.
Phật Học Khái
Luận
Thích Chơn Thiện
Chương
Hai - Pháp Bảo
Tiết VI
Luân hồi (Samsara)
Tiếp theo nhân quả và nghiệp
báo, Luân hồi thường được đề cập đến. Luân hồi có là do có
nghiệp báo, có nhân quả.
Luân hồi là từ dịch của từ Pàli "Samsàra"
(hay Skt, Samsàra) có nghĩa là sự chuyển sinh, sự tái sinh, sự đi đến.
Thường, từ nói đủ là bánh xe sinh tử, hay bánh xe chuyển sinh
(Samsàracakka), diễn đạt đường sinh tử không có đầu, không có đuôi, quay
mãi như bánh xe quay tròn không tìm thấy điểm khởi đầu. Ðây là ý
nghĩa của từ luân hồi (luân: bánh xe, hồi: quay tròn).
Sinh tử, luân hồi có là do con người mê mờ không thấy
rõ thật pháp Vô ngã pháp mà sinh ra chấp thủ ngã, pháp và tham ái. Do chấp
thủ, tham ái mà tạo ra các nghiệp thiện, ác khiến đi vào sinh tử,
không thấy lối ra. Lối đi vào sinh tử của chúng sinh trải qua thời gian không
kể xiết vẽ thành vòng luân hồi quay mãi. Như lời Thế Tôn dạy
được ghi lại ở bài kệ số 60 trong kinh Pháp Cú :
"Ðêm dài đối với kẻ thức,
Ðường dài đối với kẻ mệt,
Luân hồi dài đối với kẻ ngu,
Không biết rõ chơn diệu pháp".
Trong Kinh Ðại Duyên (Trường Bộ Kinh III), Thế Tôn
dạy rõ chơn diệu pháp ấy là Duyên khởi:
"Này A-nan, chính vì không giác ngộ, không thâm
hiểu giáo pháp Duyên khởi này mà chúng sinh hiện tại bị rối loạn như
một ổ kén, rối ren như một ống chỉ..., không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác
thú, đọa xứ, sinh tử". (tr. 56).
Như thế, nói đến Luân hồi chính là nói
đến vòng quay của mười hai chi phần nhân duyên của Duyên khởi trải qua ba
đời quá khứ, hiện tại và tương lai. Cho đến khi nào mười hai nhân
duyên đoạn diệt, cho đến khi ấy vòng quay của Luân hồi mới chấm dứt.
Nói cụ thể hơn, cho đến khi nào vô minh hết, tham ái hết hay
chấp thủ không còn, cho đến khi ấy chúng ta mới đi ra khỏi vòng quay của
Luân hồi; nhưng cho đến khi nào vô minh, chấp thủ hay tham ái còn, thì
vòng luân hồi tiếp tục quay vô cùng tận.
Chúng ta có thể hình dung con đường Luân hồi như
những đường rầy xe lửa nhiều chiều chạy qua lại, lên xuống, vòng
quanh từ các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh cho đến Người, A-tu-la,
năm cảnh trời Dục giới, bốn cảnh trời Sắc giới và bốn cảnh trời Vô sắc,
mà nghiệp lực hay nghiệp thức của chúng sanh thì như những con tàu; và
nhiên liệu, động cơ quay chuyển con tàu chính là tham ái, chấp thủ.
Tùy theo nghiệp lực của chúng tạo ra trong đời sống hiện tại, và tùy
theo cận tử nghiệp của chúng ta, con tàu sinh tử của chúng ta sẽ chuyển
bánh, sau khi chết, đi từ ga cuộc đời này đến ga tiếp theo tương
ưng với nghiệp ấy. Nếu ngay trong đời sống hiện tại, tất cả nhiên
liệu tham ái và chấp thủ đã được công phu tu tập của ta đốt cháy
sạch, thì con tàu sinh tử của ta sẽ thôi không còn chuyển bánh. Ðiều
này không có nghĩa là con tàu vẫn ở lại ga đời này, mà có nghĩa là tất
cả nhà ga sinh tử không còn liên hệ gì đến con người giải thoát
nữa. Ở đây, sinh tử chính là tham ái, chấp thủ, cũng chính là con tàu
và các nhà ga. Cái gọi là Luân hồi thực ra đấy chính là sự quay
chuyển của vô minh. Khi vô minh được đoạn tận, thì tất cả con tàu,
đường sắt và các nhà ga đều được đốt cháy sạch. Tất cả những thứ
ấy bị đốt sạch, nhưng không phải vì thế mà trở thành rỗng không,
mà là để lộ thực tại toàn bích, giải thoát không còn lại một dấu
vết nào của sinh tử. Bấy giờ con người giải thoát, hay thật ngã chính là
thực tại.
Hiểu Luân hồi, do đó, chính là nội dung của
hiểu biết Nhân quả, Nghiệp báo, Tứ đế hay Duyên khởi.
Ở đây, chỉ có một vấn đề chúng ta cần tìm
hiểu là cái gì đi luân hồi? Với con người Năm uẩn, thì cái gì đi luân
hồi?
Theo Nikàya và A-hàm, như chúng ta đã thấy ở phần
trình bày về nghiệp báo, nghiệp thức đi đầu thai. Khi chết là
chết cái thân sắc uẩn, bốn uẩn còn lại, được xem như thu vào thức uẩn,
tạo thành một sức mạnh, gọi là nghiệp lực tiếp tục quay
chuyển, chuyển sinh. Nghiệp thức này (còn được gọi là hương
ấm) hợp với danh-sắc mới tạo thành thân mới. Tại đây, có nhiều quan
điểm chủ trương có thân trung ấm, thân trung gian ở giữa thân của đời
này và thân của đời sau như các nhà ngoại đạo của Số luận, như Ðông sơn
bộ, Chính Lượng bộ và Hữu bộ (thuộc Nam Tạng). Kinh bộ (Nikàya) và A-hàm,
Ðại chúng bộ, Phân biệt luận... thì chủ trương không có thân trung hữu.
Thế Hữu cho rằng thân trung hữu kéo dài một thời
gian tối đa bảy ngày. Thiết-ma-đạt-đa thì cho thời gian của thân trung
hữu có thể kéo dài đến bốn mươi chín ngày. Có lẽ do chịu ảnh
hưởng thuyết này mà một số Phật tử Việt Nam ngày nay có tập quán
cúng thất thất trai tuần.
Kinh bộ (Nikàya) và A-hàm thì cho rằng từ tử tâm
chuyển qua kiết sanh tâm (patisandhi) đi vào thân mới chỉ trong vòng từ
một đến hai sát-na, nên không cần có thân trung hữu.
Nikàya và A-hàm gọi nghiệp thức đi đầu thai là
hương ấm (gandhaba) và không cắt nghĩa hương ấm là tầm hương, có thức ăn
là mùi thơm, trong khi đó quan điểm kia thì cho thức ăn của thân trung
hữu là hương thơm và gán cho nó cái tên tầm hương (đi tìm hương thơm).
Nikàya ghi rõ con người chết là do sắc thân đoạn
diệt, do thọ mạng hết, hoặc do nghiệp ở đời hết, nhưng
cũng có trường hợp chết ở ngoài ba trường hợp trên gọi là chết
"bất đắc kỳ".
Chúng tôi nghĩ rằng quan điểm chết đi đầu thai
liền thì phù hợp với truyền thống Phật giáo nguyên thủy, qua Nikàya
và A-hàm, hơn là quan điểm trung ấm thân, dù là trường hợp chết
"bất đắc kỳ".
Nhiều nơi trong các Kinh, gồm Kinh Ðại Niết-bàn
(Trường Bộ Kinh III), ngay khi có một Phật tử hay một tu sĩ qua đời, Tôn giả
A-nan thường hay bạch hỏi Thế Tôn về sanh thú của các vị ấy và
Thế Tôn trả lời rõ cảnh giới đầu thai của các vị ấy. Có lần, Thế
Tôn đã quở nhẹ Tôn giả A-nan tại sao cứ làm phiền Thế tôn với những
câu hỏi như thế. Ý của Thế Tôn không muốn đề cập nhiều
đến chuyện đầu thai ấy, thành thử ngày nay chúng ta không cần
thiết đòi hỏi phải đi sâu vào vấn đề đầu thai ấy.
Tình trạng gọi là thân trung gian, nếu có, ta có
thể hiểu đây cũng là một thân luân hồi thuộc một cảnh giới, chỉ
khác các cảnh giới khác về thời gian tồn tại ngắn hay dài mà thôi. Khi
đã có thân thì đấy là thân rồi.
Có lần (Tương Ưng và Tiểu Bộ) Tôn giả
Mục-kiền-liên (Moggallàna) chỉ cho một Tỷ-kheo trẻ tuổi biết rằng
giữa hư không này Tôn giả thấy (bằng thiên nhãn) có nhiều cảnh giới
đầu thai với các thân khác nhau và chịu các quả báo khác nhau. Vị
Tỷ-kheo bạch hỏi Thế Tôn tại sao không nghe Thế Tôn dạy về các
cảnh giới đó? Thế Tôn đã dạy là các cảnh giới đó có nhưng ngại vì
khó tin, vả lại không liên hệ mật thiết với mục đích phạm hạnh nên
Thế Tôn không dạy. Thế là, cạnh cảnh giới con người đã có những
thân sắc khác với sắc chất, đấy là cảnh giới khác rồi hà tất phải lập
thêm thân trung ấm.
Hẳn là ở đây không nỗ lực để chứng minh Luân
hồi có, vì nó vốn có rồi, như đã được đề cập ở phần Nhân quả và
Nghiệp báo.
Qua các mẩu chuyện Bổn sanh (Tiểu Bộ Kinh) nói
về các tiền thân của đức Phật, ta có thể hình dung ra cuộc Luân
hồi dài, mênh mông như thế nào. Tại đây chúng ta có thể rút ra
được thêm một kết luận rằng chúng sinh đi vào Luân hồi bằng hai động
cơ chính: hoặc do nghiệp lực bị cuốn hút vào Luân hồi một cách bị
động, hoặc do nguyện lực - như trường hợp chư Bồ-tát đi vào sinh tử
một cách chủ động vì lòng đại bi thương chúng sinh, đi vào để mà
giáo hóa. Trường hợp đi vào do nghiệp lực thì gọi là bị Luân hồi;
nhưng trường hợp đi vào do nguyện lực độ sinh thì khác, gọi là giải
thoát Luân hồi cho chúng sinh và cho tự thân.
Luân hồi cũng như mọi pháp khác, nó là do Duyên
sinh nên Vô ngã. Không thể có một pháp như thực gọi là Luân hồi, mà
chỉ có thể nói tự thân của Luân hồi cũng chính là như thực khi vô minh
không còn ngăn che nữa. Nếu Luân hồi có tự ngã thì sẽ không bao giờ có
sự kiện giải thoát Luân hồi cả. Nhưng sự kiện giải thoát Luân hồi
thì có thực, nên Luân hồi phải là không có tự ngã.
Giáo lý Phật giáo chỉ cho thấy có Luân hồi. Nhưng
trọng điểm của giáo lý này là giải thoát Luân hồi. Thế nên,
rốt ráo mà nói Luân hồi chỉ có mặt ở vô minh mà không có mặt trong thực
tại như thực. Nó có mà cũng như không có. Chúng ta đừng hoài công đi tìm
thực chất của Luân hồi (hay nguồn gốc của Luân hồi), bởi vì theo Phật giáo,
tất cả cái gì thuộc pháp hữu vi, thuộc sinh tử, Luân hồi đều là hư
vọng, không có gốc. Vọng thì thực sự không có gốc.
Luân hồi, đây chỉ là từ ngữ chỉ hiện tượng lên
xuống, qua lại hay sinh diệt của chúng sinh. Nó không phải là một giáo
lý như Nhân quả hay Nghiệp báo, nên chúng ta khỏi đi sâu vào vấn
đề tìm hiểu nó. Chỉ vì vấn đề Luân hồi đã một lần đặt ra
thì chúng ta cũng phải đề cập đến./.
-oOo-
Bài trước
|
Mục lục | Bài
kế
--- o0o ---
Trình bày : Nhị
Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục