.
BÀN VỀ PHẬT LỊCH
Nguyễn Công
Lý
I. Xác định những mốc lịch sử:
1. Trước tiên đề cập vấn đề
trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa
(Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
Về vấn đề này, hiện cónhiều thuyết, và nhiều tài liệu ở Việt Nam chưa nhất
quán.
- Mật thể - "Việt Nam Phật giáo
sử lược", Minh Đức tái bản, 1960, trang 27 có ghi năm đản sinh như nhau:
1027, 1023, 685, 624, 566, 561, 557, 487, 466 TCN.
- Nguyễn Lang - "Việt Nam Phật
giáo sử luận" tập I, 1973, không nêu vấn đề trên.
- Vân Thanh - "Lược khảo Phật
giáo sử VN" 1974 thì cho rằng đản sinh vào năm 563 TCN và nhập diệt vào
năm 483 TCN (trang 22).
- Lê Mạnh Thất - "Sơ thảo lịch
sử Phật giáo Việt Nam", tập 1, Tu thư Vạn Hạnh, cảo bản in rônêô, 1976 ghi
là sinh vào khoảng thế kỷ VII trước CN.
- Thích Thanh Kiểm - "Lược sử
Phật giáo Ấn Độ", Quê hương, tái bản 1971, xác định đản sinh ngày mùng 8
tháng 4 năm 642 TCN và nhập Niết bàn vào ngày Rằm tháng hai năm Ngài 80
tuổi (544 TCN).
Sau đó ghi thêm 2 thuyết khác
là:
+ 566 - 486 TCN (sách Chúng
Thánh Điểm Ký)
+ 563 - 483 (Sử Pipavamsa của
Nam Phương Phật giáo)
Và ghi thêm: Phật giáo Nam
Phương: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan lại thường lấy năm đức Phật nhập
Niết bàn tức năm 544 TCN làm lễ kỷ niệm (sđd trang 31 - 41).
- Thích Minh Tuệ - "Lược sử
Phật giáo Việt Nam" (1993) có ghi các mốc ngày tháng đản sinh, xuất gia,
thành đạo và nhập Niết bàn.
- PGS TS Trần Ngọc Thêm - "Tìm
về bản sắc văn hóa Việt Nam", 1997, chương 6, mục 22 "Phật giáo và văn hóa
Việt Nam" (trang 469 - 470) thì cho rằng sinh khoảng 563 TCN và qua đời
khoảng năm 483 TCN. Trước đó, tác giả lại ghi "Đạo Phật hình thành ở Ấn Độ
vào thế kỷ thứ V TCN" (trang 469) (Cũng trong mục này, tác giả có những
điểm không nhất quán, hoặc nhầm lẫn. Chúng tôi sẽ có dịp đề cập ở một bài
viết khác).
- Huyền Cương - "Thử bàn về
cách tính Phật lịch", Nghiên cứu Phật học số 1 - 1997 (trang 25 - 26), sau
khi tác giảm làm các phép tính và khẳng định các mốc thời gian: đản sinh
623, xuất gia 604, thành đạo 593, chuyển bánh xe pháp 592, nhập Niết bàn
544 TCN.
- Chúng tôi thiển nghĩ rằng,
tất cả các mốc thời gian trên đều dựa vào nhiều truyền thuyết lịch sử đức
Phật Thích Ca mà sử sách cũ ghi lại. Có điều, tại sao chúng ta lại không
lấy cái mốc thời gian mà Đại hội Phật giáo Thế giới họp tại Tích Lan lần
thứ 1 vào năm 1952 làm chính thống. Tại đại hội này, các vị đại biểu cao
tăng thạc đức của toàn cầu đã thống nhất định ra Phật kỳ và Phật lịch.
Riêng về Phật lịch, lấy năm đức Thích Ca nhập Niết bàn làm mốc để tính năm
đầu Phật lịch. Truyền thuyết về lịch sử đức Phật đều thống nhất là Ngài
thọ 80 tuổi (còn các mốc khác lại không nhất quán). Theo cái mốc này ta
tính ra như sau:
* Năm 1996 Phật lịch 2540. Điều
đó có nghĩa là Thái tử Tất Đạt Đa đản sinh cách đây:
2540 + 80 = 2620 năm và năm đản
sinh sẽ là năm 624 TCN, vì 2620 - 1996 = 624
Rất tiếc, trong bài báo của
mình, tác giả Huyền Cương dù đưa ra cách tính rất khoa học, sáng tỏ nhưng
lại nhằm Phật Lịch 2540 ứng với dương lịch 1997 nên đã xác định năm sinh
là 623. Theo chỗ chúng tôi hiểu, tuy Phật giáo thế giới trong kỳ Đại hội
1952 lấy năm Đức Phật Thích Ca nhập diệt là cái mốc để tính năm đầu tiên
của Phật lịch, nhưng lại lấy ngày đản sinh (mùng Tám tháng tư hoặc rằm
tháng tư) để tính là đầu năm. Vậy Phật lịch 2540 tính tư 8 - 4 Bính Tý
1996, còn năm 1997 (đến ngày 8 - 4 Đinh Sửu 1997) mới tính Phật lịch 2541.
Từ cái mốc trên, căn cứ vào
truyền thuyết về lịch sử đức Phật Thích Ca, ta có thể suy ra các mốc sau.
(Hiện có nhiều thuyết khác nhau nói về tuổi của năm xuất gia, năm thành
đạo. Ở đây chúng tôi dựa vào thuyết tương đối phổ biến mà nhiều nhà Phật
học đã chấp nhận).
* Năm xuất gia: 624 - 19 tuổi -
1 (tuổi mụ) = 604 TCN
* Năm thành đạo: 624 - 31 tuổi
= 593 TCN
(Tài liệu không nêu rõ số năm
đi tu, chỉ nói rằng, Thái tử Tất Đạt Đa sau một thời gian dài tham học các
bậc danh sư, kỳ đức như Bạt Già Bà (Bhagavà); A Ra La Ca Lan
(Aràlakàlanma) và Uất Đà Ka La Ma Tử (Udraka - Ràmaputta) với nhiều tư
tưởng triết lý khác nhau, không xác định rõ số năm. Sau đó, Ngài tự nghĩ
"phải chính mình tu thì mới tìm được chính đạo", nên vào rừn phía Tây ngạn
sông Ni Liên Thuyền (Naira - njanà) tu khổ hạnh trong 6 năm ròng. Tuy thế,
cũng chưa đạt chính quả. Nhờ uống bát sữa của thiếu nữ chăn bò tên Sugìata
(Thanh Kiểm ghi là tên Nan Đà) mà Ngài bỏ phương pháp khổ hạnh, ngồi thiền
định và chứng ngộ Vô thượng đại Bồ đề vào ngày mùng tám tháng chạp.
* Năm sơ chuyển pháp luân độ 5
anh em ông Kiều Trần Như tại vườn Lộc Dã vào năm sau, tức năm 592 TCN.
* Từ khi thành đạo đến khi nhập
Niết bán, đức Phật đã thuyết pháp hoằng hóa trong 49 năm (tính luôn sơ
chuyển pháp luân). Vậy ngày nhập Niết bàn là vào năm: 593 - 49 = 544 TCN.
Trên đây là những mốc quan
trọng. Ta cũng có thể làm phép tính ngược (lấy năm nhập Niết bàn làm mốc)
như tác giả Huyền Cương. Có điều cần lưu ý năm đản sinh như chúng tôi đã
nêu ở trên.
II. Đôi điều cần bàn thêm về
Phật lịch:
- Mặc dù vào năm 1952, Đại hội
Phật giáo thế giới lần thứ I họp tại Tích Lan định ra Phật kỳ và Phật lịch
thống nhất trên toàn cầu, nhưng qua tham khảo ý kiến của các bậc cao tăng
thạc đức ở tỉnh hội Khánh Hòa, cũng như ý kiến của tác giả Huyền Cương
trên tạp chí số 1 - 1997, chúng tôi thấy rằng:
Cách tính Phật lịch mà Đại hội
Phật giáo thế giới đã thống nhất có điều chưa hợp lý và thiếu thuyết phục.
Chúng tôi rất đồng tình với điều băn khoăn của tác giả Huyền Cương trong
bài báo nói trên. Bởi lẽ, nếu tính từ năm nhập Niết bàn thì 49 năm đức Thế
Tôn thuyết pháp độ sanh sẽ tính và chỗ nào?
Chúng tôi tâm đắc ý kiến của
tác giả rằng: "Sự kiện Ngài bắt đầu chuyển bánh xe pháp mới thực đáng được
xem như ngày mở đầu cho kỷ nguyên Phật giáo tại thế gian này, và năm 592
trước dương lịch đáng được chọn làm mốc tính Phật lịch. (NCPH số 1 -
1997). Nhưng tôi nghĩ thêm: có lẽ phải tính Phật lịch từ lúc Ngài thành
đạo (tức năm 593 TCN) thì hợp lý hơn cả. Bởi lẽ, có thành đạo, chúng được
quả Vô thượng Bồ đề thì từ đó Ngài mới thuyết pháp độ sanh, mới có cơ
duyên gieo những hạt giống đạo pháp tốt đẹp, để con người trên thế giới
này có điều kiện sống gần gũi với nhau trong tình thương hòa bình, đầy
tình người, đậm chất nhân văn hơn. Đây cũng là niềm mơ ước của hàng tỷ con
người trên thế giới hiện nay. Cuối cùng, xin cảm ơn tác giả Huyền Cương đã
gợi cho tôi có vài suy nghĩ, và qua đôi điều cần bàn thêm, rất mong Giáo
hội Phật giáo Việt Nam và Tổng hội Phật giáo thế giới quan tâm xem xét và
có nên định lại Phật lịch thống nhất trên toàn cầu chăng?
---o0o---
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-12-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục