Nói
đến
Vi
diệu
pháp
(Abhidharma)
thì
người
ta
cho
là
phải
giải
quyết
4
thành
phần
độc
lập
cơ
bản:
thức
(chitta,
consciousness),
tâm
hành
(chetasika),
sắc
(rupa)
và
niết
bàn.
Sắc
(pháp)
chia
xẻ
với
thức
và
tâm
hành
cái
bản
thể
của
một
thực
tướng
đã
bị
điều
kiện
hóa,
trong
khi
niết
bàn
là
một
thực
tướng
chưa
bị
điều
kiện
hóa.
Trong
việc
xét
3
thực
tế
đã
bị
điều
kiện
hóa
trên,
chúng
ta
có
thể
đồng
thời
xét
lại
vấn
đề
ngủ
uẩn
của
phần
tâm
sinh
lý. Ðiều
này
quay
trở
lại
vấn
đề
chúng
ta
đã
nói
trong
chương
33
về
sự
liên
hệ
giữa
chủ
thể
và
đối
tượng,
tâm
và
sắc.
Nói
một
cách
khác,
ta
còn
2
yếu
tố:
chủ
thể
(tinh
thần)
và
đối
tượng
(vật
chất).
Một
mặt
chúng
ta
có
tâm
(mind)
và
tâm
hành
(tức
thọ,
tưởng,
hành,
thức),
mặt
khác
chúng
ta
có
đối
tượng,
tức
sắc
(form
hay
matter). Trong
bối
cảnh
Vi
diệu
pháp,
điều
quan
trọng
phải
nhớ
là,
sắc
không
phải
là
một
cái
gì
tách
rời
khỏi
tâm
(thức).
Thực
ra,
tâm
và
sắc
có
thể
được
gọi
là
những
hình
thức
kinh
nghiệm
chủ
thể
và
đối
tượng.
Chúng
ta
sẽ
thấy
chính
xác
và
đúng
đắn
hơn
khi
hiểu
tứ
đại
(đất,
nước,
lửa,
gió)
là
phẩm
chất
hơn
là
bản
chất
của
sắc.
Phật
giáo,
đúng
ra
là
Phật
học
(Buddhology),
có
một
đường
lối
thực
tế
theo
hiện
tượng
học,
nên
sắc
chỉ
quan
trọng
vì
nó
là
một
đối
tượng
của
kinh
nghiệm
ảnh
hưởng
thực
thể
tâm
lý
của
chúng
ta.
Trong
khi
một
vài
hệ
thống
khác
xác
nhận
một
nhị
nguyên
cấp
tiến
tuyệt
đối,
một
sự
mổ
xẻ
tâm
và
thân.
Trong
Phật
học
chúng
ta
chỉ
có
những
hình
thức
kinh
nghiệm
chủ
thể
và
đối
tượng. Trong
việc
phân
loại
và
liệt
kê
sắc
trong
Vi
diệu
pháp,
sắc
được
chia
ra
thành
28
yếu
tố.
Bốn
yếu
tố
chánh,
hay
bốn
cốt
lõi
của
sắc,
được
gọi
là
đất,
nước,
lửa,
gió.
Tuy
vậy,
tốt
hơn
nên
gọi
đất
là
‘qui
luật
mở
rộng
hay
đối
kháng’,
nước
là
‘qui
luật
kết
chặt’,
lửa
‘qui
luật
của
nhiệt’
và
gió
là
‘qui
luật
chuyển
động’
Ðây
là
4
chất
xây
dựng
chính
yếu
của
sắc.
Từ
chúng,
sinh
ra
5
giác
quan
thuộc
vật
chất
cùng
đối
tượng
của
chúng. Trang
329.
Trong
bàì
này
cũng
như
trong
bài
nói
về
ngủ
uẩn,
sắc
không
những
chỉ
cho
thân
thể
ta,
mà
còn
chỉ
cho
các
pháp
đối
tượng
kinh
nghiệm
bên
ngoài.
Ngoài
các
giác
quan
và
các
pháp
của
chúng,
sắc
cũng
hiện
diện
trong
giống
đực
và
giống
cái,
trong
tim
hay
nguyên
tắc
của
sự
sống
và
trong
dinh
dưỡng.
Còn
có
6
yếu
tố
sắc
nữa,
đó
là:
qui
luật
không
gian,
hai
qui
luật
thông
tin
(thân
và
khẩu),
ánh
sáng,
sự
mềm
mại
và
thích
ứng.
Cuối
cùng,
có
4
yếu
tố
được
gọi
là
‘các
đặc
tính’:
thành
(sanh),
trụ
(bền),
hoại
(hủy)
và
diệt
(đoạn). Vì
thế
có
tất
cả
28
thành
phần
(kinh
nghiệm)
vật
chất
(tức
sắc):
tứ
đại,
ngủ
quan
và
các
pháp
tương
ưng,
nhị
phái
tính,
sinh
khí,
dinh
dưỡng,
không
gian,
hai
hình
thức
thông
tin,
ánh
sáng,
mềm
mại,
thích
ứng
và
4
đặc
tính
thành
trụ
hoại
diệt. Chúng
ta
hãy
xét
kỹ
hơn
về
Tứ
đại
theo
nghĩa
thực
tế
của
chúng,
tức
các
phẩm
chất
của
giác
quan.
Xin
nhớ
là,
khi
nói
đến
sắc,
ta
không
nói
đến
chính
đất,
nước,
lửa
gió
mà
nói
đến
ý
nghĩa
phẩm
chất
đất
nước
lửa
gió
của
các
giác
quan--các
phẩm
chất
mà
ta
có
thể
cảm
thấy
và
sinh
ra
kinh
nghiệm
của
sắc.
Thí
dụ
khi
nói
đến
các
phẩm
chất
cứng
và
mềm
của
giác
quan
thì
ta
muốn
nói
đến
qui
luật
mở
rộng;
ấm
áp
và
lạnh
lẽo,
thuộc
về
qui
luật
sức
nóng.
Chúng
ta
không
bàn
đến
bản
thể
mà
chỉ
bàn
đến
phẩm
chất. Trang
330.
Ðiều
này
có
nghĩa
là
chúng
ta
bàn
đến
vấn
đề
sắc
hoàn
toàn
có
tính
cách
hiện
tượng
học,
trong
đó
các
phẩm
chất
giác
quan
tạo
thành
các
thành
phần
độc
lập
cơ
bản.
Nói
một
cách
khác,
nó
không
phải
là
cái
bàn
này
hay
thân
xác
của
tôi
mà
chính
là
các
phẩm
chất
cứng
và
mềm
của
chúng
sản
sinh
ra
kinh
nghiệm
của
sắc.
Trong
bài
này,
các
pháp
của
kinh
nghiệm
(như
cái
bàn
này
và
thân
xác
của
tôi)
là
những
thực
tế
có
tính
cách
qui
ước,
trong
khi
các
phẩm
chất
giác
quan
của
tính
cứng
và
mềm,
v.v...sản
sinh
ra
kinh
nghiệm
của
sắc
là
những
thành
phần
độc
lập
cơ
bản. Ðiều
này
được
gọi
trong
triết
học
là
‘quan
điểm
cách
thức’,
một
quan
điểm
nhắm
vào
các
phẩm
chất
của
kinh
nghiệm
hơn
là
bản
thể
của
nó.
Ði
tìm
cái
bản
thể
của
sắc
là
đi
vào
thế
giới
của
suy
đoán,
đi
ra
ngoài
kinh
nghiệm
thực
nghiệm
của
chúng
ta;
còn
bàn
đến
các
phẩm
chất
của
sắc
là
ta
giới
hạn
mình
vào
hiện
tượng
và
kinh
nghiệm
mà
thôi.
Ðiều
đáng
quan
tâm
là
‘quan
điểm
cách
thức’
của
sắc
được
chia
xẻ
bởi
một
số
triết
gia
đương
thời
mà
Bertrand
Russell
có
thể
là
người
nổi
tiếng
nhất
trong
số
đó.
Các
khoa
học
gia
đã
thừa
nhận
sắc
là
một
hiện
tượng,
là
không
thể
đạt
được
bản
thể
của
sắc,
và
điều
này
đã
được
chứng
minh
bởi
việc
khám
phá
ra
‘khả
năng
có
thể
chia
chẻ
một
cách
vô
tận’
của
nguyên
tử. ‘Quan
điểm
cách
thức’
của
một
thực
tướng
có
một
ý
nghĩa
quan
trọng
khác
nữa:
đối
với
thực
tướng
của
một
vấn
đề,
một
khi
chúng
ta
giới
hạn
cái
nhìn
thuần
hiện
tượng
học
và
thực
nghiệm
thì
vấn
đề
của
thế
giới
bên
ngoài,
tức
bên
ngoài
cái
giới
hạn
kinh
nghiệm
của
mình,
sẽ
không
xảy
ra.
Một
khi
thế
giới
ngoại
vi
xảy
ra
cho
kinh
nghiệm
về
sắc,
thì
nó
chỉ
thuộc
phạm
vi
khách
quan
và
vật
chất
của
kinh
nghiệm
của
ta,
chứ
không
phải
là
một
thực
tế
độc
lập
tự
nó
có. Trang
331.
Ở
cấp
đẳng
riêng
tư,
sự
hiện
hữu
tâm
sinh
lý
của
ta
được
tạo
nên
bởi
2
thành
phần:
tinh
thần
(tâm)
và
vật
chất
(thân).
Tâm
và
thân
khác
nhau
về
tính
chất
ở
một
mức
độ
nào
đó:
tâm
thì
thích
nghi
và
thay
đổi
được
hơn
là
thân.
Phật
đã
có
lần
nói
rằng
chúng
ta
có
thể
đúng
nếu
xem
thân
là
cái
ngã
hơn
là
cái
tâm,
vì
cái
thân
ít
nhất
duy
trì
được
những
đặc
điểm
có
thể
nhận
ra
trong
một
thời
gian
dài
hơn. Chúng
ta
có
thể
chứng
minh
sự
thật
này
qua
kinh
nghiệm
riêng
của
từng
người.
Ðầu
óc
ta
thay
đổi
mau
hơn
thể
xác.
Chẳng
hạn,
tôi
có
thể
quyết
định
tự
chế
không
ăn
thức
ăn
bột
và
dầu,
nhưng
sẽ
phải
tốn
một
thời
gian
đáng
kể
để
phản
ảnh
điều
đó
lên
trên
thân
thể
tôi.
Thân
đề
kháng
sự
thay
đổi
hơn
tâm,
và
điều
này
tương
ứng
với
đặc
tính
của
đất,
được
đại
diện
trong
qui
tắc
đề
kháng.
Thân
là
sản
phẩm
của
nghiệp
quá
khứ,
thức
quá
khứ,
và
cũng
là
căn
bản
của
thức
hiện
tại.
Ðiều
này
nằm
ngay
ở
chính
sự
băn
khoăn
lo
lắng
mà
nhiều
bậc
trí
thức
đã
cảm
thấy
về
thân.
Một
triết
gia
nổi
tiếng,
Plotinus,
đã
từng
nhận
xét
rằng
ông
ta
cảm
thấy
như
một
tù
nhân
trong
cái
thân
xác
của
mình,
cái
thân
xác
mà
ông
xem
giống
như
nấm
mồ. Ðôi
khi
chúng
ta
thích
ngồi
thiền
lâu
hơn
nếu
không
vì
sự
khó
chịu
của
thân
thể.
Ðôi
khi
chúng
ta
muốn
làm
việc
lâu
hơn
một
chút
để
thức
xem
một
chương
trình
truyền
hình
đặc
biệt
nhưng
không
thể
làm
được
vì
sự
mệt
mỏi
của
cơ
thể.
Có
một
sự
dằn
co
giữa
tâm
và
thân
vì
sự
kiện:
thân
là
cái
hình
thức
vật
chất
hóa
của
nghiệp
quá
khứ,
và
vì
đặc
tính
của
thân
là
đề
kháng
nên
nó
phản
ứng
chậm
đối
với
những
hành
động
không
bị
ép
buộc
hơn
là
tâm.
Vì
thế,
thân
xác,
với
một
ý
nghĩa
nào
đó,
là
vật
chướng
ngại
làm
cản
trở
sự
phát
triển
tinh
thần. Chúng
ta
có
thể
thấy
điều
này
rõ
ràng
trong
trường
hợp
của
những
người
đã
được
giải
thoát.
Trong
‘Câu
hỏi
của
vua
Milinda’,
vua
hỏi
Na
Tiên
Tỳ
kheo
(Nagasena)
là
các
vị
A
la
hán
có
chịu
đựng
đau
đớn
được
hay
không.
Nagasena
trả
lời
rằng
dù
A
la
hán
không
còn
phải
chịu
đau
khổ
về
tinh
thần,
họ
vẫn
phải
chịu
đau
khổ
về
thể
xác.
Họ
không
còn
khổ
về
tâm
vì
các
cơ
sở
căn
bản
về
tham
sân
si
không
còn
hiện
diện,
nhưng
họ
vẫn
bị
đau
khổ
về
thân
ngày
nào
cái
căn
bản
của
thân
còn
hiện
hữu.
Chỉ
khi
nào
một
vị
A
la
hán
nhập
niết
bàn,
’niết
bàn
vô
lậu’,
tức
không
còn
các
cá
tính
tâm
sinh
lý--thì
vị
ấy
không
còn
đau
khổ
về
thân
xác.
Ðây
là
lý
do
tại
sao,
trong
các
lời
kể
lại
về
cuộc
đời
của
Phật
và
của
các
vị
đệ
tử
của
ngài,
có
nhiều
lần
họ
phải
chịu
đau
khổ
về
thân
xác. Trang
332.
Thân
xác
có
một
vị
trí
trung
gian
đặc
biệt,
ở
chỗ
nó
là
sản
phẩm
của
tâm
thức
quá
khứ
và
cơ
bản
của
tâm
thức
hiện
tại.
Vị
trí
trung
gian
này
cũng
phản
ảnh
sự
kiện
là
một
vài
phần
thuộc
về
thân
thể
là
có
ý
thức
và
có
thể
được
kiểm
soát
bởi
hành
động
của
ý
chí,
trong
khi
một
số
khác
không
có
ý
thức
và
phản
xạ
tự
động.
Thí
dụ
tôi
có
thể
quyết
định
ăn
thêm
một
dĩa
đồ
ăn
nữa,
nhưng
chính
là
phần
thân
thể
không
ý
thức
mới
tiêu
hóa
hay
không
tiêu
hóa
được
bữa
ăn:
tôi
không
thể
bắt
buộc
thân
xác
tôi
tiêu
hóa
nó
được. Thở
cũng
là
một
điển
hình
của
vị
trí
trung
gian
của
thân
thể,
bởi
vì
thở
có
thể
vừa
là
phần
không
ý
thức
lại
vừa
là
phần
có
ý
thức,
nếu
được
thực
tập
điều
chỉnh
cho
mục
đích
thân
được
an
tâm
được
lạc.
Trong
việc
hài
hòa
hỗn
hợp
thân
và
tâm,
ta
cần
nhớ
một
điều
là
tâm
biểu
hiện
cho
nguyên
tắc
năng
động,
có
thể
biến
đổi
và
tự
ý
quyết
định,
trong
khi
thân
xác
đại
diện
qui
luật
đề
kháng.
Chính
vì
vậy,
thân
xác
không
thể
nào
thay
đổi
mau
lẹ
như
cái
tâm
trong
tiến
trình
phát
triển
và
giải
thoát.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002