Quãng Ðường Tu Hành Của Thái
Tử.
(Theo Kinh Thánh Cầu, Trung Bộ Kinh I; Ðại Kinh Saccaka;
Kinh La-Ma; Ðại I. 775C; Kinh Sư Tử Hống, Ðại I, Trung Bộ I; Kinh Khô Ấm,
A-hàm, Ðại I. 584-C; bia ký của vua A-dục; và tài liệu Kimura Taiken).
Nhìn thấy rõ tướng vô thường và khổ đau đang bủa
xuống quanh cuộc sống, đêm rằm tháng hai âm lịch, Thái tử lên ngựa
Kiền-trắc (Kanthaka) cùng với người hầu cận trung thành Xa-nặc (Chandaka)
vượt hoàng thành vào Hy-mã để lại đằng sau cuộc sống thương yêu và
vương vị.
Dưới chân núi Tuyết, Thái tử lại một lần nữa từ
giã Xa-nặc thân thương và Kiền-trắc trân quý (Sử chép, về sau
Kiền-trắc bỏ ăn mà chết). Ðằng trước Ngài là rừng xanh, đằng sau
Ngài là sanh tử.
Thái tử tìm đến học đạo với A-đa-la
Già-đa-na (Alàra Kàlàma), một đạo sĩ đã chứng đắc Vô sở hữu xứ định.
Không bao lâu, Ngài chứng đắc những gì mà Alàra đã chứng đắc. Biết
rằng đây không phải là đích giải thoát, Ngài từ giã Alàra đến học
đạo với Ưu-đà Già-la-ma Tử (Uddaka Ràmaputta), vị đạo sĩ đã chứng đắc
Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Chỉ trong một thời gian ngắn, Ngài chứng
đắc những gì mà Uddaka đã chứng đắc. Lại biết rằng đây vẫn còn ở
trong vòng sanh tử, Ngài lại ra đi, chẳng còn ai để theo học đạo nữa.
Ngài cùng với năm anh em Tôn giả Kiều-trần-như (Kodanna) tu khổ hạnh sáu
năm. Ngài trở thành đạo sĩ đệ nhất khổ hạnh, đệ nhất bàn uế,
đệ nhất yếm ly, và đệ nhất độc cư Thiền định. Cho đến
khi thân chỉ còn da bọc xương, Ngài nhận ra rằng đây chỉ là một ngõ
đường tu lầm lẫn; rồi một mình một bóng ra đi.
Trong thời gian khổ hạnh, có ba tư tưởng đặc biệt
chưa từng có trước đây đã khởi lên trong tâm Ngài.
- Như với một khúc cây xanh, đầy nhựa sống, để
trong nước thì sẽ không nhúm lên lửa được. Cũng vậy, với lòng đầy dục
vọng, tham ái, người tu sẽ không chứng được Chánh Ðẳng Giác.
- Như với khúc cây xanh ấy, sau khi vớt ra khỏi nước,
sẽ không nhúm lên được lửa. Cũng vậy, với lòng đầy tham ái, nhiệt
não, người tu sẽ không đi đến chứng ngộ Vô thượng Bồ Ðề?
- Như với khúc cây khô, được lấy ra khỏi nước, và
được để trên một chỗ đất khô, với đồ làm lửa, người ta có
thể nhúm lên được lửa. Cũng vậy, với lòng xả ly dục ái, tham ái,
người tu có thể chứng đắc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác (2).
Ngài bắt đầu dồn hết nổ lực vào việc tu tập
Thiền định, dùng tâm chế ngự tâm. Nỗ lực tu tập quá mức, thân
Ngài bị đau đớn và tâm Ngài dao động. Ngài tập nín thở đến thời gian
lâu nhất có thể nín được, lại càng nghe đau đớn bất an. Nỗ lực
nín thở thêm nhiều lần nữa, Ngài vẫn không thấy được ánh sáng giải
thoát. Bỗng nhiên, trong một thoáng, Ngài nhớ lại kinh nghiệm vào Sơ
thiền trong dịp lễ Xuống ruộng (Hạ điền), lòng đầy hân hoan, Ngài tin
rằng đây là ngõ vào Chánh giác.
Ngài đi đến nước Ma-kiệt-đà (Magadha) tụ lạc
Ưu-lâu-tần-loa (Uruvelà), nơi có một khóm rừng xinh đẹp, có con sông trong
trẻo, êm ả chạy gần, có làng mạc rất dễ khất thực. Ngài dừng chân và
chọn đây làm cứ điểm tìm đạo sau cùng.
Ngài giữ chánh niệm, tỉnh giác hành Thiền, ly
dục và lần lượt vào Tứ sắc định, hướng tâm đến Tam minh, Ngài thấy
rõ lý Duyên khởi, khéo tác ý thuận chiều, biết rằng:
Do cái này có mặt, cái kia có mặt;
Do cái này sanh, cái kia sanh;
Do vô minh có hành, do hành có thức v.v...
Ngài thấy rõ nguyên nhân của khổ đau: chính sự tập
khởi của Mười hai nhân duyên là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn. Ở canh
một này, Ngài chứng Túc mệnh thông (Túc mệnh minh) thấy rõ vô lượng
kiếp quá khứ của mình (Tự thân).
Sang canh hai, Ngài chứng Thiên nhãn thông (Thiên nhãn
minh), thấy rõ vô lượng kiếp quá khứ của chúng sanh, với các nghiệp
nhân và nghiệp quả, và thấy rõ con đường thọ nghiệp của chúng
sanh.
Qua canh ba, Ngài tác ý nghịch chiều Duyên khởi:
Do cái này không có, cái kia không có;
Do cái này diệt, cái kia diệt;
Do vô minh diệt nên hành diệt v.v...
Ngài như thật thấy khổ đau, nguyên nhân của khổ đau,
sự đoạn tận khổ đau và con đường đưa đến đoạn tận khổ đau. Ở
canh này, Ngài chứng Lậu tận thông (Lậu tận minh), biết rằng đây ra đời
sống cuối cùng, không còn tái sanh nữa - Ở đầu canh một, khi vào
Thiền định lạc là khi Ngài đã chứng rốt ráo Thiên nhĩ thông, Tha tâm
thông và Thần túc thông. Như thế ở canh ba, Ngài chứng đủ Lục thông.
Ðến canh năm, Ngài tác ý thuận và nghịch
chiều. Duyên khởi, thấy rõ:
Do cái này có, cái kia có;
Do cái này sanh, cái kia sanh;
Do cái này không có, cái kia không có;
Do cái này diệt, cái kia diệt.
Ðúng lúc sao mai mọc, Ngài chứng đắc Vô thượng
Chánh Ðẳng Giác. Ngài là vị A-la-hán Chánh Ðẳng Giác đầu tiên trong
hiện kiếp. Về sau, Ngài được xưng tán là Thế Tôn, đầy đủ
mười danh hiệu: Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Con Ðường Giáo Hóa.
Ðức Thế Tôn phân vân trước con đường giáo hóa:
Giáo lý giải thoát thì tế nhị, thâm sâu, ly dục, vô ngã, đi ngược
với tập quán ham muốn và suy tư chấp ngã của con người, làm sao để con
người chấp nhận giáo lý ấy?
Giữa lúc ấy, Phạm thiên Sahampati xuất hiện thỉnh
cầu Thế Tôn cứu thế, chuyển bánh xe Pháp vì hạnh phúc cho chư
Thiên và loài Người. Rồi hình ảnh hồ sen trước mặt, có những cọng sen
vươn ra khỏi mặt nước, có những cọng lưng chừng, có những cọng ở
sâu trong lòng nước v.v... gợi lên trong Thế Tôn hình ảnh căn cơ bất
đồng của con người: Có những căn cơ thấp như những cánh sen ở đáy hồ,
những căn cơ trung bình như những cánh sen ở lưng chừng nước, cũng có những
căn cơ cao có thể tiếp nhận giáo lý giải thoát của Ngài, như
những cánh sen đã nhô ra khỏi mặt nước có thể tiếp thu ánh sáng mặt
trời. Thế Tôn liền quyết định lên đường chuyển vận bánh xe
Pháp.
Ngài dùng tuệ nhãn quán sát ai sẽ là người có cơ
duyên được độ trước. Ngài nghĩ đến hai vị thầy cũ, Alàra và Uddaka.
Hai người đã thác sanh. Tiếp đến Ngài nghĩ đến năm người bạn
cùng tu khổ hạnh, thấy họ đang trú ở vườn Nai (Lộc Uyển), ở Banares
(Bàranàsi). Ngài liền đi bộ đến đấy. Tại đây, bài pháp đầu tiên
về Tứ đế được giảng gọi là "Sơ Chuyển Pháp Luân".
Nghe xong, Tôn giả Kiều-trần-như (Kodanna) chứng đắc Tu-đà-hoàn. Thế
Tôn thu nhận năm Tôn giả làm các đệ tử đầu tiên.
* Lần đầu tiên, Ngôi Tam Bảo
được hình thành, khởi đầu của Giáo hội Phật giáo.
Thế Tôn giảng tiếp Vô ngã, rằng Năm uân là vô
thường, nếu ai thoát khỏi tham ái, thì sẽ ra khỏi tái sinh, được giải
thoát. Năm Tôn giả: Kiều-trần-như (Kodanna) Bà-phạ (Vappa), Bà-đề
(Bhaddhiya), Ma-ha-nam (Mahànàma) và Thuyết Thị (Assaji) lần lượt chứng đắc
A-la-hán.
Thế Tôn tiếp độ Da-xá (Yasa) ở Benares với bốn
người khác nữa, tất cả đều đắc A-la-hán. Thế là, tại Benares, Giáo
hội được hình thành gồm mười một vị A-la-hán (kể cả Thế Tôn).
Sau khi dạy mười vị A-la-hán đầu tiên mỗi vị đi
về một phưong để hoằng hóa, Thế Tôn tiếp tục đi đén
Ưu-lâu-tần-loa (Uruvela) thuyết pháp độ ba anh em Ca-diếp (Kassapa) và
ngót một ngàn đệ tử của ba Ngài. Ở đây, vua Tần-bà-sa-la (Bimbisàra)
yết kiến Thế Tôn. Sau khi nghe Thế Tôn thuyết giảng, nhà vua
hiểu pháp, liền cung thỉnh Thế Tôn cùng một ngàn vị A-la-hán
thọ trai, rồi dâng cúng Thế Tôn và chư Tăng tịnh xá Trúc Lâm
(Veluvana), một khuôn viên rộng lớn gần thành Vương Xá. Bấy giò là tháng
Vesakha, giữa tháng tư và tháng năm dương lịch, đầu mùa kiết hạ. Giáo
hội của Thế Tôn an cư mùa mưa đầu tiên ở đây. Hai tháng
tiếp theo mùa an cư, Thế Tôn và chư Tăng trú ở Vương Xá. Chính trong
thời gian này, một đạo sĩ tu khổ hạnh có ngót năm trăm đệ tử, trong
đó có tôn giả Xá-Lợi-Phất (Sàriputta) và Mục-Kiền-Liên (Moggallàna),
được Thế Tôn hóa độ. Từ đấy, thường có một ngàn hai trăm năm mươi
vị Tỳ-kheo tháp tùng Thế Tôn.
Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên vốn là hai
người bạn chí thân. Trên đường tìm đạo giải thoát, trước khi gặp Thế
Tôn, Tôn giả Xá-lợi-phất đã chứng đắc Tu-đà-hoàn quả khi lần đầu tiên
nghe Tôn giả Thuyết thị nói tóm tắt giáo lý Duyên khởi. Sau đó,
trước Thế Tôn, hai Tôn giả đều chứng đắc A-la-hán.
Tôn giả Xá-lợi-phất là bậc trí tuệ bậc nhất của
Giáo hội, Tôn giả Mục-kiền-liên là bậc thần thông đệ nhất. Do lẽ
đó, Thế Tôn chọn Tôn giả Xá-lợi-phất làm trưởng tử, bậc Tướng
quân Chánh pháp và chọn Tôn giả Mục kiền liên là đại đệ tử
thứ hai. Từ đấy, hai Tôn giả thường thay mặt Thế Tôn để hướng dẫn
Tăng chúng. Ðây là thời điểm đánh dấu sự phát triển mạnh của Giáo
hội Phật giáo dưới sự lãnh đạo của Thế Tôn.
Giữa mùa đông năm ấy, Thế Tôn trở về
Ma-kiệt-đà, Vua Tịnh Phạn hay tin, liền gởi một sứ thần và phái đoàn
gồm một ngàn người đến thỉnh mời Thế Tôn về thăm hoàng
triều. Cả phái đoàn đều xuất gia. Nhà vua lại phái một phái đoàn
gồm một ngàn người khác đi thỉnh mời. Tất cả lại đều xuất gia, không
trở về triều. Lần thứ ba nhà vua cử Ka-lưu-đà-di (Kàludàyi), con một
đại thần, là bạn cùng tuổi thời trai trẻ của Thái tử Tất-đạt-đa,
Ka-lưu-đà-di cũng xuất gia. Tất cả hai ngàn người của hai đoàn sứ giả và
Ka-lưu-đà-di đều chứng đắc A-la-hán. Liền sau đó, Ka-lưu-đà-di
bạch lên Thế Tôn lời thỉnh cầu của vua Tịnh Phạn. Thế Tôn nhận lời,
rồi cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo lên đường hóa độ Hoàng
tộc.
Bấy giờ, Nan-đà (Nanda), em trai của Thế Tôn, và
La-hầu-la (Ràhula) con của Thế Tôn đều xuất gia. Vua Tịnh Phạn đắc
Tư-đà-hàm, di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề đắc Tu-đà-hoàn (về sau di mẫu
cùng bà Da-du-đà-la xuất gia và đắc A-la-hán); vua Tịnh Phạn ở tại vị và
đắc A-la-hán vào lúc xả báo thần, đúng theo truyền thống của Phật-đà
ghi ở Kinh Ðại Bổn. Các hoàng thân Bà-đề (Bhaddiya), A-nậu-lâu-đà
(Anuruddha), A-nan (Ananda), Bà-già (Bhagu), Bạc-câu-la (Kimbila),
Ðề-bà-đạt-đa (Devadatta) cùng người thợ hớt tóc của các hoàng thân,
Ưu-ba-ly (Upàli), cũng xin xuất gia. Bà-đề từ đầu đắc liền Tam minh,
A-nậu-lâu-đà đắc Thiên nhãn và Túc mệnh minh, A-nan đắc Tu-đà-hoàn.
Ưu-ba-ly về sau đắc A-la-hán, Ðề-bà-đạt-đa đắc Tứ thiền sắc
giới.
Tiếp tục cuộc hành trình hoẵng hóa, Thế Tôn
đến Xá-vệ (Sàvatthì) độ cư sĩ Cấp Cô Ðộc (Anàthapindika), nhận
ngội vườn và Tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavana) do cư sĩ này dâng cúng, và độ nữ
cư sĩ Lộc Mẫu (Visàkhà). Hai người cư sĩ này hộ pháp rất đắc lực, hàng
ngày đến vấn an sức khỏe đức Thế Tôn và lo tứ sự cúng dường (y
áo, thức ăn, thuốc men và sàng tọa) cho chư Tăng.
Năm thứ năm sau ngày Thế Tôn thành đạo, bà
Ma-ba-xà-ba-đề được Thế Tôn nhận lời, qua lời khẩn khoản thỉnh cầu
của Tôn giả A-nan, cho xuất gia kèm theo điều kiện "Bát Kỉnh
Pháp". Giáo hội Ni ra dời từ đây.
Từ đây, khi Giáo hội Tăng và Ni thành lập với số
Tăng-Ni khá đông, nhiều qui luật tu hành bắt đầu được thiết lập.
Theo tài liệu của Edward J. Thomas, Chương X, trong
cuốn "The Life of Buddha as Legend and History", thì một số vấn đề
giới luật bắt đầu tượng hình vào năm thứ sáu sau ngày Thế Tôn
chuyển bánh xe Pháp, và thành hình rõ từ năm thứ mười sau ngày thành
đạo. Theo Luật tạng thì giới luật hẳn nhiên được đặt ra từ năm thứ mười
ba, do Tôn giả Ưu-bà-ly đặc trách (vấn đề này sẽ được bàn đến ở
phần Giới học, chương Pháp Bảo).
Trong giáo hội Tăng và Ni, Thế Tôn đã tuỳ duyên
hóa độ đủ mọi giai cấp trong xã hội, không phân biệt giàu nghèo, nam
nữ, sang hèn, ngưòi có trình độ văn hóa cao, thấp, địa vị v.v.:
- Tôn giả Xá lợi Phất và Mục-kiền-liên đại
biểu thành phần học giả, trí thức.
- Tôn giả A-nậu-lâu-đà, A-nan... đại biểu cho thành phần hoàng tộc, vua
chúa.
- Tôn giả Ưu-ba-ly đại biểu giai cấp công nhân.
- Tôn giả Angulimàla là một tướng cướp.
- Nữ tôn giả Patàcàrà là người bình dân, đã loạn trí vì đau khổ cùng
độ (mất hết cha mẹ, em, chồng và con).
- Một cô gái giai cấp cùng đinh.
- Ni cô Addahakasi vốn là kỹ nữ, v.v... (Trưởng lão Ni kệ).
Thế Tôn tiếp tục giáo hóa độ sanh cho đến
tám mươi tuổi mới vào Niết bàn vô dư y. Kinh chép, hàng đệ tử nổi
bật của Ngài gồm có:
* Về chư Tăng: (Tăng
Chi Bộ Kinh I, Phẩm Tối Thắng).
- Tôn giả Kiều-trần-Như là vị xuất gia đầu tiên.
- Tôn giả Xá-lợi-phất: Trí tuệ đệ nhất.
- Tôn giả Mục-kiền-liên: Thần thông đệ nhất.
- Tôn giả Ca-diếp: Ðầu đà đệ nhất.
- Tôn giả Ưu-ba-ly: Trì giới đệ nhất.
- Tôn giả A-nậu-lâu-đà: Thiên nhãn đệ nhất.
- Tôn giả Bà-đề (Bhaddiya): Âm thanh vi diệu đệ nhất.
- Tôn giả Phú-lâu-na (Punna Mantàniputta): Thuyết pháp đệ nhất.
- Tôn giả Ca-chiên-diên (Mahà Kaccana): Thuyết giảng rộng rãi đệ nhất
- Tôn giả Bà-đề (Bhaddiya): Quí tộc đệ nhất.
- Tôn giả Pindola Bhàradyàja: Nói pháp với tiếng rống sư tử đệ nhất.
- Tôn giả La-hầu-la: Ưa thích học tập đệ nhất.
- Tôn giả Tu-bồ-đề (Subhùti): Thanh tịnh và vô tránh đệ nhất, được
cúng dường đệ nhất.
- Tôn giả Ràdha: Biện tài đệ nhất.
- Tôn giả Kiếp-tân-na (Mahà Kappina): Giáo giới đệ nhất.
- Tôn giả Revata: Ðộc cư Thiền định đệ nhất.
* Về chư Ni:
- Nữ tôn giả Ma-ha-ba-xà-ba-đề: Trưởng lão Ni
đệ nhất (tu đầu tiên).
- Khemà: Trí tuệ đệ nhất.
- Uppalavannà: Thần thông đệ nhất.
- Dhammadinnà: Thuyết pháp đệ nhất.
- Nandà: Tu thiền đệ nhất.
- Bakulà: Thiên nhãn đệ nhất.
- Bhaddakàccàna: đại thắng trí đệ nhất.
- Kisagotami: Ðệ nhất mang thô y.
- Sigalàkamàtà: Tín giải đệ nhất.
- Sonà: Tinh cần đệ nhất.
* Về Nam cư sĩ:
- Cư sĩ Tapassubhalli: quy y đầu tiên.
- Cấp Cô độc: Bố thí đệ nhất.
- Citta: Thuyết pháp đệ nhất.
- Hatthaka Alavaka: Nhiếp phục hội chúng đệ nhất.
- Hatthigàmaka Uggata: Hộ trì chư Tăng đệ nhất.
- Ambattha: Tịnh tín đệ nhất.
- Nakulapità: Thân mật đệ nhất.
- ...
* Về Nữ cư sĩ:
- Sujàta (Tu-xà-đề): Quy y đầu tiên.
- Visàkhà: Bố thí đệ nhất.
- Khujjutarà: Ða văn đệ nhất.
- Uttara: Tu thiền đệ nhất.
- Suppiyà: Săn sóc bệnh nhân đệ nhất.
- Kàtiyàni: Tịnh tín đệ nhất.
- Nakulamàtà: Thân mật đệ nhất.
- ...
Những Ngày Cuối Cùng.
(Theo kinh Ðại Bát Niết bàn. Trường Bộ Kinh III).
Năm tám mươi tuổi, trở nên già yếu, Thế Tôn
quyết định nhập Niết Bàn Vô dư y, sau ba lần Ma vương (Màra) thỉnh
cầu, và sau ba lần Thế Tôn gợi ý cho Tôn giả A-nan thỉnh cầu Thế
Tôn trú thế mà Tôn giả không nhận ra ý của Ngài.
Ba tháng cuối cùng, Thế Tôn cùng Tôn giả A-nan đi
bộ từ thành Vương Xá đến Beluva.
Trên đường đi, trong thời gian này, Thế Tôn đã
ngăn được một chiến sắp xảy ra giữa xứ Ma-kiệt-đà của vua
A-xà-thế (Ajatasattu) và xứ Bạt-kỳ (Vajji).
Thế Tôn tiếp tục độ những ai đáng được độ.
Du sĩ ngoại đạo Subbaddha là ngưòi sau cùng được Thế Tôn cho xuất gia,
thọ đại giới. Không bao lâu sau đó, Subbaddha đắc A-la-hán. Ðây là vị
A-la-hán sau cùng trước khi Thế Tôn nhập diệt.
Một cư sĩ khác, Cư sĩ Thuần-đà (Cunda), người thợ
sắt, được Thế Tôn thuyết pháp khích lệ, đã dâng cúng Thế
Tôn chiếc áo kim sắc (vàng chói) và cúng dường bữa ăn sau cùng. Trong
bữa ăn này, ngoài món ăn thượng vị còn có thứ mộc nhĩ (Sùkara-madde). Dùng
xong, Thế Tôn bị bệnh l?uyết, đau đớn, nhưng Thế Tôn dùng
định lực nhiếp phục khỏi bệnh cùng Tôn giả A-nan tiếp tục cuộc
hành trình đến Kusinàra. Thế Tôn dạy Cunda "Ðó là một loại nấm
độc; chỉ trừ Như Lai ăn xong mới không bị chết, hãy đem chôn phần thức
ăn còn lại". Thế Tôn lại dặn dò Tôn giả A-nan hãy đánh tan mọi
hối hận có thể xảy ra trong lòng Cunda về bữa cơm cúng dường ấy, và
đánh tan dư luận bàn tan hiểu lầm về lòng thành cúng dường của Cunda
- (Theo kinh Ðại Bát Niết-Bàn, Trường Bộ III).
Những Lời Dạy Cuối Cùng.
- "Này A-nan, Pháp và Luật mà Ta đã giảng dạy và
trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là bậc Ðạo sư
của các Ông" (Ibid. tr. 154).
- "Này A-nan, sau khi Ta diệt độ, có thể
huỷ bỏ những học giới nhỏ nhặt" (Ibid. tr. 154).
- "Này các Tỳ-kheo (Bấy giờ có mặt năm trăm vị
Tỳ-kheo đều là Thánh hữu học), vô học, nếu có Tỳ-kheo nào
nghi ngờ về Phật, Pháp và chúng Tăng, Ðạo hay phương pháp, thời hãy hỏi
đi, về sau chớ có hối tiếc...".
Thế Tôn hỏi ba lần, nhưng tất cả đều im lặng,
biểu lộ sự không còn có nghi ngờ.
- "Này các Tỳ-kheo, nay Như Lai khuyên các Ông; Các
pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật" (Ibid. tr.
156).
Chính đây là lời dạy sau rốt trong những lời dạy sau
cùng của Như Lai.
Thế Tôn Nhập Vô Dư Y
Niết-Bàn.
Thế Tôn dạy Tôn giả A-nan cùng đi đến rừng
Ta-la (Sàlà) của dòng họ Mallà ở Kusinàra. Ta-la tự nhiên trổ hoa trái
mùa đầy cành. Thế Tôn dạy dọn chỗ nằm, đầu hướng về phía
Bắc, giữa hai cây Ta-la song đôi. Thế Tôn nằm nghiêng về hông bên
phải, hai chân để lên nhau. Sau khi dạy xong những lời dạy cuối cùng.
Thế Tôn nhập định sơ Thiền rồi xuất sơ Thiền, nhị Thiền rồi
xuất nhị Thiền.... Phi tưởng phi phi tưởng rồi xuất Phi tưởng phi phi
tưởng, nhập Diệt thọ tưởng rồi xuất Diệt thọ tưởng định,
nhập Phi tưởng phi phi tưởng rồi xuất phi tưởng phi phi tưởng... nhập sơ
Thiền, xuất sơ Thiền, cho đến nhập tứ Thiền, xuất tứ
Thiền, Thế Tôn lập tức diệt độ.
Sau khi Thế Tôn nhập diệt, chư Thiên và loài
Người, những ai chưa tận trừ trừ tham ái thì khóc than, áo não; những ai đã
tận trừ tham ái thì vững trú trong chánh niệm rằng: "Các hành là vộ
thường, làm sao có thể khác được?"
Lễ Hỏa Thiêu Xá Lợi Và Dựng
Tháp Tôn Thờ Xá Lợi.
Dân chúng Mallà ở Kusinàrà liên tục đảnh lễ, cung
kính cúng dường kim thân Thế Tôn với các điệu múa, điệu nhạc,
hướng và hoa, rồi lập những dàn hỏa thiêu tại đền Makuta Bandhana.
Kim thân của Thế Tôn được học 500 lớp vải (cứ
một lớp vải tinh, một lớp vải thô), đặt vào một hòm đầu bằng sắt, hòm
này lại được bọc kín bởi một hòm sắt khác. Dàn hỏa thiêu làm bằng
loại gỗ hương thơm.
Dàn hỏa thiêu không thể bắt lửa cho đến khi
Tôn giả Ðại Ca-diếp kịp về đảnh lễ dưới chân Thế Tôn. (Khi
được tin Thế Tôn thị tịch thì Tôn giả Ðại Ca-diếp đang ở giữa
chặng đường từ Pàvà đến Kusinàra).
Khi thiêu xong, không có thân hay tro còn lại, mà chỉ
có Xá lợi. Một dòng nước từ hư không và một dòng nước từ cây ta-la rưới
tắt dàn hỏa. Dân Mallà thì rưới tắt với các thứ nước thơm.
Dân Mallà tôn tri Xá-lợi trong giảng đường, suốt bảy
ngày cung kính đảnh lễ, dâng vũ, nhạc, hương hoa cúng dường.
Xá Lợi được phân chia làm tám phần cho:
1. Vua nước Maggadha.
2. Dòng họ Licchavi ở Vesàni (Dòng Sát-đế-lợi).
3. Dòng Thích-ca ở Ca-tỳ-la-vệ.
4. Dòng người Puli ở Allakappa (Dòng Sát-đế-lợi).
5. Những người Koli ở Ràmagàma (Dòng Sát-đế-lợi).
6. Những người Mallà ở Kusinàra.
7. Những người Mallà ở Pàvà.
8. Bà-la-môn Vethadipaka.
Mười ngôi tháp được dựng lên để tôn thờ
Xá-lợi:
- Tám tháp tôn thờ tám phần Xá-lợi.
- Một tháp thờ cái bình dùng để phân chia Xá-lợi.
- Một tháp tôn thờ tro Xá-lợi.
Sự Khác Biệt Giữa Tư Tưởng
Ấn Ðộ Và Phật Giáo Dưới Thời Thế Tôn.
Tư tưởng Ấn Ðộ trước thời đức Phật và trong
thời đức Phật:
Các nhà nghiên cứu về tư tưởng Ấn Ðộ thường
có nhiều nhận định khác nhau. Phát biểu về sự liên hệ giữa
Vệ-đà và Phật giáo cũng thế. Phải là một công trình nghiên cứu
thật công phu mới có thể có sự phân biệt rõ ràng và có giá trị
về những điểm dị đồng giữa tưởng Ấn Ðộ và Phật giáo.
Trong phần trình bày ngắn gọn này, chúng tôi chủ
trương trưng dẫn vài nhận định tiêu biểu và thêm vào ý kiến
của riêng mình dựa vào năm Nikàya và bốn Agàma.
Theo Radhakrishnan và Moore, trong cuốn "Indian
Philophy", Triết lý Ấn Ðộ chia ra làm năm giai đoạn:
* Giai đoạn I: Từ 2500 TTL đến 600 TTL là giai đoạn
của tư tưởng Vệ-đà.
* Giai đoạn II: Từ 600 TTL đến 200 TL là giai đoạn
tư tưởng Anh hùng ca.
* Giai đoạn III: Là giai đoạn của những thế kỷ
đầu Tây Lịch, giai đoạn của Kinh (Sutra). Giai đoạn này gồm các phái
Triết học:
- Nyàna hay Thực tại luận lý (Logical Realism).
- Vaisesika hay Thắng luận, hay Ða nguyên thực tại luận.
- Sàmkhya hay số luận, hay Tiến hóa nhị nguyên luận (Evolutionary Dualism).
- Yoga hay Thiền định.
- Pùrva Mìmamsa: những công trình diễn dịch đầu tiên về Vệ-đà liên
hệ đến Giới, và Uttara Mimamsa hay những khảo cứu về sau về
Vệ đà liên hệ đến tri kiến, cũng gọi là Vệ-đàn-đà
(Vedanta), đích của Vệ-đà.
* Giai đoạn IV: là giai đoạn học thuật, giai đoạn
của các bản luận viết để giải thích các Kinh đã ra đời.
* Giai đoạn V: Tư tưởng Ấn Ðộ đương thời.
Giai đoạn Vệ-đà là giai đoạn tư tưởng của văn
hóa và văn minh Aryans, từ Trung Á truyền qua. Ðây là giai đoạn triết
học tựu thành ở Upanishads. Có bốn loại Vệ-đà: Xưng tụng cái
Biết (Rig-Veda), Vệ-đà về Tế tự (Yajur-Veda); Vệ-đà về
Thần chú, Ca vịnh (Samma-Veda), và Vệ-đà do Ðạo sĩ Atharva truyền lại,
có tính cách tham bác và triển khai ý nghiã của ba bộ kia
(Atharva-Veda).
Tư tưởng chủ yếu của người Ấn trong thời
Vệ-đà này là: Chân lý do Thượng Ðế mặc khải cho loài Người ở
đầu mỗi chu kỳ vũ trụ (mỗi chu kỳ: 4320 triệu năm trên trái đất.
Rig-Veda đề cập đến rất nhiều vị thần như thần Mặt trời (Sùrya),
thần Lửa (Aggi), thần Bầu trời (Dyaus), thần Bão tố (Maruts), thần Gió (Vayu hay
Vàta), thần Nước (Apas), thần Bình minh (Usas), thần Ðất (Prthivì), v.v...
Nhưng theo Radhakrishnan và Moore (Ibid, tr. 5) khi dân Ấn thờ vị thần nào
thì vị thần ấy trở nên vị Thần chúa tể (đấng sáng tạo và hủy diệt
vũ trụ.) Vì thế, Vệ-đà vừa mang ý nghĩa đa thần, vừa mang ý
nghĩa nhất thần, có thể được gọi là Ưu đẳng thần (Henotheism hay
Kathenotheism).
Ðến thời kỳ thứ hai của tư tưởng Ấn Ðộ,
Phật giáo xuất hiện cùng với Kỳ-na giáo (Jainism), Saivism và Vaisnavism.
Phật giáo xuất hiện có nghĩa là Phật giáo mang một
nội dung khác với nội dung tư tưởng Ấn Ðộ bấy giờ và trước đó.
P.D. Mehta, trong cuốn "Early Indian Religious
Thought", nhà xuất bản Lusac và Company Limited xuất bản ở London năm 1956,
viết rằng: "Tôn giáo được đức Phật đề xuất thì rất độc
đáo, nó khác biệt một cách sửng sốt với tất cả các tôn giáo lớn khác.
Chánh pháp, mà không phải là một con người thần thánh hay tuyệt đối, là
suối nguồn. Mục đích là vô ngã, sự chấm dứt khổ đau, và sự chứng ngộ bất
tử, Niết-bàn...".
(But Religion as pronounced by the Buddha is so orginal that
it is startling different from all the other great religions. The Dhamma, and not a Divine
Person or Absolute, is the fountain head. The goal is selflessness, the cessation from
being a source of sufffering and evil, and the realization of the Deathlessness of
Nirvàna...) (p. 186-187).
Geogre Grimm, một học giả người Ðức, là một Phật
tử, trong phần phụ lục "The Doctrine of the Buddha as the Flower of Indian
Thought" của cuốn "The Doctrine of the Buddha" (Bản dịch ra Anh ngữ
của Tỳ-kheo Sìlàcàra) viết: "Giáo lý của đức Phật cũng gọi
là giáo lý của Vô ngã, tương phản với giáo lý Ngã của
Vệ-đàn-đa" (..."The Doctrine of the Buddha is also called the
doctrine of not-I, anattà-vàda, as contrasted with the I-doctrine, the Attà-vàda, of
the Vedanta") - (p. 370).
Có rất nhiều kinh ở Nikàya và Agama trình bày sự
khác biệt rõ ràng giữa các học thuyết Ấn Ðộ và Phật giáo.
Chúng tôi, người viết, ghi nhận đây là quan điểm riêng của Thượng
tọa bộ và Nhứt thiết hữu bộ.
Kinh Phạm Võng (Brahmajàla Suttam) trình bày có sáu
mươi hai luận chấp của các học thuyết Ấn Ðộ bấy giờ khác
biệt hẳn với Phật giáo. Trong đó có mười tám luận chấp về quá khứ
(gồm bốn thường trú luận, bốn bán thườụng bán vô thường luận, bốn hữu
biên vô biên luận, bốn ngụy biện, và hai vô nhân luận), ba mươi chín
luận chấp về tương lai (gồm mười sáu luận chấp có tưởng sau khi
chết, tám luận chấp vô tưởng sau khi chết, tám luận chấp không phải
có tưởng không phải không có tưởng sau khi chết, và bảy đoạn diệt
luận) và năm luận chấp về hiện tại Niết bàn luận (Hán tạng
tương đương: kinh Phạm Ðộng, A-hàm).
Phẩm Tương ưng Không Thuyết (Avyàkata), Tương Ưng
Bộ Kinh IV, trình bày các luận chấp, các quan điểm sở dĩ có mặt là do
sự có mặt của ái thủ, ái hữu, ái ái, là do có chấp thủ ngã (Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành và Thức). Ðây là điểm khác biệt rõ ràng giữa các
học thuyết Ấn Ðộ dưới thời Thế Tôn với Phật giáo. Một đằng
chủ trương các thuyết liên hệ đến Ngã, một đằng chủ trương
hết thảy các pháp là Vô ngã. Một số các học giả bấy giờ cho rằng
tư tưởng Vệ-đà và Phật giáo gặp gỡ nhau ở thuyết Nghiệp báo
(Kamma, Skt. Karma), Luân hồi (Samsàra) và Giải thoát. Người viết nghĩ rằng
đây chỉ là sự giống nhau ở tên gọi (danh từ), nhưng nội dung thì chứa
đựng những gì khác hẳn nhau. Chủ trương về nghiệp báo, luân hồi,
nhân quả, giải thoát của Phật giáo sẽ được trình bày ở Chương Pháp Bảo.
Kinh Phạm Ðộng (Hán tạng, Trường A-hàm, quyển 14)
trình bày tương tự về sáu mươi hai luận chấp trên và có kết luận
ngay trong phẩm kinh này rằng "Ngoại đạo do chấp thủ ngũ uẩn mà khởi
xướng sáu mươi hai luận chấp ấy".
Lập trường của Nikàya và Agama có thể được xem
như là lập trường trung thành với Phật giáo khởi nguyên (nguyên thủy) nhất.
Ở đây hiện rõ điểm khác biệt rất là nền tảng giữa Phật
giáo và các tư tưởng Ấn Ðộ đương thời và trước đó.
Ði vào hiện tượng xã hội của sự phân biệt
giai cấp Ấn Ðộ, điểm khác biệt so với Phật giáo lại càng dễ
thấy hơn. Hiện tượng phân chia giai cấp ấy có từ ngàn năm trước
đến thời Thế Tôn và kéo dài cho đến cận đại và hiện đại.
Bốn giai cấp của xã hội Ấn (Gồm Bà-la-môn, Sát
đế lợi, Phệ-xá và Thủ-đà) có nguồn gốc từ kinh Rig-Veda, bản kinh
xưa nhất của Ấn giáo. Rig-Veda, chương X, 90, 11 ghi rằng: "Miệng
Ngài thành tu sĩ Bà-la-môn (Brahmana), hai tay Ngài được tạo thành chiến
sĩ (Kshatriya), hai bắp chân Ngài thành thương nhân (Vaishya), hai bàn chân
Ngài thành tôi tớ (Shudra)".
Các người giai cấp khác nhau không được cưới hỏi
nhau, không được ăn chung bàn, không được cùng hành lễ. Giai cấp cùng
đình Thủ-đà-la đặc biệt bị hành hạ và khinh miệt.
Trong khi đó, Phật giáo chủ trương bình đẳng giai
cấp, bình đẳng giữa con người có máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn. Quan
điểm này được trình bày trong nhiều kinh của Nikàya và Agama. Chính
vì điểm khác biệt này mà có một số Bà-la-môn giáo cho đến nay,
xem Phật giáo như là thù nghịch, cho rằng chính đức Thế Tôn đã làm
đảo ngược truyền thống Ấn Ðộ.
Chủ trương bình đẳng bốn giai cấp Ấn là chủ
trương mang đầy tính cách mạng tư tưởng và cách mạng xã hội. Chủ trương
đó của Thế Tôn, cùng với quan điểm về giáo lý giải thoát
của Ngai, nói lên vị trí độc đáo của Phật giáo trong lịch sử Ấn, cũng
như trong lịch sử nhân loại. Cho dù các bộ phái Phật giáo có nhìn một số
nét khác biệt nhau về Thế Tôn, điều đó cũng không làm thay
đổi giá trị độc đáo đó./.
Ghi chú:
(1) Bản dịch của Nguyên Hồng, Phật học viện Nha
Trang, 1957.
(2) Ðại kinh Saccaka (Mahàsaccakasuttam), Trung Bộ I.
-oOo-
Mục lục |
Bài kế
--- o0o ---
Trình bày : Nhị
Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục