.
Phương Pháp Tu Học
Hàng Ngày
Phúc Trung
I.- Dẫn :
Chúng ta trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi là do Vô minh nên bị Tam
độc: Tham, Sân, Si gây ra. Là một Phật Tử, chúng ta phải có chương trình
tu học hàng ngày, cũng gọi là công phu tu tập, để xóa bỏ Vô minh, công phu
ấy không ngoài Giới, Định và Huệ.
II.- Nội dung :
Giới Định Huệ cũng còn được gọi là Tam Học, chúng có liên quan mật thiết
với nhau, vì người có giữ Giới mới sanh Định, có Định mới sanh Huệ.
1) Giới : Người Cư sĩ tại gia chúng ta, Phật chế ra năm giới
để tu học. Muốn thoát khỏi luân hồi sanh tử, người Phật tử chúng ta phải
diệt trừ : Lòng dâm dục, sát hại chúng sanh, trộm cướp, nói dối và uống
rượu. Giới phải giữ trong tâm và ngoài thân cho được nghiêm mật. Giới rất
quan trọng, Phật dạy phải tôn trọng Giới như là Thầy của tất cả những
người con Phật.
Vì lòng thương chúng sanh, Phật dạy chúng ta ăn chay để khỏi giết hại
những sanh vật. Trước nhất chúng ta tập ăn chay kỳ, mỗi tháng ăn 2 ngày là
mồng Một và Rằm. Ăn chay 4 ngày là ngày 30 (tháng thiếu 29) và mồng Một,
ngày 14 và Rằm. Ăn chay 6 ngày là 1, 8, 14, 15, 23, 30 ( hay 29 ), ăn chay
10 ngày là 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 (tháng thiếu 27, 28, 29).
Nếu được, một năm nên ăn chay 1 tháng hay 3 tháng. Nếu ăn chay một
tháng thì chọn tháng Giêng hay tháng Bảy, còn ăn chay 3 tháng thì các
tháng Thượng Nguơn (Tháng Giêng), Trung Nguơn (Tháng Bảy), Hạ Nguơn (tháng
Mười).
Tiến lên nữa là ăn chay trường, sẽ giúp cho thân thể ít bệnh hoạn,
trí tuệ được minh mẫn, tránh cho ta khỏi nghiệp sát sanh.
Vì ăn chay là ăn ngủ cốc, rau cải, trái cây cho nên rất dễ tiêu hóa,
làm cho bụng mau đói, ăn chay kỳ nên chăm sóc bửa ăn, nên có món ăn ngon
miệng, để cho việc ăn chay được dễ dàng, không chán ngán. Người ăn chay
trường nên chăm sóc bửa ăn, đừng để thiếu chất bổ dưỡng sanh ra bệnh tật,
từ đó người khác có kết luận sai lầm : Ăn chay hay bị bệnh tật.
Phải ráng giữ đúng kỷ luật, đúng ngày chay thì ăn, dù ngày đó có tiệc
tùng chúng ta cũng vẫn giữ ăn chay, có như thế việc ăn chay của ta mới có
ý nghĩa và được nhiều lợi lạc.
2) Định : Có mục đích làm cho tâm của mình được định, người ta
hiểu định có nghĩa là Thiền định hay ngồi thiền để cho tâm được thanh
tịnh. Người ta ví tâm như con vượn, ý như con ngựa ( tâm viên, ý mã ) bởi
vì sự hoạt động của tâm vừa lăn xăn, lộn xộn vừa nhanh chóng. Nếu ta ngồi
yên sẽ thấy tâm ta nghĩ chuyện nọ lại nhảy sang chuyện kia, tưởng nhớ đến
chuyện xa chuyện gần, nó vượt trùng dương còn nhanh hơn ngựa chạy, bằng
với làn sóng điện. Những pháp môn như ngồi Thiền, niệm Phật, trì chú, tụng
kinh cũng đều làm cho tâm ta thanh tịnh hay là định tâm.
A.- Thiền
định : Là phương
pháp định tâm hữu hiệu nhất, người ta lựa chỗ yên tịnh, không nóng quá,
không lạnh quá, ngồi kiết già hay bán già, toàn thân buông thả, để tâm
chuyên chú vào một sự vật thật đơn giản, chẳng hạn như một vòng tròn màu
vàng, theo dõi hơi thở vào, hơi thở ra. Muốn được tường tận hơn xin đọc
sách, như Thiền Căn Bản của Hòa Thượng Thích Thanh Từ, Kinh Quán Niệm Hơi
Thở của Thiền Sư Nhất Hạnh dịch, đã đăng trong Phật Học số 20, bài Thiền
đăng trong Phật Học số 15 và 16, hoặc những sách dạy Thiền của Phật Giáo.
Phương pháp Thiền áp dụng hữu ích cho những người còn trẻ cho đến
khoảng 50 tuổi, bởi vì độ tuổi nầy thân thể còn khoẻ mạnh, trí óc minh mẫn
dễ định tâm, ngồi Thiền phải tu tập hàng ngày, mỗi thời phải từ 30 phút
trở lên đến 1, 2 giờ, người lớn tuổi sẽ bị chân đau, lưng mõi, do đó khó
mà tu tập.
B.- Niệm
Phật : Pháp môn nầy
tuổi nào tu cũng được, và Niệm Phật bất cứ lúc nào; khi đi, đứng, nằm,
ngồi. Ấn Quang đại sư ngài dạy cho đến đi vệ sinh cũng niệm Phật, niệm
niệm không dứt, mục đích là làm thế nào cho tâm ta cột chặt vào danh hiệu
Phật, chẳng hạn như tâm ta khư khư chẳng chuyển với sáu chữ Nam Mô A Di Đà
Phật. Nên đọc những sách như Lá Thư Tịnh Độ của Ấn Quang Đại Sư do Liên Du
dịch, Niệm Phật Thập Yếu của Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, Tây Phương Du Ký
của Pháp sư Khoan Tịnh do Hữu Từ và Tâm Hảo dịch, bài Niệm Phật đăng trong
Phật Học số 17.
Người ta niệm Phật to tiếng, nhỏ tiếng hay niệm thầm, có hay không
lần tràng chuỗi đều được cả, pháp môn nầy rất thích hợp cho người già. Nên
nhớ câu : Nhứt cú Di Đà vô biệt niệm, bất lao đàn khảy đáo Tây Phương.
(Một câu niệm Phật chẳng dứt, đừng lo chỉ khảy móng tay là đến Tây
Phương).
C.- Trì
chú : Trì chú có
nghĩa là chúng ta đọc chú, người ta cho chú là linh ngữ hay mật ngữ, tức
là nó có hiển linh, đọc để trừ tà ma quỷ quái hay nó là lời kín nhiệm
không thể hiểu hay không cần hiểu, đọc nó trúc trắc, gần như lập đi lập
lại, cho nên người ta dễ đọc câu nọ ra câu kia, câu sau đọc trước, câu
trước đọc sau. Do đó tâm phải chuyên chú vào mới không bị nhầm lẫn, đó
cũng là phương pháp định tâm. Chú Đại Bi còn ngắn, còn dễ, qua Chú Lăng
Nghiêm mới thấy là trúc trắc khó nhớ, dễ lộn nếu không định tâm.
Theo Mật Tông, miệng niệm chú, tay còn phải bắt ấn, vị nào muốn
nghiên cứu xin xem bộ Hiển Mật Viên Thông của ngài Viên Đức, nhưng nếu
không có thầy chỉ dạy có lẽ không nên tập luyện thì tốt hơn.
D.- Tụng
kinh : Cũng là cách
để cho chúng ta định tâm, bởi vì nếu chúng ta không định tâm, tụng xong
thời kinh, ta sẽ không hiểu gì cả. Chúng ta nên tụng kinh gì ? Kinh gì
tụng cũng được nhưng có một số kinh được tụng trong những trường hợp đặc
biệt, thí dụ khi Cầu siêu để hóa độ cho người chết, người ta tụng kinh A
Di Đà; để Cầu an cho người bệnh hoạn, nạn tai người ta tụng Phẩm Phổ Môn;
gặp khi đau yếu, người ta tụng kinh Dược Sư; một người đau lâu trở bệnh
nặng, người ta tụng kinh Địa tạng ... , ngày nay nhiều người hay tụng Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa hay gọi tắc là Kinh Pháp Hoa.
3) Huệ : Huệ là sự phát chiếu của Trí huệ sau khi được tẩy
sạch phiền não và vô minh, Huệ có được do tâm tịnh thì trí huệ sanh hoặc
do tu theo phương pháp mở mang trí tuệ : Văn, Tư, Tu.
Văn huệ là do tai nghe âm thanh, mắt thấy kinh điển Phật mà hiểu được
nghĩa lý, cho nên chúng ta cần phải thường xuyên đọc kinh điển, những
người sơ cơ hay những người muốn có căn bản về Phật Pháp nên đọc quyển
Phật Pháp (do quý Đại Đức nay đều là Hòa Thượng Minh Châu, Thiên Ân, Chơn
Tri, Đức Tâm soạn theo chương trình dạy Đoàn sinh Gia Đình Phật Tử, nhưng
ai đọc cũng hữu ích), hoặc bộ Phật Học Phổ Thông của Hòa Thượng Thích
Thiện Hoa, bộ nầy tuy soạn cho đại chúng nhưng viết ở trình độ cao hơn,
phải đọc từng bài theo thứ tự từ thấp tới cao, đọc xong 2 bộ sách nầy,
người đọc sẽ có trình độ hiểu biết Phật Pháp khá vững, sau đó đọc sang
kinh Pháp Hoa, Niết Bàn ... Muốn hiểu rõ Phật và các đại Đệ Tử của Ngài,
nên đọc Phật và Thánh Chúng của Cao Hữu Đính, hay quyển Đức Phật và Phật
Pháp của Đại Đức Narada, về sử Phật Giáo Việt Nam, nên đọc Việt Nam Phật
Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang (Cũng là bút hiệu của Thiền Sư Nhất Hạnh),
nên có Bộ Phật Học Đại Từ Điển của ông Đoàn Trung Còn, bộ nầy tuy không
đầy đủ nhưng tạm giúp cho chúng ta tìm kiếm những danh từ Phật Học thông
thường nhanh chóng. Những sách nầy Phật Học Viện Quốc Tế , 9250 Columbus
Ave. North Hills, CA. 91343 - Tel. (818) 893-5317 có phát hành, có thể gửi
thư xin danh mục để biết giá cả và những sách khác. NXB Lá Bối P.O. Box
781 San Jose CA. 95106-0781. Phone : (510) 686-2908.
Tư huệ là do suy tư nghĩa lý kinh điển mà thấu đáo chân lý,
Tu huệ là do tu hành thể nghiệm và thể nhập mà chứng ngộ được chân
lý.
III.- Kết luận
: Phật dạy có 8 vạn
4 ngàn pháp môn tu tập, mỗi người chúng ta tùy theo căn cơ phù hợp với
pháp môn nào nên theo pháp môn ấy, điều cần nhất là phải tinh tấn chuyên
cần, giờ giấc công phu không nên trễ nãi. " Tu nhất kiếp, ngộ nhất thời ",
chỉ cho những người có căn cơ, họ là những bậc xuất gia hay những vị vào
trong thâm sâu cùng cốc tu hành, là điều khó đạt được ở một người Cư sĩ,
nhưng mà hạ thủ công phu tu trong 5 năm, 10 năm chúng ta sẽ thấy những gì
mà chúng ta đã đạt được. Xin nhớ lời Phật dạy " Hãy tự mình thắp đuốc lên
mà đi ".
30-11-1996 & 27-11-1997
Sách Tham
khảo :
MINH CHÂU, THIÊN ÂN, CHƠN TRÍ, ĐỨC TÂM Phật Pháp, THPGVN. Sàigòn. 1951
---o0o---
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-12-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục