác, nỗ lực thực hành điều thiện.
7)-
Chánh niệm (Sammà Sati): Nhớ nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng nhớ nghĩ
các pháp bất thiện, đừng để cho các đối tượng bất chính dẫn dắt mình đi
lang thang. An trú tâm ý vào thiện pháp, không quên thiện pháp.
8)- Chánh định (Sammà Samàthi): Tập trung tư tưởng đúng đắn,
nghĩa là đừng để tâm thức bị rối loạn, tập trung tư tưởng làm an tịnh tâm
thức một cách đúng đắn, có hiệu quả phát triển tuệ giác.
Mối quan hệ giữa các chi phần Bát chánh đạo là không thể phân ly, chi phần
này có trong chi phần kia, cái kia hỗ trợ cho cái này. Tám chánh đạo có
thể chia làm 3 bước là Giới, Định và Tuệ. Giới là Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng; Định là Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định; Tuệ là Chánh
kiến, Chánh tư duy. Xác định Bát chánh đạo là con đường đưa đến giải
thoát, Đức Phật dạy: "Này Subhadda, trong pháp luật nào không có Bát thánh
đạo thì ở đấy không có Tứ quả Sa môn" (kinh Đại Bát Niết bàn, TB I). Đức
Phật dạy thêm: "Nếu những Tỳ kheo sống chân chính (theo Bát chánh đạo) thì
cõi đời này không thiếu vắng những vị A La Hán".
Con đường tu tập của Đạo đế là con đường nỗ lực tự thân của mỗi hành giả
Phật tử; con đường ấy vừa thực tiễn vừa có hiệu quả ngay tại đời sống này.
III- Tu tập Bốn
chân lý
Giáo lý đạo Phật không phải là một học thuyết, mà là một công trình tu
tập, có thực hành mới biến lý thuyết thành thực tiễn, thành chất liệu sống
trong mỗi con người, như ăn cơm mới no, uống nước mới hết khát. Đó là chỗ
khó khăn của người Phật tử, không thể nhờ cậy vào ai tu giúp cho mình,
hoặc ai ban cho mình được giải thoát, hết khổ.
Trong kinh đưa ra 3 giai đoạn nhận thức và hành trì đối với Bốn chân lý,
thuật ngữ gọi là Tam chuyển: Thị chuyển, Khuyến chuyển, Chứng chuyển.
1)- Đối với Khổ đế: Thị chuyển là nhận thức, hay nhận diện
cái khổ. Thấy được khổ là bước đầu tiên; nếu không thấy, không biết thì sẽ
không có hành động diệt khổ. Khuyến chuyển là đi sâu hơn vào bản chất cái
khổ, khởi lên ước muốn đoạn trừ khổ. Chứng chuyển cảm nhận một cách sâu
sắc và toàn diện về bản chất của khổ đau.
2)- Đối với Tập đế: Thị chuyển là nhận diện nguyên nhân đưa
đến đau khổ. Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn đoạn trừ các nguyên nhân
ấy. Chứng chuyển là tu tập, nỗ lực để đoạn trừ chúng.
3)- Đối với Diệt đế: Thị chuyển là nhận thức được sự vắng
mặt của đau khổ là hạnh phúc, là không có đau khổ, ta phải thấy điều ấy.
Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn được hạnh phúc, hưởng được niềm vui,
thanh thản an lạc của đời sống. Chứng chuyển là đạt được, hưởng thụ thật
sự trạng thái an lạc ấy.
4)- Đối với Đạo đế: Thị chuyển là nhìn thấy con đường, thấy
được phương pháp diệt khổ, thấy rõ rằng đây là con đường đưa đến giải
thoát; nói cách khác, thấy được lối thoát ! Khuyến chuyển là khởi lên ước
muốn đi trên con đường ấy, khởi hành trên lộ trình ấy. Chứng chuyển là đi
trên con đường ấy một cách trọn vẹn.
Tóm lại, đối với mỗi chân lý, chúng ta đều phải nhận thức rõ ràng. Từ nhận
thức thông suốt sẽ dẫn đến ước muốn hành động, và cuối cùng đạt được mục
đích. Chúng ta phải thấy rõ diễn biến của hành vi, ngôn ngữ và tư duy của
chính mình, cái nào có đau khổ, gây ra đau khổ, ta phải nhận diện và diệt
trừ chúng; ta chuyển hóa nó để hưởng được niềm an bình hạnh phúc của Diệt
đế. Hạnh phúc hay đau khổ đều xuất phát từ nơi thân tâm của chúng ta.
C/- Kết luận
Con người đau khổ không phải vì thiếu thốn vật chất, tiền của, danh vọng,
mà chính là vì vô minh. Sự mê muội làm cho con người chưa nhận thức đúng
đắn bản chất của cuộc đời. Đạo Phật chỉ dẫn cho con người một hướng đi,
một lối thoát, cung cấp phương tiện để cho con người khai mở kho tàng trí
tuệ của chính mình. Định nghĩa về vô minh, Đức Phật dạy: "Chính là không
biết rõ khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến diệt
khổ, này các Tỳ kheo, đấy gọi là vô minh" (Tương Ưng V). Và ngược lại là
minh, là trí tuệ. Dưới cái nhìn của trí tuệ, mối quan hệ duyên sinh của
Bốn chân lý hiển lộ rõ ràng, thấy được một chân lý là thấy được toàn bộ
chân lý. Đức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, ai thấy khổ, người ấy cũng thấy
nguyên nhân của khổ, thấy khổ diệt, thấy con đường đưa đến khổ diệt. Ai
thấy được nguyên nhân của khổ, cũng thấy được khổ, thấy được khổ diệt và
con đường đưa đến diệt khổ. Ai thấy được khổ diệt, cũng thấy được khổ,
nguyên nhân của khổ, con đường đưa đến khổ diệt. Ai thấy được con dường
đưa đến khổ diệt, thì cũng thấy được khổ, nguyên nhân của khổ và sự diệt
khổ" (Tương Ưng V). Nhận thức đúng như thế là Chánh kiến, nó đóng vai trò
rất quan trọng trong quá trình tu tập Bốn chân lý; nói cách khác, Chánh
kiến đi hàng đầu trong mọi pháp môn. Nhận thức sáng tỏ ấy còn gọi là Kiến
đạo.
Giáo lý Bốn chân lý vừa là phương tiện, vừa là cứu cánh. Một giáo lý hoàn
chỉnh đầy tính nhân bản đem lại niềm tin, sức sống cho con người, xã hội
đương thời và vẫn thiết thực lợi ích cho con người và xã hội hiện đại.
Đặc tính của giáo lý Tứ diệu đế là con đường Trung đạo, không rơi vào cực
đoan hưởng thụ dục lạc hay khổ hạnh ép xác. Giáo lý Tứ diệu đế bao hàm tất
cả các giáo pháp mà Đức Phật đã dạy. Giáo lý Tứ diệu đế có thể thực hành
cho người xuất gia cũng như tại gia, ai cũng tu tập được, ai cũng có thể
nếm hương vị giải thoát, đáp ứng được nhu cầu thoát khổ cho cá nhân và
chuyển hóa xã hội./.
---o0o---
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-12-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục