.
THỰC
TẠI HIỆN TIỀN
Viên Minh
--- o0o ---
[08]
TRỞ LẠI BÁT NHÃ TÂM KINH
25-11-93
Chúng ta đã
biết qua sự tương tác của căn-trần-thức, từ
đó phát sanh sự vận hành của ngũ uẩn. Và chúng ta cũng
đã biết tiến trình tâm. Thập nhị nhân
duyên cũng vậy, đều là những tiến
trình tâm, lúc sinh khởi, lúc không sinh khởi.
Tất cả những điều đó giúp
chúng ta dễ dàng đi vào kinh
Bát Nhã. Vậy chúng ta hãy trở lại kinh Bát Nhã một lần nữa.
* Quán Tự Tại Bồ Tát: người ta thường giải thích
Quán Tự Tại là một nhân vật, là Đức Quán Thế
Âm. Nhưng thật ra Đức Quán Thế Âm là một nhân vật biểu tượng. Ở
đây lại không nói là Quán Thế Âm mà
gọi là Quán Tự Tại. Cho nên, dầu Quán Tự Tại có là một biểu tượng
đi nữa thì ngay trên ngôn ngữ cũng
đã hàm một ý nghĩa: Quán tức là
soi chiếu. Tự tại là trọn vẹn chính mình, trọn vẹn nơi tự thân,
trọn vẹn với cái đang là hiện hữu tại
đây và bây giờ. Ở nơi mình
đây nghĩa là ở nơi căn,
trần và thức này (6 căn + 6 trần +
6 thức). Quán tự tại không có nghĩa là cứ dòm vô bên trong mình
đâu. Có nhiều người tưởng lầm "hồi
quang phản chiếu" là quay vô bên trong mình, là tuyệt
đối nội quán. Không phải thế, quán tự tại là
soi chiếu từ nơi sự sống đang vận hành,
tức là toàn bộ căn-trần-thức, khổ, lạc, xả
v.v... đó là Quán Tự Tại. Dùng chữ tự tại rất hay. Thiền tông thì
dùng chữ "kiến tánh". Mặc dù kiến tánh là
đúng, nhưng chữ "kiến tánh" có
thể gợi lên một ý sai, bởi vì kiến tánh thì người ta dễ nghĩ không kiến
tướng, kiến dụng, kiến thể, kiến nhân, kiến quả hay sao? Kiến tánh theo
Thiền Tông, thật ra, bao gồm tất cả các kiến ấy, là toàn diện, chứ không
phải tánh với nghĩa là bản thể của bản thể luận ngoại
đạo. Có người tham công án để mong đạt được "bản
thể vĩnh hằng" gì đó là thường
kiến rồi. Không phải đâu! Không có cái bản
thể không tưởng ấy đâu! Vậy dùng chữ "quán tự tại" hay hơn,
chính xác hơn. Tự tại bao hàm tánh, tướng, thể, dụng, nhân, quả, duyên,
báo... còn nói kiến tánh dễ bị lầm lẫn tai hại. Người ta tưởng là sẽ "kiến
được một cái tánh gì
đó". Kiến tánh
đúng nghĩa của Thiền Tông là trả lại
nguyên bản chất của pháp. Không phải thể tánh
đối đãi với hình tướng.
Cho nên, quán tự tại là soi chiếu toàn
bộ sự tương giao nơi sự sống đang vận hành.
Bồ Tát: chữ "Bồ Tát". Cũng cần
được minh định lại. Bồ Tát là
bodhisatta, thường âm là Bồ đề Tát
Đỏa. Bodhi là tuệ giác. Satta là chúng
sinh hữu tình. Người Trung Hoa dịch là giác hữu tình và hữu tình giác
tức là người tự giác giác tha.
Người có tuệ giác, sống với tuệ giác hoặc tu hành bằng
tuệ giác là người tự giác. Người tự mình có tuệ giác và chỉ cho người khác
biết sử dụng tuệ giác của họ là người giác tha.
Giác tha thường dễ bị lạm dụng trở thành nghĩa cứu
rỗi của Thượng Đế hoặc thần linh, khiến người
ta ỷ lại vào tha lực. Trong khi Phật dạy: Tự mình thắp
đuốc lên mà
đi, nghĩa là muốn giác tha trước
tiên phải tự giác.
Tự giác cũng bị hiểu lầm là hành
động ích kỷ. Thật ra bất cứ ai đạt đến tự
giác đều có giác tha tùy theo công hạnh.
Mục đích cuối cùng
của đạo Phật là thành Phật, dù là
Thanh Văn Phật (Sāvaka
Buddha), Độc Giác Phật (Pacceka
Buddha) hay Toàn Giác Phật (Sabbaññū
Buddha). Cho nên tu Thanh Văn, Độc Giác hay
Toàn Giác đều là Bồ Tát cả.
Trong đạo Phật không bao giờ có người giác
ngộ mà còn ích kỷ, bởi vì ích kỷ thuộc bất thiện mà người giác ngộ
đã vượt qua cả thiện lẫn bất thiện
rồi.
Hơn nữa Thanh Văn Phật,
Độc Giác Phật, hay Toàn Giác Phật đều
tu ba-la-mật cả. Bậc Thanh Văn Phật phải thành tựu 10 pāramī,
bậc Độc Giác Phật phải thành tựu 10
upa pāramī và bậc Toàn Giác Phật
phải thành tựu 10 paramattha pāramī.
Nghĩa là công hạnh (dụng) của Phật Toàn Giác nhiều hơn, chứ không phải
Thanh Văn Giác và
Độc Giác không có giác tha.
Chúng ta không thể tưởng tượng
được rằng một người hành thâm Bát
Nhã Ba la mật đa và chiếu kiến ngũ uẩn
giai không lại là ích kỷ. Chiếu kiến ngũ uẩn giai không thì chẳng còn
một tí tẹo nào cho bản ngã sanh khởi, phải không? Người mà
đã thấy rõ sự thật rồi,
đã sống với sự thật ấy, lại còn chỉ
cho người khác cách sống với sự thật ấy là Bồ Tát
đích thực rồi. Ngài Punna, một vị
Thanh Văn vào thời
Đức Phật còn tại thế,
đã tình nguyện
đến xứ Sunāparanta hoằng pháp bất chấp
mọi tình huống nguy hiểm đến tính mạng, thì
Thanh Văn đâu phải là ích kỷ.
Đức Phật cũng dạy các vị Thanh Văn chia ra nhiều hướng
để truyền thuyết con đường giác ngộ, vì lợi ích chúng sinh, vì sự
an lạc cho đời, thì Thanh Văn
cũng có lòng vị tha vậy. Bồ Tát
đích thực không có đeo loon,
không có đẳng cấp, không cần
bất kỳ một nhãn hiệu nào. Người giác ngộ ví như mặt trời. Mặt trời thì
chiếu sáng, đấy là chức năng
của mặt trời. Những vị giác ngộ giúp cho người khác là
điều tự nhiên, là chuyện
đương nhiên.
Như vậy, ai tự hành đúng
đắn theo đạo giác ngộ thì cũng đều là
Bồ Tát cả.
Có người hỏi:
- Người ta thường nói tu Thanh Văn
khác, tu Bồ Tát khác chúng ta nên hiểu ra sao?
- Thật ra hồi nãy chúng ta
đã nói rồi. Người nào đang tu đúng
theo Phật đạo đều là Thanh Văn mà
cũng đều là Bồ Tát cả. Nhưng Bồ Tát có
3 bậc: Bồ Tát hạnh Thanh Văn, Bồ Tát hạnh Độc
Giác và Bồ Tát hạnh Toàn Giác. Cả 3 bậc
đều cùng tu thập
độ, nhưng bậc thứ nhất nhất chủ về thể, bậc
thứ hai chủ về tướng, bậc thứ ba chủ về dụng. Như vậy nói 3 bậc là
nói theo tác dụng nhưng cùng một thể tánh. Thể tánh bổn lai thanh tịnh
đó gọi là A-La-Hán.
Người ta thường hiểu lầm quả vị A-La-Hán
để dành cho Thanh Văn.
Thật ra tuy nói Phật Thanh Văn, Phật Độc Giác và Phật Toàn Giác là
nói theo tướng dụng, chứ cả 3 đều cùng
đắc một quả vị A-La-Hán như nhau và
đều gọi là Phật.
Ví như cùng tốt nghiệp bác sĩ nhưng người thì
đi dạy y khoa, người thì
đi chữa bệnh, người lại làm phòng thí
nghiệm v.v..., công dụng khác nhau nhưng cũng là bác sĩ.
- Xin hỏi vì sao thầy lại nói ai giác ngộ cũng
đều cũng đều là Thanh Văn
cả?
- Đúng vậy. Ví như một ông
bác sĩ đang dạy học thì gọi là giáo sư, còn những người học y khoa
tốt nghiệp bác sĩ gọi là sinh viên tốt nghiệp y khoa. Sự thật ai cũng là
bác sĩ cả mà một bên là giáo sư một bên là sinh viên. Và ông bác sĩ giáo
sư cũng đã từng là bác sĩ sinh viên
chứ đâu phải tự nhiên mà có. Bác sĩ
giáo sư ví như Phật Toàn Giác, bác sĩ sinh viên ví như Phật Thanh Văn.
Các vị có đọc bài
kinh Sambudhe (chư Phật Toàn Giác) không? Trong bài kinh có khẳng
định rằng, bậc Toàn Giác hạnh trí tuệ
như Đức Bổn Sư Thích Ca của chúng ta, đã
từng nghe pháp của 512.000 vị Toàn Giác quá khứ và cuối cùng
được 28 vị toàn giác thọ ký từ Phật
Nhiên Đăng cho đến Phật Ca Diếp. Như vậy Phật
toàn giác cũng đã từng nghe
pháp (sāvaka) nghĩa là Thanh Văn.
Bậc Toàn Giác hạnh tinh tấn và đức tin
lại còn học đạo kiểu Thanh Văn nhiều
hơn gấp đôi gấp ba lần như vậy nữa.
Vậy đừng chấp danh từ,
chúng ta không thể hiểu nổi mật hạnh Bồ Tát làm Thanh Văn
và Thanh Văn làm Phật
đâu, đừng lạm bàn mà mang tội vô ích.
* Bát Nhã Ba La Mật Đa:
phát xuất từ chữ Paññā pāramitā
tức là trí tuệ bờ bên kia.
Trước hết ta hãy xem bài kệ của
Đức Phật trong kinh Pháp cú rồi so sánh với vài
đoạn kinh văn trong Bát Nhã.
"Sabbe Sankhārā
aniccā'ti
Sabbe Sankhārā ca
dukkhā'ti
Sabbe dhammā anattā'ti
Yadā paññāya passati
Atha nibbindāti dukkhe
Esa maggo visuddhiyā".
Nghĩa là:
"Tất cả các hành
đều vô thường
Tất cả các hành là khổ
Tất cả các pháp là vô ngã
Khi quán chiếu bằng trí tuệ (bát-nhã)
Thì thoát khỏi khổ (đế)
Đó là thanh tịnh
đạo"
Sankhārā trong
câu 1 là hữu vi hay hành tức là các pháp duyên khởi trong
thế giới tự nhiên cho nên là vô thường (aniccā).
Sankhārā trong câu 2 ám chỉ
hành trong hành uẩn nghĩa là tâm tạo tác các nghiệp cho nên là
khổ (dukkha). Chữ Dhammā
trong câu 3 nghĩa là pháp gồm cả hữu vi (2 loại hành trên)
và vô vi, ngoại pháp và nội pháp cho nên là vô ngã (anattā).
Lát nữa chúng ta sẽ trở lại vấn đề này.
Paññāya passati
là thấy hoặc quán chiếu, chiếu kiến bằng trí tuệ bát-nhã.
Chữ Dukkhe ở đây có
nghĩa là khổ đế. Khổ
đế không phải là khổ thọ mà hàm chỉ
tất cả các cảm thọ khổ, lạc, xả hoặc các cảm thọ thanh lương hơn như hỷ,
lạc, xả trong các trạng thái thiền định. Vậy
khổ là cảm giác sinh diệt, trống không và ảo hóa (māyā),
hư huyễn, không thực hữu... tuy là ảo giác nhưng khó kham nhẫn.
Nibbindāti có
nghĩa là thoát ly hay nhàm chán. Nhàm chán là bởi sao? vì
chúng sinh thường tưởng cái khổ là lạc. Chỉ có một trình
độ cao hơn mới thấy chúng sinh đó khổ,
nhưng y thì không tự biết vì đối với y là
lạc.
Cõi sắc giới thì thấy chúng sinh dục giới là khổ. Cõi
vô sắc giới thì thấy chúng sinh sắc giới là khổ. Người giác ngộ giải thoát
thì thấy chúng sinh ba giới là khổ. Cho nên chữ Nibbindāti
nghĩa bóng là thoát ly, nghĩa đen là
nhàm chán. Nhàm chán là đúng. Thấy chúng sinh
lặn hụp, tranh giành nhau danh lợi như lũ ruồi trong
đống rác kia, không nhàm chán sao
được?
Esa là đó.
Maggo là con đường,
visuddhi là thanh tịnh: đó là
thanh tịnh đạo.
Đến đây chúng ta so sánh với câu "hành thâm
bát nhã Ba La mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn
giai không độ nhất thiết khổ ách" thì có giống nhau không?
Đúng không? Bên nào cũng dùng trí tuệ
Bát Nhã để quán chiếu cả.
Bài kinh pháp cú thì dạy rằng hãy dùng trí tuệ
để thấy rõ các hành là vô thường,
khổ, các pháp là vô ngã. Bài kinh Bát Nhã thì dùng trí tuệ
để soi chiếu cho thấy ngũ uẩn là không.
Cả hai đều thoát khỏi khổ đế.
Vậy, các hành, các pháp có liên hệ với ngũ uẩn ra sao?
Chúng ta thấy rõ ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành,
thức. Trong ngũ uẩn hành là chủ động,
làm cho chồng chất rối rắm. Khi trí tuệ soi chiếu thì
hành diệt. (Hành là các tâm sở do tư tác
động, hoặc là ái thủ hữu).
Hành được thay thế bằng tuệ (bát-nhã=paññā)
thì trả ngũ uẩn về với bản chất đích thực của
chúng. Trả pháp lại cho pháp, đấy là ngũ uẩn giai không và thoát
khỏi khổ đế.
Trở lại sankhārā là
hữu vi hay hành. Hành có 2 loại như hồi nãy chúng ta
đã nói qua.
- Thứ nhất: hành là thế giới trùng trùng duyên
khởi của tự nhiên (tạm gọi là thuộc ngoại giới so với hành trong ngũ
uẩn hoặc trong Thập nhị nhân duyên là thuộc nội giới). Ví dụ như vật
chất do tứ đại duyên hợp mà thành. Vì
có duyên hợp mà sinh nên duyên tan thì diệt. Tính chất của nó là vô thường
tan hợp nên gọi là Sabbe sankhārā
aniccā'ti hay uppadavaya dhammino. Và Duy Thức gọi y
tha khởi tánh hoặc sinh vô tánh như chúng ta
đã nói trước
đây.
- Thứ hai: hành là tạo tác chủ quan thuộc thế
giới nội tâm. Ví dụ tâm tham, sân, si, ngã mạn, tà kiến v.v... cũng do
duyên hợp mà sinh, duyên tan mà diệt, như khi có xúc, thọ, tưởng, tư và
các nhóm tâm sở tương ưng hợp lại thì một tâm hiện khởi, khi hết duyên thì
biến mất. Tuy nhiên, sự kết hợp này không tự nhiên mà là chủ quan, cố ý.
Dĩ nhiên tính chất của hành này cũng vô thường nhưng chính yếu là khổ não
nên gọi là sabbe sankhārā ca dukkhā'ti.
Duy Thức gọi là biến kế sở chấp tánh hoặc tướng vô tánh.
Loại hành thứ hai này mới là vấn
đề. Nó chính là hành uẩn trong ngũ
uẩn và hành (ái, thủ, hữu) trong Thập nhị nhân duyên.
Hành này đóng vai trò chính trong việc
tạo tác luân hồi sinh tử hoặc thiện ác trong 3 cõi 6
đường.
Vậy hành này tác động như
thế nào? Ví dụ, khi mình nhìn một người, một
đối tượng mà
để cho vô minh và hành
chi phối, thì người ấy, đối tượng ấy, biến
đổi theo bản ngã của mình. Giả sử chúng ta gọi mình là A và
đối tượng là B. khi A tương quan với
B. Qua hành A tự vong thân để tự mặc cho mình
một bản ngã A'. Bản ngã A' dĩ nhiên chủ quan nên nhìn
đối tượng B cũng biến thành B'.
Nguyên gốc: |
A → B |
Biến thành: |
A' → B' (qua sự bóp méo của hành). |
Khi hành tham dự thì cả thế giới bên ngoài và bên trong
đều biến dạng hết, không còn
đúng nguyên gốc nữa, có phải vậy
không? Điều này rất là vi tế và cũng
rất là kinh khiếp. Trong đời sống hằng ngày
chúng ta nên chiêm nghiệm xem thử mình đã
nghe thực, thấy thực hay mình đã trở
thành A' và đối tượng trở thành B' tự
bao giờ!
Thảm kịch trần gian là ở chổ đó, nên
Phật dạy: chư hành là khổ.
Đấy là mới phần bên A tự biến thành A'. Còn B thì sao? Nếu A'
nhìn B ra B' thì B cũng tự biến mình thành B''. B'' mà nhìn lại A thì A
đó cũng bị bóp méo thành A''. Vì bao
giờ cũng vậy, chủ quan của A khác, chủ quan của B khác, phải không?
Nguyên gốc: |
A ↔ B |
|
Chủ quan bên A: |
Á ↔ B' |
|
|
A'' ↔ B'' |
: Chủ quan bên B |
Sự biến đổi từ A ra A', A'' và từ B
ra B', B'' cũng nói lên tính chất vô thường, nhưng là vô thường chủ quan,
tự ý biến đổi, chính vô thường này mới
đem lại khổ não.
Từ tham qua sân, từ thương đến ghét, đó là
vô thường của hành chủ quan mà sinh ra sầu, bi, khổ,
não, lạc, hỷ v.v... Còn A và B có biến đổi
không? A và B nguyên gốc cũng có biến
đổi vô thường nhưng là khách quan, biến
đổi sinh-vật lý, biến đổi theo định luật tự
nhiên nên vô thường mà vẫn thường. Còn biến
đổi tâm lý, biến đổi do cảm tính chủ quan mới
là vấn đề. Do cảm tính chủ quan mình
vẽ vời ra đủ mọi thứ. Trong 5, 7 phút mình
có thể họa ra không biết bao nhiêu cái ngũ uẩn như vậy.
"Tâm như công họa sư
Họa chủng chủng ngũ ấm".
Nói tóm lại, khi mà hành phát sanh thì nó biến
đổi sắc, thọ, tưởng, và thức theo hành
luôn. Có đúng không?
Hành là tư, là tạo tác, là cetanā. Nếu
thay tư bằng tuệ thì A tự thấy mình là A, B tự thấy
mình B (tuệ là tri như thực, kiến như thực), rõ ràng toàn bộ A',
A'' - B', B'' biến mất. Như vậy là qua bên bờ kia (pāramitā)
phải không?
Vậy khi hành thâm bát-nhã-ba-la-mật-đa mà
thấy rõ ngũ uẩn chỉ do hành điều động, chi
phối, vẽ vời, thêm thắt chỉ là ảo giác, ảo tưởng, vọng
động, biến kế sở chấp, tức là thấy
toàn bộ sự chồng chất rối ren ấy vốn không thì lập tức chấm dứt toàn bộ
khổ não. Cho nên nói "chiếu kiến ngũ uẩn giai không
độ nhất thiết khổ ách".
Độ là vượt qua sông mê bể khổ. Vậy vượt qua tất cả khổ ách -
sông mê bể khổ - nghĩa là như thế này:
Từ lâu A và B bị ngăn cách bởi sông mê
bể khổ của vô minh và hành (ái dục).
Vượt qua - vượt qua bờ bên kia - chính là vượt qua vô minh và ái dục.
Vượt qua không phải là chạy đi đâu tìm
kiếm cái gì khác, mà chính là trả lại bản nguyên của các pháp
để mình (A) và
đối tượng (B) đều như thực.
Vượt qua A', A'', vượt qua B', B'' mà trở lại A là A, B là B thôi.
A ↔ B
"Biển khổ mênh mông hồi đầu là
bến", cho nên "hồi đầu thị ngạn"
chứ không bỉ ngạn nào khác. Quay lại là thấy ngay tức khắc, chẳng cần rong
ruổi tìm kiếm đâu xa.
Quay lại để thấy thực tướng của mình
và vạn pháp. thực tướng của mình và vạn pháp không phải là A', B và hằng
trăm hằng ngàn cái phẩy như vậy.
Thực tướng của vạn pháp chính là bản nguyên của A và B còn A', A'', B',
B'' v.v... chính là thế giới của hành (Sankhārā
thứ hai).
Chúng ta đã thấy tất cả hành là
vô thường và tất cả hành là khổ. Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu
vì sao tất cả pháp là vô ngã (sabbe dhammā
anattatā'ti)?
Pháp là gì? pháp khác với hành như thế nào?
Hành ám chỉ hữu vi, trong khi pháp bao hàm cả hữu vi lẫn vô vi.
Pháp hữu vi thì vô thường, khổ và vô ngã, trong khi pháp vô vi không vô
thường, không khổ nhưng cũng vô ngã, vì vậy không thể nói tất cả pháp vô
thường hoặc tất cả pháp khổ, mà chỉ nói tất cả pháp vô ngã.
Nhưng vì sao tất cả pháp hữu vi, vô vi đều
vô ngã?
Như chúng ta đã thấy:
A', A'' và B', B'' v.v... chính là cái ngã. Khi "tự cho mình là... hoặc
"áp đặt cho người khác là..." tức cái
ngã khởi sinh. Nhưng tự khởi sinh này do ngũ uẩn dựng lên, nghĩa là do ảo
giác, ảo tưởng, phi như lý tác ý, và sự vọng
động tạo tác v.v... dựng lên, cho nên bản ngã chỉ là vọng ngã, chỉ
là huyễn hóa, không có thực: vô ngã. Đây là
vô ngã của pháp hữu vi.
Còn A và B có vô ngã không? A và B là bản nguyên của pháp, là pháp tự
nhiên, không dính dáng gì cái ngã do chủ quan dựng lên, nên tự nó
đã là vô ngã rồi. Chủ quan dựng lên
mới là hữu vi, còn thế giới tự nhiên vốn vô vi nên
đồng thời Vô Ngã.
Vì vô ngã là tính bản nguyên của các pháp nên Duy Thức thức gọi là
thắng nghĩa vô tánh hoặc viên thành thật tánh.
Để dễ hiểu tôi xin tóm tắt lại như sau:
1) Tất cả hành là vô thường:
Hữu vi tự nhiên |
→ y tha khởi tánh → |
sinh vô tánh |
(Hành 1) |
|
(vô thường, vô ngã) |
2) Tất cả hành là khổ:
Hữu vi chủ quan |
→ biến kế sở chấp tánh → |
tướng vô tánh |
(Hành 2) |
|
(vô thường, khổ, vô ngã) |
3) Tất cả pháp là vô ngã:
Vô vi |
→ viên thành thật tánh → |
thắng nghĩa vô tánh |
|
|
(vô ngã) |
Trong phần 3 chỉ kể vô vi vì hữu vi
đã nói trong phần 1 và 2 rồi.
Có người hỏi:
- Trong khi kinh Thập Độ
có nói đến trí tuệ bờ kia, trí tuệ bờ trên, trí tuệ bờ cao thượng.
Như vậy trí tuệ cũng có tầng bậc lớn nhỏ sao?
- Vâng, có. Trí tuệ ở trên phương diện chỉ
để mà vượt qua bờ kia, vượt qua khỏi
bức màn vô minh ảo vọng hay sông mê bể khổ thì chỉ cần paññā
pāramitā (tuệ bờ kia). Trí tuệ
đoạn lìa sự
điều động của các hành.
Đó là trí tuệ
đứng trên phương diện thực tánh
mà nói. Còn trí tuệ bờ trên (paññā
upapāramī) là nhìn ở phương diện thực tướng. Và trí
tuệ bờ cao thượng (paññā paramattha
pāramitā) là thực dụng của tuệ. Tuệ có thể,
tướng, dụng. Ví như một người có chiếc xe hơi. Y biết
đó là xe hơi, thấy rõ nó là xe hơi.
Cái biết ấy nắm giữa tổng quát chiếc xe hơi. Ấy là cấp
độ 1. Sau đó y thấy biết rõ xe hơi có
bộ phận này, bộ phận kia, ấy là cấp độ 2. Và
cuối cùng là y có thể ngồi trên xe mà lái, biết sử dụng chiếc xe, sửa chữa
chiếc xe mà lại còn chế tạo ra nó được nữa.
Đó là cấp độ 3.
Trí tuệ cũng vậy. Sự thấy biết ban
đầu thường nắm giữ cái tổng quát, cái căn
bản, nhưng cái thấy biết ấy chưa chuyên sâu. Tu tập một thời gian.
Trí tuệ ấy sẽ sâu sắc hơn, viên mãn hơn. Cuối cùng là trí tuệ có thể sử
dụng thiện xảo các pháp nữa. Tuy nói đến 3
bậc trí tuệ nhưng thật ra cũng cùng một thể tánh viên mãn như nhau.
* Chiếu Kiến Ngũ Uẩn Giai Không,
Độ Nhất Thiết Khổ Ách: Như vậy
chúng ta đã rõ tại sao soi chiếu thấy
ngũ uẩn đều không mà vượt qua tất cả
khổ. Chính hành làm cho sắc, thọ, tưởng, thức bị rối loạn. Nhưng khi hành
được tuệ thay thế, nghĩa là thức không
còn chấp trì kinh nghiệm, thành kiến, quan niệm
để bóp méo sự thật nữa, thì ngũ uẩn
trở thành không: không ảo tưởng, ảo giác, không còn cái A', A'', B', B'',
không vô minh, ái dục. Có người hiểu lầm chỗ này và họ ngồi mà quán không.
Rõ ràng cái không ấy là do tưởng tượng mà ra. Có mà biến thành không,
nghĩa là B mà biến thành B', là đã có
sự tham dự của tưởng, của hành, của ngũ uẩn rồi. Như
vậy làm sao mà quán không được! Chính cái ngã
quán không tạo ra A', A'', A''' và B', B'', B'''.
Đó là người
đánh mất bản nguyên,
đánh mất "thực tướng vô tướng"
(thực tướng không có các tướng "phẩy") của các pháp. Ngũ uẩn
đều không thì chấm dứt các khổ: khổ
khổ, hoại khổ, hành khổ. Đó cũng chính là
Thanh tịnh đạo.
Thật ra, kinh Bát-Nhã chỉ có bấy nhiêu. Phần sau chỉ là
phụ chú mà thôi.
* Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị
không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị,
nghĩa là sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không,
không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng
đều như vậy. Ta có thể diễn điều ấy bằng ví dụ A và A'.
A chẳng khác không của A'
Không của A' chẳng khác A
A tức là không của A'
Không của A' tức là A
Vậy chúng ta cần phải lưu ý rằng sắc (A) chỉ
thật là sắc khi nó không bị biến thành tướng của ảo tưởng
(A'):
Sắc = không tướng (vô tướng).
Vì vậy:
Sắc ≠ sắc tướng.
Nghĩa là muốn thấy sắc bản nguyên chúng ta phải dẹp bỏ
sắc tướng do ảo tưởng dựng lên.
Sắc = A
Sắc tướng = A'
A' không có thật nên sắc tướng là không. Sắc tướng là
ảo ảnh của tưởng uẩn, hay nói một cách khác sắc tướng là sắc bị bóp méo
qua "kính màu" của ảo tưởng.
Vậy tuy sắc không có tướng (chủ quan)
mà vẫn có thực tướng (khách quan), vì vậy mới nói "thực
tướng vô tướng".
Ví dụ một người ghiền thuốc thì
điếu thuốc có
đối với y. Người không hút thuốc thì
điếu thuốc không
đối với y dù
điếu thuốc vẫn có đó. Nhưng đối với người
ghiền, cái có của điếu thuốc thực ra không phải là những gì mà
điếu thuốc thật sự có. Cái có của y chỉ là
tiến trình phức tạp của tâm-sinh-vật lý diễn ra nơi y.
Vậy có 2 cái có và 2 cái không.
Hai cái có là:
Một cái có của thế giới tự nhiên hay
y tha khởi.
Một cái có thuộc tâm lý chủ quan (hữu tướng).
Hai cái không cũng vậy:
Một cái không tức là không có, không
hiện hữu.
Một cái không là không hình thành bởi thế giới ý tưởng chủ
quan (vô tướng). Nếu cái không này do trí tuệ soi thấy thì
đây chính là cái không bát nhã.
Quán không chính là soi chiếu cái có chủ quan (hữu
tướng), bằng trí tuệ Bát Nhã để trả sắc
về với bản nguyên vốn không ý niệm (vô tướng) của chính nó,
chứ không phải tưởng ra một tướng không rồi gán
đặt lên sắc và cho
đó là quán không. Xin quý vị
đừng lầm lẫn chỗ này.
Để dễ hiểu tôi xin lấy một ví dụ: có một anh chàng
thanh niên một buổi sáng kia thấy một cô gái
đi ngang qua nhà anh, thế là từ đó anh
thầm yêu trộm nhớ. Anh ta xây dựng biết bao nhiêu mộng
đẹp. Nhưng bữa nọ anh ta thấy cô nàng
đi với một gã con trai, thái
độ, cử chỉ thật thân mật. Thất vọng và
đau khổ, anh ta ngã bệnh. Thầy thuốc
bảo rằng đấy hoàn toàn là do bệnh
tưởng. Nghe như vậy chàng thanh niên bình tâm soi xét lại chính mình, và
bệnh chẳng bao lâu chấm dứt.
Ở đây, lành bệnh là
xóa hết B', B'' do chủ quan, bản ngã, ảo tưởng của anh tạo ra. B trả lại
cho B. Như vậy, sắc ấy không khác không, sắc ấy là
không. Sắc ấy rõ ràng là không tướng, chỉ có tưởng chủ
quan do anh dựng lên làm anh đau khổ, não
phiền. Thầy thuốc giúp anh vứt bỏ B', B'' trả B lại cho B, cái
đó chính là thực tướng. Thực
tướng ấy là pháp. Pháp vốn như thị, chẳng thể nói có, chẳng thể nói không.
Cô gái cũng là thực tướng, là pháp. Cô ta chỉ là cô ta thôi. Vấn
đề rắc rối chính là cô gái ở trong
lòng anh ta, khi thì có, khi thì không, lúc thế này, lúc thế khác.
Vậy quán không là cái không tướng cô gái
trong lòng anh ta, chứ không cần không có cô gái
đi qua trước nhà anh ta. Bởi vì nếu cô
gái trong lòng anh ta vẫn còn mà cô gái bên ngoài chết
đi thì anh ta lại càng khổ
đau nhiều hơn nữa.
Đó là sắc không. Thọ, tưởng, hành,
thức cũng đều không như vậy theo nguyên
lý.
Thực tướng (sắc) = vô tướng (không)
* Xá Lợi Tử: thị chư pháp không tướng! Bất sanh, bất
diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm:
các pháp vốn không tướng, không có các tướng B', B''. Khi có tuệ
bát nhã chiếu soi. Tuệ bát nhã là tuệ không. Tuệ không nghĩa là
không vô minh, ái dục, không ảo giác, không ảo tưởng, không lý trí vọng
thức, v.v... Nhìn các pháp bằng cái nhìn tuệ không thì các pháp là không
tướng, không tướng lại chính là thực tướng nên mới nói:
"Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không".
Thực tướng thì không sanh, diệt, cấu,
tịnh, tăng, giảm.
Vì vô minh, ái dục mà có tướng sinh diệt, cấu tịnh, tăng
giảm. Vì vô minh, ái dục mới có A', B', mới có dục ái, hữu ái và
phi hữu ái. Trong tuệ không thì pháp
đâu có sinh lên tướng gì mà bảo là diệt? Có sinh
đâu mà diệt, phải vậy không?
Tuy nhiên, xin quý vị nhớ kỹ cho
điều này không sinh không diệt
chứ không phải là thường hằng bất biến. Không diệt là vì nó không
sinh. Chứ nếu cứ tưởng không diệt - vô sinh bất diệt là sống hoài, sống
hủy, không chịu chết thì nguy to! A và B không có tướng sinh diệt, còn A',
B', A'', B'' thì sinh diệt, cấu tịnh, tăng
giảm luôn luôn. Thương thì tăng mà
ghét thì giảm, v.v... và chính đó là
vô thường, khổ não, vì chúng là hành, là tư tác, là nghiệp, là sinh già
chết, là luân hồi triền miên. Trong tuệ không bát
nhã tất cả chúng đều biến mất. Đó là
Không.
* Thị Cố Không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức,
vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới
nãi chí vô ý thức giới: cho nên trong không không có 5 uẩn (sắc,
thọ, tưởng, hành, thức), 18 giới (6 căn
+ 6 trần + 6 thức). Khi tuệ không quán chiếu thì tất cả pháp
này đều được trả về bản nguyên "thực
tướng vô tướng" của chúng.
Ở đây chữ "vô"
không có nghĩa là "không có" mà chính là "thị pháp trụ pháp
vị".
Nhưng khi ý niệm bản ngã sinh thì tất cả các pháp này
đều trở thành hữu.
Chữ sinh ở đây mang tính
chất tâm lý, một ý niệm hơn là thực tế sinh lý. Ví dụ như trong
câu:
"Sinh con rồi mới sinh cha
Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông"
Thì việc sinh ra một em bé là có thật, khi sinh
đứa bé rồi thì ý niệm "con" và
"cha" mới sinh ra sau. Vậy chữ sinh trong "sinh con" là thực
tế sinh lý, còn chữ sinh trong "sinh cha" chỉ là ý niệm giả lập,
không thực, nó sinh cùng với ý niệm bản ngã. Anh chàng này trước kia mang
danh hiệu là con, nay vợ anh sinh ra em bé, bỗng anh trở thành cha. Anh là
một thực thể mang hai danh hiệu con và cha. Hai ý niệm này chỉ sinh trong
thế giới ý niệm chứ không sinh trong thực tế.
Nếu đứa bé chết đi thì
danh hiệu con của nó và danh hiệu cha của anh không còn nữa, nhưng bản
thân anh vẫn hiện hữu. Vậy chỉ có ý niệm chủ quan sinh diệt, còn thực thể
thì không sinh diệt.
Vậy xin nhắc lại chữ vô ở
đây không phải là không có hiện
tượng mà chỉ là không có ý niệm về hiện tượng
đó.
Có người hỏi:
- Thầy nói thực tế không sinh diệt thì sao em bé lại
chết? Thực thể không sinh diệt có phải rơi vào thường kiến không?
- Anh hỏi câu này hay lắm! Thực ra ý niệm chết khác với
sự chết. Các pháp "sinh sinh chi vị dịch" nghĩa là sự chết cũng là
một phần của sự sống. Nếu như loại được ý
niệm sống chết ra ngoài thì pháp đâu
có sinh diệt.
Như tôi đã nói
không sinh diệt chứ không phải là thường hằng bất biến thì làm sao thường
kiến được. Xin anh lưu tâm cho điều đó.
* Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, vô lão tử, diệc
vô lão tử tận: trong không không có vô minh cũng không có chuyện chấm
dứt vô minh. Không có lão tử cũng không có hết lão tử, tức không có 12
nhân duyên.
Ngài Vĩnh Gia nói:
"Vô minh thực tánh tức Phật tánh
Huyễn hóa không thân tức pháp thân".
Phật tánh chính là tánh giác, tánh biết thực. Khi có
tánh biết thực rồi thì té ra không có vô minh. Mà
đã không có vô minh thì làm chi có
chuyện hết vô minh, vô minh chỉ là ảo hóa thôi mà. Ví dụ ban
đêm chúng ta thấy cái cây lay qua lay
lại, tưởng ma, chúng ta sợ. Nhưng khi chúng ta nhìn rõ
đó là cái bóng cây, không phải ma thì
chúng ta hết sợ. Thử hỏi ma đó có thật không?
Không thật, không có. Không có mà chúng ta lại sợ nên sợ ấy không
thật. Thấy thật cái cây thì mới biết con ma tưởng (vô minh) là
không có thật.
Tuy vậy, đối với chúng
sinh vô minh quả thật là kinh khiếp. Nó tạo ra tam giới, tạo ra 3
cõi 6 đường, tạo ra thiên
đàng, địa
ngục. Nó tạo ra chuỗi dài vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập,
xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử.
Khi sợ ma nghĩa là A' sợ B'. Thấy thật thì A' trở về A
và B' trở về B. Chính giữa A và B này có một bức tường giả, con sông giả
ngăn cách, cái giả đó gọi là vô minh.
Nhưng khi có tuệ quán, tuệ không, bát-nhã, tánh
biết thực chiếu soi thì không có gì cả. Cho nên nói không có
vô minh mà cũng không có chuyện chấm dứt vô minh, tức không có tiến trình
ảo hóa Thập nhị nhân duyên sinh, không có lão tử và không có chấm dứt lão
tử.
* Vô khổ tập diệt đạo,
vô trí diệc vô đắc: chúng sinh sống với vô minh ảo hóa nên thấy
có luân hồi sinh tử. Khi đã thấy ra
không có vô minh thì tập đế cũng không có.
Tập đế không có thì khổ đế cũng không.
Đã không có tập đế khổ đế, thì
đạo đế và diệt
đế để làm gì.
Tập đế là con
đẻ của tư tưởng ảo, nên khổ
đế chỉ là cảm giác ảo. Thấy ra chúng
không thật có nên gọi là đạo đế và
diệt đế.
Tuy nhiên còn chúng sinh là còn tứ
đế. Khi đã giác ngộ thì chẳng có khổ,
tập, diệt, đạo gì cả.
Các bậc A-La-Hán tức là Thanh Văn
Phật, Độc Giác Phật và Toàn Giác Phật
đã thấy Tứ diệu đế chỉ có đối với
chúng sinh, chứ không phải đối với các bậc Giác Ngộ.
Ví như người ghiền rượu (tập
đế) chịu bệnh tật (khổ
đế), khi cố gắng cai rượu (đạo
đế)
để hết ghiền, hết bệnh (diệt
đế). Nhưng với người không
ghiền rượu (vô tập) thì cũng không có bệnh do rượu gây ra (vô
khổ), không cần phải cai (vô
đạo) và không ghiền nên không cần hết ghiền (vô
diệt).
Một hôm Đức Phật hỏi Ngài
A-Nan: "Trong Niết Bàn có tham, sân, si, vô minh,
ái dục không?".
Ngài A-Nan trả lời: "Không".
Vậy trong Không, không có khổ, tập, diệt,
đạo.
Nói vậy là nói trong "thật tế lý
địa". Còn với chúng sinh thì phải
ráng mà "cai", chứ nếu ngồi ôm cái lý "không" của bệnh tưởng
thì muôn đời không ra khỏi luân hồi sinh tử
Có người hỏi:
- Nếu nói vô khổ, vô tập thì
được, vì khổ tập chỉ có
đối với chúng sinh. Nhưng đạo đế và
diệt đế là sự thật mà chư Phật, chư
Thánh đều chứng đạt được. Diệt đế là
Niết Bàn, như nói chư Phật chứng ngộ Niết Bàn sao gọi là vô diệt, vô
đạo?
- Câu hỏi thật là tuyệt!
Điều này thật vi tế nên nói ra rất khó hiểu. Ngay chữ vô trong vô
khổ tập đã khác với chữ vô trong vô
diệt đạo rồi.
Khổ, tập chỉ có đối với
chúng sinh, nên khi giác ngộ thì khổ tập không có là phải. Vậy chữ
vô ở đây có nghĩa là không có, không
thật, biến mất, không còn nữa. Đó là
lý do ví sao kinh nói rằng "khổ phải thấy, tập phải diệt".
Vô này chính là vô trong "tướng vô tánh".
Trái lại đạo đế phải tu,
diệt đế phải chứng thì tại sao lại vô. Vì vậy chữ vô này có nghĩa
khác. Vô không phải là "không có" mà là "không có ý niệm về",
cho nên vô mà lại có thực tướng thực tánh. Vô này là "thắng nghĩa vô
tánh".
Như ví dụ hồi nãy: tưởng là con ma (tập
đế) nên sợ (khổ
đế). Khi thấy rõ (đạo
đế) là cái cây thì không còn sợ nữa (diệt
đế). Ở
đây, chúng ta thấy ngay 2 chữ vô khác nhau:
Nói diệt, đạo có thật là
để đừng lầm với ảo hóa chứ thật ra không khổ
tập thì nói diệt đạo làm gì.
Như không ghiền thuốc thì nói cai thuốc làm chi. Hơn nữa tuy nói có thật
nhưng tánh nó vẫn không. Vẫn là thực tướng vô tướng, chứ không phải nghe
nói có thật liền chấp có chấp không.
Chúng ta nên nhớ rằng kinh
đang nói về rốt ráo cái không (không trung) nên lập ngôn như
vậy, chứ thật ra:
"Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không"
Người ta thường hiểu lầm diệt
đế là diệt hết trơn hết trọi không còn
gì cả. Hiểu như vậy là rơi vào ngoan không rồi. Thật ra diệt
đế chính là:
"Thị pháp trụ pháp vị
Chư Phật thường hiện tiền".
Như vậy chúng ta chẳng ngạc nhiên gì khi có người hỏi
Phật là gì, Ngài Triệu Châu liền chỉ cây bách trước sân. Rõ ràng quá phải
không quý vị?
Tóm lại: vô khổ tập là tướng vô tính,
vô diệt đạo là thắng nghĩa vô
tính. Xin nhớ cho như vậy.
Và khi đã vô khổ,
tập, diệt, đạo thì dĩ nhiên không còn
sở đắc và không trí
để đắc.
Trong kinh điển nguyên
thủy, Đức Phật và Ngài A-Nan
đã xác
định trong Niết Bàn không có tham, sân, si, không có giới,
định, tuệ, không có giải thoát và giải
thoát tri kiến. Vậy thì làm gì có trí và đắc.
Thế giới ảo hóa thì tướng vô tính, thế giới duyên sinh
thì sinh vô tính, thế giới rốt ráo chân thật thì thắng nghĩa vô tính, vậy
làm sao đắc được.
Chữ đắc chỉ dùng
cho chúng sinh (chấp bản ngã) dễ hiểu, dễ tu chứ thật ra chẳng có
gì để đắc khi bản ngã không còn tồn
tại trong ý niệm nữa.
Đắc không phải là sở hữu một vật gì hay một pháp
nào, mà chỉ là trải qua một tiến trình tâm như bao nhiêu tiến trình tâm
khác trong đó Javana diễn ra lấy Niết-bàn
làm đối tượng với 7 sát-na tâm như sau :
(1) Chuẩn bị (Parikamma) → (2) Cận hành (Upacāra)
→ (3) Thuận thứ (Anuloma) →
(4) Chuyển tánh (Gotrabhū) →
(5) Đạo tuệ (Magga) → (6) +
(7) Quả tuệ (Phala).
Vậy nói đắc đạo quả có
nghĩa là tiến trình tâm "hành thâm bát-nhã" trong
đó trí tuệ ba-la-mật phá sạch mọi ảo giác, ảo
tưởng, vọng niệm, tâm không còn điên
đảo, quái ngại khủng bố nữa nên gọi là
rốt ráo Niết-Bàn, như đoạn kế nói :
"Dĩ vô sở đắc cố
Bồ-đề-tát-đỏa y bát-nhã-ba-la-mật-đa
cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên
đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn"
Ví như một người đang đắm
chìm trong cơn ác mộng đầy sợ hải bỗng
nhiên thức dậy, sợ hải tiêu tan mộng mị dứt sạch, anh ta trở lại
với chính mình, mà thiền gọi là thấy tánh hay gặp lại bản lai diện mục lúc
chưa sinh mộng mị.
Trở lại chân diện mục với sự sống muôn
đời, không mộng mị (vô minh),
không đắm trước (ái, thủ)
không tạo tác (hành) không trở thành (hữu) cho nên
đạt đến vô thủ trước Niết bàn, tức là
vô sở đắc vậy.
Tam thế chư Phật y bát-nhã-ba-la-mật-đa
cố đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-Bồ đề.
Chính vì vô sở đắc mà
ba đời (quá khứ, hiện tại,
vị lai) Chư Phật (Thanh văn phật,
Độc giác phật, Toàn giác
phật) mới đắc vô thượng Chánh Đẳng Giác.
Nếu có một sở đắc thì đã kẹt
vào sở đắc rồi làm sao có giác ngộ
toàn diện được.
Có người hỏi:
- Ở đây tôi sợ rằng có sự
mâu thuẩn. Khi thì nói vô trí, vô đắc
khi lại nói hành thâm bát-nhã (tức là trí tuệ) và
đắc Vô thượng Chánh Đẳng Giác, như vậy là
sao? Còn khi nói đắc Tu-Đà-Hoàn, Tư-Đà-Hàm,
A-Na-Hàm, A-La-Hán là sao nữa?
- Sở dĩ nói vô trí vô đắc
là để người ta khỏi hiểu lầm Niết-bàn
như một sở đắc, mà có sở
đắc thì có sở cầu, có sở vọng, mà
đã có vọng cầu thì lại cần phải có lực
có trí để đắc kỳ sở nguyện và như vậy
vẫn loay hoay tạo tác trong vòng luân hồi sinh tử, nhân quả và thời gian.
Bậc A-La-Hán, vô thượng sĩ (Anuttaro) là bậc vô
cầu (Vantāso) vô tác (Akata)
như kinh Dhammapada (Pháp Cú) đã dạy,
mà vô cầu, vô tác thì làm sao có sở đắc được.
Nhưng chính vì bậc A-La-Hán, Chánh
Đẳng Giác, là bậc không, vô tướng, vô
tác (vô nguyện) nghĩa là không có sở cầu sở
đắc nên mới gọi là
đắc Anuttara Samma Sambodhi.
Ví như một người kia thấy thiên hạ
đeo kiếng cũng đi mua kiếng về đeo. Nhưng khi
đeo kiếng vào, nào cận, nào viễn, nào xanh, nào vàng, thì anh thấy
mọi vật đều biến đổi và mắt xốn xang
khó chịu, làm cách nào cũng không hết. Thực ra chỉ vì anh có sở
đắc mấy cặp kiếng đắt tiền không dám bỏ đi mà
đành mang mắt bịnh.
Đến khi bác sĩ khám bịnh mới hay mắt anh tốt chỉ vì
mang kiếng mà có cảm giác vậy thôi. Quả nhiên khi bỏ kiếng
đi anh thấy rõ như thường.
Vậy chính vì bỏ sở đắc
kính màu mà đắc mắt sáng. Tạm gọi là
đắc mắt sáng, chứ thật ra mắt anh vốn sáng,
chỉ bỏ mấy cặp kiếng đi là "phản bổn hoàn nguyên" chứ có
đắc cái gì
đâu, phải vậy không? Nhưng chính vì
nhận chân ra được không có sở đắc nào
cả mới thật sự gọi là đắc.
Người ta cho rằng đắc Vô
Thượng Chánh Đẳng Giác là không có sở
đắc. Còn đắc Tu-Đà-Hoàn
đến A-La-Hán là có sở
đắc. Nói như vậy là tại người ta ưa
đem tâm phân biệt mà gán
đặt chứ thật ra Tu-Đà-Hoàn, Tư-Đà-Hàm,
A-Na-Hàm, A-La-Hán cũng chỉ là danh xưng mà
Đức Phật tạm gọi để chỉ những tiến trình tâm khi từ bỏ, thoát ly ra
những ràng buộc (kiết sử) mà thôi.
Bản nguyên của tâm và pháp vốn tự do, thanh tịnh. Vì
vậy mà Đạo Phật dạy rằng khi một người có tâm
thanh tịnh thì thấy tất cả pháp đều
thanh tịnh. Tuy nhiên chúng sanh không thấy bản lai thanh tịnh của
mình mà luôn luôn bị trói buộc trong: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ,
dục ái, sân hận, sắc ái, vô sắc ái, trạo cử, ngã mạng, vô minh.
Khi dùng trí tuệ soi chiếu (hành thâm bát nhã =
Paññāya passati) thoát ly
được thân kiến, hoài nghi, giới cấm
thủ, gọi là Tu-Đà-Hoàn.
Đoạn giảm dục ái và sân hận gọi là Tư-Đà-Hàm.
Thoát ly dục ái và sân hận gọi là A-Na-Hàm.
Thoát ly hoàn toàn mọi trói buộc từ thân kiến
đến vô minh gọi là A-La-Hán.
Vậy A-La-Hán chính là trở về với bản lai thanh tịnh chứ
không có sở đắc gì cả.
Ví như một người ghiền thuốc, về sau thấy sự tai hại
của thuốc, anh ta bỏ bớt đi 30% số lượng
thuốc, rồi cố gắng bớt đến 50%, 70% cho đến khi anh hoàn toàn bỏ
được thuốc. Như vậy là anh ta
đã "đắc"
được tình trạng không hút thuốc. Cái
đắc nầy chỉ có giá trị đối với người nghiền
thuốc, còn đối với người không hút
thuốc thì xưa nay vẫn là không hút thôi chứ có
đắc gì
đâu. Do đó chúng ta thấy: nói là đắc mà
trên thực tế là bỏ, là xả ly, là đoạn tận, là
không thủ trước cho nên nói đắc hay vô đắc
cũng giống nhau.
Lão Tử cũng nói; "Vi
đạo nhật tổn, tổn chi hựu tổn, dĩ chí vi vô vi" Sống
Đạo thì mỗi ngày mỗi bớt, bớt rồi bớt
nữa, bớt hoài cho đến chỗ vô vi. Vô vi chính
là vô hành, là ngũ uẩn giai không ...
Hoặc kinh Viên Giác cũng nói:
"Tri huyễn tức ly
Ly huyễn tức giác"
Có người hỏi:
- Đến đây tôi lại nghi ngờ
còn có sự mâu thuẩn, vì nói không thủ trước thì
đúng, nhưng nói bỏ hay xả ly, đoạn tận thì
sao Đạo Phật lại chủ trương bất thủ bất xả.
- Thực ra, chỉ vì giới hạn của ngôn ngữ thôi. Nói xả
hay không xả, đắc hay không đắc chẳng qua là
tùy trường hợp chứ đó không phải là
luật cố định. Nói không nắm không bỏ là
nói khi quán chiếu thực tại không nên có thái
độ thiên lệch một chiều, vì nắm giữ hay xả bỏ thì khó thấy
được thực tánh. Nắm giữ ở đây có nghĩa là
tham và xả bỏ là ưu (sân), cho nên Đức
Phật dạy trong kinh Tuệ Quán Tứ Niệm Xứ là phải từ bỏ tham ưu trên
đối tượng quán chiếu (vineyya loke
abhijjhādommanassam). Vậy không
thủ xả có nghĩa là từ bỏ tham và ưu, hay nói một cách khác không thủ xả
chính là từ bỏ thủ xả (Vineyya có nghĩa là từ bỏ).
Ví dụ như khi đang buồn thì
đừng giữ cái buồn lại cũng đừng bỏ cái buồn
đi mà phải nhìn thấy thực tánh của hiện tượng buồn
đó từ khi sinh cho đến diệt. Như vậy trong
việc quán chiếu này có cái cần phải từ bỏ, có cái không cần từ bỏ:
từ bỏ là từ bỏ thái độ tham ưu trên
đối tượng, nhưng không từ bỏ chính tự thân
đối tượng quán chiếu. Đối tượng buồn tự nó có sinh nên có diệt, vậy
thì chúng ta chỉ cần tỉnh giác để thấy nó
đoạn tận chứ không cần gia tâm đoạn tận gì cả.
Đạo hữu có còn nghi ngờ gì về vấn
đề này nữa không?
Nếu không, chúng ta nói tiếp. Chúng ta trở lại chuyện "đắc"
hồi nãy. Thực ra những chữ giác, ngộ, chứng,
đắc chỉ tùy trường hợp mà nói.
Giác và ngộ là để chỉ sự
thoát khỏi mê lầm, hoặc nhận ra sự thật (thường chỉ về lý).
Còn chứng và đắc để chỉ việc trải qua một
diễn biến tâm lý đối với một sự kiện (thường chỉ về sự).
Đối với việc chứng ngộ Niết-bàn ngôn ngữ Pāli
thường sử dụng từ Nibbāna-sacchikiriyā. Sacchikiriyā
có động từ là
sacchikaroti và được định nghĩa là
sa + akkhim + karoti mà chúng ta có thể dịch theo nghĩa
đen là chứng kiến. Vì vậy tôi
đã trình bày trong phần giải thích câu
"vô trí diệc vô đắc" rằng
đắc chỉ là trải qua hay là chứng
nghiệm một tiến trình tâm đặc biệt lấy Niết-bàn
làm đối tượng mà thôi, chứ không phải
là thủ đắc hay sở hữu pháp gì cả.
Niết-bàn không phải là cái để đắc, không phải
là chỗ để tới, vì người ta chỉ
có thể nắm bắt chính ý niệm của mình chứ không thể nắm bắt cái vượt ngoài
ý niệm. Cho nên khi gán cho Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh thì chính
là vì muốn thủ đắc ý niệm lý tưởng mà
nó đã gia tâm dự phóng. Ý niệm này
chẳng khác ý niệm đại ngã thường hằng
của Bà-la-môn. Vậy mà kinh Đại Bát Niết-bàn
lại nói "Hữu Đại Ngã cố, danh viết
Niết-bàn". Thì chắc chắn là Bà-la-môn hoan nghinh nhiệt liệt. Còn
người Phật tử mà giải thích lôi thôi thì không khéo bán
đường Đạo Phật cho Bà-la-môn vậy.
Khi trí tuệ đã thấy
các hành tự nhiên là vô thường các hành tâm lý là khổ và các pháp là vô
ngã thì không còn chấp thủ. Khi vô minh, ái dục, tà kiến không còn bóp méo
thực tại thì mỗi mỗi đều được trả về bản nguyên
của nó. Nơi bản nguyên rốt ráo chỉ Saccikaroti thôi chứ
đừng thêm thắc gì nữa.
Để kết thúc đoạn này tôi xin nhắc lại nguyên văn:
"Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y
bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm vô quái
ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên
đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam
Thế Chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố đắc
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề".
Quí vị thấy không, rõ ràng là tam thế chư Phật và
Bồ-tát đều phải tu Tứ Đế, chứ đâu phải Tứ đế
chỉ để cho thanh văn. Y Bát-nhã Ba-la-mật-đa
tức là y Paññāya passati,
là y Maggo visuddhiyā, là y
theo Đạo đế vậy.
Chính Đức Từ Phụ Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni của chúng ta cũng tuyên bố như thế trong kinh
chuyển Pháp Luân: "Này các Tỳ kheo, nếu như lai không thấy, không giác
ngộ Tứ Thánh Đế thì Như Lai không
tuyên bố là đã chứng
đắc A-nậu-đa-la Tam-niệu Tam-bồ-đề, giữa
chúng Ma-Vương, Phạm Thiên, Chư Thiên và loài người".
Cho nên người mê mà không thấy, không y theo Tứ
Đế thì muôn
đời vẫn là người mê, không sao giác
ngộ được. Còn khi một người
đã hoàn toàn giác ngộ giải thoát thì
trong kinh thường gọi đó là bậc
A-La-Hán Chánh Đẳng Giác hoặc là Vô
Thượng Chánh Đẳng Giác, nghĩa là chỉ
ghép một số danh hiệu tiêu biểu để tôn xưng
tính chất giác ngộ của Phật thay vì phải nói hết cả 10 danh hiệu
một lần. Mười phương diện khác nhau của ân
Đức Phật tính ấy là :
1. Araham : A-La-Hán, Ứng cúng, Vô sanh
2. Sammā Sambuddho :
Chánh Đẳng Giác (Tam niệu Tam bồ
đề)
3. Vijjācarana Sampanno
: Minh Hạnh Túc
4. Sugato : Thiện Thệ
5. Lokavidū : Thế Gian Giải
6. Anuttaro : Vô Thượng Sĩ
7. Purisa-damma-sārathi
: Điều Ngự Trượng Phu
8. Satthā-deva-manussānam
: Thiên Nhơn Sư
9. Buddho : Phật
10. Bhagavā : Thế Tôn
Chính vì Chư Phật (Thanh Văn,
Duyên Giác, Toàn Giác) đã
thấy chổ vô sở đắc nên trí tuệ
ba-la-mật mới đạt tới tột đỉnh Vô thượng
chánh Đẳng Giác (Đạo đế), mới quét sạch mọi
điên đảo
mộng tưởng (Tập đế), nên
tâm không còn khổ đau sợ hãi (Khổ
đế) và chứng ngộ Niết bàn rốt ráo
(Diệt đế).
Rõ ràng là đoạn mở đầu và
đoạn này
đều nói đến Tứ đế: sinh tử luân hồi, nguyên nhân sinh tử luân hồi,
chấm dứt sinh tử luân hồi và con đường chấm
dứt sinh tử luân hồi của chư Phật. đó là con
đường giác ngộ giải thoát duy nhất đưa đến
A-nậu-đa-la Tam-niệu Tam-Bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa
thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng
chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư, Cố thuyết Bát-nhã
Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:
"Yết-đế, yết-đế, ba-la yết đế, ba-la tăng
yết đế, Bồ đề tát-bà-ha".
Ngoại đạo dùng chú
thuật để nương vào tha lực hầu
đạt đến những năng lực phi thường mà
người ta thường gọi là pháp thuật hay thần lực siêu huyền.
Mật Tông tà phái Tây Tạng cũng rơi vào con
đường thần lực và pháp thuật của Mật
giáo cổ xưa tại bản xứ.
Mật Tông Tây Tạng chính phái sử dụng câu chú như phương
tiện để vượt khỏi thế giới ý niệm hầu thể
nhập pháp giới chân như mầu nhiệm.
Nhưng thật ra trì chú đến
chỗ "tổng trì bất động"
thì cũng chỉ ngang với niệm Phật đến mức "vô
biệt niệm", nghĩa là chỉ mới "tịch" chứ chưa "chiếu", do
đó muốn chiếu soi thì phải dùng
Bát-nhã Ba-la-mật-đa (trí-tuệ
đáo bỉ ngạn). Chính vì vậy mà nói
Bát-nhã Ba-la-mật-đa là
đại thần chú, đại minh chú, không có chú nào
bằng, không có chú nào hơn trong việc thâm nhập pháp giới chân như (tabhatā)
và quét sạch mọi khổ đau phiền não.
Nói trí tuệ đáo bỉ ngạn là
chú vô thượng, tức là nói trí tuệ này vượt qua khỏi khả năng
và giới hạn của chú thuật. Và trí tuệ này cũng không còn giới hạn
trong lĩnh vực tri mà dung nhiếp cả hành, tri chính là hành trong hành
động: "Vượt qua, vượt qua, vượt qua
bên kia, vượt qua bên kia một cách hoàn toàn. Ấy, chính là tuệ giác!"
(Gate, gate, paragate, parasan, gate,
bodhi svāhā !)
"Yết-đế, yết-đế, ba-la yết
đế, ba-la tăng yết đế, Bồ đề tát-bà-ha" là phát âm theo Việt
Hoa từ phiên âm tiếng Hoa của câu "chú" mô tả hành
động tuệ giác hay Trí tuệ đáo bỉ ngạn trong
tiếng Sanskrit vừa nói trên.
Quí vị có để ý là
paragate, parasangate chính là đến
paramitā (đáo
bỉ ngạn) không? Vậy thì bỉ ngạn đó
là gì, và trí tuệ phải vượt qua cái gì
để tới bỉ ngạn (bờ kia)? Chúng ta hãy lấy lại ví dụ thế giới ý niệm
A', A'', ...B', B'', của lý trí vọng thức, của vô minh ái dục thì chúng ta
sẽ thấy :
Hành động của trí tuệ là
vượt qua sông mê bể khổ, vượt qua thế giới ý niệm, tạo dựng bởi vô minh ái
dục hay lý trí vọng thức, để đạt tới bờ kia.
Cho nên nói trí tuệ đến bờ kia là
vậy.
Hay nói một cách cụ thể là trí tuệ vượt qua A', A'' và
...B', B'' ... để trả về bản nguyên
đích thực A, B của thế giới chân như (tathatā)
tự tánh (sabhāva).
Đó là bờ kia, là Diệt
đế, là pháp tánh bản nguyên như thị (yathābhūta)
vượt qua bên kia thế giới ý niệm.
Cụ thể hơn nữa, vượt qua thế giới ý niệm chính là thấy
thế giới ý niệm đúng chân tính của nó, chứ
không vượt qua bằng cách chối từ hay tránh né.
Ví dụ: khi sân khởi thấy sân khởi, khi sân diễn biến
thấy là sân đang diễn biến, khi sân diệt thấy
là sân diệt, như vậy là thấy được tánh
tướng của sân, không qua phê phán, biện minh, hay dự phỏng lý tưởng
không sân để chạy trốn thực tại. Không tô vẽ
bất cứ một ý niệm nào vào cái sân đang
hiện tiền, dù đó ý niệm một tâm từ,
một nụ cười, một bài kệ, một câu chú linh thiên cách mấy
đi nữa. Vì
đó chỉ là phương tiện
đối trị hay đánh tráo thực tại chứ không phải
đích thực là tánh tướng của thực tại hiện tiền.
Như vậy thấy đúng thực
tánh của tham, sân, si v.v.. tức là thấy pháp, thấy pháp chính là
vượt qua đến bờ bên kia, là trí tuệ
đáo bỉ ngạn (Bát-nhã Ba-la-mật-đa),
là tuệ giác (bodhi, bồ-đề) mà
các bậc A-La-Hán, Chánh Đẳng Giác đã
thành tựu viên mãn.
Tóm lại, nói thực ra đó là
hành động của trí tuệ siêu việt tam
giới để trả thực tại về với bản nguyên
như thị của pháp.
Bát-Nhã tâm kinh là một
đoản văn cô động nhưng đã nói lên đầy
đủ những thực tại tiêu biểu của pháp mà
Đức Phật khéo khai thị (Svakkhāti
Bhagavatā Dhammo), là cốt lõi chung nhất của mọi tông môn, hệ
phái phật giáo.
Nếu Tâm kinh bát-nhã là lý của sự thì khi quí vị
đọc kỷ kinh Tứ Niệm Xứ trong Pāli Dīghanikāya
(Trường Bộ Kinh) hay Majjhimanīkāya
(Trung Bộ Kinh), quí vị sẽ thấy
Đức Phật không cần hiểu lý mà Ngài chỉ nói thẳng vào sự, vì ngay
nơi sự sự vốn đã
đầy đủ lý rồi. Trong sự mà mê mờ mới
cần hiểu lý để ngộ, trong sự đã tỉnh
giác thì không những là sự lý viên dung mà còn sự sự vô ngại nữa.
Ngay nơi đi, đứng,
nằm, ngồi thường lặng lẽ chiếu soi (trong chánh niệm tỉnh giác),
ngay nơi khổ lạc ở đời không sinh một niệm
tham ưu thủ xả, ngay nơi phiền não hay giải thoát, tuệ giác vẫn
không hề lung lay dao động v.v.., như đã
được Đức Phật chỉ dạy trong kinh Tứ Niệm Xứ,
không phải sự sự vô ngại thì còn gì nữa.
Cho nên thấy Tứ Niệm Xứ chỉ nói
đến những sự kiện bình thường trong
đời sống thì cho là pháp tu của tiểu
thừa, còn nghe nói "sắc tức thị không", "không tức thị sắc"
liền cho là pháp cao siêu mầu nhiệm của Đại
Thừa thì quả là chưa thấy lý đạt sự
chút nào, phải không quí vị?
Đến đây, có thể xem như chúng ta đã thấy một
cách đại lược về lý kinh Bát nhã, cũng
là yếu lý chung của nhà Phật, cho nên chúng ta tạm ngưng thảo luận về kinh
Bát nhã để nói về những then chốt khác.
Cũng xin thưa, đây không
phải là một buổi giảng kinh theo kiểu chú giải nặng tính danh ngôn
ngữ nghĩa, mà chỉ tùy hứng mượn lời kinh để
mở bày sự thật, ví như từ đầu chúng ta
đã đồng ý với nhau là mục
đích khóa hội thảo này chỉ
để thấy ra đâu là cái thật mà thôi.
Bây giờ còn một ít thời gian, xin quí vị nêu thắc mắc
để thảo luận.
Có một cụ già hỏi :
- Sau mấy lần liên tục theo dõi buổi nói chuyện của
thầy, tôi được mở mang rất nhiều, thầy đã
trình bày khá rõ ràng giáo lý của Đức Phật cả
lý lẫn sự, nên nhiều điều trước đây
tôi nghi ngờ hoặc chưa hiểu, nay đã
được đả thông, tôi rất cám ơn thầy. Tuy nhiên, tôi e ngại rằng
những điều thầy trình bày có thể quá
cao siêu đối với người bình dân, ít có
thì giờ nghiên cứu học hỏi phật pháp. Đối với
những người đó có thể có cách nào dễ dàng hơn cho họ tu tập không?
- Cám ơn cụ, câu hỏi cụ rất hay.
Đúng là kinh Bát-nhã mà chúng ta vừa
trình bày, về lý thì rất rốt ráo, nhưng về sự chưa
đáp ứng hết được mọi căn cơ. Còn kinh
Tứ Niệm Xứ đúng mức lại dành cho người
vượt qua giai đoạn lý, chỉ cần hạ thủ công
phu là thấy pháp hiện tiền (sanditthiko Dhammo). Do
đó hai bài kinh này sự lý rốt ráo
nhưng lại rất khó cho những người học đạo sơ
cơ. Chính vì vậy mà giáo pháp của Đức
Phật có chia ra làm 3 bậc: sơ thiện, trung thiện, hậu thiện.
1) Sơ thiện giúp cho người sơ cơ chưa thấy pháp có
thể đoạn giảm điều ác, tăng trưởng điều lành
để vơi bớt những phiền não khổ
đau do vọng nghiệp gây nên.
2) Trung thiện giúp cho người
đã thấy pháp (ngộ) có thể
nhập lưu (bước vào dòng Thánh).
3) Hậu thiện giúp cho các bậc Thánh hữu học
đạt đến vô học, tức là giác ngộ giải
thoát hoàn toàn.
Vậy nếu xét thấy mình còn sơ cơ thì
đừng vội luận bàn lý Bát-nhã hay cố
gắng thực hành tuệ quán Vipassanā, mà
chỉ nên bố thí, phóng sanh, trai giới, gần gũi và học hỏi các bậc thiện
trí thức, nghe pháp, tụng kinh, sám hối, cung kính, phục vụ v.v..
Lúc thân tâm tương đối ổn
định trong sáng hành giả có thể tu tập những bước sâu hơn như nhẫn
nhục, nhu hòa, tinh tấn, thiền định, tứ vô
lượng tâm hoặc trì chú, quán tưởng, tham công án, niệm Phật v.v..
Đến lúc nói năng, hành
động, suy nghĩ đều có thể sáng suốt, định
tĩnh, chánh niệm, tỉnh giác, không bị che lấp bởi thế giới ý niệm của lý
trí vọng thức nữa thì mới có thể thấy
được lý Bát-nhã và hành được sự
Vipassanā một cách chính xác.
Sở dĩ chúng ta nói đến lý
Bát-nhã và sự Vipassanā là
để chúng ta không bị lạc đường vào tà
đạo - lý luận cao siêu nhưng "cước
căn bất điểm địa" - còn thực tế
thì mỗi người phải tự khám phá, hoặc nhờ một vị thiện trí thức chỉ bày, căn
cơ trình độ của mình
để hạ thủ công phu sao cho khế hợp, đừng với
quá cao cũng đừng kẹt vào nhưng pháp môn phương tiện mà Chư Tổ tạm
thời vận dụng cho người sơ học.
Chính vì không tự biết mình nên nhiều người chưa thấy
lý, chỉ mới có đôi chút kiến giải, rồi chấp vào
cái lý kiến giải đó, tự cho mình có căn
cơ cao thượng, chỉ hành pháp cao siêu mà thực ra là
đang tự đánh lừa mình trong thế giới
vọng tưởng huyễn hóa.
Lý là thấy ra cái thực và sự là sống trọn vẹn, tỉnh
thức với cái thực đó. Nhưng khi lý chỉ là
sản phẩm kiến giải của tư tưởng thì sự chính là luân hồi sinh tử trong tam
giới - lý này là hóa thân của vô minh, tà kiến, mà hoạt
động cụ thể chính là Hành (chữ
hành dùng trong ngũ uẩn và thập nhị nhân duyên), trung tâm tạo
tác ra tam giới cũng như dựng lên ngôi nhà bản ngã. Do
đó, cụ nói đúng, cái quan trọng là
phải biết căn cơ trình
độ thực của mình
để tháo gở ngôi nhà bản ngã trong tam
giới ấy.
--ooOoo--
* Ghi chú của người ghi chép:
Người ta đã
định nghĩa Niết Bàn bằng những hình
ảnh, mỹ từ cao siêu và tôn quý nhất, ngôn ngữ triết học, thiền học, văn
chương cẩm tú mỹ lệ nhất... có chỗ nói đúng cái rốt ráo viên mãn
tùy tướng dụng của nó... nhưng có chỗ dễ rơi vào thường kiến, thường luận.
Ví dụ:
- Ly tứ cú, tuyệt bách phi.
- Siêu việt lý trí.
- Tuyệt đối trong lòng tương
đối.
- Không còn sự diễn biến của ngũ uẩn.
- Sát-na kỳ ngộ.
- Sát-na vĩnh cửu.
- Không còn vô minh, ái dục.
- Đoạn tận tham, sân, si.
- Vĩnh phúc, thường lạc.
- Thường lạc ngã tịnh.
- Phi nhị giá, song quan, song lực.
- Uyên nguyên, bản nguyên.
- Bình thường tâm.
- Vĩnh thể.
- Bản lai diện mục.
- Vô vị chân nhân.
- Thiên thu.
- Cố quận,
- v.v... và v.v...
Kinh Hoa Nghiêm có một nhóm từ rất chân xác là "đương
xứ tức chân". Chỉ có cái đang là ấy là cái chân, không có cái chân
nào khác. Niết Bàn là cái "đang là"
luôn luôn mới mẻ, cụ thể, sinh động, phong
phú, chứ không phải là những lý niệm trừu tượng.
Triết học Tây Phương từ thời cổ Hy Lạp cho
đến hiện đại... cứ loay hoay mãi với
những duy lý, duy sự, duy danh, duy nghiệm, duy tâm, duy vật, duy linh...
và đủ mọi thứ dụng trên
đời này... không bao giờ nói
được cái thực tại toàn diện... Thành
tựu cao nhất mà cũng là thất bại tột cùng là dẫn nhau
đến vực thẳm tuyệt lộ này, hố thẳm
không bao giờ vượt qua này, mà đại biểu bi
tráng nhất của nó là Martin Heidegger. Heidegger với những tác phẩm
Vô Thể và Hữu Thể, Hữu Thể và Thời Gian... không bao giờ diễn
đạt được được cái "đang là". Rồi chính
Heidegger đã im lặng mênh mông trước
nụ cười của Đức Phật. Triết học Tây Phương
không hiểu nổi nụ cười của Đức Phật.
--- o0o ---
[ Mục
Lục ] [
1 ] [
2]
[ 3
] [
4 ] [
5
] [ 6
] [
7 ] [
8 ]
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 1-10-2004
|
|
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục