Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Sau khi Thành Đạo
"Trên thế gian, không luyến ái là hạnh phúc" -- Udana
Trong
buổi sáng, ngay trước ngày Thành Đạo, lúc Bồ Tát ngồi dưới
gốc cây cổ thụ Ajapala gần cội Bồ Đề, thì có một bà
giàu lòng quảng đại tên Sujata thình lình dâng đến Ngài
một vật thực bằng gạo với sữa mà bà đã công khó tự
tay tỉ mỉ làm lấy. Sau khi thọ xong bữa ăn có nhiều chất
dinh dưỡng ấy, Đức Phật nhịn đói luôn suốt bảy tuần
nhật. Ngài trải qua thời gian bốn mươi chín ngày yên lặng
để suy niệm, quanh quẩn dưới gốc cây Bồ Đề.
Tuần
Lễ Đầu Tiên
Suốt thời gian bảy ngày đầu tiên
sau khi Thành Đạo Đức Phật ngồi không lay động dưới tàng
cây Bồ Đề [1] để chứng nghiệm Hạnh Phúc Giải Thoát (Vimutti
Sukha). Trong đêm cuối tuần, Ngài xuất thiền và suy niệm
về Thập Nhị Nhân Duyên (Paticca Samuppada) [2] theo chiều xuôi
như sau: "Khi có cái này (nguyên nhân), thì cái này (hậu
quả) có. Với sự phát sanh của cái này (nhân), cái này (quả)
phát sanh".
- Tùy
thuộc nơi Vô Minh (avijja), Hành (samkhara), thiện và bất
thiện, phát sanh
- Tùy
thuộc nơi Hành, Thức (vinnana) phát sanh.
- Tùy
thuộc nơi Thức, Danh-Sắc (nama-rupa) phát sanh.
- Tùy
thuộc nơi Danh-Sắc, Lục Căn (salayatana) phát sanh.
- Tùy
thuộc nơi Lục Căn, Xúc (phassa) phát sanh.
- Tùy
thuộc nơi Xúc, Thọ (vedana) phát sanh.
- Tùy
thuộc nơi Thọ, Ái (tanha) phát sanh.
- Tùy
thuộc nơi Ái, Thủ (upadana) phát sanh.
- Tùy
thuộc nơi Thủ, Hữu (bhava) phát sanh.
- Tùy
thuộc nơi Hữu có Sanh (jati).
- Tùy
thuộc nơi Sanh, phát sanh Bệnh (jara), Tử (marana), Sầu Não (soka),
Ta Thán (parideva), Đau Khổ (dukkha), Buồn Phiền (domanassa) và
Thất Vọng (upayasa).
Toàn thể khối đau khổ phát sanh như
thế ấy.
Lúc bấy giờ đã thấu hiểu ý nghĩa
của điều này, Đức Thế Tôn đọc lên bài kệ hoan hỷ như
sau:
"Quả thật vậy, khi các Chân Lý
phát hiện hiển nhiên đến bậc thánh nhân (Brahmana) [3] đã
kiên trì cố gắng và suy niệm thâm sâu, bao nhiêu hoài nghi đều
tan biến vì vị này đã thấu triệt chân lý cùng với các
nguyên nhân".
Khoảng canh giữa trong đêm, Đức
Phật suy niệm về Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều ngược như
sau: "Khi nguyên nhân này không còn thì hậu quả này cũng
không còn. Với sự chấm dứt của nhân này, quả này cũng
chấm dứt".
- Với
sự chấm dứt của Vô Minh, Hành chấm dứt.
- Với
sự chấm dứt của Hành, Thức chấm dứt.
- Với
sự chấm dứt của Thức, Danh-Sắc chấm dứt.
- Với
sự chấm dứt của Danh-Sắc, Lục Căn chấm dứt.
- Với
sự chấm dứt của Lục Căn, Xúc chấm dứt.
- Với
sự chấm dứt của Xúc, Thọ chấm dứt.
- Với
sự chấm dứt của Thọ, Ái chấm dứt.
- Với
sự chấm dứt của Ái, Thủ chấm dứt.
- Với
sự chấm dứt của Thủ, Hữu chấm dứt.
- Với
sự chấm dứt của Hữu, Sanh chấm dứt.
- Với
sự chấm dứt của Sanh, Bệnh, Tử, Sầu Não, Ta Thán, Đau
Khổ, Buồn Phiền và Thất Vọng chấm dứt.
Như thế ấy, toàn thể khối đau
khổ chấm dứt.
Lúc bấy giờ đã thấu hiểu ý nghĩa
của điều này, Đức Thế Tôn đọc lên bài kệ hoan hỷ như
sau:
"Quả thật vậy, khi các Chân Lý
phát hiện hiển nhiên đến bậc thánh nhân (Brahmana) đã kiên
trì cố gắng và suy niệm thâm sâu, bao nhiêu hoài nghi đều
tan biến vì vị này đã thấu triệt sự tận diệt các nguyên
nhân".
Đến canh ba, Đức Thế Tôn suy niệm
về pháp "Tùy Thuộc Phát Sanh" theo chiều xuôi và
chiều ngược như sau: "Khi nhân này có, thì quả này có.
Với sự phát sanh của nhân này, quả này phát sanh. khi nhân này
không có thì quả này không có. Với sự chấm dứt này, quả
này chấm dứt."
- Tùy
thuộc nơi Vô Minh, Hành phát sanh v.v...
Như thế ấy, toàn thể khối đau
khổ phát sanh.
- Với
sự chấm dứt của Vô Minh, Hành chấm dứt v.v...
Như thế ấy, toàn thể khối đau
khổ chấm dứt.
Lúc bấy giờ đã thấu hiểu ý nghĩa
của điều này, Đức Thế Tôn đọc lên bài kệ hoan hỷ như
sau:
"Quả thật vậy, khi các Chân Lý
phát hiện hiển nhiên đến bậc thánh nhân (Brahmana) đã kiên
trì cố gắng và suy niệm thâm sâu, thì Ngài vững vàng phá
tan vây cánh cửa của Ma Vương cũng như ánh sáng thái dương
phá tan đêm tối và rọi sáng bầu trời".
Tuần
Thứ Nhì
Tuần lễ thứ nhì trải qua một cách
bình thản, nhưng trong sự yên lặng ấy Đức Phật đã ban
truyền cho thế gian một bài học luân lý quan trọng. Để
tỏ lòng tri ân sâu xa đối với cây Bồ Đề vô tri vô giác
đã che mưa đỡ nắng cho Ngài suốt thời gian chiến đấu để
thanh đạt Đạo Quả, Ngài đứng cách một khoảng xa để chăm
chú nhìn cây Bồ Đề trọn một tuần không nháy mắt. [4]
Noi theo gương lành cao quý và để
kỷ niệm sự thành công vẻ vang, hàng tín đồ của Đức
Phật đến ngày nay vẫn còn tôn kính, chẳng những chính cây
ấy mà đến các cây con, cháu của cây ấy. [5]
Tuần
Thứ Ba
Vì Đức Phật không rời nơi trú
ngụ mà vẫn còn quanh quẩn ở cội Bồ Đề nên chư Thiên lúc
bấy giờ còn nghi ngờ, không biết Ngài đã đắc Quả Phật
chưa. Đức Phật đọc được tư tưởng ấy, dùng oai lực
thần thông tạo một "đường kinh hành quý báu" (ratana
camkamana) và đi lên đi xuống thiền hành suốt trọn tuần.
Tuần
Thứ Tư
Trong tuần lễ thứ tư, Đức Phật
ngự trong "bảo cung" (ratanaghara, cái phòng bằng ngọc,
trong ý nghĩa "cái phòng quý báu") để suy niệm về
những điểm phức tạp của Vi Diệu Pháp (Abhidhamma, giáo lý
cao siêu) [6]. Kinh sách ghi nhận rằng khi Ngài suy tưởng về lý
Nhân Quả Tương Quan (Patthana), bộ khái luận thứ bảy của
Tạng Vi Diệu Pháp, tâm và thân Ngài trở nên hoàn toàn tinh
khiết và do đó phát tủa ra một vầng hào quang sáu màu [7].
Tuần
Thứ Năm
Trong tuần thứ năm, Đức Phật
ngồi dưới cội Ajapala trứ danh, chứng nghiệm Hạnh Phúc
Giải Thoát (vimutti sukha). Vào cuối tuần, khi Ngài xuất ra
khỏi trạng thái siêu thế ấy có một vị Bà-la-môn ngã
mạn (huhumka jakita) đến gần chào hỏi theo lễ nghi rồi nói:
"Này Tôn Giả Gotama (Cồ Đàm), đứng về phương diện nào
ta trở thành một thánh nhân (Brahmana) và những điều kiện nào
làm cho ta trở thành thánh nhân?"
Để trả lời, Đức Phật đọc lên
bài kệ:
"Người kia đã xa lánh mọi điều
xấu xa tội lỗi, không còn ngã mạn (huhumka), đã thanh lọc
mọi ô nhiễm, thu thúc lục căn, thông suốt các pháp học và
đã chân chánh sống đời phạm hạnh thiêng liêng, người
ấy được coi là thánh nhân (Brahmana). Đối với người ấy
không còn có sự bồng bột, dầu ở nơi nào trên thế gian."
[8]
Theo bản Chú giải Túc
Sanh Truyện, cũng trong tuần lễ này, ba người con gái của Ma
Vương - Tanha, Arati và Raga [9] - cố gắng lấy nhan sắc quyến
rũ Đức Phật, nhưng thất bại.
Tuần
Thứ Sáu
Từ cây Ajapala Đức Phật sang qua cây
Mucalinda và ngự tại đây một tuần lễ để chứng nghiệm
Hạnh Phúc Giải Thoát. Bỗng nhiên có một trận mưa to kéo đến.
Trời sẫm tối dưới lớp mây đen nghịt và gió lạnh thổi
suốt nhiều ngày.
Vào lúc ấy Mucalinda, mãng xà vương,
từ ổ chun ra, uốn mình quấn xung quanh Đức Phật bảy vòng
và lấy cái mỏ to che trên đầu Ngài. Nhờ vậy mà mưa to gió
lớn không động đến thân Đức Phật. Đến cuối ngày thứ
bảy, thấy trời quang mây tạnh trở lại, Mucalinda tháo mình
trở ra và bỏ hình rắn, hiện thành một thanh niên, chấp tay
đứng trước mặt Đức Phật. Đức Phật đọc bài kệ như
sau:
"Đối với hạng người tri túc,
đối với người đã nghe và đã thấy chân lý thì sống ẩn
dật là hạnh phúc. Trên thế gian, người có tâm lành, có
thiện chí, người biết tự kiềm chế, thu thúc lục căn đối
với tất cả chúng sanh là hạnh phúc. Không luyến người ái,
vượt lên khỏi dục vọng là hạnh phúc. Phá tan được thành
kiến 'ngã chấp' quả thật là hạnh phúc tối thượng."
Tuần
Thứ Bảy
Vào tuần thứ bảy, Đức Phật bước
sang cội cây Rajayatana và ở đó chứng nghiệm Quả Phúc
Giải Thoát.
Một
Trong Những Phật Ngôn Đầu Tiên
"Xuyên qua nhiều
kiếp sống trong vòng luân hồi, Như Lai thênh thang đi, đi mãi.
Như Lai mãi đi tìm mà không gặp, Như Lai đi tìm người thợ
cất cái nhà này.
Lặp đi lặp lại đời sống quả thật là phiền muộn.
Này hỡi người thợ làm nhà,
Như Lai đi tìm được ngươi.
Từ đây ngươi không còn cất nhà cho Như Lai nữa.
Tất cả sườn nhà đều gãy,
Cây đòn dong của ngươi dựng lên cũng bị phá tan.
Như Lai đã chứng nghiệm Quả Vô Sanh Bất Diệt và Như Lai đã
tận diệt mọi Ái Dục". [10]
Vừa lúc bình minh, vào ngày Ngài
chứng đắc Quả Vô Thượng, Đức Phật đọc lên bài kệ
hoan hỷ này, mô tả sự chiến thắng tinh thần vô cùng vẻ
vang rực rỡ.
Đức Phật nhìn nhận cuộc đi thênh
thang bất định trong nhiều kiếp sống quá khứ đầy khổ đau
phiền lụy.
Đây cũng là sự kiện hiển nhiên,
chứng minh niềm tin nơi thuyết tái sanh.
Ngài phải đi bất định và do đó
phải chịu khổ đau, bởi vì chưa tìm ra người đã xây
dựng cái nhà, tức cơ thể vật chất này.
Trong kiếp sống cuối cùng, giữa
khung cảnh cô đơn tịch mịch của rừng thiêng, lúc đi sâu vào
công trình hành thiền mà Ngài đã dày công trau dồi từ xa xôi
trong quá khứ, trải qua cuộc hành trình bất định, Ngài khám
phá ra anh thợ cất nhà hàng mong mỏi muốn biết.
Anh thợ này không ở đâu ngoài, mà
ẩn tàng sâu kín bên trong Ngài. Đó là ái dục, sự
tự tạo, một thành phần tinh thần luôn luôn ngủ ngầm bên
trong tất cả mọi người. Ái dục xuất phát bằng cách nào
thì không thể biết.
Cái gì ta tạo ra ắt ta có thể tiêu
diệt. Vị kiến trúc sư đã tìm ra anh thợ cất nhà, tức đã
tận diệt ái dục, khi đắc Quả A La Hán, mà ý nghĩa được
bao hàm trong những danh từ "chấm dứt ái dục".
Cái sườn của căn nhà tự tạo ấy
là những ô nhiễm (kilesas) như tham (lobha), sân (dosa), si (moha),
ngã mạn (mana), tà kiến (ditthi), hoài nghi (vicikiccha), dã dượi
(thina), phóng dật (uddhacca), không hổ thẹn tội lỗi, những
hành động bất thiện (ahirika), không ghê sợ hậu quả của
hành động bất thiện (anottappa).
Cây đòn dong chịu đựng cái sườn
nhà là vô minh, căn nguyên xuất phát mọi dục vọng.
Phá vỡ được cây đòn dong vô minh
bằng trí tuệ là đã làm sập được căn nhà.
Sườn và đòn dong là vật liệu mà
anh thợ dùng để xây cất cái nhà không đáng cho ta ham muốn.
Nếu hết vật liệu, tức nhiên anh thợ không còn cất nhà
được nữa.
Khi nhà đã bị phá vỡ tan tành thì
cái tâm mà trong câu chuyện không được đề cập đến, đã
đạt đến trạng thái vô vi, Vô Sanh Bất Diệt, Niết Bàn.
Tất cả những gì còn tại thế đều
phải bị bỏ lại phía sau và chỉ còn có trạng thái siêu
thế, Niết Bàn.
Chú thích:
[1] Bồ Đề là cội cây trứ danh
thuộc loại Pipal, tại Buddha Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng), miền
Bắc xứ Ấn Độ, đã che mưa đỡ nắng cho Đức Phật trong
khi Ngài chiến đấu để thành đạt Đạo Quả.
[2] Xem Chương 25.
[3] Brahmin là một danh từ có nghĩa
"người có học kinh Phệ Đà", hàm ý người tu sĩ Bà
La Môn. Đôi khi Đức Phật dùng danh từ này với nghĩa
"người đã xa lánh mọi điều xấu xa tội lỗi",
một thánh nhân. Trong sách này, danh từ "Brahmana" được
dùng để chỉ một thánh nhân, và danh từ "Brahmin" có
nghĩa là một người thuộc giai cấp Bà La Môn.
[4] Về sau, chính nơi Đức Phật đứng
trọn một tuần lễ để nhìn cây Bồ Đề, vua Asoka (A Dục)
có dựng lên một bảo tháp kỷ niệm gọi là Animisalocana
Cetiya, đến nay vẫn còn.
[5] Một nhánh, chiết từ phiá tay
mặt của cây Bồ Đề nguyên thủy này được Ni sư
Sanghamitta Theri đem từ Ấn Độ sang Tích Lan (Sri Lanka) và Vua
Devanampiyatissa trồng tại Anuradhapura, cố đô xứ Tích Lan. Cây
này vẫn còn sum suê tươi tốt.
[6] Vì lẽ ấy, nơi này được gọi
là Ratanaghara, bảo cung.
[7] Sáu màu là: xanh dương (nila), vàng
(pita), đỏ (lohita), trắng (odata), cam (manjettha) và thứ sáu là
năm màu pha lẫn (pabhassara).
[8] Udana, trang 1.
[9] ba người này không thể là ba
dục vọng vì việc này xảy ra sau khi Đức Phật đã Đắc
Quả, nghĩa là đã tận diệt mọi dục vọng.
[10] Bài kệ hoan hỷ trứ danh này
chỉ thấy trong Dhammapada (Kinh Pháp Cú), câu 153-154.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com