.
Cư
Trần
Lạc
Ðạo
(Trọn
bộ 3 tập)
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
---
o0o
---
Tập
1
(5)
Chánh Kiến và Chánh Tín
Từ ngàn xưa cho đến ngày nay,
sự hiểu biết hay kiến thức của con người phát triển không
ngừng, theo đà tiến hóa của nhân loại, theo sự phát triển của khoa
học. Ðó là sự hiểu biết hay kiến thức về phương diện
khoa học, về phương diện kỹ thuật, về phương diện vật
chất, nhằm thỏa mãn nhu cầu về sự khám phá những bí mật của vũ trụ,
nhằm thỏa mãn nhu cầu về tiện nghi cho cuộc sống của loài người. Tuy
nhiên, sự hiểu biết hay kiến thức của nhân loại về phương
diện tâm linh, về phương diện huyền bí, vẫn còn đang ở bước
đầu chập chững, vẫn còn nhiều điều chưa giải thích được, nhiều
hiện tượng không thể hiểu nổi, mặc dầu hiện nay đã có môn
khoa học huyền bí. Do đó, con người vẫn còn nhờ đến, vẫn còn
dựa vào sự giải thích của các tôn giáo trên hoàn cầu, vẫn còn sự hiện
diện của hai chữ "đức tin", nghĩa là con người hãy cứ đặt
niềm tin trọn vẹn, tuyệt đối vào những gì tôn giáo nói, nhưng
không có sự giải thích, hay không thể giải thích được, hoặc giả được
giải thích đó là những điều vượt quá tầm hiểu biết của con
người!
Tuy chưa hoàn toàn đẩy lui được những niềm tin vô
căn cứ, những mê tín dị đoan đày dẫy trong nhân loại, ở đông phương cũng
như ở tây phương, những khám phá, những phát minh, những tiến bộ vượt
bực của khoa học ngày nay về phương diện này cũng đã làm cho
niềm tin của tín đồ nhiều tôn giáo bị lung lay tận gốc rễ trước
ngưỡng cửa của thế kỷ mới sắp đến. Thế kỷ 21 sắp
đến sẽ là thế kỷ của khoa học hiện đại, của kỹ thuật
tiến bộ. Ðời sống vật chất của nhân loại sẽ sung túc hơn, tiện nghi
hơn, đầy đủ hơn, văn minh hơn, hiện đại hơn. Thế kỷ 21 sắp
đến cũng sẽ là thế kỷ của những tôn giáo có chánh kiến, có
chánh tín. Ðó là những tôn giáo chủ trương phát triển trí tuệ,
phát triển kiến thức và sự hiểu biết sáng suốt, chân chánh
của con người, gọi là "chánh kiến". Ðó là những tôn giáo
đem lại những niềm tin có căn cứ, những niềm tin chân chánh cho nhân
loại, gọi là "chánh tín". Ðó là những tôn giáo không ép buộc,
không hù dọa, không bắt tín đồ phải nhắm nghiền đôi mắt, giơ đôi
tay lên trời và chấp nhận những "đức tin" không cần giải thích,
không được giải thích, không thể giải thích.
Phật giáo, thực ra không phải là tôn giáo, chỉ tạm
gọi là tôn giáo, là một tôn giáo hội đủ những yếu tố nêu trên,
đem lại đời sống tâm linh sung túc cho nhân loại trong thế kỷ 21 sắp
đến. Chúng ta đã thấy, đang thấy và sẽ thấy Phật giáo ngày càng phát
triển mạnh mẽ, một cách hòa bình, một cách từ bi, khởi từ các
nước Á châu sang các nước Âu châu, Úc châu và Mỹ châu bởi các lẽ trên.
Phật giáo phát triển đến đâu, hòa nhập nơi đó, biến thành tôn
giáo địa phương, đáp ứng nhu cầu tâm linh của dân chúng tại những địa
phương đó. Cho nên chúng ta có thể thấy người Ấn Ðộ thờ tượng
Phật giống người Ấn Ðộ, người Trung Hoa thờ tượng Phật giống người
Trung Hoa, người Việt Nam thờ tượng Phật giống người Việt Nam, người
Nhựt Bổn thờ tượng Phật giống người Nhựt Bổn. Ðức Phật ở khắp mọi
nơi, trong tâm tất cả mọi người, chứ không phải chỉ có ở Ấn Ðộ.
Chúng ta cần nên biết rằng: Có hằng hà sa số Ðức
Phật, chứ không phải chỉ có Ðức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tất cả
mọi chúng sanh đều có thể thành Phật, chứ không phải chỉ có một
vị Phật duy nhất, độc tôn, bắt buộc mọi người phải thờ lạy và có
trọn quyền ban phước giáng họa. Phật giáo không có những vị giáo
chủ đầy uy quyền với các cận thần, phục sức giống y như những vị hoàng
đế và thuộc hạ, thời quân chủ phong kiến. Phật giáo phát triển
đến đâu, đem lại an lạc và hạnh phúc cho con người nơi đó, nhờ
"tứ vô lượng tâm", tức là bốn tâm địa rộng lớn. Ðó chính là:
"từ, bi, hỷ, xả". Phật giáo phát triển đến bất cứ nơi
nào trên thế gian này, không bao giờ gieo rắc hận thù, không bao giờ đem
theo mọi hình thức chiến tranh, không bao giờ đem theo mọi hình thức
cai trị, một cách trực tiếp hay gián tiếp, không bao giờ dùng quyền
lực chánh trị hay kinh tế để ép buộc người dân địa phương bỏ đạo
đang theo, không bao giờ dùng lợi lộc hay ân nghĩa để khuyến dụ lòng
người, không bao giờ cấm đoán tín đồ kết hôn với người khác đạo.
Phật giáo hoàn toàn tôn trọng sự tự do tín ngưỡng của con người. Nhân
loại đến với Phật giáo hoàn toàn do tấm lòng và sự tự nguyện
chọn lựa mà thôi. Ðiểm tuyệt vời của đạo Phật là mời chúng ta
"đến để mà thấy", chứ không phải đến để mà tin.
Thực ra, "đức tin" không cần thiết, một khi con người đã thấy
"đúng như thực", nghĩa là: thấy rõ, biết rõ và hiểu rõ.
Cốt tủy của Ðạo Phật là giúp con người đạt
được "giác ngộ và giải thoát". Cho nên con người đến với
đạo Phật bằng lý trí, bằng trí tuệ bát nhã, bằng sự hiểu
biết chân chánh, tức là bằng "chánh kiến", để đạt
được mục tiêu "giác ngộ". Cho nên con người đến với đạo Phật
bằng niềm tin chân chánh và sáng suốt, tức là bằng "chánh tín",
để đạt được mục tiêu "giải thoát". Con người đến với
đạo Phật không phải bằng đức tin, hay niềm tin mù quáng. Con người
đến với đạo Phật không phải qua các nghi lễ, các hình thức cúng
kiến, không phải qua các hình thức mê tín dị đoan. Trong phạm vi của bài
này, chúng ta sẽ học hiểu những giáo pháp Ðức Phật dạy trong tam tạng
kinh điển, để có thể đến với đạo Phật bằng chánh kiến
và đạt được chánh tín, nhằm mục đích tạo dựng cuộc sống an lạc, hạnh
phúc hiện đời và nhằm mục đích giác ngộ, giải thoát mai sau. Là người
Phật Tử chơn chánh, chúng ta phải tuyệt đối hiểu rõ ràng thế nào
là chánh kiến, thế nào là chánh tín, những gì là tà kiến, những
gì là mê tín, để khỏi lầm đường lạc lối vào tà giáo, ngoại đạo.
* * *
Trước hết, chúng ta cần biết qua những tà
kiến và những hình thức mê tín dị đoan hiện đang lẫn lộn, pha trộn
trong sinh hoạt Phật giáo, xuyên qua quá trình truyền bá, trải suốt
chiều dài lịch sử, hơn hai ngàn năm trăm năm, và xuyên qua quá trình
phát triển, trải suốt chiều rộng địa dư, từ Ấn Ðộ, sang Trung
Hoa, sang Việt Nam, sang Triều Tiên, sang Nhựt Bổn, sang Tích Lan, sang
Thái Lan, sang Miến Ðiện, sang Ai Lao, sang Cao Miên, và hiện nay đang
truyền bá sang các nước Âu, Mỹ, Úc.
A . - Tà Kiến và Mê Tín:
Tà kiến là những kiến thức sai lầm, những sự
hiểu biết vô căn cứ, khiến con người lạc vào tà đạo. Mê tín là
những sự tin tưởng mù quáng, khiến con người mất hết sức phán đoán
và trí thông minh. Tà kiến và mê tín đem lại những tai hại không thể
lường trước được. Tà kiến và mê tín có thể làm hại trọn cuộc
đời con người, có thể làm tan nát cả gia đình, có thể làm suy sụp
chuyện quốc gia đại sự.
Chẳng hạn như người vợ ghen bóng ghen gió, đi xem bói
xem quẻ. Ông bà thầy bói nói chồng có nhân tình, bèn tin ngay, không cần suy
xét, không chịu tìm hiểu sự thực thế nào, có phải gia đình của
người vợ mê tín dị đoan này sẽ tan nát hay không? Chẳng hạn như một vị
tướng lãnh hay một nhà cầm quyền mê tín dị đoan, không có khả năng,
không có lòng tự tin, bèn đi xem bói xem quẻ, trước khi chỉ huy hành quân,
đánh trận hay trước khi thi hành chuyện quốc gia đại sự, có phải như
vậy đã vô tình tiết lộ bí mật quân sự, bí mật quốc phòng cho đối
phương biết hay không, có phải như vậy làm cho nước mất nhà tan hay
không?
Những hình thức mê tín dị đoan thì quá nhiều,
chúng ta chỉ tạm nêu lên các hình thức phổ biến, thường thấy hiện
nay như là: bói bài bói toán, xem tay xem tướng, xét đoán vận mạng, chỉ
đường tương lai, xin keo lắc xâm, coi ngày tốt xấu, lên đồng lên cốt,
đồng cô bóng cậu, cúng sao giải hạn, giải trừ tai nạn, xin bùa hộ mạng, xin
phép làm ăn, coi tuổi hôn nhân, van vái bình yên, cầu khẩn như ý,
chuyển xấu thành an, trừ khử xui xấu, đốt tiền vàng bạc, hình nhân
thế mạng, yếm người chết trùng.
1) Bói bài bói toán, xem tay xem tướng,
xét đoán vận mạng, coi đường tương lai: là vấn nạn không phải
chỉ có trong Phật giáo, không phải chỉ có trong số người Việt chúng ta,
mà hầu như có khắp nơi, từ đông sang tây, từ bất cứ dân tộc nào, từ bất
cứ người theo tôn giáo nào trên khắp thế giới. Tại sao chúng ta lại có
thể tin tưởng chuyện bói toán, xem tướng, đoán vận mạng, coi tương
lai từ những người hành nghề hoặc là những người mù, những người dốt,
những người thất nghiệp, hoặc là những người không biết làm cách
nào khác để sinh nhai ngoài tài nói dóc gạt gẫm những người nhẹ dạ,
yếu lòng, không có niềm tin vững chắc, đang gặp sự khó khăn, đang
trong cơn bối rối? Chúng ta cần biết tương lai vận mạng để làm gì,
để sắp đặt công ăn việc làm cho được tốt đẹp chăng? Tại sao
chúng ta không tin tưởng nơi tài năng của chính mình, lại tin tưởng nơi
những ông bà thầy bói, là những người thực sự không biết chính xác
tương lai, vận mạng của chính họ, làm sao họ có thể biết
được tương lai, vận mạng của chúng ta? Tục ngữ có câu: "Coi bói ra ma,
quét nhà ra rác!" chính là nghĩa đó vậy.
Chúng ta thử suy gẫm câu chuyện sau đây: Có một anh
chàng tuổi độ 28 bị quỉ sứ bắt đem về trình diện diêm vương. Diêm
vương sai phán quan coi sổ bộ đời người, xem anh ta có tội gì để mà
trừng phạt. Lúc đó, phán quan mới phát giác ra rằng anh ta bị bắt lầm, chưa
đến số phải chết, cho nên bảo anh ta mau mau trở về dương thế,
kẻo trể người nhà đem chôn hay đem thiêu cái xác, thì anh ta không còn
cơ hội sống lại được nữa. Anh chàng tức giận về chuyện bắt lầm
này, cho nên chỉ chịu trở về, nếu như diêm vương cho biết cuộc
đời còn lại của mình ra sao. Diêm vương đồng ý cho phán quan tiết
lộ cho anh ta biết như sau: Năm 28 tuổi, anh ta bị quỉ sứ bắt lầm. Năm 30
tuổi, thất nghiệp thất tình, vợ bỏ ra đi, tài sản tiêu tan, sự nghiệp
tan tành, ngán ngẩm nhân tình, thất thểu lang thang, xe đụng gảy giò, ăn
xin độ nhựt. Năm 40 tuổi, gây gổ kịch kiệt, bị chém đứt tay, trúng gió
á khẩu, thân tàn ma dại. Từ đó, anh ta phải sống, cuộc đời còn lại,
hết sức cơ cực. Ðến năm 82 tuổi, bị sét đánh chết, té lọt
xuống sông, là mãn cuộc đời! Nghe xong vận mạng, biết chuyện tương
lai, choáng váng mặt mày, té xỉu một hồi, lâu lắm mới tỉnh. Anh ta ấp úng,
xin phép diêm vương, ở dưới đó luôn, không muốn trở lại, trần gian dương
thế. Nếu chúng ta là anh chàng này, thì chúng ta sẽ nghĩ gì và làm
gì? Diêm vương phán thì chắc đúng hơn mấy ông bà thầy bói trên trần
đời. Cũng vậy, chúng ta đi xem bói bài, bói toán, có ông bà thầy bói nào
dám cam đoan là nói trúng trăm phần trăm hay không?
Nếu ông bà thầy bói nói: mọi sự tốt đẹp,
chúng ta hoan hỷ, thưởng thêm tiền bạc, nhưng rồi sau đó, thất
vọng tràn trề, đau khổ vô cùng, khi gặp những điều, không gì tốt
đẹp. Nếu ông bà thầy bói nói: sáu tháng sắp tới, gặp tai gặp nạn, có
phải chúng ta, sẽ bất an ngay, bận tâm lo lắng, suốt sáu tháng trời, một cách
tai hại, một cách vô ích, hay không? Lo lắng như vậy, có thay đổi được gì
chăng, hay chỉ tổn hại cho sức khỏe mà thôi? Nếu quá ưu tư, lo lắng như
vậy, chúng ta có thể, còn bị gạt gẫm, hao tài tốn của, cho những việc
lập đàn cúng kiến, cầu xin an lành, tiêu tai giải nạn, một cách vô
lý, một cách vô căn cứ, do những ông bà thầy bói bày đặt ra, để
làm tiền những người mê tín dị đoan. Các nhà sư nào, kiêm nghề
thầy bói, thực hết chỗ nói!
Các ông bà thầy bói có khả năng gì, có tài cán gì,
mà có thể sai khiến thần linh để giải tai giải nạn cho chúng ta?
Chính bản thân các ông bà thầy bói có hết tai khỏi nạn chưa, làm sao có
thể cầu giải tai giải nạn cho chúng ta? Chúng ta cũng cần nên biết một
sự thực là: Các ông bà thầy bói cũng đi chùa, cúng kiến lễ lạy, van
vái cầu xin, điều này điều nọ, nhứt là họ hết sức thành
khẩn, cầu xin Trời Phật, tha cho cái tội dối trá, gạt gẫm người đời, bằng
cách cúng chùa hậu hỉ hơn mọi người! Sách có câu: "Tay cầm tiền
của bo bo. Ði coi thầy bói mang lo vào người".
2) Lên đồng lên cốt: là hình
thức mê tín dị đoan nặng nề. Ðồng cô bóng cậu là những trò bịp bợm,
làm tiền trắng trợn, chỉ gạt được những người ngu si, yếu bóng vía.
Một ông ngớ nga ngớ ngẩn, hay một bà son phấn lòe loẹt, ăn mặc diêm dúa, cử
chỉ quái dị, múa may quay cuồng, ngồi lắc lư lắc lư, ợ ợ ngáp ngáp một
hồi, rồi lè nhè tự xưng là cô ba cậu tư, là tề thiên đại thánh, là
lê sơn thánh mẫu, là bà chúa chổm, là ngọc hoàng thượng đế, là
ông này bà nọ, toàn là mạo xưng những nhân vật tưởng tượng trong các
truyện tàu, hay trong các tiểu thuyết tây mà thôi. Thậm chí có khi
họ mạo xưng là Phật, là chư Bồ Tát, là Thánh là Tiên, là Vua là Chúa,
là Trời là Ðất, là đức Thánh Trần, là Quan Tướng Quân! Có nhiều
người lợi dụng giáo pháp nhà Phật, lợi dụng hình tướng tu sĩ đạo Phật,
trong các chuyện đồng bóng mê tín dị đoan này, để gạt gẫm những
người nhẹ dạ dễ tin!
Làm sao ai biết được thế lực ma quái hay quỉ
thần nào nhập vào thân xác họ, để làm thơ làm kệ, dạy việc
này bảo việc khác? Thần thánh linh thiêng mà phải mượn xác phàm, nói
chuyện tầm xàm, ợ ợ ngáp ngáp, có gì hay ho đâu, mà chúng ta phải tin,
phải lễ lạy, phải nghe theo? Có người nghịch ngợm lén để vật nhọn
trên ghế, cho mấy người đồng cốt ngồi lên, để xem thử họ có
phải do thần thánh nhập, bất khả xâm phạm, mình đồng da sắt, như họ mạo
xưng hay không, thì lập tức thấy ngay, họ la hét oai oái, um trời um đất,
văng tục chửi thề, như mọi người hạ tiện khác thôi.
Ở tại hải ngoại, lại cầu thần linh, ở núi tà lơn,
núi sam núi sập, qua đây nhập vào, đồng cô bóng cậu, thì quả thực là, mê
tín dị đoan, quá sức tưởng tượng. Thần linh đó có, xin giấy xuất cảnh,
cùng giấy nhập cảnh, hay là xuất cảnh, và nhập cảnh lậu? Ở tại hải
ngoại, lại lập bàn thiên, cho thỉnh nước thánh, lấy từ năm non, bảy núi gì
đó, có thể chữa bệnh, giúp chuyện tình duyên, giải quyết gia
đạo, thì quả thực là, mê tín dị đoan, quá sức tưởng tượng. Vậy mà vẫn
có, người đăng quảng cáo, trên báo lá cải, thu hút những kẻ, nhẹ dạ dễ
tin, trong đó nhiều người, kỹ sư bác sĩ, chuyên gia chuyên viên, cũng
nhắm mắt tin, nghe theo chí tử. Thực đáng thương xót lắm thay!
3) Coi ngày tốt xấu cho việc quan hôn tang
tế: là một hủ tục của dân tộc ta cần phải được bài trừ
mạnh mẽ. Căn cứ vào đâu để định ngày này tốt, ngày kia xấu? Hằng
năm, các nhà làm lịch đặt thêm phần coi ngày tốt xấu này vào, bởi vì
họ muốn cho lịch được bán chạy, muốn kiếm thêm nhiều tiền.
Họ tùy tiện suy nghĩ, đặt ra ngày này nên làm việc này, ngày kia
không nên làm việc nọ, rồi những người si mê tin theo. Thí dụ như
người cha có đứa con bị bệnh, xem lịch thấy ngày này không nên chữa
bệnh, không nên ra đường, bèn đợi mấy ngày sau, chờ xem lịch kiếm
ngày tốt, mới mang con đi bác sĩ khám bệnh hay đi bệnh viện, thì
ôi thôi, việc đã quá muộn màng, làm sao cứu chữa cho kịp nữa. Cho nên,
chúng ta mới thấy mê tín dị đoan gây nên tai hại biết là bao nhiêu.
Ở hải ngoại, người Tây phương kị con số 13, nhứt
là "Thứ Sáu 13", lâu lâu mới có một ngày như vậy trong năm.
Nhiều cao ốc ở tây phương, không có từng lầu mang số 13, không có phòng
mang số 13! Như vậy, dân Việt chúng ta không còn giữ "độc
quyền" chuyện mê tín dị đoan nữa rồi. Trước đây, khi còn ở quê
nhà, những người không mê tín dị đoan, cứ chọn những ngày "mùng
năm, mười bốn, hăm ba", để đi làm giấy tờ, lo công việc. Họ
gặp được nhiều thuận lợi hơn, nhanh chóng hơn, dễ dàng hơn, bởi vì
trong những ngày đó, không có những người mê tín dị đoan ra đường, đi
làm giấy tờ! Có những người làm tan nát, đổ vỡ tình duyên của con cái,
chỉ vì mê tín dị đoan, tin nơi mấy ông bà thầy bói, trong việc chọn
tuổi tác hạp hay không hạp, coi ngày tốt xấu để cưới gả. Bởi vậy, ca
dao có câu:
Cọp vật mấy ông thầy bói
Sói tha mấy mụ coi ngày
Ai xui họ khéo đặt bày
Mình thương nhau thiệt trời rày tính cho.
Trong việc tang chế, có người mê tín dị đoan
đi coi ngày tốt để chôn hay thiêu thân nhân quá vãng, nhằm mục đích
giúp con cháu làm ăn được phát tài, giàu có. Nếu ông bà thầy bói nói
thân nhân mình chết "ngày trùng", bèn xin bùa xin chú để
yểm trấn, ếm đối người chết không được trở về, bắt con
cháu đi theo. Nếu ông bà thầy bói nói tuổi người này không hạp, tuổi
người kia không hạp, bèn không cho đi theo đám tang sợ xui xẻo. Những
chuyện như vậy chỉ đem lại xích mích, xáo trộn, bất hòa, bực bội trong
gia đình mà thôi. Những chuyện mê tín dị đoan như vậy phát xuất từ
lòng tham lam, ích kỷ, hẹp hòi của con người, chỉ biết nghĩ đến
bản thân mình, không nghĩ gì đến người thân đã qua đời, phát xuất từ
lòng ngu si tin theo mấy ông bà thầy bói!
Những người Tây phương đâu cần coi ngày tốt xấu
để khai trương cửa hàng, nhưng họ vẫn ăn nên làm ra, phát đạt còn
hơn mình nữa là khác. Họ đâu có thờ thần tài, thờ ông địa, hay quan
thánh đế quân gì đâu, nhưng họ vẫn làm ăn buôn bán, phát tài như
thường. Họ chỉ tính toán ngày giờ theo dự án, theo kế hoạch làm
việc, theo khả năng chuyên môn nghề nghiệp. Những bệnh nhân
cần, điều trị khẩn cấp, làm ngay tức thì, không cần xem bói, không coi
ngày giờ, tốt xấu gì cả. Còn chúng ta đi coi, ngày lành tháng tốt, khai
trương cửa tiệm, một cách rầm rộ, thờ cúng thần tài, đủ thứ xôi chè,
thuốc thơm thượng hạng, cúng rượu ngoại quốc, nhưng do không khéo, điều
hành thương mại, sập tiệm như thường. Lúc đó, ông thần tài cùng mấy
ông bà thầy bói có giúp được gì đâu?
4) Coi tay xem tướng, xét đoán vận mạng, chỉ
đường tương lai: cũng là những hình thức mê tín dị đoan từ
lâu đời, từ đông sang tây, từ Á sang Âu. Ðâu có phải người nào có
tướng hiền lành, đàng hoàng, cũng thực sự có tâm hiền lành, đàng
hoàng hết đâu. Ðâu có phải người nào có tướng phúc hậu, cũng thực
sự được yên lành hết đâu. Ðâu có phải người nào có tướng to lớn
cũng thực sự được an nhàn, sung sướng, giàu sang hết đâu, có khi còn
lao động cực khổ hơn gấp bội là khác. Ðâu phải người nào có tướng
học thức, trưởng giả, thuộc giới thượng lưu trong xã hội, đều có
tâm quảng đại, trượng phu quân tử hết đâu. Sách có câu: "Dò sông
dò biển dễ dò. Ðố ai lấy thước mà đo lòng người", chính là nghĩa
đó vậy.
Sách cũng có câu: "Họa hổ họa bì nan
họa cốt. Tri nhân tri diện bất tri tâm". Nghĩa là chúng ta chỉ có
thể vẽ con cọp qua hình thức, qua tướng mạo bên ngoài, chứ khó mà vẽ
được xương cốt bên trong vì không nhìn thấy được. Còn đối với con
người, chúng ta chỉ có thể biết mặt mày, diện mạo, nhưng không
thể biết được lòng dạ của người đó. Sách coi tay xem tướng ngày
xưa đâu có điều khoản nào nói đến chuyện vượt biên, xuất
ngoại. Vậy mà sau năm 1975, mấy ông bà thầy bói ở quê nhà hốt bạc, nhờ vào
chuyện xem tướng mạo xuất ngoại, hay xem đường chỉ tay vượt biên của
mấy người khách khờ khạo, muốn biết trước số mạng của mình ra sao,
trước khi xuống tàu ra khơi. Cần biết rằng, chính cái tướng mạo của mấy
ông bà thầy bói, mới quả thực đáng nghi là bịp bợm!
Chúng ta cần nên biết rằng:
Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sanh.
Hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt.
Nghĩa là người nào có tâm địa tốt đẹp, hiền
lành, biết tu tâm dưỡng tánh, thì tướng mạo, mặt mũi do tâm cảm ứng
sanh ra, cũng được cảm nhận hiền lành tốt đẹp như vậy. Trái lại,
người nào dù có tướng mạo bẩm sinh tốt đẹp, nhưng tâm địa xấu xa, ích
kỷ, tham lam, sân hận, si mê, dối trá, gian ác, chuyện gì cũng hăm he
đưa người khác ra tòa, thì tướng mạo tốt đẹp kia cũng theo tâm xấu ác mà
diệt mất, mặt mũi dần dần trở nên khó coi, nhăn nhó, cau có, quạu
quọ, bặm trợn.
Chúng ta thử suy gẫm câu chuyện sau đây: Có một
ông cụ và một chàng thanh niên, hai người cùng sống trong một chung cư. Ông
cụ ở từng dưới, ngày nào cũng giựt mình vì tiếng đôi giày liệng
trên sàn nhà ở từng lầu trên, mỗi khi chàng thanh niên đi làm về
khuya. Ngày nọ, ông cụ bèn lên gặp chàng thanh niên, để khẩn cầu anh
chàng đặt đôi giày xuống sàn, một cách nhẹ nhàng trong đêm khuya, bởi vì
ông cụ yếu tim, có thể nín thở bất cứ lúc nào. Chàng thanh niên
biết chuyện, nên ngỏ lời xin lỗi ông cụ và hứa sẽ không gây
tiếng động trong đêm khuya như vậy nữa. Khuya hôm sau, đi làm về
mệt, theo thói quen hằng ngày, chàng thanh niên cởi chiếc giày thứ
nhứt, quăng đùng trên sàn nhà. Chợt nhớ tới lời đã hứa với ông cụ hôm
trước, chàng thanh niên bèn khe khẻ đặt chiếc giày thứ hai, một cách
hết sức nhẹ nhàng trên sàn nhà, không gây tiếng động nhỏ nào. Lát
sau, khi sắp lên giường ngủ, chàng thanh niên nghe tiếng gỏ cửa một cách
gấp rút. Mở cửa ra, chàng thanh niên thấy ông cụ đứng thở hổn hển, một
tay ôm ngực, một tay vịn khung cửa, thều thào thốt không ra lời: Cậu trẻ
ơi! Cậu làm ơn quăng luôn chiếc giày thứ hai xuống sàn đi, kẻo lão đợi
nãy giờ, lão muốn đứng tim rồi đó.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng trong lòng
mong đợi hay lo lắng bất cứ việc gì sẽ xảy ra trong tương lai, dù gần hay
xa, cũng đều không ích lợi gì cả. Trong cuộc sống, chúng ta hay lo lắng
quá nhiều chuyện, do trí tưởng tượng mà ra. Chẳng hạn như, chúng ta
thường hay lo lắng viễn vông về tương lai, về chuyện tận thế
năm 2000 sắp tới chẳng hạn.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy: "Quá khứ
tâm bất khả đắc. Hiện tại tâm bất khả đắc. Vị lai tâm bất khả
đắc". Nghĩa là: Chuyện quá khứ đã qua rồi, nhớ nhung, xót xa,
tiếc nuối, chẳng ích lợi gì. Chuyện hiện tại thấy đó rồi cũng
qua mau, luyến tiếc, luyến lưu, chẳng ích lợi gì. Chuyện vị lai
chưa tới, lo lắng, ưu tư, chẳng ích lợi gì. Như vậy, chỉ chuốc khổ vào
thân, nhức óc, mệt tim, như ông cụ trong câu chuyện trên đây mà
thôi. Sách có câu: "Chuyện gì phải đến sẽ đến". Nghĩa
là cho dù chúng ta có mong đợi hay không mong đợi cũng vậy thôi, chúng ta
đã tạo tác nghiệp nhân, khi nghiệp quả phải đến, thì nhứt định
sẽ đến. Chạy đàng trời không khỏi nắng! Lưới trời lồng lộng, tuy thưa
mà khó lọt!
Chúng ta cần nên biết rằng: "Không ai có
thể cứu mình được, trừ phi chính mình đã tạo tác thực nhiều phước
báu". Khi nghiệp báo đến, Ðức Phật cũng không tránh khỏi,
các đại đệ tử thời Ðức Phật cũng vẫn phải trả nghiệp báo, do các
Ngài đã tạo tác từ nhiều đời trước kia, khi chưa biết tu hành. Chỉ
có điều khác là: "Người có ít phước báo thì trả đủ, người
có nhiều phước báo thì trả nhẹ hơn" vậy thôi. Trong Kinh Pháp
Cú, Ðức Phật có dạy: "Dù lên non, xuống biển, vào hang, nghiệp
báo vẫn theo con người như hình với bóng, không ai có thể tránh
được", chính là nghĩa đó vậy. Ngày nay, có người lại đi cầu
nguyện van xin Ðức Phật cứu khổ, không chịu tu tâm dưỡng tánh, không
chịu dừng các nghiệp bất thiện, không chịu thực hành theo giáo pháp
Ðức Phật dạy, để tự cứu mình, thì quả thực là vô ích vậy. Kinh sách
có câu: "Chúng con khổ nguyện xin tự độ". Như vậy, đó mới là
người có chánh kiến và chánh tín.
Ðức Phật là nhân vật có thực trong lịch sử, đã tu
hành và đắc đạo, đã giác ngộ và giải thoát, mà còn không thể cứu
chúng ta được, huống là những thượng đế, thần thánh, do chúng ta tưởng
tượng ra, rồi van xin và khấn vái, rồi cầu nguyện và nguyện cầu, thì
làm sao chúng ta được cứu rổi?! Hơn nữa, chúng ta cần nên nhớ các vị
giáo chủ trên thế gian này cũng trải qua bốn giai đoạn của cuộc đời là
"sanh, già, bệnh, chết", cũng bị khổ nạn khi quả báo đến.
Có vị chưa đến tuổi già, chưa kịp lâm bệnh thì đã bị giết
chết một cách thê thảm! Không ai không thể cứu chúng ta được,
nếu chúng ta không biết tự cứu chính mình!
5) Xin xăm, gieo quẻ: là việc
mà ai ai cũng hiểu là không đúng, nhưng cũng vẫn có người tin. Tại sao
lại là không đúng? Bởi vì, chỉ có một tủ lá xăm, một lon cây xăm, với
hơn trăm tờ, trăm cây, mà ứng với cả mấy chục ngàn người tới cầu xin hay
sao? Vã lại, xin được xăm tốt, gieo được quẻ thuận, chính mình có tin là
mọi việc sẽ tốt đẹp và thuận lợi hết hay không? Và trên thực
tế, mọi việc đều tốt đẹp và thuận lợi hết hay không?
Chắc chắn là không vậy. Trái lại, xin nhằm xăm xấu, gieo nhằm quẻ nghịch,
chính mình không cam chịu như vậy, bèn tiếp tục xin xăm khác, gieo quẻ
khác, cho đến khi nào, xin được xăm tốt, gieo được quẻ thuận, mới
được hài lòng, và mới chịu ngưng. Như vậy, có nghĩa là vạn sự trên đời
đều tốt đẹp, đều tùy thuận, đều như ý mình hết sao?
Chắc chắn là không vậy.
6) Cúng sao giải hạn, xem hướng nhà cửa:
là các việc thực là lạc hậu, vô căn cứ, kém văn minh. Nếu những
chuyện này có thực, thì bất cứ ông bà nào biết cúng sao giải hạn,
xem hướng nhà cửa, thảy đều được bình yên, đều được sung sướng,
đều được giàu có, đều được vui vẻ. Họ đâu còn thì giờ lo
cúng sao giải hạn, xem hướng nhà cửa cho thân chủ, đâu còn thì giờ gạt gẫm
người đời, từ năm này sang năm khác, đâu phải tất bật chạy lo quảng cáo
láo là linh thiêng ứng nghiệm như thần! Thần dóc, tổ láo thì có! Thử
xét trong các tai nạn có nhiều người tử vong, trên một chuyến bay,
trên một chuyến tàu, hay trên một chuyến xe, có phải hết thảy nạn
nhân cùng "tuổi 31 bước qua, 33 bước lại", cùng "tuổi tam tai
đại hạn", hay là họ thuộc đủ các hạng tuổi? Ở ngoài nghĩa
địa, có phải chỉ có những hạng tuổi gặp vì sao xấu? Hay là có tất cả
mọi người, từ trẻ sơ sinh chưa có vì sao nào chiếu mệnh, cho
đến các người tuổi già?
Chúng ta tin tuổi chẳn tốt hay tuổi lẻ tốt? Nếu
tuổi tây chẳn thì tuổi ta lẻ và ngược lại. Hơn nữa, chúng ta đang ở trên
đất tây, vậy nên tính theo tuổi ta hay tuổi tây? Vào những năm có sao hạn
tốt, có chắc chắn chúng ta được hoàn toàn bình yên, mọi sự như ý
suốt năm? Vào những năm có sao hạn xấu, có chắc chúng ta gặp toàn chuyện
bất bình, bất như ý? Hay là năm nào cũng có chuyện này chuyện
khác, chuyện tốt chuyện xấu, chuyện vui chuyện buồn lẫn lộn?
Tại sao vậy? Bởi vì, trong cuộc đời, chúng ta vừa tạo tác nghiệp nhân
lành, đồng thời cũng tạo tác nghiệp nhân chẳng lành. Dù những năm gặp
sao hạn tốt, nếu chúng ta làm việc quấy thì cũng gặp rắc rối như
thường, nếu chúng ta không chịu làm việc thì cũng đói nhăn răng như
thường, trừ phi trúng mánh hay trúng số, bằng không chỉ là trúng gió! Cho
nên, cúng sao giải hạn có nghĩa lý gì đâu, tiền mất tật mang, thêm
lo vào người, tất cả đều do nghiệp lành hay nghiệp chẳng lành,
chính chúng ta đã tạo tác mà thôi.
Trong gia đạo, sự bất hòa xảy ra do bản tánh chấp
chặt, chấp nê quá đáng của những người trong nhà. Chúng ta không chịu sửa
đổi, để vui vẻ, cởi mở, hòa thuận, cùng chung sống với nhau cho được an
lạc và hạnh phúc. Trái lại, khi có chuyện lục đục trong nhà, những
người dại dột lại đi nghe lời mấy ông bà thầy bói, bảo thay cái cửa, sửa
cái nhà, phá vách tường, đổi cái giường, xoay cái bếp, xáo trộn lung
tung thêm trong nhà trong cửa. Họ chỉ bảo chúng ta phải làm toàn những
chuyện tào lao tốn tiền, gây thêm rắc rối trong gia đạo mà thôi.
7) Ðốt giấy tiền vàng mã, xe hơi nhà
lầu hình nhơn bằng giấy: là chuyện hết sức phi lý,
không hiểu tại sao đến ngày giờ này, thế giới đang ở ngưỡng cửa
của thế kỷ thứ 21, vẫn có người còn tin được. Chúng ta thử nghĩ
xem, tiền giấy đô la của "Mỹ", lại được in ở bên
"Tàu", mạo ghi là "Made in Hell", đem "sell in here",
tức là đem qua các xứ phương "Tây" để bán, dân "Ta"
bèn tin bừa, và mua đem về đốt cho thân nhân ở "Ðịa ngục" xài!
Làm như vậy, vô tình chúng ta đã hại thân nhân ở dưới đó, họ đã
tiêu xài tiền giả, nên bị gánh thêm tội lỗi! Những điều này
phát xuất từ tâm chấp ngã, tâm tham lam, tâm ích kỷ, tâm phân biệt.
Lúc sống, quen thói tranh đua, giành giựt, muốn lợi phần mình hay người thân
mình. Lúc chết đi, cũng muốn được sung sướng, nhàn hạ với nhà lầu, xe
hơi, kẻ hầu người hạ bằng giấy! Thực ra, sau khi qua đời, thân nhân của
chúng ta đã đi thọ sanh, đầu thai nơi cảnh giới khác, trong vòng sanh tử
luân hồi, theo nghiệp đã tạo tác lúc còn sanh tiền.
8) Hậu quả của tà kiến và mê tín dị
đoan: Những người có tà kiến và mê tín dị đoan là những
người tin bướng tin càng, mù quáng quàng xiên, mê mờ khờ khạo, tiêu mất
lý trí, không còn sáng suốt, đâm ra khiếp nhược, không biết chân
lý, mất lòng tự tin nơi khả năng của mình. Cuộc sống của họ luôn
luôn bất an, lo âu sợ hãi, phập phồng thấp thỏm. Tại sao vậy? Bởi vì, họ
luôn luôn dựa vào thế lực bên ngoài, dù không biết thế lực đó
từ đâu tới, thiện hay ác, chính hay tà cũng không hay biết. Tâm của
họ luôn luôn ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình, phân biệt,
kỳ thị. Cuộc đời của họ đầy sự khổ đau, trói buộc, lo lắng, ưu tư,
sợ hãi. Họ sống trong sự tối tăm, ai nói gì cũng nghe, ai nói gì cũng
tin, ai bảo gì cũng làm, không biết đâu là phải, là trái, đâu là
chánh, là tà, đâu là đúng, là sai! Thực đáng tội nghiệp lắm thay!
Ngày xưa, còn ở quê nhà, khi có một buồng chuối trổ
muộn, một gò mối lạ, một cục đất, một cục đá, hơi tượng hình người,
những người mê tín dị đoan liền cho đó là Phật hiện thân, Bồ Tát
giáng trần, xúm nhau tìm tới, lạy lấy lạy để, cầu xin van vái, đủ thứ
mọi chuyện. Thực ra có ai được gì đâu, tiền mất tật mang. Chỉ
có mấy ông xe đò, mấy bác tắc xi, mấy chú xích lô, mấy bà buôn gánh bán
bưng xung quanh nơi đó là vui vẻ, mỉm cười vì trúng mánh. Ngày nay, ở khắp
thế giới, ngay tại các quốc gia gọi là văn minh tiên tiến, cũng
không thiếu gì các tin đồn thần thánh hiện nơi này, hiện nơi kia,
trên bức tranh, trên vách tường, trên ngọn cây, trên đám mây, trên nóc
nhà, lại được các tổ chức tín ngưỡng tối cao, xác nhận là có thực, chẳng
biết căn cứ vào đâu? Ít lâu sau chính quyền địa phương phát giác
là giả mạo ngụy tạo, bèn truy tố kẻ lợi dụng đức tin của mọi người
để thủ lợi, lúc đó họ ẳm một số tiền không nhỏ, do bá tánh
đóng góp, trốn biệt tăm biệt tích một cách tài tình! Như vậy mới
biết là dân ta không hề giữ độc quyền về chuyện mê tín
dị đoan như vậy, bởi vì có quá nhiều cạnh tranh trên khắp thế giới!
* * *
Trên đây, chúng ta đã nghiên cứu qua về những
điểm gọi là tà kiến và mê tín theo quan điểm của Phật giáo.
Tức nhiên, những người theo đạo Phật và những người đang muốn tìm hiểu
giáo lý của đạo Phật, một cách nghiêm túc, tâm trí minh mẫn, trí
tuệ sáng suốt, với tâm bình thường, tâm chính trực, tâm bất tùy phân
biệt, không thành kiến, không thị phi, không tranh chấp, không hơn thua,
không loạn động, không kỳ thị, đều hoan hỷ tiếp nhận. Phần trên
chỉ mới nêu lên những thí dụ điển hình nhứt về tà kiến và mê
tín. Phạm vi của bài viết không đủ kích thước, không đủ tầm vóc,
để tìm hiểu hết tất cả những tà kiến và mê tín trên thế
gian này. Tại sao vậy? Bởi vì theo lời Ðức Phật dạy, con người do "vô
minh phiền não" từ lâu đời, từ vô thủy, cho nên rất khó lãnh hội
lý lẽ, rất khó nhận chân sự thực, rất khó giác ngộ chân lý, một
cách nhanh chóng và dễ dàng được. Cần có thời gian và sự quyết tâm.
Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu những điều hợp
với chân lý, hợp với lẽ thực, hợp với trí tuệ, đúng với Chánh
Pháp, để áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, hầu xây dựng cuộc sống an
lạc và hạnh phúc hiện đời. Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy: "Không
nên tin ngay tất cả những gì người xưa nói, tất cả những gì người có
thế lực đạo cũng như đời nói, tất cả những gì người bề trên nói,
tất cả những gì có nhiều người tin theo, có ghi trong sách vở. Chỉ nên
tin những gì có thể kiểm nghiệm được, đúng với chân lý,
đúng với lẽ thực, thông qua trí tuệ sáng suốt, thấy có ích lợi cho bản
thân và cho mọi người".
Trước khi Ðức Phật ra đời, ở xứ Ấn Ðộ, có hằng
trăm đạo giáo khác nhau. Có đạo thờ thần lửa, thờ thần sấm sét, có đạo
thờ rắn, có đạo thờ bò. Có đạo chủ trương, hành hạ xác thân, cực kỳ
đau đớn, như là lấy roi, tự đánh vào thân, đi trên lửa hồng, đứng ngoài
nắng cháy, như thiêu như đốt , nằm trên bàn chông, ngủ ngồi quanh năm, treo
ngược hai chân, ăn uống đồ hẩm. Bởi vì họ quan niệm rằng thân xác
của con người chính là nguyên nhân gây nên tất cả tội lỗi. Trong các
thư viện tại thành phố Toronto, xứ Canada hiện nay, nhiều sách
nghiên cứu về các tôn giáo ở Ấn Ðộ có ghi lại những hình ảnh vừa
kể. Những người có quyền thế, trong đạo cũng như ngoài đời,
thời bấy giờ, cũng như bất cứ thời nào, trên trái đất này, đều cố
tình tạo ra những sự kiện linh thiêng huyền bí, để dễ bề mê
hoặc lòng người, để củng cố địa vị ăn trên ngồi trước, vinh thân phì
da của họ, không làm mà có ăn, khoác bên ngoài lớp vỏ tín ngưỡng tôn
giáo.
Khi Ðức Phật đi khắp bốn phương để giảng giải
chân lý, truyền bá Chánh Pháp, nghĩa là đem ánh sáng trí tuệ khai
mở tâm trí mờ tối của con người. Vô số người ngưỡng mộ, qui y, bỏ con
đường mê tín sai lầm, trở về với chân lý. Ðiều này làm cho
giáo chủ các đạo khác mất dần tín đồ, niềm tin suy sụp, không còn uy
tín, đem lòng căm giận, lấy làm tức tối, gây nhiều rắc rối, tạo lắm
chướng nạn, trở ngại bước đường hoằng pháp của Ðức Phật, qua các hình
thức phỉ báng mạ lị, vu khống xuyên tạc, vu oan giá họa.
Con người vì vô minh cho nên rất dễ tin theo những gì
có vẻ linh thiêng huyền bí, những gì có vẻ khó hiểu mơ màng, cứ nghe
nhiều người loan truyền là tin theo ngay, không cần suy nghĩ, không cần
tìm hiểu, hư thực ra sao? Có khi chúng ta tin theo những gì người đời
trước tin, làm theo những gì người đời trước làm, hoặc nhắm mắt tin theo
những gì mà các tổ chức tín ngưỡng rao truyền, xác nhận là thực, một
cách ngây thơ, không cần suy xét, không cần chiêm nghiệm, không dùng
lý trí, không thể kiểm chứng, không cần biết những điều
đó là đúng hay sai, sự thực như thế nào? Ngày xưa bên Tàu, có một
thiền sư, trước khi ngồi thiền, bảo người đệ tử, bắt nhốt con
mèo, hay chạy tứ tung, ngao ngao om sòm. Người thuộc đời sau, không hiểu
lý do, tưởng rằng việc đó, ích lợi thiêng liêng, cho việc ngồi
thiền, bèn kiếm cho được, vài ba con mèo, bắt nhốt xong rồi, mới ngồi
ngay ngắn, ở trên bồ đoàn, lim dim tọa thiền!
Vì không chịu học, tìm hiểu giáo lý,
biết bao nhiêu người, gọi là Phật Tử, tại gia xuất gia, tin theo đạo
Phật, khác gì ngoại đạo. Ngoại đạo ở đây, nghĩa là vẫn thờ, tượng Phật
tại gia, hay là tại chùa, nhưng vẫn thường làm, "ngoài tâm cầu
đạo", chỉ biết lo chuyện, cúng kiến lễ nghi, cầu nguyện
khấn vái, cầu khẩn van xin, đủ thứ mọi điều, không hiểu không
biết, Phật ở nơi đâu. Tại sao lạ vậy? Bởi vì chư Tổ, có dạy rõ
ràng:"Phật Tức Là Tâm, Tâm Tức Là Phật". Ngoài Tâm không Phật, cầu
đạo ngoài Tâm, là nghĩa lý gì? Phật không ở chùa, không ở trong tượng,
bằng đồng hay cây, không ở trên mây, trên non trên núi, không ở dưới suối,
dưới sông dưới biển. Chúng ta không cần, phải đi đến xứ, Ấn
Ðộ xa xôi, bất cứ nơi đâu, mới thấy được Phật. Vậy chúng ta đi, tìm
Phật ở đâu? Xin được trả lời: Phật đang ở ngay, trong tâm chúng ta. Hay nói
cách khác: Phật chính là Tâm, của chúng ta vậy. Chúng ta làm việc, lợi
mình hại người, Tâm Phật ẩn mất. Chúng ta làm việc, lợi mình lợi
người, Tâm Phật hiển hiện. Thực là đơn giản!
Trong Phật giáo, có ba môn học giúp con người phát
sinh trí tuệ bát nhã, gọi là "Tam Huệ Học", gồm có:
văn huệ, tư huệ và tu huệ, nói gọn là "Văn-Tư-Tu".
Nghĩa là muốn phát triển trí tuệ sáng suốt, trên bước đường tu
học, chúng ta cần phải lắng nghe, phải học hỏi, xong rồi phải tư duy,
phải quán tưởng, phải suy nghĩ, một cách chín chắn, một cách tường tận. Khi
nhận thấy có ích lợi cho bản thân và cho mọi người, mới đem ứng dụng tu
hành, mới đem áp dụng vào cuộc sống hằng ngày. Không phải nghe thấy bất cứ
điều gì, cũng tin theo ngay, cũng làm theo ngay, không cần nghĩ suy, không
cần kiểm chứng, không cần tìm hiểu gì cả, dù điều đó được ghi
là lời Phật dạy cũng vậy, được chép trong các sách gọi là kinh
điển cũng vậy thôi!
* * *
B . - Chánh Kiến và Chánh Tín:
Chánh kiến là kiến thức chân chánh, hay sự
hiểu biết sáng suốt, đúng lẽ thực, đúng chân lý. Chánh tín là
niềm tin chân chánh, niềm tin có căn cứ, thông qua trí tuệ sáng
suốt của con người. Nói tóm gọn là: Thấy "đúng như thực" và
tin "đúng như thực" gọi là chánh kiến và chánh tín.
Chánh kiến là bước thứ nhứt trong "bát chánh đạo", gồm có:
chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh
tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Chánh kiến là điều kiện
thiết yếu hàng đầu, để giúp con người có chánh tín, để
giúp con người có thể phán đoán, nhận xét và nhìn thấy vạn hữu sự vật
đúng với bản chất của nó, đúng với chân thật tướng, không tự dối, không
trốn tránh sự thực và không trốn tránh cuộc đời. Ðạo Phật là đạo xuất
thế gian nhưng không xa rời thế gian. Ðạo Phật vào đời để giác
ngộ và giải thoát người đời, khỏi phiền não và khổ đau, khỏi sanh tử
luân hồi, nhưng không bị vẩn đục vì đời, ví như hoa sen mọc từ bùn
nhơ nhưng không nhơ vì bùn, mà vẫn tỏa hương thơm ngát. Ðạo Phật
cứu độ nhân loại đang còn ở thế gian này được giác ngộ và giải
thoát, chứ không phải đợi đến khi con người chết mới độ về Tây
phương cực lạc!
Trong phạm vi bài này, chúng ta chỉ tìm hiểu bốn
chánh kiến quan trọng sau đây: Một là "Lý Nhân Quả", còn
gọi là "Lý Nhân Duyên". Hai là "Lý Vô Thường".
Ba là "Lý Trùng Trùng Duyên Khởi". Bốn là "Thập Như
Thị".
1) Lý nhân quả: Ngày nay, nhờ
kiến thức khoa học, chúng ta đã hiểu rõ, nếu gieo hạt cam xuống
đất, cộng thêm những "trợ duyên" như nước tưới, ánh sáng, phân
bón, công chăm sóc, thời gian sau, chúng ta có thể gặt được quả cam. Nói
gọn là: "Nhân nào quả nấy". Ðôi khi có nhân nhưng thiếu trợ
duyên, cũng không gặt được quả. Cho nên được gọi lý nhân quả hay
lý nhân duyên, chính là nghĩa đó vậy. Lý nhân quả ứng dụng trong ba
thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Nghĩa là: Có những nghiệp nhân
tạo tác trong quá khứ, chúng ta nhận nghiệp quả trong hiện tại. Có
những nghiệp nhân tạo tác trong hiện tại, chúng ta sẽ nhận nghiệp
quả trong vị lai. Cũng như có những hạt giống trồng được quả sớm, có những
hạt giống trồng được quả sau một thời gian nào đó, ngắn hay dài.
Cho nên chúng ta đừng ngạc nhiên, khi thấy có những kẻ
đang gây nghiệp nhân xấu xa, tức là họ đang làm các việc xấu ác,
các việc bất thiện, nhưng vẫn được sung sướng, bình yên. Tại sao
vậy? Bởi vì họ đang hưởng nghiệp quả tốt, từ nghiệp nhân lành
tạo tác từ nhiều kiếp trước, trong kinh sách gọi đó là
"phước báo". Tức là họ đang hưởng phước báo đã gieo từ
nhiều kiếp trước. Ðến khi hưởng hết phước báo đó, thì
họ sẽ bắt đầu gặt "quả báo" từ những việc xấu ác, những
việc bất thiện, do chính họ đang gây ra. Ðến khi đó, nhẹ thì
tán gia bại sản, tiêu tan sự nghiệp, nặng thì vong mạng thảm tử, chết
chẳng toàn thây. Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:"Con người khi đang
hưởng phước báo, cũng như mủi tên bắn lên không trung. Mủi tên bay lên rất
nhanh, rất mạnh, cũng như con người gặp mọi sự may mắn, tốt đẹp, như
ý. Ðến khi phước báo hết, con người bắt đầu đền trả
nghiệp báo, cũng như mủi tên hết trớn thì rơi xuống đất vậy".
Do đó, chúng ta đừng ngạc nhiên khi đã làm hay đang
làm không biết bao nhiêu việc lành, việc thiện, việc tốt,
giúp người, giúp đời, bố thí, cúng dường, đi chùa, tụng kinh, niệm
Phật, nhưng vẫn gặp khốn nạn, khổ sở, điêu đứng, kiện thưa, đói rách,
nạn tai liên miên. Tại sao vậy? Bởi vì những nghiệp nhân thiện lành
chúng ta đã làm hay đang làm hiện đời chưa tới lúc có kết quả.
Trái lại, chúng ta đang thọ lãnh nghiệp báo xấu, là hậu quả từ những
nghiệp nhân chẳng lành, do chính chúng ta đã tạo tác trong quá khứ trước
kia. Hiểu được như vậy, chúng ta mới có thể vẫn tinh tấn, tiếp
tục làm việc thiện, việc tốt, không mệt mỏi, không ngừng nghỉ,
để tạo tác thêm phước báu, trong khi vẫn đang chịu nghịch cảnh, khổ
nạn. Ðó là chánh tinh tấn trong bát chánh đạo vừa kể trên.
Chúng ta đừng vội cho là "ở hiền không gặp
lành", đừng vội nghĩ làm ác sướng hơn, đừng vội tin thủ đoạn
nhiều thì lợi lộc nhiều. Tại sao vậy? Bởi vì, không thể nào gieo
hạt cam ngọt lại gặt quả chanh chua được, hoặc ngược lại. Nhân nào thì
quả nấy, có lửa thì có khói, gieo gió thì gặt bão, sinh sự thì sự sinh, làm
thiện thì gặp lành, làm ác thì gặp ác, chạy trời sao khỏi nắng! Cũng có
những trường hợp quả báo nhãn tiền. Quả báo có nghĩa là nghiệp quả
hay nghiệp báo phải nhận, từ nghiệp nhân đã tạo tác. Quả báo nhãn
tiền tức là gieo nhân nào thì gặt ngay "kết quả tốt", hay
nhận ngay "hậu quả xấu" hiện đời. Thí dụ như chăm chỉ thì
học giỏi, cần mẫn thì sung túc, tiết kiệm thì có dư, điều
độ thì sống lâu, có ăn thì no bụng, thể dục thì khỏe thân. Thí dụ như
ngậm máu phun người liền dơ miệng mình, nghiện ngập thì khổ thân,
lười biếng thì nghèo nàn, cờ bạc thì nợ nần, hoang phí thì đói rách,
trộm cướp thì ở tù, hại người thì người hại, gậy ông lại đập lưng ông,
viết thư nặc danh thì xanh xao hao sức, chẳng ích lợi gì cho thân và tâm
của tác giả.
Tuy nhiên, dù nghiệp nhân đã lỡ tạo tác rồi, từ
nhiều kiếp trước, hay ngay kiếp này, nhưng nếu chúng ta
"biết dừng nghiệp, biết chuyển nghiệp", tức là
biết ăn năn sám hối, biết quày đầu hướng thiện, biết tu tâm
dưỡng tánh, biết tu nhơn tích đức, thì khi nghiệp quả hay nghiệp
báo, nói chung là "quả báo" có đến, cũng sẽ nhẹ bớt đi nhờ có
"phước báo" do chính mình tạo tác được, che chở cho mình.
Chuyện lớn sẽ hóa nhỏ, chuyện nhỏ sẽ hóa không. Bằng như không
biết dừng nghiệp, không biết chuyển nghiệp, thì khi
nghiệp quả hay nghiệp báo, nói chung là quả báo có đến, chúng ta
sẽ lãnh đủ. Thí dụ như chúng ta có biết tiết kiệm, biết dành
dụm thì sẽ có khả năng trả bớt, trả dứt nợ nần xưa vậy. Tiền tiết
kiệm dụ cho phước báo, nợ nần xưa dụ cho quả báo.
Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy thí dụ như sau: Một
người bị bắt buộc phải nuốt một nắm muối thì quả thực là khổ sở vô cùng.
Nếu người đó có thể bỏ nắm muối vào một tô nước rồi uống thì sẽ
đỡ khổ hơn một chút. Nếu người đó có thể bỏ nắm muối vào một lu
nước rồi uống thì sẽ đỡ khổ nhiều hơn chút nữa. Nếu người đó có
thể bỏ nắm muối vào một hồ nước lớn rồi uống thì sẽ không thấy khổ
sở bao nhiêu, hoặc không có thấy khổ gì cả. Nắm muối tượng trưng cho
"quả báo" phải thọ nhận, từ nghiệp nhân xấu ác, bất
thiện đã tạo tác. Tô nước, lu nước hay hồ nước lớn tượng trưng cho
"phước báo" ít hay nhiều, từ nghiệp nhân thiện lành, tích
lũy được từ nhiều kiếp cho đến ngày nay vậy.
Hiểu được lý nhân quả một cách tường tận
như thế, chúng ta sẽ bớt phiền não và khổ đau rất nhiều. Chẳng
hạn như mới gặp người nào đó, nhưng họ ghét chúng ta cay đắng, thì
phải quán: chuyện đó không phải là tự nhiên, không phải là tự dưng
họ ghét mình. Nhứt định chúng ta đã có gây oán hờn, từ đời trước
với họ, có khi ngay đời này, tại chúng ta không biết, không để
ý đó thôi. Hiểu được như vậy, chúng ta không bực bội, không
phiền não, không trách cứ người đó, chỉ biết trách mình và càng
thận trọng hơn trong cách cư xử, trong hành động, trong lời nói, ngay cả
trong tư tưởng, để không tạo thêm nghiệp nhân mới, giảm bớt oán hờn
xưa. Chẳng hạn như có người đem bụi dơ ném vào chúng ta. Chúng ta hiểu
ngay là nghiệp quả hay nghiệp báo, nói chung là quả báo, đang đến.
Chúng ta chỉ nên tự lo trong sạch thân và tâm của mình, không ném trả bụi
dơ lại người đó. Bằng không cả hai đều lấm dơ lem luốc!
Sách có câu: "Trách người một, trách ta mười.
Bởi ta tệ trước nên người bạc sau". Nghĩa là chúng ta có bị người
đời đối xử bạc bẽo cũng do chúng ta đã đối xử tàn tệ với họ
trước. Chúng ta hãy can đảm nhận lỗi, qui tội về mình, đừng đổ
lỗi cho người, đừng than phiền, đừng trách móc ai cả. Chúng ta cần
nên biết rằng: "Không bao giờ có quả mà không có nhân". Nghĩa
là không bao giờ có chuyện gì xảy ra mà không có nguyên nhân xa và
nguyên nhân gần, chỉ tại chúng ta không chịu quán chiếu, không chịu tìm
hiểu đó thôi.
Hiểu được lý nhân quả một cách tường tận
như thế, chúng ta sẽ thấy phiền não và khổ đau hay an lạc và hạnh
phúc đều do chính chúng ta chủ động tạo tác, không do thượng đế,
hay bất cứ thần linh nào, ban phước hay giáng họa cả. Chúng ta có làm bất
cứ điều gì, thì phải có can đảm chịu, can đảm nhận. Nói gọn là:
"Dám làm thì dám chịu". Cũng như sách có câu: "Tự tác hoàn tự
thọ" chính là nghĩa đó vậy. Chẳng hạn như khi có chuyện bất
hòa, tranh chấp trong gia đình, chúng ta phải cố gắng tìm hiểu nguyên nhân
nào gây ra, có phải do tâm ích kỷ, do lòng tham lam, do sự cố chấp, do
những người trong nhà chấp chặt ý kiến cá nhân hay không. Tìm được
nguyên nhân rồi chúng ta tích cực sửa đổi, tích cực chuyển hóa tâm hồn
của chính chúng ta. Như vậy, chúng ta mới có khả năng xây dựng một mái ấm
gia đình an lạc và hạnh phúc.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Vũ trụ
vạn vật đều do nhơn duyên sinh". Nghĩa là vũ trụ vạn vật
đều do nhơn và do duyên sinh ra, chứ không do một vị thượng đế, một
đấng tạo hóa toàn năng nào sinh ra, tạo ra cả. Có người thắc mắc: Thế
nào là nhơn duyên sinh? Câu trả lời: "Thử hữu cố bỉ hữu. Thử sinh cố
bỉ sinh". Nghĩa là: "Do cái này có nên cái kia có, do cái này sinh
nên cái kia sinh". Chẳng hạn như có chọc chó nên mới bị chó cắn.
Muốn không bị chó cắn thì đừng chọc chó! Thực vậy, thời nay chúng ta
hiễu rõ, có lửa mới có khói, có ăn mới có no, có tu mới có chứng, có
học mới có hiểu, có mây mới có mưa, có gieo trồng nhân mới có gặt
hái quả. Không có ông trời nào làm ra mưa cả, mặc dù chúng ta quen gọi
trời mưa hay trời nắng! Không có thiên lôi nào làm ra sấm sét để hù
dọa con người cả. Chỉ tại con người, lạc hậu kém cỏi, ít học giáo
lý, mê tín dị đoan, tưởng tượng có trời, tin có thượng đế,
quyền năng tuyệt đối, có thể ban phước, có thể giáng họa,
rồi tự hoảng sợ, giống như con nít, hay sợ bóng ma, sợ luôn ông kẹ, chỉ vậy
mà thôi, không có gì khác.
Khi trong gia đình, có chuyện bất hòa, chúng ta
hiểu ngay, là chính mình đã, "làm việc gì đó", mới
khiến người khác, phản ứng như vậy. Chúng ta phải tự xét lại mình,
trước khi mở lời trách người khác. Chắc chắn do mình đã làm
"chuyện đó", nên mới có "chuyện này" xảy ra, nên
người ta mới làm "chuyện kia" đáp ứng vậy đó thôi. Nghĩa là:"Có
chuyện này xảy ra nên chuyện kia mới xảy ra". Chẳng hạn như
mình có kỳ cục, người khác mới bực bội. Chẳng hạn như mình có nói khó
nghe mới bị chúng chửi! Nếu mình dễ tính, dễ thương thì được yêu
mến, quí trọng. Thấy người khác tỏ vẽ bực bội, nếu chúng ta chỉ
biết trách cứ, chỉ biết đối đáp, chỉ biết trả đủa, thì càng
làm chuyện lớn thêm mà thôi. Tây phương có câu: "Do not sweat the
small stuff, it is all small stuff". Chuyện nhỏ bỏ đi, đừng thêm to
chuyện. Chiêm nghiệm suy xét kỹ lưỡng như vậy, chúng ta tạo được gia
đình hạnh phúc không khó. Chúng ta cần nên biết rằng: "Không
việc gì trên đời tự nhiên sinh ra cả". Không thể tự nhiên có
cái cây mọc lên, mà không có hạt giống ở trong đất. Không thể tự
nhiên có người đến mắng chửi khơi khơi, hoặc không thể tự nhiên có
người ghét, mà không do chính chúng ta đã làm điều sái quấy, dù vô
tình hay cố ý. Không thể tự nhiên mình gặp tai nạn chết người,
mà không có quả báo từ trước, do chính mình tạo tác. Không thể tự
nhiên con cái ngỗ nghịch mà chúng ta không có lỗi gì cả. Sách có
câu: "Nhân chi sơ tánh bổn thiện". Con cái có mất dạy là do
chúng ta không biết dạy đó thôi, đừng trách tuổi trẻ, hãy trách chính
mình. Hiểu được như vậy, còn gì đáng ngạc nhiên, đáng bực bội nữa
đâu?
Muốn trị thân bệnh, tức là trị dứt bệnh tật
của thân thể, chúng ta phải đi khám bác sĩ, phải uống thuốc, phải ăn
uống điều độ, phải giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung, phải tập
thể dục. Chứ không phải chỉ biết cầu xin thượng đế, van vái Trời
Phật, tìm uống nước sông nước suối, cho là nước tiên nước thánh, mà
hết bệnh được. Nếu sự thực có như vậy, các vị giáo chủ đã
đến đó lấy nước về uống trị bệnh, không cần bác sĩ, không cần
bệnh viện! Càng tệ hơn nữa là đi gặp mấy ông bà thầy bói, mấy
ông bà đồng cốt, để thỉnh bùa chú, thỉnh kính chiếu yêu, dán đầy
nhà cửa, trừ tà trừ ma, hay đem đốt uống! Muốn trị tâm bệnh, tức là
muốn giảm bớt cái quả phiền não và khổ đau, chúng ta phải biết rõ
nguyên nhân nào gây ra những phiền não và khổ đau đó, rồi tích cực tu
sửa, chứ không than trời trách đất gì cả. Cảnh giới thiên đàng hay địa
ngục tùy thuộc nơi chúng ta tạo tác, chứ không từ bất cứ nơi nào tới,
không do trời thần quỉ vật nào quyết định cả. Ðó là chánh kiến quan
trọng mà tất cả chúng ta cần phải có, phải hiểu, phải biết,
để cuộc sống có ý nghĩa hơn.
2) Lý vô thường: Trong Kinh
Kim Cang, Ðức Phật có dạy: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư
vọng". Nghĩa là bất cứ những gì có hình, có tướng trên thế
gian này đều là hư vọng, giả dối, không tồn tại vĩnh viễn. Mọi
sự sự vật vật trong thế giới này đều trải qua bốn giai đoạn:
"sinh, trụ, dị, diệt" hoặc "thành, trụ, hoại, không". Từ
những vật nhỏ như cái bàn, cái ghế, cái nhà, cái cửa, kể cả cái
xác thân tứ đại của chúng ta, đến những thứ to lớn như núi non, quả
địa cầu, thảy đều được sinh ra, được hình thành, tồn tại trụ thế
một thời gian nào đó, rồi cũng bị biến dị, hư hoại, cho đến ngày
nào đó, bị tiêu diệt, hủy diệt, thành ra không có còn nữa. Chúng ta
ai ai cũng biết rằng: "Có sinh ắt có diệt".
Cũng trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:
Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyển bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng quán như thị tác.
Nghĩa là tất cả mọi pháp, mọi sự sự vật vật
trên cõi đời, đều như là giấc mộng không thực, như là huyễn hóa, ảo
thuật giả tạo, như là bào bọt, bóng nước mong manh, như là ảo ảnh mơ
màng, như là giọt sương dễ tan, như là điện chớp thấy đó mất đó,
không có gì tồn tại vĩnh viễn cả. Hiểu được lý vô thường một
cách tường tận, một cách sâu sắc, chúng ta sẽ không phiền não và khổ
đau nhiều, như khi có chiếc xe bị hư hoại, khi có một vật quí bị mất
mát hay rớt bể, thậm chí khi người thân có mệnh hệ nào hoặc
chính chúng ta đến ngày phải bỏ lại xác thân tứ đại và ra đi. Hoặc khi
con cái lỡ tay đập bể đồ đạc gì, dù quí giá đến đâu, nhưng nhờ
hiểu được lý vô thường một cách thấu đáo, chúng ta sẽ không vì
tiếc của, la rầy, mắng nhiếc con cái. Gia đình nhờ đó được an lạc
và hạnh phúc.
Hiểu được lý vô thường một cách mạnh mẽ,
chúng ta không ngạc nhiên khi thấy một người thân thiết biến thành kẻ
thù không đội trời chung, một người tốt biến thành kẻ xấu hay ngược
lại, một người ơn biến thành kẻ oán, một kẻ si mê biến thành người
giác ngộ. Tại sao vậy? Bởi vì: Tâm của con người cũng như thân
của con người, không phải bất biến, không phải vĩnh cửu, không
phải cố định, mà chỉ là một dòng năng lực chuyển biến không ngừng,
tùy duyên mà có, tùy duyên mà thành, và cũng tùy duyên mà diệt.
Cũng vậy, con người tùy theo lợi lộc mà tâng bốc tán dương, khen ngợi ca
tụng, bốc thơm xum xoe. Con người cũng tùy theo lợi lộc mà hạ nhục phỉ báng,
chỉ trích bới móc, bôi tro trét trấu, ném đá giấu tay, viết thư nặc
danh, hăm he hù dọa, vu oan giá họa, lôi nhau ra tòa, kiện cho sạt
nghiệp! Thực chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả! Mọi sự thăng trầm của
thể chất hay những hiện tượng của tâm linh, giống như một dòng nước,
luôn luôn trôi chảy, luôn luôn biến đổi, không bao giờ ngừng nghỉ, dù
trong một phút giây. Một thành phố với bao nhiêu nhà cửa, cầu cống, đường
xá, xa lộ, đồ sộ nguy nga, vĩ đại huy hoàng, nhưng chỉ qua một đêm có trận
động đất, chỉ còn là một đống gạch vụn khổng lồ mà thôi. Thường xuyên
quán chiếu lý vô thường như vậy, chúng ta sẽ giảm bớt phiền não
và khổ đau rất nhiều.
3) Lý trùng trùng duyên khởi:
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật giảng dạy rõ ràng lý trùng trùng duyên
khởi. Chúng ta cần phải biết rằng trên cuộc đời này, mọi sự vật
không bao giờ bình yên trôi chảy, không bao giờ an ổn như ý chúng ta mong
muốn. Việc này vừa xong thì việc khác xảy đến. Chuyện này
chưa dứt thì chuyện khác đã tới, liên tục và liên tục không bao giờ
ngừng, cũng như gió ngoài biển khơi vậy. Tây phương có câu: "Que
sera sera! " hay "What will be will be! ". Tạm dịch: "Chuyện
gì phải đến sẽ đến!". Không tránh được chuyện đời, chúng
ta hãy chấp nhận một cách bình thản vậy. Không thể cầu được bình yên
khi chúng ta không có phước báo.
Sách có câu: "Có phước thì hưởng phước".
Chúng ta không thể hưởng phước, trong khi không chịu làm phước, chỉ
biết van xin, cầu nguyện, làm sao có phước được mà hưởng? Cũng như
muốn xài tiền, thì phải làm việc kiếm ra tiền, phải có
tiền, vậy thôi, đi xin tiền thì ai cho? Ðó là sự thực hiển nhiên.
Chúng ta nhận thức được như vậy, thì sẽ không ngạc nhiên, không đau khổ
khi phải đối đầu với những cảnh ngộ phiền não, liên tiếp xảy ra
trên cuộc đời này, trong cuộc đời của chúng ta. Người nào chịu đựng
được bát phong, tức là tám ngọn gió thế gian, luôn luôn thổi tới
tấp, người đó được gọi là "bát phong xuy bất động", đó
chính là bậc đại nhân. Bát phong đó chính là: "lợi, suy, hủy, dự,
xưng, cơ, khổ, lạc", tức là lợi lộc, suy sụp, hủy báng, khen tặng, tán
thán, chỉ trích, khổ nạn, sung sướng. Sách có câu: "Phước bất trùng
lai, họa vô đơn chí" nghĩa là các điều phước, các việc may,
thường không đến hai lần, trái lại, tai họa thì tới liên miên,
hết chuyện này đến chuyện khác xảy ra dồn dập.
4) Thập như thị: Trong Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa, thường gọi là Kinh Pháp Hoa, Ðức Phật có dạy
mười điều đương nhiên đúng như thế, còn gọi là "thập như
thị". Ðó là: như thị tánh, như thị tướng, như thị thể, như thị
lực, như thị tác, như thị nhơn, như thị duyên, như thị quả, như thị báo,
như thị bản mạt cứu cánh. Nghĩa là: Do tâm tánh của con người như vậy, cho
nên hình tướng của con người là như vậy. Do bản thể của con người như
vậy, cho nên nghiệp lực của con người là như vậy. Do tạo tác của con
người như vậy, gây ra nghiệp nhơn như vậy, cộng thêm nghiệp duyên
như vậy, cho nên nghiệp quả của con người là như vậy. Vì nghiệp báo
của con người như vậy, cho nên từ xưa đến giờ cứu cánh của con người
cũng chỉ là như vậy.
Thí dụ như khi người ta đưa lửa tới đốt, chúng ta
đưa bổi ra đón, lửa có điều kiện cháy lớn hơn. Nếu chúng ta
không đón ngọn lửa do người ta đem tới, thì ngọn lửa đó chỉ đốt
hư không mà thôi. Không ai có thể đốt cháy hư không được. Một lát
ngọn lửa cũng sẽ tắt queo, không gây thiệt hại gì! Cũng vậy, khi bị
người khác công kích, chỉ trích, mạ lị, miệt thị, chúng ta "không
chấp" vào đó, coi chuyện đó là những chuyện "đương nhiên
phải có" ở thế gian đầy tranh chấp, ganh tị, đố kỵ, chúng ta sẽ
an ổn, không ai xâm phạm được, không ai đốt được khi tâm của chúng ta
bình thản, trống rỗng như hư không.
Thí dụ như giới chủ nhân thì muốn công nhân làm
việc nhiều, năng xuất cao, nghiệp vụ tốt nhưng lãnh lương thấp.
Trái lại, giới công nhân thì muốn lè phè, chọn việc nhẹ, nghỉ
nhiều, làm ít, nhưng lãnh lương cao! Cuộc đời là như thế, là
"như thị". Thí dụ như hai con gà ghét nhau vì tiếng gáy, hai con
người ghét nhau vì tiếng nói, hai cô ca sĩ có bao giờ thương nhau. Cuộc
đời là như thế, là "như thị". Thí dụ như chúng ta đem lợi lộc
đến thì người ta yêu mến, còn đem phiền toái tới thì người ta
chửi bới. Ðem quà tới thì được, đem họa tới thì không. Khi đến
các nơi công cộng, có tiền thì hậu đãi, không tiền thì bạc đãi.
Cuộc đời là như thế, là "như thị". Thí dụ như con người vốn
tánh tham lam và lười biếng, tu thì không muốn, hoặc chỉ hành ít ít,
chút chút thôi, nhưng lại thích được lên thiên đàng, hay vãng sinh tây
phương cực lạc, hưởng sự sung sướng, hoặc đợi đến khi chết, bà con
đăng báo cầu chúc tiêu diêu nơi miền cực lạc! Cuộc đời là như
thế, là "như thị".
Hiểu được đủ mười điều đương nhiên,
"thập như thị", như thế, như vậy, tức là chúng ta đã thấy tột
chơn tướng của mọi pháp trên thế gian này. Ðược như vậy, được
như thế, được như thị, tức là chúng ta đã qua cơn mê, hết mơ toàn
chuyện trên mây, chúng ta sẽ sống đời an lạc và hạnh phúc. Tại sao vậy?
Bởi vì chúng ta đã giác ngộ và giải thoát. Giác ngộ tức là qua cơn mê,
hết nằm mơ. Giải thoát tức là an lành tự tại thong dong.
* * *
Tóm lại, để chuẩn bị bước sang thế kỷ
mới, thiên niên kỷ 2000, để có một cuộc sống tâm linh sung mãn, vững
vàng, mạnh mẽ, để có một cuộc sống an lạc và hạnh phúc ngay hiện
đời, chúng ta hãy phát tâm cầu học và áp dụng Phật Pháp ngay trong cuộc
sống, một cách tích cực, một cách mãnh liệt, một cách tinh tấn, không bao
giờ thoái chuyển. Trong kinh sách, Ðức Phật có dạy: chúng ta được thân
làm người như hiện nay rất là khó. Bởi vì do nghiệp lực dắt dẫn,
chúng ta đã từng trôi lăn nhiều đời nhiều kiếp trong sáu nẽo
luân hồi. Ðó là: thiên, nhơn, a tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Chúng ta đã từng chịu đựng khổ đau không biết cơ man nào mà kể cho
xiết qua các cảnh giới trong ba đường khổ. Bây giờ chúng ta hãy lắng
lòng, phát nguyện tu tâm dưỡng tánh, phát triển trí tuệ bát nhã
sáng suốt vi diệu, để phá tan màn vô minh che phủ tâm trí của chúng
ta tự bấy lâu nay. Cho đến một ngày nào đó, gần hay xa tùy theo công phu
tu tập, chúng ta sẽ được giác ngộ và giải thoát, sẽ được thoát ly sanh tử
luân hồi, sẽ được hưởng cảnh giới cực lạc, cảnh giới Niết bàn.
Màn vô minh u tối đã che lấp trí tuệ sáng suốt
của chúng ta không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp rồi, cũng như
những đám mây đen dầy đặc che khuất ánh sáng của mặt trăng, cũng như bóng
tối bao phủ căn phòng đã ngàn năm qua. Nhưng chỉ cần học hiểu, thực
hành giáo lý của Ðức Phật ngay trong cuộc sống hiện tại, có ngày
chúng ta bổng dưng bừng sáng, giác ngộ, thấu hiểu chân lý, ngay trong
phút giây. Cũng như chỉ cần một cơn gió mạnh đủ thổi sạch những đám mây
đen kia, để mặt trăng trở lại sáng, cũng như chỉ cần bật ngọn đèn
lên thì căn phòng sáng lên lập tức, không cần phải đợi ngàn năm sau mới
sáng tỏ được.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy: "Người có
chánh tín là người đã gieo trồng căn lành nơi vô lượng ngàn muôn Ðức
Phật. Người có chánh tín được vô lượng phước đức. Người có chánh tín
không còn chấp tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả,
tức là không còn chấp ngã, không còn chấp pháp". Chư Tổ có dạy: "Tu
mà không học là tu mù. Học mà không tu là đãy sách". Dù là
Phật Tử tại gia hay xuất gia, đã phát tâm tu theo Phật, thì phải học
hiểu giáo pháp, để có chánh kiến và chánh tín, bằng không chỉ
là tu mù, dễ lầm đường lạc lối, mê tín dị đoan. Còn nếu chỉ đọc
kinh sách và tìm hiểu cho biết, không chịu tu tâm dưỡng tánh, thì
cũng như cái đãy, cái bị đựng sách mà thôi.
Vừa học đạo lý vừa tu tâm dưỡng tánh, vừa tu
tâm dưỡng tánh vừa học đạo lý, nhứt định có ngày chúng ta sẽ hoát
nhiên đại ngộ, tâm trí chúng ta sẽ bừng sáng. Như vậy, cuộc đời của chúng
ta bước sang kiếp mới, bước ra khỏi vòng u mê tăm tối ngàn năm, kể
từ phút giây giác ngộ đó vậy. Sau khi qua cơn mê, xa cuộc đời trầm luân,
hết mơ chuyện huyễn hoặc, ta sẽ ươm thật nhiều, trái yêu thương
ngọt ngào, hái đem cho mọi người. Rồi đây sau cơn mê, trí tuệ
được khai thông, sông cạn lại thành ròng, qua đến bờ bên kia, phiền
não thành an lạc, khổ đau thành hạnh phúc, đấu tranh thành hòa bình, hận
thù thành yêu thương, cay đắng thành ngọt ngào, nghi ngờ thành cảm
thông, ta bà khổ thành cực lạc quốc, thế gian thành thiên đàng, mọi
người thành nhất thể. Thật là hạnh phúc thay! Thật là vi diệu thay!
Thật là nhiệm mầu thay!
---
o0o
---
Mục Lục
Tập
1:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11|
12
Tập
2:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
Tập
3:
1|
2
|
3
|
4|
5|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
12|
13|
14
|15|
16
---
o0o
---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ
Chính
Trực
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ
sách
này
(Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục