|
Nội dung cơ bản của Phật giáo, ở đâu
cũng là một, mãi mãi vẫn là một.
Phật giáo bắt nguồn từ đức Phật là
bậc đại giác, tức là từ biển lớn
trí tuệ và từ bi của đức Thích Ca
Thế Tôn. Phật giáo tràn đầy trí tuệ,
tràn đầy lòng nhân từ, tràn đầy
ánh sáng và sự mát mẻ, sự yên ổn.
Phật giáo chính là giáo lý như vậy và
hình thức giáo đoàn xây dựng trên
một niềm tin vào một giáo lý như vậy
gọi là Phật giáo.
Chính tín là niềm tin chân chính, chính
xác, là sự tin hiểu chính thống, là
sự tin tưởng và hành trì ngay thẳng,
là sự tin tưởng và nương tựa đúng
đắn. Nội dung của chính tín phải bao gồm
ba điều kiện chủ yếu : Thứ nhất là
phải có tính vĩnh cửu. Thứ hai là
phải có tính phổ biến. Thứ ba là phải
có tính tất nhiên. Nói cách khác, tức
là, quá khứ trước đây là như vậy,
thì hiện tại ở đâu cũng là như vậy
và tương lai cũng sẽ là như vậy. Phàm
niềm tin vào một đạo lý hay một sự
việc gì mà không chịu đựng nổi sự
thử thách của ba điều kiện cơ bản
nói trên thì không phải là chính tín,
mà là mê tín. Giáo lý của một tôn
giáo, mà không chịu đựng nổi sự
khảo nghiệm của thời đại, của hoàn
cảnh, không dẫn tới một cảnh giới
mới và tốt đẹp, thì đó là mê tín,
không phải chính tín.
Thế nhưng, phải nói rằng, nền Phật
giáo chính tín, tại các vùng có lưu
hành Phật giáo Đại Thừa, nhất là ở
Trung Quốc, đã trở thành sở hữu
riêng của những cao tăng ở ẩn trên
núi, và của một số ít nhân sĩ trí
thức. Còn ở trong dân gian, thì Phật
giáo chính tín đến nay vẫn chưa phổ cập
được. Dân chúng nói chung, trong cuộc
sống của mình, có một quan niệm tín
ngưỡng pha tạp cả ba giáo Nho, Phật,
Lão. Thí dụ, như việc sùng bái quỷ
thần hay là niềm tin người chết biến
thành quỷ, không thể là sản vật của
Phật giáo.
Không phải. Phật giáo chính
tín không có quan niệm Chúa sáng thế.
Đức Phật là bậc giác ngộ trong nhân
gian, Ngài tuy thấu rõ tất cả mọi
nguyên lý của thế gian này, nhưng Ngài
lại không thể thay đổi trạng thái vốn
có của thế gian này. Đức Phật có
thể hóa độ chúng sinh, nhưng chúng sinh
có được hóa độ hay không, còn phải
do bản thân chúng sinh, tự mình nỗ lực
mới được. Đức Phật là vị thầy
thuốc giỏi nhất, có thể chẩn đoán
bệnh khổ của chúng sinh và cho thuốc.
Nếu uống thuốc của Phật cho, thế nào
chúng sinh cũng khỏi bệnh. Nhưng nếu
không chịu uống thuốc, thì đức Phật
cũng chịu bó tay. Đức Phật là người
hướng đạo giỏi nhất, có thể hướng
dẫn chúng sinh vượt ra ngoài biển khổ,
nếu chúng sinh chịu để cho Phật hướng
dẫn thì thế nào cũng được độ, nhưng
nếu không chịu, thì đức Phật cũng chỉ
biết thương mà không thể làm gì
được.
Do đó, đức Phật không
phải có địa vị Chúa sáng thế, cũng
không muốn quần chúng sùng bái Ngài
trên hình thức. Nếu thực hành được
những lời dạy của Phật, thì cũng
không khác gì thấy Phật, kính lễ Phật.
Bằng không thì tuy thấy Phật trước mặt
đó, cũng không khác gì không thấy
Phật.
Như vậy, đức Phật đã
không phải là Chúa sáng thế, cũng
không phải là một ông Thần chủ tể.
Đức Phật chỉ có thể dạy cho chúng sinh
phương pháp thoát khổ được vui. Đức
Phật tuy bản thân mình đã thoát khổ
được vui, nhưng không thể thoát khổ
và được vui thay cho chúng sinh.
Đức Phật là nhà giáo
dục vĩ đại, là bậc đạo sư cho loài
Người và loài Trời, nhưng không phải
là nhà huyễn thuật hay ma thuật, và
Ngài không thể mị dân với khẩu hiệu
"chuộc tội thay cho chúng sinh".
Ngài dạy rằng tất cả mọi người phải
chịu trách nhiệm đối với bản thân
mình : "Trồng dưa thì được dưa,
trồng đậu thì được đậu".
Phật hay nói đủ hơn là Phật - đà,
dịch âm từ ngữ Sanskrit cổ đại. Từ
Phật bao hàm các nghĩa : Tự mình giác
ngộ, giác ngộ cho người khác và giác
ngộ - thấy biết tất cả, không gì là
không thấy biết, không lúc nào là
không thấy biết. Vì vậy mà Phật còn
có các danh hiệu "Nhất biến tri"
hay là "Chính biến tri".
Phật-đà, nói ngắn hơn là Phật, nguyên
là Thái tử Tất Đạt Đa, sinh tại thế
giới này, cách đây 2589 năm (T. L năm
623 trước công nguyên) ở thành Ca Tỳ
La Vệ (Ấn Độ). Sau khi thành đạo, thì
có danh hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Thích Ca
là giòng họ, Mâu Ni là danh hiệu chung,
chỉ các bậc Thánh thời cổ đại ở
Ấn Độ, và có nghĩa là tĩnh lặng. Đó
là vị giáo chủ của đạo Phật.
Thế nhưng, căn cứ vào giáo lý do Phật
Thích Ca giảng dạy, chúng ta biết rằng,
tại thế giới này, từ thời xa xưa
đã có những vị Phật ra đời, và trong
một tương lai rất xa sau này cũng sẽ có
các vị Phật khác xuất hiện. Và hiện
nay, tại các thế giới khác trong 10
phương, cũng đang có nhiều Phật tồn
tại. Như vậy, theo đạo Phật, thì Phật
không phải chỉ có một vị có một không
hai mà trong quá khứ, hiện tại và trong
thời vị lai, có vô lượng vô số
Phật. Hơn nữa, Phật giáo còn cho rằng,
tất cả chúng sinh, tất cả các loài
hữu tình, dù hiện nay có tin hay không
tin Phật, đều có khả năng thành Phật
trong tương lai. Phật giáo cho rằng Phật
là chúng sinh đã được giác ngộ, còn
chúng sinh là Phật chưa giác ngộ. Đứng
về mặt cảnh giới mà nói, phàm thánh
tuy khác nhau, nhưng đứng về bản chất
mà nói, Phật tính là bình đẳng, Phật
hay chúng sinh đều có Phật tính như nhau
không khác.
Nói tóm lại, Phật giáo không sùng bái
Phật như là vị Thần, cũng không xem
Phật như là Chúa sáng the? vì
vậy, cũng có thể nói Phật giáo chủ
trương vô thần luận.
Phật giáo đã bác bỏ quan
niệm có một Chúa sáng thế, nhưng
vũ trụ tồn tại là không thể hoài
nghi, sinh mạng tồn tại là không thể
phủ định. Phật giáo cho rằng, những
nguyên tố tạo thành vũ trụ có tính
chất vĩnh hằng. Cũng như những nhân
tạo ra sinh mạng cũng có tính vĩnh hằng.
Nói cách khác, vật chất tạo ra vũ trụ
là bất diệt, mà tinh thần cấu thành
sinh mạng cũng là bất diệt. Vĩnh hằng
nghĩa là vốn là như vậy, không có sinh
ra và hủy diệt. Tình hình thực tế của
vũ trụ và sinh mạng là như vậy.
Phật giáo cho rằng, sự
biến hóa của vũ trụ, sự lưu chuyển
của sinh mạng, là do nghiệp lực của
chúng sinh tạo thành.
Nghiệp lực (sức mạnh của
nghiệp) chính là những hành vi thiện hay
ác của chúng sinh, chúng giống như màu
sắc vậy, một cách liên tục không
ngứt đoạn, huân nhiễm tâm thức của
chúng sinh, là chủ thể của sinh mạng,
rồi lại từ ở trong tâm thức, theo
ngoại duyên (điều kiện bên ngoài) mà
hiện hành bộc lộ, cũng như hạt giống
gieo trong đất, nhờ có các ngoại duyên
là ánh sáng, độ ẩm và không khí mà
sinh trưởng. Đó là cái mà sách Phật
gọi là hiện hành của nghiệp. Hiện
hành của nghiệp chính là kết quả tạo
ác của nghiệp. Đó là ý tứ của câu
: "thiện ác đáo đầu chung hữu
báo", nghĩa là thiện hay ác cuối
cùng đều có quả báo.
Nghiệp có thể do cá nhân
một mình làm ra, cũng có thể do cá
nhân cùng với nhiều người khác cùng
làm; có những nghiệp tuy là do cá nhân
riêng mình tự làm, nhưng làm tương tự
như nhiều người khác làm. Có những
nghiệp tuy cùng với nhiều người khác
làm, nhưng sự tham gia lại nhiều ít khác
nhau.
Do vậy, có thể chia ra hai
loại nghiệp là "cộng nghiệp"
(nghiệp cùng làm) và "bất cộng
nghiệp" (nghiệp không cùng với
người khác làm).
Vì là cộng nghiệp cho nên
dẫn tới quả báo giống nhau. Trái đất
này là do cộng nghiệp của vô số chúng
sinh tạo ra trong quá khứ và hiện tại
mà hình thành. Do cộng nghiệp khác nhau
mà có những thế giới khác nhau. Trong
vũ trụ, có vô số lượng chúng sinh
sống trong vũ trụ này. Vì vậy, nếu
trên hỏa tinh có chúng sinh thì hình dáng
của chúng sinh đó không nhất thiết
giống hình dáng người sống trên trái
đất chúng ta. Ngoài ra, còn có những
tinh cầu không có người ở, thậm chí
cũng không có sinh vật nữa, nhưng sự
tồn tại của chúng là cần thiết đối
với cuộc sống của chúng sinh ở các
tinh cầu có sinh vật ở. Nói cách khác,
sự tồn tại của vạn vật trong vũ trụ
bao la này đều có lý do, có nguyên
nhân tồn tại của chúng. Thí dụ, trên
mặt trời không thể có sinh vật tồn
tại, thế nhưng nếu không có mặt trời,
thì sinh vật trên trái đất này cũng
không thể tồn tại. Hiện nay, khoa học
chưa có thể chứng minh được sự tồn
tại của nhiều hiện tượng và sự
vật. Còn đạo Phật thì giải thích đó
đều là do cảm ứng của nghiệp lực
của chúng sinh.
Còn về sự tồn tại của
sinh vật (cũng tức là sinh mạng) trên
địa cầu này, thì Phật cho rằng đều do
biến hóa mà thành, và điều này đúng
đối với sinh vật đơn bào cũng như
đối với con người là loại sinh vật
cao cấp. Khi địa cầu mới hình thành, thì
con người đầu tiên xuất hiện là từ
ở cõi trời Quang âm thiên là
cõi Trời thứ sáu thuộc cõi Sắc
giới bay tới, nhưng sau vì ăn phải một
loại thực vật thiên nhiên trên địa
cầu này, thân thể trở thành nặng nề
không bay được nữa, rồi vĩnh viễn
định cư ở trên địa cầu này (Theo kinh
Thế kỷ, kinh Đại lâu khôi, kinh Khởi
thế v.v
). Trên thực tế, đó cũng
là do nghiệp báo của chúng sinh thuộc
loài Trời đó. Phúc báo ở cõi Trời
đã hưởng hết rồi thì phải đọa
xuống địa cầu này tùy theo nghiệp mà
chịu báo. Cũng như những con người hay
chúng sinh sống trên địa cầu này cũng
vậy, do cộng nghiệp mà chiêu cảm địa
cầu này thì phải sinh ở địa cầu này
mà chịu báo. Chịu báo hết rồi, cũng
tùy theo nghiệp của mình đã tạo hay
đương tạo mà vãng sinh ở các cõi
sống khác để tiếp tục chịu báo. Đồng
thời lại do bất cộng nghiệp, cho nên tuy
là cùng sinh ra trên địa cầu này, nhưng
địa vị cao thấp của mỗi chúng sinh lại
khác nhau. Có chúng sinh là côn trùng,
có chúng sinh là loài người. Và giữa
người và người cũng có người sang
kẻ hèn, người sống thọ, kẻ chết
yểu.
Trên thực tế, cộng nghiệp
đồng thời cũng là một dạng của bất
cộng nghiệp. Vì sao ? Nếu đứng trên
góc độ địa cầu mà nói thì địa cầu
và cuộc sống ở địa cầu là do cộng
nghiệp của chúng sinh ở đây mà hình
thành. Nhưng nếu đem đối chiếu với
chúng sinh ở một cõi sống khác, trên
một hành tinh khác, thì chính là do bất
cộng nghiệp mà có sự khác biệt giữa
cuộc sống ở hành tinh đó với cuộc
sống trên địa cầu chúng ta. Nói cộng
nghiệp là một dạng của bất cộng
nghiệp, ý tứ là như vậy. Thế nhưng
ngược lại, cộng nghiệp cũng là một
dạng của bất cộng nghiệp. Thí dụ, nói
chúng sinh ở trên địa cầu này là do
cộng nghiệp. Thế nhưng loài người ở
Phi châu có da đen, loài người ở Á
châu có da vàng. Đó lại là do người
ở Phi châu và người ở Á châu có
bất cộng nghiệp mà thành ra như vậy.
Nhưng vì cả hai giống người đó đều
cùng sống trên một quả địa cầu, cho
nên cũng lại do cộng nghiệp làm người
mà sinh ra như thế. Từ đó mà suy ra,
mới hiểu được vì sao, trong cùng một
quốc gia, thậm chí trong cùng một gia
đình, vẫn có rất nhiều khác biệt trong
phẩm chất, tính cách và cảnh ngộ giữa
người và người với nhau. Tất cả
muôn vàn sai biệt đều là do cộng
nghiệp và bất cộng nghiệp tạo thành.
Đó là lối giải thích của Phật giáo đối với sự tồn tại của vũ trụ và sinh mạng.
Bồ - tát là dịch âm từ
chữ Phạn, và là lược dịch. Nếu dịch
âm đầy đủ là Bồ-đề-tát-đỏa.
Bồ-đề nghĩa là giác. Tát-đỏa là
hữu tình. Bồ-tát nghĩa là giác hữu
tình. Hữu tình là sinh vật có tính tình
và tình ái, cũng gọi là động vật.
Bồ tát là loài hữu tình có giác
ngộ. Giác ngộ về nỗi khổ của tất cả
chúng sinh, đồng tình và thông cảm với
nỗi khổ đó, và phát nguyện cứu
thoát chúng sinh ra khỏi những nỗi khổ
đó. Vì vậy mà ở đời, hễ thấy ai
hay thương người, hay bố thí, và cứu
giúp người trong cơn khổ nạn, thì nói
người ấy có tâm Bồ tát.
Bồ tát hiểu theo đúng nghĩa, rất khác với quan niệm Bồ tát trong dân gian. Bồ tát là người, sau khi tin Phật, học Phật, phát nguyện tự độ, độ tha, thậm chí hy sinh cả bản thân mình để cứu giúp người. Bồ tát không phải là thần Thổ Địa, cũng không phải là thần Thành Hoàng mà tượng bằng gỗ, tượng bằng đất được thờ phục ở khắp đền miếu. Chúng sinh trước khi thành Phật tất yếu phải trải qua một quá trình làm Bồ tát. Muốn làm Bồ tát trước hết phải có tâm nguyện lớn, chủ yếu là bốn lời nguyện : "Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành". Nghĩa là :
"Phát lời nguyện độ
thoát cho vô số lượng chúng sinh;
Phát lời nguyện đoạn trừ vô số lượng phiền não;
Phát lời nguyện học tập
vô số lượng pháp môn;
Phát lời nguyện thành
tựu Phật đạo vô thượng".
Mọi người từ khi mới
phát tâm cho đến khi thành Phật đều
được gọi là Bồ tát, vì vậy mà có
phân biệt Bồ tát phàm phu và Bồ tát
hiền thánh. Các Bồ tát được nói
tới trong các kinh Phật thường là các
vị Bồ tát hiền thánh. Quá trình làm
Bồ tát chia làm 52 vị (cấp bậc), trong
số này chỉ có 12 vị Bồ tát hiền
thánh, tức là từ Sơ địa đến Thập
địa (địa vị 1 - 10), lại thêm hai vị
nữa là Đẳng giác và Diệu
giác. Thực ra, Bồ tát đạt tới vị Diệu
giác đã là Phật rồi. Còn ở ngôi
vị Đẳng giác là vị Đại Bồ Tát sắp
thành Phật. Các vị Bồ tát mà nhân
dân rất quen thuộc như Quan Thế Âm, Đại
Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Địa Tạng
v.v
đều là những vị Đẳng giác
Bồ tát.
Trong thời Phật tại thế,
vốn không có phân biệt Tiểu thừa và
Đại thừa. Phật pháp là một vị thuần
nhất. Chỉ do đối tượng thuyết pháp
không giống nhau cho nên nội dung và cảnh
giới thuyết pháp cũng khác nhau mà
thôi.
Đối với những người
có trình độ thấp, Phật chỉ giảng đạo
lý làm người, giảng năm giới, mười
điều thiện gọi là nhân thiên thừa.
Đối với nhưng người nhàm chán thế
gian, Phật giảng phương pháp thoát ly sinh
tử, gọi là Thanh văn tiểu thừa.
Đối với những người có trình độ
cao, có tâm nguyện nhân độ thế, thì
Phật giảng giáo lý Đại thừa bồ
tát.
Trên sự thực, Phật pháp
chia làm năm thừa : Nhân thừa (tức
là Phật giáo của nhân gian), Thiên
thừa (Phật giáo cho loài Trời), Thanh
văn thừa, Độc giác thừa và Bồ tát
thừa.
Tu theo 5 giới và 10 điều
thiện ở bậc cao (thượng phẩm) thì sẽ
được sinh lên các cõi Trời. Tu theo 5
giới 10 điều thiện ở bậc trung bình
(trung phẩm) thì sẽ được sinh làm
người. Tổng hợp cả hai lại gọi chung
là con đường loài Người và loài
Trời. Hàng Thanh văn nhờ nghe pháp tu
hành mà được giải thoát khỏi sinh
tử. Hàng Độc giác không nghe pháp,
không có thầy mà tự mình giác ngộ,
được giải thoát khỏi sinh tử. Tổng
hợp cả hai lại gọi chung là con đường
giải thoát của Nhị thừa.
Con đường Bồ tát là
pháp môn vừa cầu giải thoát, vừa
không tách rời con đường loài Người
và loài Trời, do đó con đường Bồ
tát đại thừa là con đường tổng
hợp cả hai con đường giải thoát và
con đường loài Người và loài Trời.
Tu theo 5 giới và 10 điều
thiện trong con đường loài Người và
loài Trời thì vẫn còn là phàm phu.
Người tu hành, chứng đạo giải thoát
không còn luân hồi sinh tử nữa, mới
gọi là bậc Thánh. Vì chỉ lo lắng cho
bản thân mà cầu Phật pháp để được
giải thoát, không có tâm nguyện quay
trở lại cứu độ chúng sinh, cho nên
gọi là Tiểu thừa. Con đường Bồ tát
gọi là Đại thừa, vì rằng vị Bồ tát,
trên thì cầu đạo Phật vô thượng để
giải thoát khỏi sinh tử, dưới thì
phát nguyện độ thoát vô lượng chúng
sinh để cùng thoát khỏi biển khổ sinh
tử.
Về mặt phân bố địa lý
mà nói, thông thường gọi Phật giáo Bắc
truyền theo văn hệ Sanskrit, lấy Trung
Hoa làm trung tâm, bao gồm các nước như
Nhật Bản, Triều Tiên, Mông Cổ, Tây
Tạng, Việt Nam thì gọi là Phật giáo
Đại thừa. Còn Phật giáo Nam truyền
dùng kinh điển thuộc văn hệ Pali, lấy
nước Tích Lan làm trung tâm và bao gồm
các nước như Miến Điện, Thái Lan,
Lào, Campuchia, thường được gọi là
Phật giáo Tiểu thừa.
Thực ra, đó chỉ là sự
phân biệt của riêng Phật giáo Bắc
truyền, còn Phật giáo Nam truyền
thì không công nhận sự phân biệt đó.
Đấy là do, trong Luật tạng của Hữu
Bộ, quyển 45 và Tạp A Hàm quyển 28 trang
69 đều có ghi danh từ Đại thừa để
chỉ những người tu theo Bát chính
đạo và Tạp A Hàm quyển 26 trang 204
dùng danh từ đại sĩ chỉ cho những
người tu hạnh Bốn nghiếp pháp.
Tăng nhất A Hàm cuốn 19 cũng nói rõ
sáu độ thuộc về Đại thừa. Phật
giáo Bắc truyền, trong lĩnh vực lý
luận, có phần phát huy hơn Phật giáo Nam
truyền, thế nhưng về mặt thực tiễn
sinh hoạt thì Phật giáo Bắc truyền
không phải tất cả theo Đại thừa, và
Phật giáo Nam truyền cũng không
phải tất cả đều theo Tiểu thừa. Phật
giáo Trung Quốc, ngoài việc ăn trường
trai ra, cũng không có gì xuất sắc hơn
Phật giáo Nam truyền. Phật giáo
Trung Quốc do chịu ảnh hưởng của tư
tưởng Lão Trang và lối học nói suông
chuyện thanh cao (huyền học tham đàm) cho
nên cũng bị lớp sĩ phu đời Ngụy Tấn
đối đãi như là một thứ huyền học
để tiêu khiển. Lý luận của các tông
phái ở Trung Quốc như Thiên Thai Tông
và Hoa Nghiêm Tông đều có chịu một
phần ảnh hưởng của học phong này.
Chính vì vậy, có một học giả Nhật Bản
cận đại, ông Mộc Thôn Thái Hiền phê
bình Phật giáo Trung Quốc là loại Phật
giáo học vấn, không phải là Phật giáo
thực tiễn. Phê bình như vậy, không
phải là không có lý do. Trên sự
thực, cấu trúc tư tưởng của Hoa
Nghiêm Tông và Thiên Thai Tông đều
xuất phát từ cảnh giới chứng ngộ
của các cao tăng Trung Hoa, chứ không có
y cứ đầy đủ trong tư tưởng lý luận
của Phật giáo Ấn Độ. Do đó, có thể
nói tinh thần Đại thừa chân chính của
Phật giáo Trung Quốc, cho đến nay vẫn
chưa phổ cập đến dân gian Trung Quốc,
chứ còn nói gì làm nơi quy tụ của tín
ngưỡng dân gian Trung Quốc ! Vì vậy mà
có người nói, Phật giáo Trung Quốc về
tư tưởng là Đại thừa, về hành vi
là Tiểu thừa.
Đúng vậy, Phật giáo là một tôn giáo
thế giới. Vì đức Phật không phải là
một vị Thần bảo hộ cho một dân tộc,
mà là một bậc giác ngộ với trí tuệ
bao quát cả vũ trụ, không gì không
thấy, không biết một cách chính xác và
thấu triệt, cho nên đức Phật là thuộc
tầm cỡ vũ trụ. Sự giác ngộ của
đức Phật bao trùm cả vũ trụ, ánh
sáng từ bi của Phật rọi chiếu khắp
tất cả. Do đó, bản chất của Phật
giáo là có tính thế giới, có tính vũ
trụ.
Vì vậy, trong gần hơn hai nghìn năm trăm
năm lại đây, Phật giáo dần dần
được truyền bá khắp các nơi trên
thế giới.
Sau khi Phật nhập Niết Bàn, khoảng ba bốn trăm năm, do trong nội bộ Phật giáo có ý kiến bất đồng mà hình thành hai hệ phái lớn : Một hệ phái gồm các bậc tuổi cao, và có tính bảo thủ gọi là Thượng tọa bộ. Một hệ phái thứ hai gồm những tăng sĩ trẻ tuổi, có đầu óc tân tiến, gọi là Đại chúng bộ. Về sau, Thượng tọa bộ được truyền bá hướng về phương nam, đến Tích lan. Thượng Tọa Bộ dùng tiếng Pali ở phương nam để ghi chép kinh điển. Vì vậy, về sau cũng gọi Thượng tọa bộ là Phật giáo theo ngữ hệ Pali. Còn Đại chúng bộ thì có một nhánh truyền lên phía bắc Ấn Độ, tuy nó không trực tiếp sản sinh ra Phật giáo đại thừa, nhưng chính trong những khu vực thịnh hành của Đại chúng bộ, đã xuất hiện ra Phật giáo đại thừa.
Trên đây chỉ bàn đại khái về sự
phân bố địa lý của Phật giáo Bắc
truyền và Nam truyền. Nhưng nếu, phân
tích sâu hơn các sử liệu, thì thấy
Phật giáo Nam truyền đến Miến Điện
sớm nhất lại là Phật giáo Đại thừa
theo văn hệ chữ Phạn. Phật giáo Nam
phương đầu tiên theo đường biển đến
Trung Quốc cũng là Đại thừa giáo.
Ngược lại, trong Phật giáo Bắc truyền
cũng có thế lực khá mạnh của Phật
giáo Tiểu thừa.
Phật giáo Đại thừa tuy bắt nguồn từ
thời đức Thích Ca Thế Tôn còn tại
thế, nhưng sau khi Phật nhập diệt, lại
rất ít được Tăng đoàn Tỷ Khiêu coi
trọng và phát huy. Tình hình này kéo
dài đến ba bốn trăm năm. Sau đó, vì
trong nội bộ của Phật giáo Tiểu thừa,
có sự phân phái phức tạp, cho nên
mới có yêu cầu Phật giáo Đại thừa
xuất hiện và phát triển, với những
nhân vật đại biểu xuất sắc như Mã
Minh, Long Thụ, Vô Trước, Thế Thân
v.v
Phật giáo Đại thừa dùng chữ
Phạn để sưu tập, ghi chép kinh điển cho
nên cũng gọi là Phật giáo văn hệ
chữ Phạn.
Phật giáo truyền vào Trung Quốc từ
thời Đông Hán, tương đương với buổi
đầu của kỷ nguyên Thiên chúa.
Đại bộ phận kinh sách Phật giáo Trung
Quốc là do dịch từ kinh Phật chữ Phạn.
Tuy Đại thừa rất thịnh hành trong Phật
giáo Trung Quốc, nhưng kinh điển Tiểu
thừa cũng được dịch rất nhiều. Trung
Quốc có đầy đủ những bản dịch của
những kinh sách Tiểu thừa quan trọng.
Từ Ngụy Tấn, Nam Bắc triều đến Tùy
và Đường là thời đại hoàng kim của
Phật giáo Trung Quốc. Có nhiều cao tăng
xuất hiện, sự giao lưu giữa Trung Quốc
và Ấn Độ nối tiếp không ngừng. Trong
thời kỳ này, Phật giáo Trung Hoa nở
hoa, kết trái, cả Đại thừa và Tiểu
thừa có tới 13 tông phái, sau hợp
gọn lại còn 8 tông phái Đại thừa.
Tức là Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông,
Tam Luận tông, Duy Thức tông, Tịnh Độ
tông, Luật Tông, Thiền tông, Mật tông.
Sau thời kỳ Ngũ đại do chính trị suy vi,
và hoàn cảnh xã hội thúc bách, Phật
giáo Trung Quốc lánh xa các trung tâm văn
hóa, ẩn vào rừng sâu, tăng sĩ tự
cày ruộng lấy để có thóc ăn, việc
nghiên cứu nghĩa lý trong kinh sách không
còn thích hợp. Vì vậy chỉ còn lại một
mình Thiền tông chủ trương bất lập văn
tự, giáo ngoại biệt truyền. Trong thời
kỳ giữa nhà Tống và nhà Đường,
còn có một số thiền sư chân tu thực
ngộ, có khả năng cảm hóa được
nhiều người, thông qua lời nói và
việc làm bình dị và chất phác của họ,
nhưng cũng do đất mà gieo cái nhân xa cho
một loại Phật giáo "ngu muội",
khiến cho sau đời Tống và đời Minh,
chùa chiền và tăng sĩ tuy nhiều, nhưng
đã không còn linh hồn nữa, mà chỉ
còn trơ cái xác không mà thôi ! Giáo
dục không được coi trọng, chỉ thực
hành những nghi thức theo đường mòn
cũ, có rất ít cao tăng, và phần lớn
tăng đồ đều không có tri thức, tuy
gọi là tu hành mà không hiểu biết thì
làm sao cảm hóa được người khác ? Do
vậy, phẩm chất của tu sĩ bị hạ thấp
một cách phổ biến, rồi lại cộng thêm
có sự bài bác của Nho gia, khiến cho
dân chúng đến với Phật giáo càng
ngày càng không hiểu Phật giáo là thế
nào.
Đến cuối đời nhà Thanh, nhờ có
những cố gắng của cư sĩ Âu Dương
Nhân Sơn, sự hướng dẫn của đại sư
Thái Hư, sự nỗ lực hoằng hóa của
các cao tăng như Âu Dương đại sư,
Hoằng Nhất, Hư Vân và các vị như Âu
Dương Tiệm v.v
Phật giáo Trung Quốc
đã có cơ may chuyển biến, thế nhưng vì
tệ đoan còn nhiều, thay đổi một lúc
cũng không hết cho nên Phật giáo Trung
Hoa kể cả Phật giáo ở Đài Loan cũng
vậy, đến nay cũng đang ở giai đoạn
chuyển mình sơ bộ mà thôi.
Phật giáo Nhật Bản là do từ ở Trung
Hoa và Triều Tiên truyền vào (Phật giáo
Triều Tiên cũng do từ Trung Quốc đến),
khoảng sau thế kỷ 6 T. L. Cho nên về bản
chất mà nói, Phật giáo Nhật Bản là
thuộc về mô hình của Phật giáo Trung
Quốc. Thế nhưng, do trong những thế kỷ
gần đây, nhờ tiếp xúc và vận dụng
phương pháp nghiên cứu của phương Tây
cho nên những thành tích nghiên cứu
Phật pháp theo phương pháp mới ở
Nhật, không những vượt quá Trung Quốc
mà còn dẫn đầu cả thế giới nữa.
Đấy là do các học giả Nhật Bản không
những nắm được toàn bộ kho tàng quý
báu của Phật giáo Trung Quốc, mà còn
biết dựa vào văn chữ Phạn và văn
chữ Pali mà truy tìm nguyên nghĩa trong
Phật giáo cơ bản (nguyên thủy), lại
thêm biết sử dụng phương pháp học
tập mới, cho nên họ đạt được
những thành tích huy hoàng trong lĩnh vực
nghiên cứu Phật học. Tuy nhiên Phật
giáo Nhật về mặt tu trì và giải thoát,
thì còn xa mới đạt tới lý tưởng
trong sáng của các nước theo Phật giáo
Nam truyền.
Vào thế kỷ thứ 9, thứ 10 sau khi Phật
nhập diệt ở Ấn Độ thế lực của Bà
la môn giáo trỗi dậy, đả kích mạnh mẽ
không thương tiếc vào Phật giáo. Phật
giáo đồ trong bối cảnh lịch sử lúc
bấy giờ, cũng theo thế thượng mà
chấp nhận quan niệm về Phạm thiên của
Bà la môn giáo (bây giờ gọi là Ấn
Độ giáo), và du nhập quan niệm đó vào
Phật giáo Đại thừa. Đấy là nguyên
nhân làm cho Phật giáo vốn là thanh
tịnh, lại pha tạp các nhân tố mê tín
của dân gian thế tục, thậm chí cả đến
thuật nam nữ giao hợp trong phòng
kín
Đó là thời kỳ gọi là Mật
giáo đại thừa, thời kỳ thứ ba của
Phật giáo Ấn Độ. Ấn Độ giáo biết
tiếp thu nhiều ưu điểm của đạo Phật,
biến thành nhân tố làm cho Ấn Độ
giáo trở nên hưng thịnh, còn Phật giáo
lại tiếp thu những tín ngưỡng hạ cấp
của Ấn Độ giáo, biến chúng thành
những nhân tố làm cho nội bộ Phật
giáo càng ngày càng hủ bại. Do vậy,
vào khoảng cuối thế kỷ thứ 10, trước
hai mũi đả kích của Ấn Độ giáo và
Hồi giáo, vừa mới xâm nhập Ấn Độ,
Phật giáo bị tàn lụi đến tuyệt
tích
Thế nhưng, như tài liệu lịch
sử chỉ rõ, từ khi đạo Phật bị tiêu
vong ở Ấn Độ, thì thế lực của cả
nước Ấn Độ cũng ngày một bị suy
giảm, đời sống nhân dân càng ngày
càng khốn khổ, đất nước Ấn Độ
cũng không còn được thống nhất. Mãi
đến năm 1950, Ấn Độ mới giành lại
được độc lập trong tay bọn thống trị
người Anh. Nhưng trên nước Ấn Độ
xưa, nay đã xuất hiện thêm các quốc gia
có chủ quyền như Pakităng và NêPan
Hiện nay, Phật giáo đồ ở Ấn Độ,
được sự bảo hộ của luật pháp và
được sự đối đãi tốt của chính
phủ về chính trị, cho nên đã phát
triển nhanh chóng, từ năm 1951 đến nay.
Thế nhưng, trong tổng dân số hơn 400
triệu người Ấn Độ, Phật giáo đồ
chỉ chiếm một số lượng không đáng
kể, từ 10 vạn 8000 người tăng lên 325
vạn mà thôi. Đó là điều đáng lo
ngại, bởi vì có người tố cáo rằng,
Ấn Độ hèn yếu là do tín ngưỡng Phật
giáo.
Phật giáo Tây Tạng tuy có quan hệ với
Trung Hoa, nhưng là do truyền bá trực
tiếp từ Ấn Độ sang. Phật giáo Tây
Tạng tuy cũng là Đại thừa, nhưng chỉ
là một nhánh của mật giáo Đại thừa,
do Thượng sư Liên Hoa Sinh từ bắc Ấn
Độ truyền sang. Tây Tạng thời bấy
giờ có nền văn hóa lạc hậu, theo tín
ngưỡng đa thần, cho nên Mật giáo đại
thừa thần bí và có nhiều linh nghiệm,
rất được nhân dân Tây Tạng hoan
nghênh đặc biệt, bản thân ngài Liên
Hoa Sinh là một vị cao tăng Mật giáo,
rất giỏi pháp thuật thần thông lại
càng được người Tây Tạng hâm mộ.
Liên Hoa Sinh vốn là đồng môn với ba
cao tăng Mật giáo đến Trung Hoa vào
đời nhà Đường, tức là Thiện Vô
Úy, Kim Cương và Bất Không đều cùng
là học trò của Bồ Tát Long Trí. Vì
Liên Hoa Sinh cùng với Phật giáo đồ
Tây Tạng lúc bấy giờ đều mặc áo
đỏ, cho nên giáo phái của họ gọi là
Hồng giáo. Đến thời kỳ cuối nhà
Nguyên, đầu nhà Minh, sinh hoạt của tăng
sĩ Lạt Ma Hồng giáo rất hủ bại, do đó
mà có đại sư Tô Lạt Ba (Tsong Kha Pa)
xuất hiện, kêu gọi tăng sĩ trở về
với nếp sống thanh tịnh, chịu sự chế
tài của Luật Phật. Tông Lạt Ba chủ
trương đẩy mạnh nghiên cứu giáo lý,
dùng đạo đức để cảm hóa toàn dân
Tây Tạng. Vì giáo phái ông mặc áo
vàng, cho nên gọi là Hoàng giáo. Mật
giáo ở Mông Cổ, Nêpan v.v
đều
là những chi nhánh của Mật giáo Tây
Tạng.
Sau khi Phật diệt độ, Phật giáo Ấn
Độ, trên đại thể có thể chia làm ba
thời kỳ : Thời kỳ thứ nhất, từ khi
Phật diệt độ cho tới 300 hay 400 năm,
là thời kỳ của Phật giáo Thượng
tọa bộ, mà đại biểu hiện nay là Phật
giáo ở các nước như Tích Lan v.v
Thời kỳ thứ hai, từ 500/600 năm, là
thời kỳ của Phật giáo Đại thừa
hiển giáo (tức không phải Mật giáo -
hiển là có nghĩa lý, sách vở chép
rõ ràng). Phật giáo các nước hiện nay
như Nhật Bản, Trung Quốc là đại biểu
cho Phật giáo Đại thừa hiển giáo.
Thời kỳ thứ ba là thời kỳ Mật giáo
đại thừa, đại biểu hiện nay là Phật
giáo Tây Tạng. Thời kỳ này bắt đầu
từ khoảng 1000 năm sau khi Phật diệt
độ. Hiển giáo thì chú trọng nghĩa lý,
văn cú rõ ràng, Mật giáo thì thiên
về giữ gìn nghi thức, trì chú, đặc
biệt là tin tưởng ở sự gia hộ của
thần linh.
Nếu diễn đạt một cách khác thì có
thể nói thời kỳ thứ nhất là Phật
giáo Thanh văn hóa. Thời kỳ thứ hai
là Phật giáo Bồ Tát hóa. Thời kỳ
thứ ba là Phật giáo Thiên thần hóa.
Điều cần thiết hiện nay là triển khai
một thời kỳ thứ tư, thời kỳ Phật
giáo nhân gian hóa.
Phật giáo phương Tây bắt đầu với
triết gia Đức Shopenhauer, tư tưởng ông
này mang nặng sắc thái Ấn Độ, chủ
yếu là sắc thái của Áo nghĩa thư
(Upanishads), và của kinh sách Phật giáo
thời kỳ đầu. Hiện nay, các nước
Pháp, Anh, Bỉ, Áo, Liên Xô và cả ở
Mỹ, Ácgiăng tin, Ba Tây đều có Phật
giáo đồ hoạt động, nhưng Phật giáo
hoạt động mạnh và có tiền đồ nhất
là ở hai nước Đức và Mỹ. Đặc
biệt là ở Mỹ, cả Phật giáo Nam
truyền, Bắc truyền và Phật giáo Tây
Tạng đều có hoạt động. Nhưng nếu nói
chung cả hai châu Âu và châu Mỹ, và
đứng về mặt nội dung văn hóa mà nói
thì Phật giáo Nam truyền chiếm ưu thế.
Đây là do, từ năm 1505 đến năm 1947,
Tích Lan lần lượt bị Bồ Đào Nha, rồi
Ha Lan và nước Anh chiếm làm thuộc địa,
và Tăng sĩ Tích Lan dùng các nước
phương Tây này như cái cầu để qua
phương Tây truyền giáo, còn Phật giáo
Đại thừa ảnh hưởng tới các nước
Âu Mỹ là công lao chủ yếu của người
Nhật Bản. Trong những thế kỷ gần đây,
công việc truyền bá nền văn hóa Phật
giáo Trung Quốc ra nước ngoài, lạc hậu
rất nhiều so với các nước khác, thậm
chí so với Tây Tạng cũng còn thua kém.
Hiện nay Hoa kiều ở Mỹ tuy nói là tin
theo đại thừa Phật giáo, nhưng lại
không hiểu giáo lý của đại thừa
Phật giáo là gì !
Kinh sách Phật rất nhiều, đó là điều
ai nấy đều biết, vì vậy mà cho đến
hiện nay, cũng không sách nào chỉ rõ,
bộ kinh nào hay, bộ kinh nào là tiêu
biểu cho đạo Phật. Ở Trung Quốc, sở
dĩ có nhiều tông phái xuất hiện, nói
chung là do lập trường của các tông
phái suy tôn các bộ kinh luận nào là
căn bản đối với họ.
Thế nhưng, giáo lý đạo Phật có một
nguyên tắc căn bản, do đức Thích Ca
Thế Tôn chứng ngộ, đó là đạo lý
duyên sinh chi phối vũ trụ và nhân sinh.
Duyên sinh là do nhân duyên sinh ra. Các
hiện tượng vũ trụ và nhân sinh đều
do nhiều mối quan hệ kết hợp với nhau
mà sinh ra. Thí dụ, một thiên văn
chương, giải thích một số vấn đề có
liên quan đến Phật giáo, mà đến
được tay độc giả, xem ra có vẻ giản
đơn nhưng thực ra, là do những quan hệ
nhân duyên cực kỳ phức tạp : Nguồn
gốc của văn tự, tu dưỡng viết văn,
hấp thu và tích lũy tri thức, nhiệt tình
và kiến giải của tác giả, lại thêm
sự chế tạo và sử dụng văn phòng
phẩm, việc hiệu đính và in ấn bản
thảo, việc ký gửi sách qua bưu điện,
cuối cùng lại phải tính đến hứng thú
và tinh thần của độc giả, mới gọi
là hoàn thành nhiệm vụ chuyển tác
phẩm từ tay tác giả đến tay người
đọc. Quan hệ nhân duyên, trong ví dụ
nêu ra trên đây là khá thô thiển và
dễ thấy; nếu khảo sát thêm một bước
nữa thì mỗi một quan hệ lại kéo theo
nhiều mối quan hệ khác. Hiện tượng quan
hệ này liên quan đến quan hệ khác,
tức là nhân duyên. Một sự việc xuất
hiện là do nhân duyên hội tụ. Sự vật
tiêu vong là do nhân duyên ly tán. Như
vậy gọi là duyên sinh, duyên diệt.
Chính vì vạn sự vạn vật trong vũ trụ
đều là duyên sinh duyên diệt, đều
biến hóa vô thường, cho nên tất cả
mọi hiện tượng đều là hư huyễn, tạm
bợ, không giả, từ một bọt nước, cho
tới toàn bộ thế giới, cho đến các
tinh tú cũng đều như vậy, không phải
là vĩnh hằng và đã không tồn tại
vĩnh hằng, thì là không giả. Phật giáo
gọi đó là "duyên sinh tính
không".
Phật giáo sở dĩ bị người ta đánh
giá là cửa không (không môn), chính
là vì lẽ đó. Thế nhưng, đối với
nghĩa không của đạo Phật, người ta
lại hiểu lầm rất nhiều. Bởi vì
"không" của đạo Phật có nghĩa
là không có sự vật nào là cố định,
không biến đổi; sự vật đó không
phải "thực tại" chứ không
phải là không tồn tại. Đại đa số
người đều cho rằng không có
nghĩa là không có gì hết. Thực ra,
Phật giáo thông qua sự phân tích quan
hệ duyên sinh mà giải thích đạo lý
"không có thực thể". Cũng như
một chiếc xe hơi, nếu lấy con mắt của
nhà hóa học mà phân tích thì chiếc xe
hơi là "không thực tại". Chiếc
xe hơi là do một số nguyên tố và quan
hệ kết hợp lại mà thành. Nhưng, xét
trên hiện tượng, khi chiếc xe hơi còn
chưa bị thải bỏ, chưa bị đưa vào lò
để nấu lại, thì chiếc xe hơi vẫn là
chiếc xe hơi.
Do đó, khi Phật giáo giảng lý
"duyên sinh tính không" là chú
trọng mặt phân tích bản chất mà nói,
để cảnh tỉnh chúng ta đang sống trong
cảnh giới hư vọng, đừng có bị danh
lợi vật dục làm cho mê hoặc, biến
thành vật hy sinh của danh lợi vật dục.
Như vậy gọi là xem xét để phá bỏ,
để phóng hạ. Cái xem xét để phá bỏ
là hiện tượng hư huyễn. Cái cần
phóng hạ (buông bỏ) là lòng tham danh,
lợi, vật dục, chứ không phải phủ
định sự tồn tại của hiện tượng. Vì
vậy, Phật giáo tuy nói bản thể là
không, nhưng vẫn không thể tồn tại
tách rời khỏi hiện tượng hư huyễn
được. Bởi nếu chưa có khả năng
giải thoát khỏi sinh tử, thì vẫn nằm
trong vòng tạo tác và chịu báo của
nghiệp lực. Nghiệp lực tuy cũng là hư
huyễn nhưng vẫn có khả năng lôi kéo
sinh mạng tiến hay thoái trong các cõi
sống, được vui hay chịu khổ.
Ở đây, không được quên rằng, tất
cả mọi hiện tượng hư huyễn, đều do
nghiệp lực của chúng sinh cảm hóa mà
hình thành; do vậy, nếu thấu rõ được
đạo lý duyên sinh tính không, thì sẽ
không còn bị huyễn cảnh mê hoặc, không
còn bị cái huyễn cảnh lôi kéo chi
phối, sẽ được tự do, tự tại. Đó
tức là giải thoát khỏi sinh tử. Một
con người không còn bị ngoại cảnh chi
phối, trói buộc, thì người đó sẽ
không còn tạo nghiệp dẫn tới sinh tử,
mà có thể giải thoát khỏi sinh tử,
tự chủ đối với sinh tử.
Đó tức là giáo lý căn bản của đạo Phật.
Đứng về nguyên tắc mà nói, đạo
Phật không có giáo điều nếu nói có
giáo điều thì đó là giới luật.
Thế nhưng, giới luật của đạo Phật
không phải xuất phát từ mệnh lệnh,
từ ý chí của Thần Thánh như ở các
tôn giáo khác, vì vậy cũng không có
bao hàm tính chất thần bí như ở các
tôn giáo khác. Giới luật của đạo
Phật, dựa vào yêu cầu của chân lý,
và có tính chất đơn thuần lý tính.
Giới luật căn bản của đạo Phật là 5
giới, 10 điều thiện, 8 giới, và 10
giới của người xuất gia, giới luật
của Tỷ khiêu, Tỷ khiêu ni, ngoài ra lại
còn có giới luật bồ tát của đại
thừa. Nhưng tất cả đều lấy 5 giới 10
thiện làm nền tảng. Các giới luật
khác đều chỉ dựa vào 5 giới 10 thiện
mà nâng cao lên hay là phân biệt chi
tiết thêm mà thôi. Vì vậy, nếu giữ
gìn được hoàn thiện 5 giới, 10 thiện,
thì chấp hành các giới luật khác sẽ
cũng không khó khăn gì lắm.
Năm giới là : không sát sinh, không
trộm cắp, không tà dâm, không nói
dối, không uống rượu.
Mười thiện là dựa trên 5 giới rồi
mở rộng, đi sâu thêm, đồng thời
ngăn làm ác và khuyến khích làm điều
thiện. Nay lập biểu đồ như sau :
1. Không sát
sinh :
từ bỏ sát sinh tức cứu sinh
2. Không trộm
cắp :
từ bỏ trộm cắp tức bố thí
3. Không tà dâm : từ bỏ tà hạnh tức giữ phẩm hạnh
4. Không nói dối:
_Từ bỏ nói dối tức là nói lời thành thực
_Từ bỏ nói lời hai lưỡi tức nói lời hòa nhã
_ Từ bỏ nói lời độc ác tức nói lời ái kính
_ Từ bỏ nói lời thêm bớt tức nói lời ngay thẳng
5. Không uống rượu
_Từ bỏ tham dục tức thanh tịnh
_Từ bỏ giận dữ tức từ bi
_Không tà kiến tức chínnh kiến
Nói tóm lại, yêu cầu của
đạo Phật về mặt giới luật là tránh
mọi điều ác, làm mọi điều lành.
Phàm tất cả những việc gì có hại
đối với thân tâm, gia đình, xã hội,
quốc gia, nhân loại, cho đến tất cả
mọi loại hữu tình, đều năm trong phạm
vi cấm đoán của 5 giới, 10 thiện, và
chúng ta gắng hết sức tránh không làm.
Nếu không có hại mà có lợi thì ra
sức làm. Làm ác là phạm giới, không
làm điều thiện cũng là phạm giới.
Thế nhưng, Phật giáo là soi sáng. Nếu
phạm giới mà không biết thì tuy có
làm mà không phải là phá giới. Nếu
vô tâm mà phạm giới, thì tuy là có
phạm đấy nhưng không mắc tội phá
giới. Nếu cố ý phạm giới, thì dù
có không phá giới cũng vẫn mắc tội.
Nếu phụ nữ bị cưỡng dâm, chỉ miễn
là không cảm thấy khoái lạc của dâm
dục, thì tuy là bị làm nhục cũng không
phải là phạm giới, cũng vẫn là trong
sạch. Phạm giới phải có đủ ba điều
kiện tâm, cảnh, sự, mới gọi là mắc
tội phá giới.
Nguồn: www.quangduc.com