Hiện nay trên khắp hoàn cầu,
Phật học càng ngày càng được chú ý. Nhiều hội Phật học và những nhóm học
Phật đã ra đời, và nhiều sách viết về giáo lý đức Phật đã xuất hiện. Tuy
nhiên, một điều đáng tiếc là tác giả những sách ấy phần nhiều không thực
có thẩm quyền trong địa hạt, hoặc đưa ra những giả thuyết sai lầm rút từ
những tôn giáo khác, do đó trình bày và giải thích Phật giáo một
cách sai lạc. Một vị giáo sư về Tôn giáo tỉ giảo gần đây viết một cuốn
sách về Phật giáo, nhưng không biết cả đến điều rằng A-nan, thị giả
trung kiên của đức Phật là một Tăng sĩ, và lại tưởng ông ta là một cư sĩ
thế tục! Kiến thức Phật học do những cuốn sách như thế truyền bá sẽ ra
sao, độc giả cũng có thể tưởng tượng.
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết
đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
Nhắm vào hạng người này, tôi đã cố trình bày gọn và trực tiếp, những lời
của chính đức Phật đã dạy, như được thuật lại trong Tam tạng Pàli mà các
học giả đều xem là tư liệu cổ xưa nhất còn tồn tại về giáo lý Phật. Tài
liệu và những trích dẫn trong sách này đều rút từ tạng kinh ấy. Chỉ có
vài chỗ tôi sử dụng những trước tác thuộc hậu kỳ.
Tôi cũng nghĩ đến những độc giả đã có một ít kiến thức về giáo lý Phật
nhưng muốn khảo cứu thêm. Bởi thế gặp những thuật ngữ nòng cốt, tôi đã
chua thêm tiếng Pàli; và cho những đoạn nguyên văn ở phần chú thích,
cùng một thư mục chọn lọc.
Công việc của tôi đã gặp phải nhiều khó khăn: suốt tập sách tôi đã cố
gắng trình bày cho độc giả Âu châu ngày nay một cái gì họ có thể hiểu
được, nhưng không phương hại đến nội dung hay hình thức những lời Phật
dạy. Khi viết sách này, tôi luôn luôn nhớ nằm lòng các kinh điển, cố ý
duy trì những tiếng đồng nghĩa để sát cạnh nhau, những cách lặp đi lặp
lại, một đặc điểm của lời Phật dạy như đã được khẩu truyền đến nay, để
độc giả có một ý niệm về hình thức giảng dạy của đức Phật. Tôi đã cố hết
mức theo sát nguyên văn, và làm cho lời dịch dễ hiểu.
Nhưng có một giới hạn cho sự giản dị hóa mà nếu vượt qua, chúng ta sẽ dễ
đánh mất ý nghĩa đặc biệt mà đức Phật muốn truyền dạy. Vì đã chọn nhan
đề là "Phật dạy những gì" (What the Buddha taught) tôi
nghĩ cần phải ghi lại chính những lời lẽ của đấng Ðạo sư, ngay cả những
con số Ngài dùng, thay vì một lối dịch thoát ý có thể dễ hiểu hơn, nhưng
lại dễ rơi vào lỗi xuyên tạc ý nghĩa.
Trong tập sách nhỏ này, tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều
công nhận là giáo lý tinh yếu và căn bản của đức Phật. Ðấy là những
thuyết Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Ngũ uẩn, Nghiệp báo, Luân hồi, Duyên
khởi, Vô ngã (Anatta), Niệm xứ (Satipatthàna). Dĩ nhiên sẽ
có những từ ngữ chắc phải lạ lùng đối với độc giả phương Tây. Tôi đề
nghị họ nên đọc chương đầu, kế tiếp đọc các chương năm, bảy, tám, rồi
sau mới đọc đến các chương hai, ba, bốn, sáu, sau khi đã rõ đại ý. Không
thể viết một cuốn sách về giáo lý Phật mà không đề cập những lý thuyết
được cả Nguyên thủy (Theravàda) lẫn Ðại thừa (Mahàyana)
công nhận là căn bản trong tư tưởng hệ Phật giáo.
Danh từ Theravàda - Hinayàna hay "Tiểu thừa" không còn được dùng
trong lãnh vực nghiên cứu - có thể dịch là "Tông phái của những bậc
Trưởng lão" (Theras); và Mahayàna là "Ðại thừa". Ðấy là
những danh từ dùng để chỉ hai hình thức chính của Phật giáo thịnh hành
trên thế giới hiện nay. Theravàda được xem như giáo lý
chính thống uyên nguyên của Phật, thịnh hành ở Tích Lan, Miến Ðiện, Thái
Lan, Cao Miên, Lào, Chittagong ở Ðông Hồi. Ðại thừa phát triển muộn hơn,
thịnh hành ở Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Mông Cổ v.v.. Có vài dị
biệt giữa hai phái, về tin tưởng, cách tu hành và giới luật, nhưng cả
hai đều nhất trí về những giáo lý quan trọng nhất của đức Phật, như
những giáo lý được đề cập trong sách này.
Tôi chân thành cảm ơn Giáo sư E.F.C. Ludowyt người đã gợi ý cho tôi viết
sách này, về tất cả sự giúp đở của ông, về những ý kiến ông đề nghị, về
việc ông chịu khó đọc lại bản thảo. Tôi cũng cảm ơn cô Marianne Mohn đã
coi lại bản thảo và cho những ý kiến giá trị. Cuối cùng tôi xin ghi nhận
nơi đây lòng tốt của Giáo sư Paul Demiéville, thầy học của tôi ở Ba Lê,
đã đề tựa cho cuốn sách.
Paris, tháng 7-1958
W. RAHULA
--- o0o
---
BẢNG VIẾT TẮT
^
(các kinh Pàli được trích
dẫn)
A |
Anguttara-nikàya, bản in của Hội Pali text. |
Abhisamuc |
Thắng pháp
tập yếu của Vô Trước. |
D |
Trường bộ
kinh (Colombo, 1929) |
DA |
Sớ giải
kinh Trường bộ. |
Dhp |
Kinh Pháp
cú |
DhpA |
Sớ giải
kinh Pháp cú |
Lanka |
Kinh Lăng
già (Kyoto, 1923) |
M |
Kinh Trung
bộ |
MA |
Kinh sớ
Trung bộ |
Madhyakari |
Trung quán
luận kệ của Long Thọ |
Mh-Sutralankara |
Mahàyàna-sùtràlankàra của Vô Trước (Paris, 1907) |
Mhvg |
Mahàvagga,
Ðại phẩm (tạng Luật) |
PTS |
Pali Text
Society (Hội Kinh Điển Pàli), Luân Ðôn, Anh quốc |
Prmj |
Paramatthajotikà, bản in của PTS. |
S |
Kinh Tương
ưng bộ |
Sarattha |
Sàratthappakàsinì, bản in của PTS |
Sn |
Suttanipàta, Tiểu bộ. |
Ud |
Udàna
(Colombo, 1929) |
Vibh |
Vibhanga
(bản in của PTS) |
Vism |
Thanh tịnh
đạo, bản in của PTS |
--- o0o
---
ÐỨC PHẬT
^
Ðức Phật tên Tất-Ðạt-Ða (P.
Siddhattha, S. Siddhàrtha), họ Cồ-Ðàm (P. Gotama, S. Gautama), sống ở
Bắc Ấn vào thế kỷ thứ sáu trước Tây lịch. Phụ thân Ngài là vua Tịnh Phạn
(Suddhodana) cai trị vương quốc của bộ tộc Thích-ca (Sàkya; trong xứ
Nepal ngày nay). Mẹ ngài là hoàng hậu Ma-gia (Màyà). Theo tục lệ tảo hôn
thời ấy, năm 16 tuổi ngài cưới công chúa xinh đẹp đức hạnh tên
Da-giu-đà-la (Yasodharà). Vị thái tử trẻ sống trong cung điện đầy xa hoa
lộng lẫy. Nhưng khi va chạm với thực tại cuộc sống và khổ đau của loài
người, ngài quyết định đi tìm một giải pháp, con đường ra khỏi nỗi khổ
bao la này. Năm 29 tuổi sau khi người con duy nhất La-hầu-la (Ràhula) ra
đời, Ngài từ bỏ cung điện, trở thành một người khổ hạnh lên đường tìm
đạo giải thoát.
Trong 6 năm Ngài lang thang khắp thung lũng sông Hằng (Ganges), gặp
những vị thầy danh tiếng, học lý thuyết và thực hành phương pháp của họ,
khép mình vào những lối tu khổ hạnh khắt khe. Không thỏa mãn với những
lý thuyết và thực hành ấy, Ngài từ bỏ mọi giáo lý và phương pháp truyền
thống để đi theo con đường riêng. Cuối cùng, một buổi chiều ngồi dưới
một cội cây (từ đấy cây này được gọi là cây Bồ đề có nghĩa là "trí tuệ")
bên bờ sông Ni-liên (Neranjarà) ở Buddha-Gaya (Bồ-đề đạo tràng, gần Gaya
trong xứ Bihar ngày nay) ngài đã đạt giác ngộ. Từ đấy Ngài được tôn xưng
là đức Phật, "Người đã Giác ngộ".
Năm ấy Ngài 35 tuổi.
Sau khi chứng đạo, đầu tiên Phật thuyết pháp cho một nhóm 5 nhà khổ
hạnh, những người bạn cũ của Ngài, tại vườn Nai (Lộc uyển) ở chư thiên
đọa xứ (Isipatana, tức Sarnath ngày nay) gần Ba-la-nại (Benarès). Từ ấy
ngài giáo hóa suốt 45 năm cho tất cả mọi tầng lớp nam nữ, vua chúa và
thường dân, Bà la môn và cùng đinh, thương gia và hành khất, tu sĩ và
bọn cướp - hoàn toàn không phân biệt. Ngài không công nhận những dị biệt
về giai cấp hay tập đoàn xã hội, và Ðạo ngài mở rộng cho tất cả mọi
người nam cũng như nữ, bất cứ ai sẵn sàng hiểu và tin theo.
Năm 80 tuổi, Phật nhập diệt ở Câu-thi-na (Kusinàrà, nay là Uttar
Pradesh).
Hiện nay đạo Phật được lan truyền tại Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan, Cao
Miên, Lào, Việt Nam, Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Mông Cổ, Triều Tiên,
Ðài Loan và một vài nơi ở Ấn độ, Hồi quốc và Nepal và cả ở Liên Xô. Tín
đồ Phật giáo trên thế giới có trên 500 triệu.
--- o0o
---
Ghi chú:
^
Bản Việt dịch nầy là bản dịch mới nhất, năm
1998, được Ni sư Trí Hải sửa lại và bổ túc dựa theo bản Pháp ngữ xuất
bản năm 1978.
Bản dịch đầu tiên năm 1965 của Ni sư, xuất bản tại Sài Gòn năm 1966, có
tựa đề là "Con đường thoát khổ", dựa theo ấn bản năm 1959 của Ngài Hòa
thượng Walpola Rahula. Vào năm 1998, chúng tôi có đăng bản điện tử quyển
"Con đường thoát khổ", do một nhóm Phật tử tại California, Hoa Kỳ, đánh
máy và ấn tống.
(Bình Anson, tháng
10-2002).
--- o0o
---
Mục lục | 01 | 02| 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục