.
PHẬT HỌC CĂN BẢN
Thích Giải Hiền
Thạc Sĩ Đông Nam Á Học
---o0o---
1
Tôn Giáo thường thức
Trên thế giới chỉ có ba
tôn giáo có lịch sử lâu đời và có tính toàn cầu là.
-
Phật giáo khởi nguyên từ Ấn Độ
-
Cơ Đốc giáo bắt đầu từ Trung Đông
-
Hồi giáo
Hồi giáo và Cơ Đốc giáo
(Thiên Chúa giáo và Tin Lành) điều bắt nguồn từ Do Thái giáo, Do Thái giáo
cho đến tận bây giờ vẫn là Tôn giáo mang tính dân tộc. Các nước phương
đông như Trung Quốc, Ấn Độ cũng có tôn giáo mang tính dân tộc, như đạo
giáo của Trung Quốc, hay như chỉ có người Ấn Độ tin theo như Bà la môn
giáo và Ấn giáo của Ấn Độ.
Đạo giáo của Trung Quốc
chia làm hai hệ thống. Hệ thống triết học có Lão tử và Trang tử được gọi
đạo gia. Hệ thống đạo thuật có hai phái là phái kim đơn và phái phù chú.
Phái kim đơn là chuyên luyện đơn và luyện khí, gồm có nội đơn và ngoại đơn.
Nội đơn là luyện khí công, ngoại đơn là luyện kim thuật, tức là đem kim
thuậc luyện thành đơn dược. Họ tin rằng khi uống những kim đơn đó có thể
mọc cánh bay lên trời, hay được sống lâu bất tử. Phái phù chú tức là dùng
phương pháp luyện bùa chú để sai khiến quỷ thần, lấy sức mạnh của ma quỷ
để giải việc của con người và được gọi là đạo giáo. Đạo giáo của Trung
Quốc cho đến nay vẫn chưa trở thành tôn giáo của thế giới, nhưng trên
phương diện học thuật toàn cầu thì có tư tưởng đạo gia.
Phật giáo bắt nguồn từ
Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích
Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang
tính thế giới, do công của A Dục Vương đã lập những đoàn truyền giáo mang
giáo lý Phật Đà truyền sang Á Châu, thậm chí cả Châu Âu.
Tôn giáo ở phương Đông
thì Phật giáo là tôn giáo đầu tiên trở thành tôn giáo mang tính thế giới.
Tôn giáo mang tính thế
giới cao cấp cần hội đủ ba điều kiện: giáo lý, giáo chủ, giáo đoàn. Như
Phật giáo Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là giáo chủ, những kinh điển Phật nói
là giáo lý, Tăng đoàn đệ tử của Phật được truyền thừa từ đời này sang đời
khác gọi là giáo đoàn. Cơ Đốc giáo, giáo chủ là Đức Chúa Giê Su, thánh
kinh là giáo lý, môn đồ và tín đồ là giáo đoàn. Hồi giáo Mô-ha-mét là giáo
chủ, thánh kinh Cô Ran là giáo lý, tín đồ là giáo đoàn.
Trong lịch sử lâu dài
của tôn giáo không biết bao lần thịnh suy có thể nói từ khi có con người
thì nhu cầu và hiện tượng tôn giáo trong xã hội loài người cũng đồng thời
phát sanh. Có tôn giáo mang tính khu vực, có tôn giáo mang tính dân tộc
hay bộ lạc. Cũng lại có tôn giáo mang tính thời đại. Tất cả các tôn giáo
này điều bắt nguồn từ kinh nghiệm siêu hình của những cảm ứng đối với ma
quỷ. Trong xã hội cổ đại phương tây đều cho đó là ma quỷ và không cho phép
được truyền bá. Còn ở phương đông thì thường được nguỵ xưng là Phật giáo.
Thật ra đó là những tôn giáo mà theo quan điểm chánh thống của Phật giáo
gọi đó là ngoại đạo tà giáo. Những tôn giáo này thường không có căn bản lý
thuyết và chế độ tổ chức chu đáo nên thường hình thành rồi tan biến liên
tục trong lịch sử xã hội loài người.
Trong thời đại mở cửa,
đa nguyên của xã hội ngày nay càng có nghiều tôn giáo mới ra đời như măng
mọc sau cơn mưa, như các nước Âu Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Công, ngay
cả đến những nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam cũng có nhiều
tôn giáo mới ra đời, có mấy chục, đến mấy trăm, rồi trăm nghìn cho đến cả
hàng trăm triệu người theo, nhưng các tôn giáo này điều gặp một hiện tượng
là sẽ suy yếu và tan biến ngay sau khi vị sáng lập qua đời, sức hấp dẫn
của người đó không còn tồn tại nữa.
2
Lịch sử phát triển của Phật giáo
2.1
Phật
giáo phát sinh từ Ấn Độ
Phật giáo bắt nguồn từ
Ấn Độ. Phật giáo Ấn Độ phát triển qua ba thời kỳ.
2.1.1
Thời Phật còn tại thế và sau khi
diệt độ khoảng hai trăm (200) năm
Thời kỳ này gọi là thời
kỳ nguyên thuỷ của Phật giáo, đây là thời kỳ thuần nhất của Phật giáo. Đức
Phật phản đối việc cúng bái mê tín, phản đối việc sùng bái ngẫu tượng,
Ngài không chủ trương việc thần thánh hoá cá nhân mà chỉ dạy mọi người
thực hiện theo giáo pháp và tuân giữ giới luật. Ngài thường dạy các đệ tử,
ta không phải là người lãnh đạo, ta chỉ là một thành viên trong tăng đoàn
mà thôi. Đức Phật dùng những quan niệm và phương pháp bình đẳng, thiết
thực để giúp đỡ chúng sanh thoát khỏi những khổ não của thân tâm. Đối
tượng của kinh luật là con người, mục đích của kinh Phật là cứu độ con
người.
2.1.2
Thời kỳ sau Phật diệt độ khoảng
bốn trăm (400) năm
Tư tưởng Phật giáo dần
dần có sự biến đổi và mang tính khu vực. Ở Ấn Độ do khí hậu, ngôn ngữ và
dân tộc khác nhau nên quá trình truyền bá của Phật giáo trên phương diện
hình thái và tư tưởng cũng có nhiều thay đổi. Mỗi một vị thầy khi truyền
bá ở mỗi khu vực khác nhau, vì để thích ứng với nhu cầu của đại chúng cùng
xã hội đương thời nên sinh ra những khác biệt trên phương diện hình thức
cùng tư tưởng nên thời kỳ này còn gọi là thời kỳ bộ phái Phật giáo. Thời
kỳ bộ phái Phật giáo chú trọng nhiều đến việc chỉnh lý, lý luận và biện
minh của quan niệm có xu hướng coi trọng việc giải thoát của cá nhân. Do
vậy mà sau này xu hướng Đại thừa gọi bộ phái Phật giáo này là Tiểu thừa.
Nhưng bộ phái Phật giáo có hai bộ phận lớn là.
- Thượng toạ
bộ nhiều tư tưởng
bảo thủ
- Đại chúng bộ nhiều tư
tưởng cởi mở hơn
Theo quan điểm của Tiểu
thừa là cổ xe nhỏ chú trọng nhiều đến tư tưởng tự độ hơn độ tha. Ngày nay
không nên dùng danh từ này mà nên gọi là Nam truyền hay Nam Tông.
Đại thừa Phật giáo (theo
cách gọi trước đây) hình thành sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn từ năm trăm
(500) đến một ngàn (1000) năm. Đề xướng tinh thần Bồ-tát-đạo vì lợi ích
của quản đại chúng sanh, vì thành tựu Phật đạo phát Bồ-đề-tâm. Đại bồ đề
tâm là tâm nguyện “Nguyện độ chúng sanh đồng ly khổ nạn, không vì sự an
lạc của tự thân” đó chính là tinh thần “vì mọi người”. Đại thừa Phật giáo
(nay nên gọi là Bắc tông, hay Bắc truyền) ở Ấn Độ chia thành ba phái là.
- Y cứ tư tưởng Bát Nhã
gọi là Trung Quán học phái
- Y cứ tư tưởng Duy
thức gọi là Du Già học phái
- Y cứ tư tưởng Duy
tâm gọi là Như Lai Tạng học phái
Ba học phái này quy thành hai phái chính là:
- Tư tưởng tánh không
gọi là phái Trung Quán
- Tư tưởng hữu, có Duy
thức và Duy tâm, Duy thức là Du Già phái, còn Duy tâm là Như Lai Tạng
phái
2.2
Phật giáo từ Ấn Độ truyền lên
phương bắc
Phật giáo từ Ấn Độ
truyền sang phương bắc chia làm hai hệ thống đó là: vùng văn hoá dân tộc
Hán ở Trung Nguyên Trung Quốc và vùng văn hoá dân tộc Tây Tạng, Mông Cổ
vùng biên cương Trung Quốc. Phật giáo truyền đến Trung Quốc vào khoảng năm
sáu trăm mười bảy (617) tây lịch. Do hai vị Tăng Ấn Độ là Ca Diếp Ma Đà và
Trúc Pháp Lan dùng ngựa trắng chở kinh đến Lạc Dương. Bộ kinh đầu tiên
được dịch sang hán văn là bộ kinh “Tứ Thập Nhị Chương”. Kinh điển chữ hán
trải qua quá trình phiên dịch trước tác hơn một ngàn năm đã hình thành nên
Phật giáo của người Hán Trung Quốc. Rồi từ đó Phật giáo Trung Quốc truyền
sang các nước lân cận, đầu tiên hết là Hàn Quốc, rồi từ Hàn Quốc truyền
sang Nhật Bản, người Nhật sau khi được Phật giáo truyền từ Hàn Quốc sang
đã phái nhiều Du học sinh sang Trung Quốc học đạo cầu pháp. Từ thời Tuỳ
Đường cho đến Tống Minh. Nhật Bản là nơi duy nhất đã có đủ tất cả tông
phái của Trung Quốc truyền sang. Trung Quốc trong thời kỳ pháp nạn, “Tam
Vũ Nhất Tông” nhiều kinh điển sau đó đã không còn nhưng đã được Phật giáo
Nhât Bản giữ gìn nguyên vẹn, đây là công đức không nhỏ. Ngoài Hàn Quốc,
Nhật Bản và Phật giáo Đại thừa Trung Quốc còn được truyền sang Việt Nam.
Phật giáo Trung Quốc có
mười tông phái gồm cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Tiểu thừa có hai tông phái:
Câu xá và Thành Thật tông. Sau này Câu xá tông xác nhập vào Duy thức tông.
Thành Thật tông nhập vào Tam Luận tông, nên chỉ còn lại là tám tông phái
Đại Thừa là Thiên Thai tông, Tam Luận tông, Hoa Nghiêm tông, Luật tông,
Tịnh Độ tông, Mật tông, Thiền tông và Pháp Tướng tông. Trong tám tông phái
này cho đến nay chỉ có Thiền và Tịnh Độ tông là phát triển mạnh nhất. Trên
thực tế đa phần các chùa ở Trung Quốc điều thuộc Thiền tông, nhưng chỉ tu
Thiền thôi mà không niệm Phật thời rất ít. Do đó đã hình thành nên pháp
môn Thiền Tịnh song tu.
Thiên Thai tông, Duy
thức tông, Hoa Nghiêm tông chuyên về nghiên cứu học vấn chùa viện và đồ
chúng rất ít. Tất cả những người xuất gia điều phải thọ giới, nhưng hiện
nay không có quy định là chỉ có chùa thuộc Luật tông mới được phép truyền
giới. Những vị xuất gia chỉ chuyên trì luật và học luật còn rất ít. Trước
năm 1949 ở Trung Quốc Đại Lục chùa thuộc Luật tông không còn nhiều chỉ có
vài chùa mà thôi.
Mật tông truyền vào
Trung Quốc vào đời nhà Đường, sau đó từ Trung Quốc truyền sang Nhật và từ
đó về sau Mật tông không còn có ở Trung Quốc nữa. Người Trung Quốc vì sao
không thích Mật tông? Có thể là do ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia cho
những quan niệm chú lực, thần lực gia trì trong Mật tông là những hiện
tượng dị thường nên trong khu vực văn hoá Hán ngữ Trung Quốc Mật tông
không thể thịnh hành được.
Đến thế kỷ thứ 7 một đợt
truyền bá nữa của Phật giáo Đạt thừa từ Ấn Độ truyền sang phương bắc, đầu
tiên hết truyền đến Tây Tạng, sau đó truyền sang Mông Cổ. Đây là Phật giáo
thuộc khu vực văn hoá Tạng Mông. Vào thời kỳ đó Mật tông đang rất thịnh
hành ở Ấn Độ, sau khi truyền vào Tây Tạng từ từ đã phù hợp với nhu cầu của
người dân Tây Tạng đồng thời kết hợp với Tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc
vùng núi Tây Tạng hình thành nên Mật tông Tây Tạng ngày nay. Mật tông vốn
là một nhánh của hệ thống Phật giáo Duy tâm ở Ấn Độ.
2.3
Phật giáo từ Ấn Độ truyền xuống
phương nam
Năm hai trăm bốn mươi
(240) trước Tây lịch Phật giáo từ Ấn Độ truyền xuống phía nam như Tích Lan,
Miến Điện, Thái Lan, một số nước Đông Nam Á khác như Lào, Cam Pu Chia,
Việt Nam. Phật giáo truyền xuống phương nam thuộc Thượng Toạ Bộ. Vì các
nước này vốn không có Tôn giáo cao cấp khác, cũng không có tư tưởng văn
hoá triết học lớn, nên khi Phật giáo truyền đến thời không có sự thay đổi
lớn, nên mang đậm nét màu sắc Nguyên thuỷ của Phật giáo hơn.
2.4
Phật giáo truyền sang Âu Mỹ và
khắp thế giới
Phật giáo đầu tiên được
truyền sang Âu Mỹ là hệ thống Phật giáo Nam truyền do các giáo sĩ và học
giả phương tây đã theo chân các thế lực chính trị đến các vùng đất thuộc
địa ở Tây Nam Á và Đông Nam Á, họ tiếp xúc với Phật giáo ở các nơi đó và
đem kinh điển Phật giáo dịch sang tiếng các nước Âu Mỹ như công trình
phiên dịch “Thế giới Phật giáo Thánh Điển” dịch từ kinh điển tiếng Pali
của Nam Truyền.
Thứ đến là Thiền của
Phật Giáo Nhật Bản được truyền sang Âu Mỹ. Phật giáo của Nhật Bản cũng có
nhiều tông phái, trong đó Tịnh Độ Chân tông và Nhựt Liên Tông đã trở thành
Tôn giáo riêng của Nhật Bản, duy chỉ có Thiền tông của Nhật Bản vẫn còn
giữ được phong cách của Phật giáo truyền từ Trung Quốc sang. Do vậy người
Âu Mỹ đã tiếp nhận Thiền của Nhật Bản. Người có công lao truyền bá Thiền
của Phật giáo Nhật Bản là Thiền Sư Suyuki lúc đầu Thiền Sư Suyuki đã giảng
về Thiền ở trường Đại học Co Lum Bia, sau đó tư tưởng Thiền của Ngài đã
được truyền bá ở Mỹ và Âu Châu. Dần Dần đã có nhiều vị Thiền Sư Nhật Bản
khác đến thành phố San-phan-xi-cô rồi đến miền Đông và hiện nay đã truyền
đến miền Trung và Tây nước Mỹ cũng như một số nước ở Âu Châu.
Thứ ba là Phật giáo Mật
tông Tây Tạng theo làn sóng di dân tị nạn của dân Tây Tạng sang Ấn Độ. Lúc
đó Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa theo mấy chục nghìn vị Lạt Ma trẻ tuổi đã được
giáo dục và đào tạo rất quy củ từ nội điển, pháp tu đến ngoại ngữ, sau đó
các vị này đã cùng dân Tây Tạng đến khắp các nước trên thế giới. Những vị
Lạt Ma này có năng lực thích ứng và khả năng truyền đạt rất lớn vì họ được
đào tạo rất kỷ càng và có hệ thống từ thấp đến cao, cả nội điển, ngoại
điển lẫn pháp tu. Rồi cùng với ảnh hưởng của Đức Đạt Lai Lạt Ma họ đã xây
dựng nên những Trung tâm Phật giáo Tây Tạng rất lớn trên khắp các nước Âu
Mỹ và đem Phật giáo truyền bá mạnh mẽ khắp các nước Phương Tây.
Một hệ thống truyền bá
Phật giáo ở Phương Tây nữa cũng phải đề cập đến là Phật giáo Việt Nam, sau
năm 1975 cho đến nay cũng đã có mặt ở hầu khắp các nước Âu Mỹ nơi có cộng
đồng người Việt Nam sinh sống.
3
Giáo nghĩa căn bản của Phật giáo
3.1
Phật giáo lấy Tam Bảo làm trung
tâm.
Tam Bảo chính là Phật,
Pháp, Tăng. Phật là Đức Thích Ca Mâu Ni tu hành trải qua vô lượng kiếp sau
thành Phật. Ngài đem quá trình tu tập, phương pháp tu tập giảng dạy đó
chính là pháp. Nhưng Phật chỉ có một không thể độ hết quảng đại chúng sanh,
hơn nữa sau khi Phật nhập diệt người đời sau muốn học Phật pháp phải nương
dựa vào chư Tăng. Tăng có Thánh Tăng và phàm phu Tăng. Những vị xuất gia
tu chứng đắc từ sơ quả trong Tứ Thánh trở lên và những bật chứng đắc từ sơ
địa Bồ-tát trở lên gọi là Thánh Tăng. Những vị xuất gia bình thường là
phàm phu Tăng. Trụ trì Phật pháp chủ yếu là phàm phu Tăng. Thánh Tăng xuất
hiện trong phàm phu Tăng, dùng thân tướng phàm phu Tăng để tiếp cận và hoá
đạo phàm nhân. Cho nên những bậc được tôn xưng là Bồ-tát, Phật hay Thánh
Tăng trong lịch sử nhân vật của Phật giáo điều do người đời sau, hay chúng
đệ tử tôn xưng họ chứ không phải những vị ấy tự tôn xưng mình là Phật, là
Bồ-tát, hay là Thánh Tăng. Như ở Ấn Độ các ngài Mã Minh, Long Thọ, Vô
Trước, Thế Thân điều được người đời sau gọi là Bồ-tát, hay như ở Trung
Quốc ngài Trí Giả Đại Sư tông Thiên Thai, người đời sau gọi Ngài là Đông
Độ Tiểu Thích Ca, nhưng Ngài vẫn nói Ngài là người phàm phu lục căn chưa
thanh tịnh. Hay Thiền Sư Vĩnh Minh Diên Thọ được người sau gọi là Di Đà
tái thế, vì Ngài sinh vào ngày 17 tháng 11, nhưng Ngài chưa từng nói mình
là Phật Di Đà. Trong Phật giáo những vị tự xưng mình là Thánh Nhân, là
Phật thì chắc chắn rằng người này đang có vấn đề.
3.2
Phật giáo lấy Tứ Thánh Đế làm căn
bản
Tứ Thánh Đế là sự thật
của khổ, nguyên nhân của khổ, phương pháp diệt khổ và kết quả đạt được sau
khi đã diệt trừ được khổ. Cuộc sống của con người từ khi sinh ra đến lúc
chết, có khổ có vui, nhưng vui chỉ là sự trả giá của khổ đau cũng chính là
sự bắt đầu của khổ. Cái gọi là “khổ tận cam lai”, “lương tiêu khổ đoạn” là
nói rõ bản chất của vui là từ khổ đau cả, là lấy khổ đau để đánh đổi niềm
vui, vui ở đời không gì là vĩnh cữu cả. Đạo Phật gọi đó là hoại khổ, còn
sanh lão bệnh tử là khổ khổ. Sự thật của đời người là kết quả của khổ đau.
Khổ có nhiều loại. Khổ khổ có tám là sanh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, cầu
bất đắc, oán tắn hội khổ và ngũ ấm xí thạnh khổ. Ngũ ấm xí thạnh là sự hổ
tương giao bức giữa thân với tâm, nên có sự liên tục của sanh tử.
Tập là nguyên nhân của
khổ vì không hiểu vạn pháp là do duyên giả hợp nên ghét khổ ham vui, cầu
được vui rồi thì lại cầu an toàn nhưng vĩnh viễn không cảm thấy an toàn đó
chính là cầu mãi không chán. Mê muội cho rằng tiền là tất cả nên “vùi đầu
vùi cổ” lo kiến tiền. Có tiền rồi thì không dám sài, làm nô lệ cho đồng
tiền, còn không tiền thì lo đi kiếm… Tất cả điều là nguyên nhân của khổ
đau. Đời này vì ghét khổ cầu vui mà tạo bao ác nghiệp như sát sanh, trộm
cắp, tà dâm, vọng ngữ. Các nghiệp do duyên kết hợp mà sinh bao quả báo.
Thiện có thiện báo, ác có ác báo tất cả đều là nguyên nhân của khổ đau.
Phương pháp căn bản của
diệt khổ là Bát Chánh Đạo. Muốn diệt khổ cần tu chánh đạo, muốn tu được
chánh đạo thì phải có chánh tri kiến, tin tưởng sâu sắc rằng tất cả hiện
tượng ở đời đều sanh ra từ lý nhân quả, tư duy rằng tất cả vạn pháp trên
thế gian này đều do nhân duyên tụ hội mà thành. Nếu hiểu và tin tưởng vào
nhân quả thì không tham và không trốn tránh trách nhiệm vì biết rằng muốn
lìa khổ được vui điều quan trọng là phải dựa vào sự nổ lực của tự thân.
Nếu hiểu rõ vạn pháp ở đời đều do duyên sanh nên vô thường thì thắng không
kiêu, bại không nản, thành công là do nhiều người giúp sức và do các duyên
tụ hội. Hơn nữa việc đã thành tựu rồi cũng sẽ đổi thay theo thời tiết nhân
duyên. Tóm lại tin nhân quả, rõ nhân duyên chính là chánh tri, chánh kiến
và chánh tư duy vậy. Sau khi đã có chánh tri, chánh kiến rồi cần phải tu
hành chính xác nữa. Một là có nghề nghiệp chánh đáng không làm những nghề
liên hệ đến sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ và rượu cùng các chất gây
nghiện. Cần có lối sống chánh đáng không mê tham trong ăn chơi, cờ bạc,
hút sách. Lại cần có ngôn ngữ hành vi chánh đáng không nói dối, không nói
hai lưỡi, không nói lời ác và không nói thêm thắt. Ngoài ra còn cần tinh
tấn trì giới, tin tấn tu tập và thiền định cùng nổ lực cần cầu trí tuệ.
Sống theo tinh thần Bồ-tát hạnh làm việc lợi mình lợi người. Giữ gìn giới
luật, tu tập thiền định giữ cho thân tâm luôn trong trạng thái quân bình
thì tín tâm mới kiên cố, nổ lực tụng kinh bái sám, nghe pháp rồi như pháp
tu trì thì sẽ khai phát trí tuệ, có được trí tuệ thì sẽ diệt được khổ đau.
Kết quả của sự diệt khổ
là giải thoát được hết thảy phiền não buộc ràng, lìa được sinh tử luân hồi.
Ở trong đời thường làm việc lợi đời lợi đạo mà không bị phiền não ràng
buộc và chi phối chính là ở trong Đại Niết Bàn vậy.
4
Đặc điểm của Phật giáo
4.1
Hàm dung nhưng có lớp
lang
Phật
giáo lấy giáo pháp làm phương tiện cứu tế, không phải lấy người hay thần
làm pháp cứu tế. Đối với hết thảy các pháp ở thế gian Phật pháp không hề
biên chấp nên là pháp vô ngã, từ bi và trí tuệ. Do vậy hết thảy các thiện
pháp ở đời đều là Phật pháp. Bất luận là kỷ thuật, tri thức, triết học hay
tôn giáo nếu có lợi ích cho cuộc sống, nhân tâm và xã hội Phật giáo đều
không bài xích nên Phật giáo hàm dung hết thảy mọi thiện pháp ở thế gian.
Phật
giáo phân thiện pháp thành năm tầng thứ là Nhân, Thiên, Thanh Văn, Duyên
Giác và Bồ-tát. Người là chỉ cho việc hoàn mỹ đầy đủ nhân cách, làm tròn
trách nhiệm và nghĩa vụ. Đây là điều kiện cơ bản nhất, nếu trên điều kiện
căn bản này biết tu hành hạnh bố thí lợi tha nữa thì tốt đẹp vô cùng. Làm
thiện chính là “Cùng tắc độc thiện kỳ thân, Đạt tắc kiêm thiện thiên
hạ„.Độc thiện là thiện pháp của Người, Kiêm thiện là thiện pháp của Trời.
Đẩy đủ tiêu chuẩn trời người lại biết tu tập trí tuệ và thiền định thời sẽ
đạt quả vị giải thoát Niết Bàn. Đó là tầng thứ của Thanh Văn và Duyên
Giác. Lấy thiện pháp của trời người làm nền tảng rồi phát Bồ-đề-tâm nổ lực
tin tấn không ngừng vì lợi ích của tha nhân, không màng đáp trả chỉ vì
chúng sanh mà cống hiến và phục vụ là tầng bậc của địa vị Bồ-tát tự giác
giác tha. Trên nền tảng của bốn tầng thứ trên nếu đạt được cảnh giới
không, vô tướng, vô nguyện thời chính là Phật.
4.2
Chánh tín mà không mê
tín
Đặc
trưng của mê tín là sùng bái một cách mê muội, không hợp tình hợp lý, như
thật nhưng là giả, chánh tà không phân.
4.2.1
Sùng bái một cách mê
muội
Chính là
người ta vậy nên mình cũng vậy, nghe người nào đó có thần thông thì liền
tin theo mà không hề suy sét rỏ ràng. Như người xưa có nói: „Tìm lưu manh
hơn cảnh sát“ lưu manh có lúc cũng giúp được ta điều gì đó nhưng di chứng
khó lường.
4.2.2
Không hợp tình hợp lý
Là không
hợp với định luật nhân quả như tin tưởng rằng: „Lúa không nước trời không
lớn, người không hoành tài không giàu“. Nên làm những nghề đầu cơ tích
trữ, cho vay nặng lãi kiếm tiền không phù hợp với lý nhân quả thời chắc
rằng hậu quả sẽ khó lường, có thể sẽ „thân bại danh liệt“, „tán gia bại
sản“, „cửa mất nhà tan“. Lại như tin vào bùa chú, đồng cốt cầu phát tài
đánh đề trúng số nhưng của đến mau thì cũng đi mau. Hoặc tham ô, móc
ngoặc, hối lộ, hà hiếp lấy của dân, của nước đều là không hợp tình, hợp
lý. Bất luận là dựa vào sức mạnh của thần linh, sức mạnh của ma quỷ, ô dù
của con người đều không phù hợp với lý nhân quả và là trạng thái của mê
tín.
4.2.3
Như thật mà giả
Là chỉ
tất cả mọi tôn giáo đều có đạo lý riêng, như dựa vào sức mạnh của thần
linh, hay sức mạnh của sự gia trì, chỉ cần tin theo, làm theo thời sẽ linh
sẽ nghiệm có thể thành Phật, có thể lập tức khai ngộ hoặc sẽ trừ được
bệnh, tiêu được tai. Đưa ra những lý luận hoang đường, như thật như giả,
không hề nói rõ nguyên nhân. Những tôn giáo như thế cần thận trọng chớ vội
tin vì hậu hoạn khó lường.
4.2.4
Tà chánh bất phân
Là sự mê
tín do quỷ thần tạo ra, quỷ thần thường dựa đồng cốt để khuyên người, dụ
người mới nghe như thiện nhưng khi đã tin theo rồi thì: „thuận chi giả
xương, nghịch chi giả vong„ vừa uy hiếp vừa dẫn dụ để phải tin theo vì lo
sợ và phải thuần phục mãi nếu rời bỏ thì bản thân, gia đình hay sự nghiệp
sẽ gặp chướng nạn. Tiêu chuẩn thị phi của họ không giống với đời thường,
quan điểm nhân quả của họ thời mê mờ không rõ.
Chánh
tín của Phật giáo là lấy Phật, Pháp, Tăng làm đối tượng để tín ngưỡng. Tin
Phật không có nghĩa là sùng bái xác thân của Phật mà là tôn kính trí tuệ,
từ bi và ân đức mà Đức Phật đã dành cho chúng ta. Tin vào giáo pháp của
Phật đà nếu chúng ta thực hành theo thì sẽ đạt đến mục tiêu tự lợi lợi
tha. Khi Đức Thế Tôn nhập diệt chúng đệ tử bạch hỏi: „Sau khi Phật diệt độ
chúng con lấy ai làm Thầy“ Phật dạy: „Chúng đệ tử lấy pháp làm Thầy, lấy
giới làm Thầy“ . Dựa vào chánh pháp của Phật đã dạy xây dựng tín tâm, như
pháp tu hành thì đạt được giải thoát chứng Bồ-đề. Tin vào giáo đoàn Tăng
Ni đệ tử Phật được truyền thừa từ đời này sang đời khác. Khi thọ giới thì
Tăng đại diện cho Tam Bảo trụ trì Phật pháp. Lấy Tam Bảo làm đối tượng tín
ngưỡng không có nghĩa là thần thánh hoá các vị xuất gia. Các vị xuất gia
tuy chưa thành Phật, chưa chứng ngộ nhưng lấy pháp làm Thầy, sống trong
giới luật, cần tu định tuệ và hướng dẫn quần chúng tu tập nên hình tướng
xuất gia của quý vị là biểu trưng cho sự thanh tịnh ly dục của Phật giáo
chúng ta.
Chánh
tín Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo thiếu một không được. Nếu chỉ tin Phật mà
không tin pháp, không tin Tăng thì chẳng khác gì tin quỷ thần. Nếu chỉ tin
pháp, không tin Phật, không tin Tăng thì khác gì đãy đựng sách. Nếu chỉ
tin Tăng, không tin Phật, không tin pháp thì khác chi việc nhận cha mẹ
nuôi. Phải tin đủ Phật Pháp Tăng Tam Bảo thì mới là chánh tín Phật giáo.
4.3
Thần thánh mà không
thần bí
Thần bí
là cao vời vợi không với tới được nhưng vẫn cảm nhận được uy lực của vị ấy
có thể khống chế mình ở mọi nơi nhưng không biết rõ được là họ đang ở đâu.
Tuỳ lúc mà họ có thể cho mình sự giúp đỡ nhưng không biết vì lý do gì, có
thể trừng phạt mình bất kỳ lúc nào nhưng tìm chẳng thấy họ đâu. Thường
biểu hiện những năng lực phi thường nhưng chưa chắc là có ích cho chúng
ta. Tất cả những biểu hiện này có thể là do con người dùng kỷ xảo tạo ra,
cũng có thể là do sự phản ứng không bình thường của tâm lý chúng ta, cũng
có cái do linh lực của quỷ thần.
Phật
Pháp Tăng Tam Bảo là Thần Thánh, vì Phật là người có trí tuệ, lòng từ bi
và nhân cách cứu cánh viên mãn. Pháp là phương pháp và đạo lý để đoạn trừ
phiền não chứng Bồ-đề. Tăng là những bậc tu hành trên cầu vô thượng chánh
giác, dưới hoá độ vô biên chúng sinh. Tam Bảo trong Đạo Phật không phải
bất kỳ tôn giáo nào cũng có thể có được nên thần thánh không thể nghỉ bàn
nhưng không phải là thần bí của quỷ thần. Người theo đạo Phật phải phát
tâm vô thượng Bồ-đề học Phật, tu pháp, hành Bồ-tát đạo, dùng Phật pháp
giúp chúng sanh đoạn trừ việc ác đã sanh, ngăn ngừa việc ác chưa sanh là
khiến cho chúng sanh sớm lìa khổ. Lại làm cho chúng sanh tăng trưởng những
điều thiện đã phát sinh, phát triển những điều thiện chưa sanh, đó chính
là khiến cho chúng sinh sớm được an lạc. Không cầu an lạc cho bản thân chỉ
mong cho chúng sanh được an lạc là tâm Bồ-đề vô ngã, không cần phải dùng
hình tướng của Bồ-tát hay hoá Phật để dạy bảo chúng sinh mà dùng hình
tướng chúng sinh đặng khuyến hoá họ. Thần Thánh mà không thần bí là vậy.
5
Sự khác biệt giữa Phật
giáo và phi Phật giáo
5.1
Hữu thần và vô thần
Phật
gíao là tôn giáo vô thần luận nhưng không phải là duy vật luận. Phật giáo
chủ trương hết thảy mọi hiện tượng ở đời đều do nhân duyên sinh khởi và
huỷ diệt. Sự hình thành của thế giới chúng ta đang sống là do sự chiêu cảm
của tất cả các nghiệp báo của những chúng sinh được sinh ra trong thế giới
này tạo ra từ nhiều đời kiếp. Được gọi là „ nghiệp quả“ hay „nghiệp báo
thể“. Cùng chung một hoàn cảnh là do cộng nghiệp sở cảm, còn thân tâm và
hoàn cảnh riêng là do sở cảm của biệt nghiệp tạo ra. Tất cả đều do chúng
sinh tự tạo mà không do thần thánh dựng lên, nên là tôn giáo vô thần luận.
Nhưng Phật giáo không phủ nhận sự hiện hữu của quỷ thần. Chỉ khác là Phật
giáo xem những quỷ thần ấy cũng là một loại chúng sinh mà không phải là
chủ tể của vũ trụ.
Ngoại
trừ Phật giáo ra các tôn giáo khác đều là tôn giáo thần luận gồm ba dạng.
5.1.1
Tín ngưỡng nguyên thuỷ
đa thần
Cho rằng
mọi hiện tượng trong vũ trụ đều do những vị thần khác nhau nắm giữ như
thần núi, thần sông, thần biển, thần cây, thần cỏ, thần bếp núc, thần nhà
cửa... Tất cả mọi sự vật hiện tượng đều do thần linh chi phối, các vị thần
này không phụ thuộc nhau và không có lãnh tụ.
5.1.2
Hình thức tín ngưỡng
đa thần trung ương tập quyền
Nghĩa là
sẽ có một vị thần đứng trên thống nhiếp tất cả các thần khác như đạo Giáo
của Trung Quốc có Nguyên Thuỷ Thiên Tôn chính là Ngọc Hoàng Thượng Đế hay
Bà La Môn giáo của Ấn Độ có Phạm Thiên.
5.1.3
Tôn giáo duy nhất thần
luận
Tin rằng
vị thần mà mình đang tin theo là người duy nhất có khả năng sáng tạo và
huỷ diệt vũ trụ, là Đấng sáng thế, là vị Chúa tể của muôn loài, còn tất cả
những vị thần khác đều là ma quỷ như niềm tin của Do Thái giáo, Cơ Đốc
giáo (Thiên Chúa giáo, Tin Lành), Hồi giáo.
5.2
Sự khác biệt giữa tịnh
hoá với thần hoá và tục hoá
Thần hoá
là đặc trưng của tất cả các tôn giáo ngoại trừ Phật giáo. Họ tin tưởng
rằng có Đấng bậc thần linh nắm giữ chi phối mọi hoạ phúc ở đời và người
tín đồ đem cả vận mạng của mình giao phó cho bậc thần thánh đó. Có tôn
giáo tin rằng thần của họ có năng lực toàn năng có thể cho họ lên thiên
đàng và cũng có thể đày họ xuống địa ngục, không phải do làm thiện được
lên thiên đàng hay tạo tội đoạ đường ác, mà được xét duyệt trên căn bản có
tuyệt đối tin và phục tùng theo vị thần đó hay không. Người tin theo thì
được sanh lên trời, người không tin theo thì đắc tội và sẽ bị đoạ vào địa
ngục. Lại có tôn giáo cho rằng dựa vào sức mạnh và sự gia trì của thần
linh thì sẽ tu luyện thành Thần, thành Phật. Tất cả những tôn giáo này có
thể giải quyết một phần nào những vấn đề trước mắt còn những vấn đề phát
sinh sau đó hay vấn đề cơ bản nhất thì không thể giải quyết được.
Tín
ngưỡng tục hoá là lấy việc cúng lễ để lấy lòng thần linh đặng thần linh
ban giáng cho những tài lợi mà mình cầu mong ở trên đời. Như cúng thần tài
cầu phát tài, lạy Mẹ Sanh Mẹ Độ, Chú Sanh Nương Nương cầu con cái, tin Mã
Tổ Thiên Hậu để thần biển độ đi biển bình an, bói toán cầu Hoàng Thạch
Công, lạy Thổ Địa cầu trúng số, ngày lễ tết cúng vái tổ tiên, thần đình
cầu gia hộ cho con cái bình an tất cả đều là tín ngưỡng tục hoá.
Phật
giáo không phủ nhận lợi ích nhất định của tín ngưỡng tục hoá hay tôn giáo
thần hoá nhưng nhấn mạnh và khẳng định lợi ích to lớn hơn của Phật giáo là
tịnh hoá thế đạo nhân tâm. Phật giáo lấy Tam Bảo Phật Pháp Tăng để hoá đạo
thế gian, lấy ngũ giới để tịnh hoá hành vi ngôn ngữ của chúng sanh. Lại
lấy công phu thiền định để tịnh hoá hành vi tâm lý. Phật giáo càng chủ
trương lấy trí tuệ để xử lý mình và làm lợi ích cho người. Nếu y theo giáo
lý Phật giáo để tu tập thì với bản thân sẽ được thân tâm yên ổn, đối với
tha nhân thì gia đình an vui hoà thuận, xã hội ổn định. Sự tịnh hoá trong
Phật giáo dung nhiếp cả công năng của thần hoá cùng sức mạnh của tục hoá
nhưng không vì thế mà tạo nên sự trói buộc cho bản thân hay làm mất quân
bình trong xã hội.
6
Phương pháp tu tập cơ
bản
Công
năng hoá độ nhân gian của Phật gíao là lấy Phật pháp để tịnh hoá nhân
gian, nâng cao nhân phẩm làm cho chúng sanh sống đời này an lạc, đời sau
cũng an lạc. Làm sao để đạt được đều này. Muốn như vậy chỉ có một phương
thức duy nhất là thực hành tu tập theo giáo lý mà Đức Phật đã dạy.
Phương
pháp tu tập căn bản không ngoài phước nghiệp, định nghiệp và tuệ nghiệp.
Phước
nghiệp là bố thí, trì giới. Định nghiệp là thiền định. Tuệ nghiệp là chỉ
cho trí tuệ. Công đức của việc tu tập bố thí, trì giới sẽ được phước báo
nhân thiên rồi từ đó có thể thành tựu Phật quả. Nên Phật là người đã viên
mãn cả phước lẫn trí. Công đức của việc tu tập thiền định làm cho đời sống
hiện tại của chúng ta có được cuộc sống mạnh khoẻ về sinh lý và thăng bằng
trong tâm lý, đời sau sanh vào cõi trời Thiền Thiên, Phạm Thiên tiến đến
thành tựu Phật quả. Cảnh giới thiền định của Phật là cao nhất nên Chư Phật
có công lực „thường trụ tại định, vô hữu bất định thời“. Có được thâm định
đại định thì mới có được đại từ bi và đại trí tuệ. Công đức tu tập trí tuệ
làm cho cuộc sống thực tại biết sống thiểu dục tri túc, ít phiền não lìa
khổ được giải thoát. Cuối cùng dùng đại trí thâm tuệ độ vô lượng chúng
sinh.
6.1
Tu bố thí như thế nào
Con
người vì muốn bảo đảm cuộc sống và giữ cho sinh mạng được an toàn nên luôn
có quan niệm cùng thói quen để dành tích trữ. Phương pháp để dành có hai
là hữu hạn và vô hạn. Hữu hạn thì đem gởi vào ngân hàng còn vô hạn là đem
tiền tài gởi vào trong xã hội. Hữu hạn để dành là nhằm bảo đảm cho cuộc
sống của cá nhân và gia đình. Còn vô hạn để dành là bảo đảm cho cuộc sống
của toàn xã hội. Cá nhân luôn gắn chặt với tập thể nên cả hai loại để dành
này đều có lợi ích cho bản thân. Để dành về mặt thời gian cũng có hai cách
là để dành cho đời này và để dành cho cuộc sống dài lâu ở tương lai. Để
dành cho đời này là nhằm cho cuộc sống hiện tại của chúng ta, còn để dành
dài lâu là nhằm cho cuộc sống nhiều đời ở tương lai. Gởi tiền ở ngân hàng,
hay làm việc phúc lợi cho xã hội chúng ta có thể nhìn thấy được nên nó
thuộc về sự để dành cho lợi ích của cuộc sống hiện tại. Hoằng dương Phật
pháp, hộ trì Tam Bảo, dùng Phật pháp để cứu giúp nhân tâm là sự để dành vô
tận, vì một truyền mười, mười truyền trăm, cứ vậy nhân lên đưa ánh đạo vào
trong cuộc đời, làm lợi ích cho hiện tại và cho tương lai nhiều đời sau
nữa. Nên chỉ cần Phật pháp truyền đến đâu và chừng nào Phật pháp còn lưu
bố thì công đức cũng theo đó được lưu giữ nên đó là sự để dành vĩnh hằng
nhất. Chúng ta phải nổ lực để dành „chất cát thành tháp“, „nước chảy đá
mòn“, „tích thiểu thành đa“. Mỗi ngày một chút dùng vật lực, trí lực, thể
lực và tâm lực không ngừng tu tập công đức bố thí. Bố thí vì cuộc sống
trước mắt, lại càng bố thí vì cuộc sống tương lai, công đức bố thí rất dễ
tu tập tuỳ sức, tuỳ tâm. Bố thí giúp người nghèo, người bệnh công đức đã
lớn. Hộ trì Phật pháp, bồi dưỡng Tăng tài hoằng dương Phật pháp công đức
càng lớn hơn nhiều.
6.2
Tu trì giới như thế
nào
Mục đích
của trì giới là sửa sai thành tốt. Sửa sai là không tạo các nghiệp ác nên
đạt được quả ly khổ. Xây dựng cái tốt là nổ lực làm các nghiệp thiện nên
đạt được quả hạnh phúc. Nếu cầu lìa khổ được vui mà không dốc sức để sửa
sai thành tốt thì không hợp với quy luật nhân quả.
Phật
giáo dạy người giữ giới nội dung có hai tầng thứ một là tự lợi, tự bảo như
ngũ giới hai là làm lợi lạc chúng sinh như tứ chánh cần.
Không
sát sanh chủ yếu là không giết người.
Không
trộm cắp là không lấy vật phi pháp không nhận của phi nghĩa.
Không tà
dâm chủ yếu là không làm mất trật tự xã hội, không hợp luân lý, không phá
hoại gia phong, không phung phí sức khoẻ.
Không
vọng ngữ chủ yếu là không dùng lời nói để làm hại kẻ khác.
Không
uống rượu gồm cả chất gây nghiện vì sẽ đánh mất năng lực tự chế của bản
thân dẫn đến việc phá giới phạm tội.
Bốn loại
tinh tấn là tứ chánh cần khuyến hoá người bỏ các việc ác, làm các việc
lành. „Chư ác
mạt tác, chúng thiện phụng hành“.
Chấm dứt các đều ác đã làm, ngăn ngừa các đều ác chưa làm, tăng trưởng các
điều thiện đã có, phát sinh những điều thiện chưa sanh. Nổ lực không giải
đãi thực hiện bốn pháp tinh tấn này. Không làm các điều ác, ngăn trừ các điều
ác chưa sanh là bạt khổ cho chúng sanh. Tăng trưởng các điều thiện đã làm,
phát khởi những điều thiện chưa sanh là đem hạnh phúc ban vui cho chúng
sinh. Bạt khổ ban vui là dùng đại bi tâm hành Bồ-tát-hạnh, lấy bố thí để
cảm hoá rồi hướng dẫn chúng sinh tu tập tứ chánh cần.
6.3
Tu thiền định như thế
nào
Ý nghĩa của thiền định là tâm
vô nhị niệm. Khi mới bắt đầu cần có phương pháp. Phương pháp sẽ giúp tâm
niệm từ trạng thái tán loạn đi đến trạng thái tập trung, từ tập trung đi
đến trạng thái thống nhất, đạt được trạng thái thống nhất tức là đạt được
định. Nhưng trạng thái thống nhất cũng có nhiều tầng thứ khác nhau : từ
thân tâm thống nhất đến nội tâm và ngoại cảnh thống nhất, tiến hơn là niệm
trước niệm sau thống nhất. Muốn đạt đến chỗ niệm trước và niệm sau thống
nhất cần phải trải qua quá trình niệm trước và niệm sau nối nhau như mắt
xích, một niệm gắn một niệm, niệm niệm đồng nhất niệm rồi sau đó mới đến
chỗ triệt tiêu khoảng cách giữa niệm trước và niệm sau chỉ còn lại sự tồn
tại của nhất niệm. Lúc đó tức là: „chỉ ư nhất niệm“ tên gọi là định. Nếu
đạt đến chỗ nhất niệm cũng không còn tức là tức định tức huệ.
Khi mới
tu thiền có thể có nhiều phương pháp, lễ bái, tụng kinh, niệm Phật, trì
chú, kinh hành... đều nhằm mục đích an tâm, thanh tâm và tịnh tâm. tất cả
phương pháp tu tập để làm cho thân tâm thăng bằng đều là công hiệu của định.
Nếu không có bậc thiền sư chỉ dạy thời có thể dựa vào những phương pháp
trên để tu tập thiền định vì đều đúng với giáo lý Phật nhưng đây là phương
pháp tán tâm tu định.
Nếu gặp
được bậc Thầy có kinh nghiệm thiền định lại có chánh tri, chánh kiến của
Phật pháp thì phải theo để tu học phương pháp chuyên tâm tu định đó là
pháp thiền quán, pháp chỉ quán hay gọi là pháp tham thiền.
Phương
pháp thiền quán không thể lìa ba nguyên tắc là tư thế điều thân, điều tức
hơi thở và điều tâm chuyên chú. Yêu cầu căn bản là thả lỏng cơ bắp của
thân thể đến thần kinh. Tư thế chính xác là nguyên tắc đoan chánh nhẹ
nhàng trong cả bốn tư thế đi, đứng, nằm, ngồi. Hít thở chính xác trên
nguyên tắc giữ nhịp thở theo tốc độ bình thường. Chuyên chú chính xác là
giữ nguyên tắc làm đúng phương pháp không để ý đến việc đạt được điều gì
hay không. Nếu móng tâm mong muốn mau đạt được điều gì thì rất dễ đi lạc
vào ma cảnh. Cần phải có tâm lý chuẩn bị là sẽ „ gặp Phật chém Phật, gặp
ma chém ma” thì mới an toàn. Ý nghĩa của „gặp Phật chém Phật, gặp ma chém
ma” là bất luận có được cảm giác vui hay cảnh tượng lo sợ đều phải xem đó
là huyễn cảnh huyễn giác. Nếu không khi gặp ác cảnh sẽ thối tâm, thậm chí
còn huỷ báng Tam Bảo vì cho rằng tu tập mà không được quả báo tốt. Còn nếu
gặp thiện cảnh thì sanh tâm kiêu mạn cho rằng đã được thần thông chứng được
Thánh quả thành Phật rồi. Thật đáng thương thay cho tâm niệm sai lạc này.
6.4
Lễ bái và tụng niệm
Lễ bái
liên quan đến chấp tay và cách lễ như thế nào cho đúng phương pháp. Vì sao
lễ bái? người mới vào đạo có hữu cầu lễ bái và hữu tướng lễ bái. Cầu bình
an, cầu trí huệ, cầu hạnh phúc là tâm thái bình thường. Hữu tướng lễ bái
tức là có đối tượng, có mục đích trước Phật, Bồ tát Thánh tượng hay kinh điển
mỗi ngày đúng giờ, đủ số lễ lạy, cầu tiêu nghiệp chướng, trừ phiền não. Tu
tập lâu ngày tự sẽ hiểu rằng vô cầu, vô tướng mới là mục tiêu cứu cánh nên
mỗi ngày lễ lạy như việc bình thường.
Đọc tụng
kinh Phật phải xem thời gian, các bộ kinh thường đọc tụng là Tâm kinh, Phổ
Môn Phẩm, kinh A Di Đà, kinh Kim Cang, kinh Dược Sư, kinh Địa Tạng, kinh
Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm. Tụng kinh có thể không cần chuông mõ hoặc dùng
chuông mõ. Tốt nhất là nên chuyên nhất tụng một bộ kinh nhất định và phát
tâm trong khoảng thời gian nào đó đọc tụng bao nhiêu biến, không nên nay đọc
kinh này, mai đọc kinh khác, khi tụng kinh cần đọc rõ âm từng chữ mà chưa
cần phải hiểu rõ nghĩa của từng chữ trong kinh. Chỉ khi xem kinh mới cần
hiễu rõ nghĩa. Ngoài những kinh thường tụng trên nếu có khả năng có thể
xem thêm những kinh luận khác như : kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng
Thọ, kinh Lăng Nghiêm, kinh Viên Giác, kinh Thắng Man, kinh Duy Ma, kinh
Lăng Già, kinh Giải Thâm Mật, kinh Đại Bát Nhã, kinh Tạp A Hàm, kinh Tăng
Nhất A Hàm, kinh Trung A Hàm, kinh Trường A Hàm, luận Đại Thừa Khởi Tín,
luận Bảo Tánh, luận Câu Xá, luận Du Già Sư Địa, Trung luận, luận Đại Trí
Độ, Lục Tổ Đàn Kinh
6.5
Niệm Phật và trì chú
Niệm
Phật và trì chú vốn là một trong những phương pháp tu định. Sau khi Tịnh
Độ tông và Mật tông trở thành những tông phái độc lập mới có sự tách biệt
nếu đứng trên lập trường chỉnh thể của Phật giáo mà nhìn thì cả ba hổ tương
với nhau. Niệm Phật là chỉ chung cho niệm tất cả danh hiệu của các đức
Phật, chư vị Bồ Tát chứ không phải chỉ riêng cho niệm Phật A Di Đà thôi.
Niệm Phật có hai cách là tán tâm niệm Phật và chuyên tâm niệm Phật. Tán
tâm niệm Phật là bất cứ ở đâu, bất kỳ lúc nào cũng có thể niệm, niệm ra tiếng
hoặc niệm thầm trong tâm, thậm chí vừa nói chuyện vừa vẫn có thể niệm Phật.
Chuyên tâm niệm tức là có thời khoá nhất định, bằng các phương cách như
liên tục niệm, cao giọng niệm hoặc tự thinh kỳ niệm. Ấn Quang Đại Sư
khuyên nên dùng phương thức “số số niệm ” chứ không phải là “ký số niệm ”.
Ký số niệm tức là dùng tràng hạt để tính số niệm Phật. Số số niệm là niệm
từ một đến mười xong lại tính lại từ một. Nếu được như thế sẽ dễ đạt đến
chuyên tâm hơn. Nếu muốn niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn phải dùng phương
pháp chuyên tâm niệm thì mới đạt được.
Nhiều người
cho rằng hể trì chú tức là tu mật pháp, thật ra không phải như vậy vì mật
pháp chính quy là phải do Thượng Sư truyền trao cho, phải có pháp tu đúng
nghi quỷ, còn trì chú thông thường thì cũng giống như trì danh niệm Phật
vậy. Pháp trì chú là miệng đọc, tai nghe, tâm tư duy, thân khẩu ý tam
nghiệp tương ưng thì trì chú mới có lực được, đó cũng chính là một dạng
của định. Nếu tán tâm trì chú thì cũng có công đức và cảm ứng, còn trì chú
gì là tuỳ nhân duyên của mỗi người. Các chú thường trì tụng là chú Đại Bi,
chú Quan Âm, chú Chuẩn Đề, chú Kiết tường, chú Dược Sư, chú Địa Tạng, chú
Vãng Sanh, chú Lăng Nghiêm. Có thể dùng cách tính số biến chú đã trì, cũng
có thể dùng cách tính thời gian trì chú.
6.6
Tu trí tuệ như thế nào
Trong
các kinh điển cả Bắc lẫn Nam Tông có sự khác biệt khi nói về trí tuệ. Trí
có thế gian trí và xuất thế gian trí. Trí thức cùng sự thông minh tài trí
của thế gian đều lấy ngã làm trung tâm bất kể là tiểu ngã của cá nhân hay
ngã lớn của tập thể đều không thể thoát khỏi phiền não ngã chấp nên gọi là
thế gian hữu lậu trí. Chỉ có những vận hành của tâm lý hay tinh thần vượt
khỏi trung tâm tự ngã mới là xuất thế gian vô lậu trí.
Khai ngộ
là sự hiển hiện công năng của vô lậu trí. Khi khai ngộ thì đoạn trừ phiền
não của bản thân, rời chấp trước. Sau khi khai ngộ thì thí pháp vũ, tế khổ
nạn của chúng sanh. Tự độ, độ người lại tự trí, tự giác, vô ngã cũng vô
chúng sinh. Tuệ có văn, tư, tu tam tuệ.
- Văn
tuệ là dựa vào việc thính pháp nghe kinh, duyệt đọc kinh điển để hiểu rõ
nguyên tắc tu tập và nghĩa lý trong Phật pháp.
- Tư
tuệ là dựa vào tuệ giải những điều đã nghe đã học, như pháp tu hành, một
mặt vẫn y kinh giáo, mặt khác từ trong quá trình tu tập mà đạt được sự
thể nghiệm.
- Tu
tuệ là tiến sâu hơn một bước nữa từ nền tảng tư tuệ tuy không y kinh điển
mà đại dụng vẫn hiện tiền, lại vẫn không tương phản với kinh giáo.
7
Ai là người có chánh
tri chánh kiến
Người sơ
tâm học Phật phải thường nghe những vị Thầy hay Cư Sỉ có chánh tri, chánh
kiến nói pháp, thường đọc kinh điển trong kinh tạng và những tác phẩm hiện
đại chánh thống Phật gíao. Đồng thời nhờ hiểu mà tu đó chính là con đường
tốt nhất để vào nhà Phật pháp và khai mở trí tuệ. Nhưng ai là vị Thầy hay
Cư Sỉ có chánh tri chánh kiến điều này cần phải biết đứng trên lập trường
và lý trí của mình để nhận định, nếu chỉ nói thần thoại, thuyết lời ma,
thường biểu diễn thần thông, làm điều thần bí, tự xưng là Thánh, là Phật,
là Thần, là Bồ-tát, dùng phù chú sai khiến quỷ thần, hô linh giáng thần
thì tuy dùng kinh Phật, lời Phật nhưng đều là ngoại đạo lợi dụng Phật pháp.
Còn
những tác phẩm Phật giáo hiện đại phải là những tác phẩm được đưa vào
trong tùng thư như «hiện đại Phật giáo học thuật tùng khan» vì đã được các
bậc trưởng lão, chuyên gia thẩm định nên có thể tin học theo được. Mục đích
học Phật của người Phật tử là dùng trí tuệ và từ bi để tự lợi, lợi tha chứ
không phải dùng quái lực, loạn thần, xưng Thánh, xưng Phật để mê hoặc
chúng sinh.
Trí tuệ
phù hợp với quan niệm nhân duyên, nhân quả nên cũng hợp tình hợp lý. Biểu
hiện của từ bi không phải là ân cần lấy lòng mà là ở chỗ biết ơn ân nhân,
tha thứ kẻ thù, giúp đỡ người khổ, cứu tế người nghèo, điều phục người điên,
dạy dỗ người mê, cảm hoá người ác, khích lệ người thiện, sách tấn người lười,
thức tỉnh người lầm đường lạc lối. Đó là tinh thần của Bồ Tát yêu thương
hết thảy chúng sinh.
--- o0o ---
Cập nhật: 1-8-2004
|
|
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục