Khai Thị Đại Sư Tuyên Hóa Việt dịch: Ban Phiên Dịch Đại Học Pháp Giới,
Vạn Phật Thánh Thành
Phần
04
31.
Bổn Phận Của Một Tín Đồ Phật Giáo
32.
Hưng Khởi Vạn Phật Thánh Thành
33.
Kiền Thành Niệm Cát Tường Thần Chú
34.
Ngũ Giới Thập Thiện Tiêu Tai Nạn
35.
Đầy Rẫy Sát Khí Trên Thế Giới
36.
Ngày Nguyên đán Nói Giáo Lý Phật
37.
Bắt Chước Tinh Thần Bồ-tát Địa Tạng
38.
Không Nên Làm ô Nhiễm Hư Không
31.
Bổn Phận của Một Tín đồ Phật-giáo
[^]
Chúng ta không gặp
may mắn, sanh vào thời mạt pháp, cách xa với thời đức
Phật. Nay lại xuất gia, nếu chỉ khoác áo theo Phật, ăn
nhờ cửa Phật, lấy Phật làm chiêu bài, ca theo Phật điệu,
thâu đồ đệ, nhận đồ cúng dường, rồi bầy ra dưới trướng
nào hàng xuất gia, nào cư sĩ tại gia, nêu cao danh là đệ
tử của Phật, thực ra đó chỉ là những kẻ ham danh háo
lợi, để lụy cho Phật giáo, làm bại hoại Phật giáo, là
tội đồ của Phật giáo đó!
Tại làm sao Phật pháp
bị suy đồi? Bởi chúng ta không chịu tu, không nghiêm chỉnh
giữ giới luật, không thực lòng tu tập cho thân tâm thanh
tịnh. Pháp vốn là một thứ không hình, không tướng, không
thể, tất cả là do hành vi của con người mà biểu hiện ra
mọi thứ thiện ác, xấu đẹp. Tâm của chúng sanh nếu hướng
thiện, mọi người nếu giữ năm giới, tu thập thiện, bộ
mặt của thế giới sẽ trở nên hiền hòa, tươi tốt, đó
mới là chánh pháp chân thực. Còn như tâm chúng sanh hướng
tới điều ác, cả một bầu tham sân si sẽ làm ô nhiễm hư
không, khiến chánh pháp bị hãm trong mầu hắc ám, như vậy
thì còn pháp gì để nói nữa. Bổn thân của pháp không có
thủy, hay mạt, chỉ vì hành vi chánh tà của con người, nên
mới nói có thủy có mạt. Trạng huống này há chỉ lấy cái
tâm hổ thẹn mà có thể cứu vãn được chăng? Phải chấn
chỉnh cái nguy cơ. Chúng ta vô luận là người xuất gia hay
tại gia, nếu đã là đệ tử của Phật thì phải đem thân mình
làm gương, không chịu ở phía sau mọi người, hết sức cố
gắng cứu nguy Phật pháp. Tất cả chúng ta phải đồng tâm
hiệp lực, làm cho Phật giáo xán lạn, hưng thịnh, thức
tỉnh thế giới khiến cho nhân loại hiểu thấu Phật pháp,
tin theo Phật giáo và sùng kính Phật giáo.
Các vị thiện tín! Năm
xưa đức Phật được cả người và trời cung kính cúng dường,
trông thấy như vậy, chúng ta phải tự lấy làm hổ thẹn. Ngày
nay, có một số, kể cả các cư sĩ tại gia, không coi các Tăng
sĩ ra gì cả, họ coi người xuất gia như hạng "quỷ
thần, kính nhi vin chi," đó cũng là một hiện tượng
của thời nay. Cho đến một số nhân sĩ trong xã hội, tương
đối có hiểu biết, hay nói tới số trí thức, số học
giả, họ lại càng coi thường người xuất gia. Họ nhận
thấy rằng tăng sĩ không nắm vững giáo lý Phật pháp, không
có trí huệ chân chánh, nói lời vu vơ, gạt gẫm. Nay chúng ta
lấy đó để cảnh giác, phát thành nguyện lớn, lập chí
vững, dốc một lòng nghiên cứu giáo lý, giữ nghiêm chỉnh
giới luật, gắng gỏi tu hành, biến cải thời mạt pháp thành
thời chánh pháp. Chỉ cần chúng ta đi những bước chắc
chắn trên con đường tu tập và hành đạo, thì có lo gì chúng
ta không chứng quả! Chứng quả rồi, thì ở đâu chúng ta cũng
có thể dựng cờ pháp, thổi còi hiệu pháp, nổi hồi trống
pháp, rồi có thể hoằng dương Phật giáo ngay tại những nơi
chưa có pháp, đủ khiến cho người ta khởi lòng tin Phật.
Bởi vậy cho nên chúng ta phải tinh cần, quyết tu tập giới
định huệ, diệt tắt tham sân si, và chứng ngộ Phật quả là
mục tiêu của tất cả chúng ta.
Chứng quả là chứng
nghiệm cái gì đây? Người đã chứng quả thì không có tâm
tham, cũng không có tâm sân, cũng không có tâm si. Ba độc là
tham sân si đều bị tiêu diệt. Tại bất cứ lúc nào, vô
luận nghịch cảnh nào, hoặc bị phỉ báng, hoặc được tán
dương vinh hiển, họ vẫn giữ một vẻ an nhiên tự tại,
tựa như không bị các duyên bên ngoài lôi kéo, tư thái như
như, hồn nhiên sinh hoạt trong niềm thanh tịnh của giới
hạnh. Đối với họ, mọi giới luật đều chẳng còn mang
vẻ gò ép, bởi lẽ hành động của họ đã từng hòa đồng
với tịnh giới. Người đã chứng quả có định lực chân
chánh, do đó hư danh lợi lộc chẳng hấp dẫn họ, cho dù người
khác có đánh chửi cũng không làm cho tâm họ kích động, phát
ra những lời nói bất thiện. Cũng đừng mong nghe được
những giọng quát tháo hung ác của họ, bởi ba con rắn độc
tác quái (tham, sân, si) không còn nữa. Người đã chứng quả
có trí huệ chân chánh, sự tình gì họ nghe qua cũng hiểu
hết, vấn đề gì đến tay họ, họ cũng trực diện giải
quyết. Ai đến với họ, nhìn ngay họ đã biết rõ căn cơ,
muốn gạt họ quý vị cũng chẳng lọt được cặp mắt thông
tuệ của họ. Người đã khai ngộ chứng quả rồi, có thể
ví như mặt trời ban mai giữa bầu không trung tinh khiết, có
thể ví như vừng trăng trong vắt lơ lửng giữa trời bát ngát
không gợn mây, như làn nước trong mặt hồ xuân, như những
bông sen xanh biếc trong sương sớm. Trong tâm của họ, trong khóe
mắt, trong lời nói, không bao giờ chứa đựng cái gì là ác
nhân, ác sự, ác ngữ; chỉ cần gặp họ, thân cận họ,
chẳng cần nói năng, kẻ lành cũng trở thành bực thánh, kẻ
ác thành người lành. Người đã chứng quả, họ có sẵn oai
lực chiêu cảm như vậy, mà họ lại chẳng khác gì chúng ta
trong sinh hoạt hàng ngày.
Chúng ta mang danh là
đệ tử của Phật, không thể thoái thác trách nhiệm mà
phải đứng ra gánh vác để phục hưng giáo pháp. Đừng có
lấy cớ là thời mạt pháp mà chẳng chịu tu hành! Vậy chớ
tại sao chúng ta lại theo đạo Phật? Lại còn cắt ái ly gia
nữa? Cái đó chẳng phải tự dối mình sao? Tự mình coi thường
chính mình sao? Đây mới chính là một sự hồ đồ, điên đảo,
một hạng bại hoại trong Phật giáo, một tội đồ! Tôi đã
từng phát nguyện như sau: Tôi đến địa phương nào thì
tại nơi đó chánh pháp phải trụ thế, chớ không thể là
mạt pháp. Tuy hồi đó Phật đã từng cảm khái than rằng
trong tương lai sẽ tới thời mạt pháp, nhưng nguyên nhân là
do người tạo tác mới sanh ra mạt pháp, vậy thì đương nhiên
cũng có thể lấy sức người, để chuyển mạt pháp thành chánh
pháp. Nếu quả thực, mỗi đệ tử của Phật, tại gia cũng
như xuất gia, nương theo lời dạy mà phụng hành, siêng tu các
thứ pháp môn, sinh hoạt trong giới luật mà Phật đã chế ra,
y chiếu các kinh điển của Phật mà hành trì, hiểu rõ minh
bạch ý nghĩa lời Phật dạy, thực hành những lời mà chư
Tổ đã xiển dương, nhất loạt noi theo ba tạng Kinh, Luật,
Luận đã chỉ thị, thì lấy đâu ra mạt pháp nữa? Làm gì có
cái lý là không thể khai ngộ chứng quả? Giả thiết như mình
không làm theo các điều vừa kể, đi ngược với đạo
chẳng hạn, lười biếng, bạ đâu thì theo đó, ham danh ham
lợi, làm chùa lớn để hưởng thụ, như vậy chẳng biến ra
mạt pháp thì cũng là điều lạ.
Chúng ta dám bỏ sanh
mạng mà cầu đạo vô thượng, hy sinh sanh mạng để làm
rạng rỡ Phật giáo, cải tiến Phật giáo. Phật giáo đã
từng trải qua biết bao thời đại trào lưu, khó tránh được
tình trạng không thích ứng với chúng sanh ở một nơi nào đó,
vậy cho nên chúng ta phải khéo léo dùng phương tiện mà châm
chước, mà cải thiện, mỗi đệ tử Phật phải tích cực
bắt tay vào, nhất là đối với các vị xuất gia phải hiểu
rõ không thể coi thường.
Nói đến đây, tôi
nghĩ rằng nhất định sẽ có người đặt nghi vấn, tại sao
người nào không tham sân si là người đã chứng quả. Nay đề
cập tới sự trọng yếu của tham sân si, tôi hãy lấy những
hình ảnh rất là thông tục nhưng d hiểu, nói ra cho quý vị
nghe. Tham tâm đó chính là dục niệm, cái tâm dâm dục. Không
có tham tâm, tức là dứt khỏi dục niệm; không có dục
niệm, tức là không có tâm dâm dục nữa. Nam nữ gặp nhau
tiếp xúc với nhau, lúc đó vọng tưởng sẽ không nổi lên,
không những dục niệm không sanh, luôn cả các phản ứng sinh
lý cũng không phát sinh nữa, căn tính trai gái không giao động,
lúc đó mới gọi là dứt được thực sự dục niệm, và tâm
tham không còn nữa.
Quý vị chớ có lấy
làm kinh ngạc khi thấy tôi nói hết ra một cách trắng trợn
như vậy, bởi vì thiên kinh vạn quyển, ba tạng mười hai
phần kinh, đến tận cùng thì cũng chỉ nói tới vấn đề này
thôi. Nếu chẳng có vấn đề "dục," thì kinh điển
gì cũng chẳng cần thiết, mọi thứ pháp đều "không,"
mọi thứ pháp đều "như." Bởi vì có vấn đề đó,
chúng ta mới phải tu. Nếu quý vị chẳng thể nào bỏ ái và
đoạn dục, thì dù có xuất gia tu đến tám vạn đại kiếp,
cũng uổng phí công phu, hoài ngày tháng, ở trong chốn đạo
ăn cơm chùa mà tạo nghiệp. Nếu chấm dứt ái dục, trừ dâm
tâm, mới thực sự hết tâm tham, không có tham ắt không có
phiền não. Vậy tới khi nào thì bỏ được tâm tham đây?
Tất nhiên phải phá được vô minh, mới đoạn trừ tâm tham
được. Lý do các vị Bồ-tát tu hành dũng mãnh và tinh tấn,
chính là để phá trừ một phần vô minh, chứng được một
phần pháp thân, tới khi chứng được quả vị Đẳng giác thì
mới đem hết vô minh diệt trừ để chứng quả vị Phật. Tâm
tham là một trong ba độc rất khó đoạn trừ. Chúng ta lúc
mới phát tâm tu hành, thì cái làm chướng ngại sự dụng công
của chúng ta chính là tâm tham dâm, nam thì ham nữ, nữ thì
ham nam, một vấn đề căn bản. Kinh Lăng-nghiêm nói rất rõ:
"Tâm dâm không trừ, trần ai chẳng ra khỏi," như
chẳng muốn trừ tâm tham dâm mà lại mong thành Phật đạo,
thì chẳng khác gì lấy cát nấu lên để làm cơm ăn, một
chuyện không thể xẩy ra được.
Bây giờ tôi lại nói
về tâm sân. Tâm sân cũng là phiền não, không có tâm sân
chẳng phải là không có phiền não, nhưng lấy công phu tu hành,
cải biến phiền não thành tâm Bồ-đề, lấy lửa vô minh
biến thành nước trí huệ, dùng nước trí huệ tưới tẩm
mầm non Bồ-đề, thì tương lại sẽ có Phật quả Bồ-đề.
Nếu lửa vô minh không diệt được, nước trí huệ sẽ không
sinh ra, thì không kết được quả Bồ-đề. Quý vị! Hy vọng
tất cả mọi người đặc biệt chú ý lắng nghe, ghi nhớ vào
thửa ruộng a-lại-da thức của mình để tùy thời thọ
dụng. Quý vị cũng đồng thời quay về xét lại khoảng
thời gian bao năm học Phật pháp, nghe kinh, lạy Phật, tụng
chú, ngồi thiền, ngày ngày tinh tấn, vậy tại sao chưa đạt
được công phu đoạn dục? Nếu chưa đạt được, thì phải
gấp rút siêng tu giới định huệ. Nếu đã đạt được trình
độ đoạn dục, cũng còn phải tu giới định huệ. Quý vị
đã nghe kinh Hoa Nghiêm, trên mỗi phẩm đều có nói tới các
vị Bồ-tát trong hư không khắp pháp giới chuyên hành Bồ-tát
đạo, mà không quên tu giới định huệ, ba món vô lậu học
này. Các vị Bồ-tát, chẳng tiếc sanh mạng mình, đi khắp nơi
giáo hóa chúng sanh, không biết mỏi mệt, không nghỉ ngơi, cũng
không thoái chuyển. Chúng ta mới xuất gia được ít ngày, đã
nghĩ tới chuyện hưởng thụ, đúng là một việc đáng thương
xót, một sự điên đảo, hạt giống của mạt pháp vậy. Phàm
là đệ tử Phật, phải lấy sự hưng suy của Phật giáo làm
trách nhiệm của mình, nhất là các vị xuất gia phải đứng
ra đảm đương việc lớn. Ai ai cũng nghĩ như thế, lo gì
Phật pháp chẳng được hoằng dương lớn rộng! Chẳng qua vì
người nọ đẩy cho người kia, rồi riêng mình thì đóng
cửa lại khuếch trương, phát triển riêng thế lực của mình,
tất cả chuyện hưng suy của Phật giáo gác ra ngoài, nói
lời vô trách nhiệm, anh trông vào tôi, tôi trông vào anh. Đây
là một tình huống chuyện chung không ai lo, anh nhìn tôi, tôi
nhìn anh, hoặc là, chẳng phải chuyện của tôi, cứ ném ra
tức khắc có người lo. Ai ai cũng nghĩ chuyện lùi bước, làm
cho Phật giáo chìm đắm trong bầu tử khí, bảo sao Phật giáo
chẳng tới lúc mạt? Kỳ thực nguyên nhân là ai nấy đều
vị kỷ, trong lòng đầy tự tư tự lợi. Nếu chẳng tu hành,
trên thì không cầu Phật pháp, dưới không độ chúng sanh, không
hạ công phu làm Phật sự, mà còn lười biếng, thoái lui, cái
đó mới khiến cho Phật pháp tới chỗ mạt thời mà tiêu
vong. Các vị thiện tín! Chúng ta đã rõ câu chuyện như vậy
nên tôi mong rằng tất cả chúng ta vì Phật sự mà tận tâm
tận lực hộ trì. Để tự cứu tự độ chúng ta phải dũng
mãnh tinh tấn học tập Phật pháp. Tất cả chúng ta đồng tâm
hiệp lực làm cho Phật giáo mỗi ngày một hưng thịnh, lớn
mạnh rực rỡ, khiến chánh pháp còn trụ mãi với thế gian,
rạng rỡ như khi Phật còn tại thế vậy.
Nói tới tu hành, tôi
nhận thấy đối với người xuất gia, điểm thứ nhất là
không nên lân la nơi quyền quý giầu sang. Điểm thứ nhì là
không nên luôn luôn hướng ra ngoài để hóa duyên. Thứ ba là
mọi sự việc không nên cầu duyên ở người. Tại Kim Sơn Thánh
Tự có câu đối như sau:
Đống
tử bất phan duyên,
Ngạ
tử bất hóa duyên,
Cùng
tử bất cầu duyên.
Tùy
duyên bất biến,
Bất
biến tùy duyên.
Dịch
nghĩa:
Chết
lạnh không phan duyên,
Chết
đói không hóa duyên,
Chết
nghèo không cầu duyên.
Tùy
duyên chẳng đổi,
Chẳng
đổi tùy duyên.
Đó là ba tông chỉ
của chúng ta, và tôi hy vọng tất cả các đệ tử xuất gia
cũng tán đồng tông chỉ ấy, và cùng khuyến khích nhau nhất
định làm theo cho đúng. Thêm nữa, chúng ta lại cùng nhau
lập ba đại nguyện:
1. Xả
mạng vì Phật sự-Vì Phật sự quên thân mình:
đã là tín đồ Phật giáo lại là thành phần xuất gia, chúng
ta không thể đứng yên mà nhìn Phật pháp suy đồi và để
người ta khinh thị. Thà mang sanh mạng này để trùng quang
Phật giáo, lấy chánh pháp cứu nguy cho thế giới trong lúc tàn
khốc này, khiến tất cả chúng sanh được sống trong sự hòa
bình an lạc.
2. Tạo
mạng vi bổn sự-Tạo mạng là bổn phận
: chúng ta vốn là phàm phu tục tử, nhưng chúng ta có
thể biến cải gốc phàm phu để thành kẻ thánh nhân. Cổ nhân
nói: "Người quân tử có cái học tạo mạng, mạng do ta
lập ra, phước do ta cầu, họa phước không có cửa, chỉ do
người chiêu lấy," đó là lời của Lão-tử, nếu nhận
thấy câu ấy có lý, chúng ta có thể lấy để tham khảo.
Nếu lời nói ra không hợp đạo lý thì chúng ta chẳng chấp
người đã nói ra.
3. Chánh
mạng vi Tăng sự. Đại sư Thái-Hư nói:
"Chánh mạng là việc của tăng sĩ;" gọi là chánh
mạng, chẳng phải là nói về cái tính mạng, như khi người
ta đổ máu hy sinh, mà ý nghĩa ở đây là sự cải cách.
Truyền thống các tùng lâm còn để lại tất cả thanh quy. Cái
gì hay, cố nhiên chúng ta phải bảo tồn, nhưng cũng có
những quy tắc hủ lậu, hoặc không còn thích ứng với thế
giới ngày nay thì chúng ta có thể tùy theo nhu cầu thực tế
mà mạnh dạn sửa đổi. Pháp là cái chết cứng, con người
là cái sống động, hà tất chúng ta phải tử thủ không cho
nó biến đổi? Thấy cái gì sai trong quá khứ, cái gì cần
trừ bỏ, chúng ta đều phải bỏ đi, lý luận nào thiếu chính
xác, chúng ta đều phải sửa lại. Tóm lại, những gì liên
quan tới sự hưng thịnh của Phật giáo, thì phải làm tới
chớ không thể cẩu thả, do dự không quyết.
Tức sự minh lý,
Minh lý tức sự.
Nghĩa là gặp sự thì
hiểu lý, hiểu lý gì thì thực hiện lý ấy, lấy cái đó làm
nguyên tắc, để truyền thừa mạch huyết tâm truyền của các
Tổ sư.
Ai nấy đều thiết
thực bắt tay vào, chỉ nên nói hai phần mà hành động cụ
thể thì tới ba phần, nếu như mình có thể tin được mình
thì người khác nhất định sẽ bắt chước theo. Kẻ xuất
gia nếu làm hết bổn phận của mình như vậy, Phật giáo
từ đó mà chấn hưng, mạt pháp sẽ chuyển ra chánh pháp. Tôi
muốn khẳng định rằng: "Kim Sơn Thánh Tự còn một ngày,
thì cũng còn một ngày chánh pháp ở với thế gian."
Hiện nay, Phật giáo mới tới các nước Tây phương, thì điều
cần thiết là phải có chánh pháp, phải có thánh nhân, do đó
chúng ta phải mau mau tạo điều kiện để có sự chứng quả
của thánh nhân. Phàm là đệ tử của Phật, không cứ tại
gia hay xuất gia, tất cả đều nên lập chí tu, làm nên bậc
thánh.
Thời gian mới tới nước
Mỹ, tôi đã từng mang những tâm nguyện lớn: Tôi tự hỏi tôi
đến Tây phương để làm gì? Tôi muốn đến đây làm người
thợ nặn tượng, tôi muốn nặn thành Phật sống, thành
Bồ-tát sống, thành Tổ sư sống. Trong quá khứ đã không làm
nên chuyện gì, nay tôi muốn làm việc tế thế, cứu nhân. Tôi
còn muốn đem hết mọi chúng sanh trên thế giới này biến thành
Phật sống, thành Bồ-tát sống, thành Tổ-sư sống. Có người
bảo tôi làm không nổi, phát tâm nguyện như vậy là quá ngông
cuồng, tôi cho rằng nhất định tôi làm được. Nếu không
biến cải được hết các chúng sanh trên thế giới này thành
Phật sống, Bồ-tát sống,Tổ sư sống, tôi nguyện sẽ vĩnh
viễn không thành Phật. Chính hiện nay tôi đương tích cực làm
công tác đó. Quý vị tin cũng vậy mà không tin cũng vậy, đó
vẫn là mục tiêu của tôi. Quý vị không thấy tôi đã độ
không ít các thanh niên nam nữ Tây phương vào cửa Phật sao?
Khó độ là các giới trẻ nam nữ người Mỹ, quý vị không
thấy họ đã cạo râu cắt tóc xuất gia hay sao? Đây chỉ là
bước đầu, chưa có gì là lạ. Rồi tất cả chúng sanh đều
nối bước nhau đến với Phật, vào nhà của Phật.
Tôi nghĩ nhất định
phải có người hoài nghi: Không có phiền não thì thành thánh
nhân sao? Đúng như thế. Nhưng, phiền não không dễ gì đoạn
trừ, cho nên Bồ Tát Phổ Hiền đã từng nói qua: ". . .
Cho đến vì phiền não không thể cùng tận, đại nguyện
của tôi cũng không cùng tận." Tuy nhiên, chúng ta có thể
phát nguyện: "Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,"
chúng sanh vô tận, hư không vô tận, phiền não vô tận, nhưng
nguyện lực của chúng ta cũng có thể vô tận. Mục đích chúng
ta tu hành là cầu nhất thiết chủng trí, nhất thiết trí, như
trí huệ nhiệm mầu của đức Phật, lấy trí huệ bát-nhã
phá vô minh, tức ba độc, chuyển phiền não thành Bồ-đề,
thành đại trí huệ, lúc đó thì thật không còn phiền não
nữa và thành bậc thánh.
Lửa vô minh rút
cuộc là gì? Nói một cách rất đơn giản, rất gọn gàng thì
nó chính là tâm dâm dục của tình tham ái nam nữ. Loại tâm
niệm đó mà khởi động, thì không ai nói giỏi được, không
có pháp nào mà chế ngự nó. Cho nên biết bao nhiêu người
bị vướng trong cảnh hồ đồ, tạo ra những việc hồ đồ,
có thể nói rằng một lần sai sẩy, tức thành cái hận thiên
thu, không phương cách nào cứu vãn. Khi hai phái nam nữ đương
trong thời kỳ luyến ái, nếu như ai có hỏi họ, tại sao
lại thương anh ấy? Tại sao thương chị ấy, chắc chắn họ
sẽ hồi đáp: "không biết tại sao." Đó là tại vô
minh. Rất mong các vị xuất gia đều có thể dứt được ái,
trừ được dục, tu trì thì dụng công, xin cố gắng!
32.
Hưng Khởi Vạn Phật Thánh Thành
[^]
Các vị
thiện tín! Bồ-tát tinh tấn tu hành, ngày đêm không lười
biếng, tích lũy công đức về ba nghiệp thanh tịnh, trang
nghiêm thân tâm, cho nên lúc nào cũng chăm chỉ không biết
mỏi, nguyện chúng sanh siêng tu ba nghiệp, thanh tịnh thân,
khẩu, ý, mới có công đức thanh tịnh thiện căn, và thân tướng
được trang nghiêm viên mãn. Chúng ta là người học Phật tu
đạo, bất cứ thời khắc nào cũng không thể buông lung,
nhất là phải chú trọng đặc biệt tới ba nghiệp để cầu
cải tiến, rồi từ đó tích lũy dần dần các công đức
thiện, trồng đại thiện căn không kể thời kiếp, cứ tinh
tấn như thế tự nhiên đạo nghiệp thành tựu, tướng trang
nghiêm cũng được viên mãn. Nói về tướng: tuy là do tu, nhưng
nếu ta bẩm sinh ra đời với một hình tướng xấu xí, ai
trông thấy cũng không khởi tâm hoan hỷ mà tìm cách tránh xa,
như vậy cũng là khó cho ta đi giáo hóa chúng sanh. Hồi Tổ sư
Đạt-ma đến Trung quốc, người Trung quốc trông thấy Tổ
mặt đầy râu ria, mắt to, lông mày rậm, tướng dễ sợ. Cho
nên Tổ Đạt-ma phải diện bích, đối diện với bức tường
trên mười năm, chỉ giáo hóa được rất ít chúng sanh, may
mắn trong đó có một vị là Nhị Tổ Thần Quang, người đến
cầu pháp, quỳ suốt chín năm, lại chặt một cánh tay, mới
được Tổ Đạt-ma lấy tâm truyền tâm, từ đó mới có
tông Thiền, truyền cho đến nay. Nay tôi đến Tây phương
hoằng pháp, dìu dắt các vị tu học Phật pháp, cùng chỉ
vẽ cho quý vị phải tu công đức phước thiện, để trang
nghiêm thân tướng của chính mình.
Thế nào
là tu công đức phước thiện? Tới đâu để tu? Đúng vậy,
tu hành làm việc đạo cũng cần phải có một chỗ an thân. Cơ
hội này cũng là do nhân duyên đã thành thục nên bây giờ
mới ở tại Vạn Phật Thánh Thành. - đây cần cả vạn vị
Phật đến trang nghiêm thành này. Nói là vạn Phật, chẳng
phải đã thành được vạn Phật, mà đương thành vạn Phật,
là đã phát tâm Bồ-đề, hiện phát tâm Bồ-đề, đương
phát tâm Bồ-đề của các đệ tử Phật.
Vạn
Phật Thánh Thành,
Vạn
Phật Thánh Thành,
Vạn
Phật đều thành!
Công
trình tại Kim Sơn Thánh Tự trong mấy năm nay chính là đãi
cát tìm vàng, rất may là đã gạn lọc ra được rất nhiều
Phật vàng. Hết thẩy thất chúng đến Kim Sơn Thánh Tự
không sanh lòng thối chí, do có một phần của Vạn Phật
Thánh Thành. Cho nên chúng ta phải trân quý túc duyên đó mà
đồng tâm hiệp lực, phát nguyện rộng lớn:
1. Nguyện
lấy Vạn Phật Thánh Thành làm cộng đồng sanh mạng của
chúng ta; để sanh mạng chúng ta được duy trì, Vạn Phật
Thánh Thành phải là nơi an toàn, không có hiểm nghèo, để
sanh mạng đó có đủ sức sống và phát triển.
2. Nguyện
coi Vạn Phật Thánh Thành là cái đầu não của chúng ta, do đó
chúng ta phải bảo hộ cái đầu để Vạn Phật Thánh Thành
sẽ vĩnh viễn lãnh đạo chúng sanh dưới ánh hào quang của
Phật, và chúng sanh sẽ được tận hưởng an lạc trong đời
sống.
3. Nguyện
lấy Vạn Phật Thánh Thành là cặp mắt của chúng ta, và như
cặp mắt được gìn giữ, chúng sẽ có thể quan sát mọi
nhân duyên của chúng sanh một cách tường tận, vĩnh viễn
không xa cách chúng sanh. Chúng ta tất cả, xin hãy một lòng
tha thiết gắn bó với lời thệ nguyện phát triển Vạn
Phật Thánh Thành, nhất định thành tựu cho được lời
nguyện vạn Phật tới trang nghiêm thành này, lấy sự hưng
thịnh của toàn Thành làm trách nhiệm và thiên chức của
chính mình. Hy vọng mọi người không coi nhẹ trách nhiệm,
bỏ bê phận sự của mình.
Sự việc
trong thế gian, luôn luôn theo chiều hướng lên xuống, cái
này lên thì cái kia xuống, không có cái gì là vĩnh viễn hưng
hay vĩnh viễn suy. Hiện nay Phật giáo tại châu Á suy vi, thì
Phật giáo tại Mỹ lại hưng khởi. Lịch sử của một dân
tộc hay một quốc gia cũng giống như thế. Nước này suy, nước
kia thịnh, như vừng thái dương lúc buổi sáng mọc lên ở phương
Đông, chiều đến xuống dần và lặn ở phương Tây. Nói
lặn nhưng chẳng phải là mất hẳn, lặn nơi này mà mọc ở
nơi khác. Tại Mỹ khi chúng ta ngắm mặt trời lặn, thì cũng
là lúc rạng đông ở Trung Hoa. Nhất thiết các sự tướng đều
bầy ra như vậy. Phật giáo đến với xã hội Tây phương
thì Vạn Phật Thánh Thành của chúng ta là nơi phát nguyên -
cái cơ sở gốc vậy. Năm ngoái lão Pháp sư Đông Sơ qua Mỹ,
có đến Vạn Phật Thánh Thành. Ngài nói rằng Vạn Phật
Thánh Thành có thể ví như núi Linh Thứu tại Ấn-độ, và cũng
có thể nói rằng Vạn Phật Thánh Thành là Phật Giáo Mỹ
Quốc Thánh Thành. Đất này cũng có Diệu Giác sơn, đúng là
Linh Sơn Thánh Thành. Địa hình của Diệu Giác sơn như tượng
một người nằm, vừa trong giấc ngủ tỉnh giấc, không
riêng tự giác ngộ mà còn chiếu cố các chúng sanh khắp mười
phương, cho nên mới có tên là Diệu Giác; do đó, Vạn Phật
Thánh Thành có thể gọi là Giác Sơn Thánh Thành, Bồ Đề
Thánh Thành, hay Diệu Giác Sơn Thánh Thành cũng được.
Lão Pháp
sư Đạo Nguyên lúc đến đây, Ngài lấy mấy chữ tên của
Ngài "Đạo Nguyên" (nguồn đạo), ghép lại mà rằng:
"Nguồn đạo, nguồn đạo, nguồn của đạo, nguồn của
tu đạo, Vạn Phật Thánh Thành chính là nguồn hành đạo
của chư Phật tại Tây phương." Tại Trung quốc ở tỉnh
Quảng Châu có "Tây lai sơ địa," để ghi nhớ nơi
Tổ sư Đạt-ma lần đầu tiên đặt chân tới Trung Hoa. Vạn
Phật Thánh Thành của chúng ta cũng có thể kêu là "Đông
lai sơ địa," nhưng đó chẳng phải là ám chỉ tôi "sơ
lai"-mới đến. Đây là nói lão Pháp sư Đông Sơ ghé qua
nơi này, chẳng phải là nói sư phụ của quý vị từ Đông
phương mới đặt chân tới. Từ nay về sau, bất cứ lúc nào,
và ở chỗ nào, không nên đề cập đến tên tôi là tốt hơn
cả. Tại sao? Tôi không muốn giống mọi người trong thế
tục. Các ông coi Tổ Sư Bồ-đề Đạt-ma, người đến cũng
không, người ra đi cũng không, cái gì cũng không có. Tuy nói
Tổ ngồi tại Hùng Nhĩ sơn trong chín năm, nơi mà Tổ ngồi
vẫn còn ở đấy, nhưng người thì không. Vậy cứu cánh thì
Tổ ở đâu vậy? Không ai biết. Bởi vậy lúc sinh thời tôi
không muốn dùng tên tôi, trong tương lai không còn ở tại
thế gian này, cũng không cần đến tên tôi nữa. Tôi thường
nói với quý vị rằng, cái tên của tôi là giả, cái tên
khác cũng chẳng phải là chân. Nay mỗi cá nhân chúng ta phải
phát nguyện làm một phần tử của Vạn Phật Thánh Thành,
tức không còn là kẻ chỉ đứng ngoài bàng quan không mó tay
tới việc gì; chúng ta có sức thì góp sức, có tiền thì
xuất tiền, cống hiến tận tình công sức của chúng ta, đưa
kế hoạch mục tiêu để phát triển Vạn Phật Thánh Thành,
tận lực hộ vệ Vạn Phật Thánh Thành, hộ trì nơi phát
nguyên ra Phật Giáo Tây phương, nơi đất thánh này, như thế
mới hết cái nghĩa chúng ta coi trọng Vạn Phật Thánh Thành.
Công trình của chúng ta chẳng phải có ý nghĩa tạm thời.
Trong tương lai, khi ghi lại lịch sử phát triển của Phật
giáo Tây phương, đây là một điểm phải đặc biệt chú
trọng, chẳng phải chúng ta hy vọng có cái danh trong sử này,
chỉ là muốn người chép sử của Phật giáo Tây phương ghi
ra những điều trung thực. Việc trước mắt là chúng ta bất
tất lo những chuyện này, mà nhớ rằng chúng ta đã là đệ
tử Phật tại Vạn Phật Thánh Thành thì phải đem hết chân
tâm và năng lực, đổ mồ hôi nước mắt chịu khổ, chịu
nạn cho công trình này, chẳng hãi sợ, chẳng lui bước, coi
như sự đương nhiên, nếu không thì chẳng đúng là dân của
Vạn Phật Thánh Thành. Còn nhớ năm 1972, tôi đã từng viết
bài "Vũ Trụ Bạch," sau chót có hai câu: "Lưu
huyết hãn, bất hưu tức," nghĩa là đổ mồ hôi, đổ
tâm huyết, cũng chẳng thôi, cũng chẳng tạm nghỉ, quyết
mang huyết hãn để thực hiện cho được lý tưởng và mục
đích của chúng ta.
33.
Kiền Thành Niệm Cát Tường Thần Chú
[^]
Năm nay, kể từ ngày
Nguyên-đán, chúng ta cùng thành tâm niệm thần chú Tiêu Tai
Cát Tường:
"Nam mô.Tam mãn đa.
Mẫu đà nẫm. A bát la để. Hạ đa xá. Sa nẵng nẫm. Đát điệt
tha. Án. Khư khư. Khư hê. Khư hê. Hồng hông. Nhập phạ ra.
Nhập phạ ra. Bát ra nhập phạ ra. Bát ra nhập phạ ra. Để
sắt xá. Để sắt xá. Sắt trí rị. Sắt chí rị. Sa phấn
trá. Sa phấn trá. Phiến để ca. Thất lí duệ Sa bà ha."
Nếu như quý vị
chuyên tâm trì niệm, chắn chắn sẽ có cảm ứng chẳng thể
nghĩ bàn và tới được cảnh giới như trong câu nói: "Cảm
ứng đạo giao."
Tại sao chúng ta cần
phải niệm Thần Chú Tiêu Tai Cát Tường? Để cầu cho toàn
thế giới, toàn thể nhân loại tai qua nạn khỏi, đến chỗ
cát tường. Đó là lý do thúc đẩy Vạn Phật Thánh Thành
cử hành Pháp-hội Tiêu Tai Cát Tường. Tóm lại, chính là
giúp chúng sanh thoát ly khổ hải, chớ không có mục đích gì
khác.
Một số các Chùa,
bất luận mở pháp hội nào đều nhằm vào các thí chủ
công đức (người xuất tiền của để làm công đức). Vạn
Phật Thành không giống như vậy, chẳng có pháp hội nào mà
chúng ta nhằm vào các công đức chủ, chúng ta chỉ có chủ
công đức mà thôi. Thế nào gọi là chủ công đức? Nghĩa
là Vạn Phật Thánh Thành chủ trì công đức và hồi hướng
tất cả công đức cho toàn thể nhân loại trên thế giới
này.
Tại đây chúng ta
mang hết thành tâm và thành ý niệm thần chú Tiêu Tai Cát Tường,
vì lợi ích của toàn thể nhân loại chớ không phải chỉ
riêng lợi ích của mấy người ở tại Vạn Phật Thành.
Pháp hội này lớn rộng, đại nhi vô ngoại, nghĩa là to lớn
đến độ bao trùm hết các chúng sanh, không một chúng sanh
nào ở ngoài cả. Bất cứ ai, không kể người tin Phật hay
không tin Phật, kẻ thiện người ác, chúng ta đều mang công
đức hồi hướng cho tất cả, làm cho mọi người thoát ly
khổ ách và được hưởng an vui.
Thực hiện những
pháp hội này, chúng ta không hề đặt giá, chỉ lo châu toàn
bổn phận, hết một lòng với thiên chức, lẽ đương nhiên
cầu an lạc là phải cầu cho hết mọi chúng sanh. Nếu không
nhận thức cho rõ, chúng ta sẽ làm mất hết ý nghĩa của
pháp hội. Bởi vậy chúng ta phải niệm với một sự chí
thành, một sự tha thiết, để có thể cảm động tới lòng
từ bi của Phật và Bồ-tát, khiến các Ngài rủ lòng thương
xót giúp giảm nhẹ tai nạn cho chúng sanh, tai nạn lớn biến
thành nạn nhỏ, tai nạn nhỏ thì được hóa giải luôn. - đây
chúng ta hết lòng cầu nguyện cho toàn thể nhân loại, được
tiêu tai cát tường. Đó là cái đáng giá!
Chúng ta nhờ vào vị
thế ưu việt của đạo tràng Vạn Phật Thành mà làm tiêu
được tai nạn cho toàn thể nhân loại trên thế giới, thì
thật là một điều hết sức lý tưởng. Nếu không có địa
điểm đó, thì không nơi nào có thể giúp chúng ta làm được
công đức này. Cho nên tại Vạn Phật Thánh Thành, có quy định
làm "sái tịnh," tức dọn dẹp sạch sẽ, vào đêm
trừ tịch của âm lịch, để sáng ngày mồng một Nguyên-đán
bắt đầu niệm thần chú Tiêu Tai Cát Tường. Vạn Phật
Thánh Thành làm chủ công đức, nghĩa là chủ trì việc làm
công đức để hồi hướng đến các chúng sanh trên toàn
thế giới.
Quý vị! Tham gia các
loại pháp hội này là một vinh dự! Một vận may! Quý vị
hãy phấn chấn tinh thần, thành tâm mà niệm, chớ có bôi
bác bề ngoài che đậy tâm lười biếng. Mọi người phải
cùng nhau một lòng vì cứu độ chúng sanh mà niệm. Hãy niệm!
Niệm! Niệm! Niệm!
34.
Ngũ Giới Thập Thiện Tiêu Tai Nạn
[^]
Vì chúng sanh tạo nghiệp nên trên thế giới mới thấy xuất hiện bao nhiêu là tai nạn. Có câu nói: "Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo," ba thứ này liên quan chặt chẽ với nhau. Nếu không khởi hoặc thì sẽ không tạo nghiệp, và từ đó không có quả báo.
Khởi hoặc là khởi lên sự mê lầm, do thiếu trí huệ chân chánh nên không sáng suốt khi đối diện với sự lý, nghĩa là tâm điên đảo. Nói rõ hơn, đây là trường hợp không biết phân biệt rõ ràng các điều thị phi, thiện ác, ngay đến trắng đen cũng không phân định, chánh tà cũng không biết. Tóm lại, tất cả đều do sự thiếu xét đoán minh bạch mà nguồn gốc chính là sự tác quái của vô minh.
Tạo nghiệp thì
phải kể cả tạo thiện nghiệp và tạo bất thiện nghiệp.
Tạo thiện nghiệp sẽ được quả sanh ở trên thiên, tạo
ác nghiệp thì bị đọa địa ngục. Bởi không phân biệt rõ
nên mới tạo ra nào nghiệp trộm cắp, nghiệp tà dâm,
nghiệp nói dối, nghiệp uống rượu v.v.. nhưng trong các
nghiệp này thì cũng có sự khác biệt về mức độ nặng
nhẹ.
Sát sanh: Như hành động giết những con muỗi, con kiến chẳng hạn, đó gọi là sát sanh. Giết bò giết heo là sát sanh. Nhưng trong trường hợp này nghiệp báo không nặng lắm, bởi súc sanh là loài ngu si, nhất thời không kiếm ra được kẻ giết mình, mà có kiếm ra thì cũng không biết phương cách gì để báo thù. Thế nhưng, trong thế gian, luật nhân quả rất là công bình. Trong sự mông lung của đời sống, chẳng biết từ đâu và do đâu, ta sẽ thấy nhân quả kiếm tới, có thể ta sẽ mắc phải một quái tật, hay sẽ bị bệnh hành hạ, đó là một thí dụ về sự báo cừu có tính cách tiêu cực. Như ngày nay những người mắc bệnh ung thư, phần đông là do kiếp trước hay kiếp này đã tạo ra các nghiệp trọng về sát sanh, nên mới gặp loại bệnh không có thuốc chữa này.
Trong các nghiệp sát sanh thì nghiệp sát nhân là nghiêm trọng nhất. Nạn nhân bị giết biến thành oan hồn, tức khắc theo dõi anh, oan cừu chẳng báo, chẳng cam tâm, nên nhất định sẽ chờ, có cơ hội là báo oán xưa. Kẻ sát nhân ắt bị pháp luật trừng trị, hoặc giả tâm thần không an ổn, đứng ngồi không yên, luôn luôn ở trong một hoàn cảnh bị đe dọa, chẳng chóng thì chầy tinh thần sút kém, nếu chẳng chết thì cũng bị điên loạn.
Trộm
cướp: Phàm là kẻ trộm cướp, tâm thường phập
phồng sợ hãi. Người ta thường nói: "Tặc nhân đởm hư,"
kẻ trộm thì gan mật suy yếu. Nếu chẳng có hành vi trộm
cắp thì ngửng lên chẳng hổ, cúi xuống chẳng thẹn, có gì
đâu mà hãi sợ? Việc ta làm, ta tạo tác, rất là đường
hoàng quang minh, còn sợ gì nữa?
Tà
dâm: Hành dâm là điều cấm tuyệt đối với người
xuất gia, còn đối với các đệ tử Phật tại gia thì việc
tà dâm chỉ cấm nếu không phải là giữa vợ chồng. Ngoài
ra, tư tưởng dâm dục cũng phải giới, không thể nào cứ
từ sáng đến tối hồ tư loạn tưởng, suốt ngày để cho tư
tưởng dâm dục ám ảnh cho đến bạc cả tóc, rụng cả răng!
Có biết đâu, tới kiếp sau những tư tưởng đó vẫn còn
theo đuổi, rồi kiếp kế tiếp mãi mãi không thôi, đúng là
"vì dâm dục mà sanh, vì dâm dục mà tử."
Nói
dối: Người nói dối, không bao giờ tin vào lời nói
của bất cứ ai. Bởi chính mình không nói lời chân thực
nên cứ nghĩ rằng người khác cũng không nói thực. Có câu
nói: "Lấy cái tâm tiểu nhân, đo lòng người quân tử."
Chính mình chuyên nói dối để gạt người khác do đó mới
cho rằng người khác cũng nói lời dối gạt như mình.
Uống rượu: Phàm người uống rượu dễ bị mất lý trí. Đương lúc hăng say không kịp nghĩ tới hậu quả nên đã tạo ra những việc thương luân bại lý. Lý do là "Tửu hậu Vô đức" lý trí lúc bấy giờ không kềm hãm được tình cảm nữa.
Nguyên nhân các tai nạn trên thế giới đều do con người không giữ ngũ giới, không biết tu thập thiện. Trong thời kỳ Chuyển Luân Thánh Vương trị thế, mọi người đều giữ Ngũ-giới, tu Thập-thiện, cho nên hồi đó trên thế gian không có mảy may tai nạn, đúng là thời kỳ "Gió thuận mưa hòa, quốc thái dân an". Nay thì ai nấy đều không giữ Ngũ-giới, không tu Thập-thiện, cho nên mới có nhiều tai nạn như vậy, điều căn bản chính là ở chỗ đó.
35.
Đầy Rẫy Sát Khí Trên Thế Giới [^]
Người nào cũng mang
trong mình một đầu đạn nguyên tử (phiền não), chỉ chờ cơ
hội bùng nổ. Sức mạnh của phiền não còn ghê gớm hơn
sức mạnh của đạn nguyên tử nữa. Các vị thử coi! Ngày
nay loài người trên thế giới rất d nóng giận. Không kể
nhân dân nước nào đó chẳng có công phu tu dưỡng, mà đầu
óc còn đầy rẫy những tư tưởng A-tu-la, họ giống như là
những chuyên gia về đấu tranh, từ sáng đến tối chỉ
nhằm tìm phương cách làm sao đấu tranh cho thắng lợi. Trong
tình huống như vậy, làm cho sát khí bốc lên, tràn ngập tam
thiên đại thiên thế giới. Trên không trung đặc một bầu
khí độc, khiến trong đời sống của nhân loại phát sinh
những chứng bệnh kỳ quặc.
Hậu quả nặng nề
nhất của nghiệp sát sanh là các thiên tai gây tai họa cho
loài người, hoặc đó là nạn động đất, hoặc nạn sóng
cồn [tidal waves], hoặc nạn lạnh, nạn nóng quá dữ dội, cho
đến các cảnh mưa không đều, gió không thuận, dân chẳng
an, nước chẳng thịnh, tức là những hiện tượng bất thường
xẩy ra. Còn những người mù, điếc, câm ngọng đều do
những kiếp trước tạo nghiệp sát sanh nặng nề, khiến sau
khi chết bị đọa địa ngục thọ quả khổ, rồi chuyển
sang làm quỷ đói, làm súc sinh, lên làm người. Tuy kiếp
hiện tại được làm người, nhưng vì quả báo nên sáu căn
không được đầy đủ.
Những người có
lục căn không đầy đủ, không có cơ may được thấy Phật,
được nghe Pháp, được gặp Tăng, vì sự chướng ngại đó
mà thành vô duyên với Tam Bảo; tóm lại cứ phải luân hồi
trong vòng lục đạo, chuyển lên chuyển xuống, tìm không ra
cánh cửa giải thoát.
Những ai làm việc
thiện, có thể sanh lên ba nẻo đường thiện, cảnh trời,
cảnh người, cảnh A-tu-la. Những ai tạo nghiệp ác thì sẽ
sanh vào ba nẻo ác (tam ác đạo), tức địa ngục, quỷ đói,
súc sanh. Người xưa có câu: "Xuất mã phúc, nhập lư thai,
Diêm Vương diện tiền kỷ độ hồi. Cương tòng Đế Thích
điện tiền quá, hựu đáo Diêm quân oa lý lai." Người ta
chẳng phải nhất định cứ giữ thân người mãi, có lúc
làm ngựa, có lúc làm lừa, thường thường là khách viếng
điện Diêm Vương, bồi hồi chẳng đi, chẳng biết đã bao
nhiêu lần rồi. Vừa mới đi ngang qua trước điện Linh Tiêu
ở trên cung vua Đế Thích (Ngọc Hoàng Đại Đế), tức vừa
ở trên tầng trời, nhưng thời gian ở đây chẳng được
lâu, nay đã phải tới chầu Diêm Vương, lọt vào cái vạc
dầu sôi nóng bỏng.
Chẳng ai có thể tự
mình bảo đảm kiếp nào cũng làm được công đức, tạo
nghiệp thiện. Cũng có khi vì đầu óc hồ đồ, không phân
biệt rõ ràng, do hoàn cảnh sai khiến mà tạo nên nghiệp
tội, phạm vào các nghiệp sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói
dối, uống rượu, năm giới cấm.
Chẳng phạm ngũ
giới mà tu thập thiện thì có thể sanh lên các tầng trời,
hưởng thọ phước trời và khoái lạc. Phước báo ở trên
cõi trời so với phước báo ở thế gian thì gấp vạn lần.
Cho nên lên tới cảnh trời rồi thì chẳng ai còn muốn
xuống thế gian. Khi phước báo cõi trời đã hưởng hết,
phải trở về thế gian thì cũng là hạng đại phú đại quý,
chẳng phải hạng tầm thường trong xã hội.
Làm kiếp A-tu-la là
do nhân duyên có tâm đấu tranh kiên cố. Họ chỉ có thiên phước
mà không có thiên quyền và thiên đức. Tên của họ có nghĩa
là "vô tửu." Bởi không có rượu uống nên họ
phải đi ăn cướp. Họ tuy ở tầng trời, nhưng không có rượu
uống, do đó thường hay tranh đoạt với trời Đế Thích,
với mục đích chiếm ngôi báu. A-tu-la chính là một loại
thổ phỉ ở trên tầng trời. Số thổ phỉ trên thế gian
chính là hóa thân của A-tu-la vậy. Nói tóm lại, A-tu-la chính
là hạng ưa đấu tranh.
36.
Ngày Nguyên Đán Nói Giáo Lý Phật
[^]
Hôm nay là ngày xuân tiết, nhằm năm Nhâm Tuất của vòng sáu mươi hoa giáp, thuộc năm con chó. Có người bị thương nặng vì chó cắn, có người thì được chó bảo vệ an toàn. Chó bảo vệ người lành mà cắn người ác. Người ác tuy ác, nhưng tạm thời được vô sự, cái đó là lý do gì? Người xưa thường nói: "Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo. Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ hữu lai tảo dữ lai trì," nghĩa là "thiện thì có quả thiện báo, ác có quả ác báo; thiện ác đến cùng đều có báo ứng, chỉ có báo sớm và báo muộn mà thôi, tơ hào không hề sai sót". Nhân quả là một định luật không thay đổi từ ngàn xưa.
Gieo trồng nhân lành sẽ kết thành quả lành, nhân ác sẽ kết quả ác. Những điều chúng ta gặp đều do nghiệp xưa đã được tạo tác, thế tất phải thọ lãnh quả. Khi thọ lãnh quả, chúng ta không nên trách trời oán người mà phải coi như chuyện đương nhiên, giữ tâm bình thản mà thọ lãnh. Vận mệnh cũng không phải là cái gì nhất định vì tất cả đều do chính chúng ta tạo tác. Làm nhiều việc thiện, vận xấu biến thành tốt, làm nhiều điều ác, vận tốt biến thành xấu cho nên vận mạng cũng là nằm trong tay chúng ta. Người xưa thường nói: "Mệnh do ngã lập, phúc tự kỷ cầu. Họa phúc vô môn duy nhân tự chiêu," nghĩa là mạng do ta lập ra, phước do chính ta cầu; họa phước đều không có cửa, do người tự chuốc lấy. Nói về sự an bài của vận mạng, thì người bình thường có số mạng còn đối với những bậc đại thiện nhân vận mạng của họ vượt ra ngoài khuôn khổ của số mạng. Kẻ đại ác cũng thế, không hạn định trong vòng số mạng. Như vậy là nghĩa gì? Lấy thí dụ, cá nhân này sanh ra đời không thể làm ác, nhưng người đó đã gây ra tội ác, như vậy tức đã vượt ra ngoài vòng số mạng. Cũng như thế, người kia ra đời không thể làm việc thiện, vậy mà đã làm được việc thiện, tức cũng đã vượt ra ngoài vòng số mạng. Nếu vượt ra ngoài số mạng thì vận mạng cũng có thể cải biến.
Người làm việc thiện sẽ có các vị thiện thần hộ pháp tới ủng hộ, người làm việc ác cũng có thần ác đi theo, cho nên người ta nói: "Sự báo ứng của thiện ác như bóng đi theo hình." Nói tóm lại, làm việc thiện thì được sống lâu, làm việc ác thì bị giảm thọ, thọ mạng chính là do mình vậy. Nếu muốn cải tạo vận mạng của mình, quý vị hãy đọc "Liu Phàm Tứ Huấn," trong sách đó có nói rất tường tận, ở đây khỏi nói thêm.
Hôm nay là ngày đầu tiên của năm kể theo nông lịch. Có câu: "Nhất nguyên phục thủy, vạn tượng cánh tân," nghĩa là ngày đầu thì trở về bắt đầu lại, muôn sự đều đổi mới, vậy chúng ta nên bắt đầu từ hôm nay, canh tân trong việc tu hành, nhất định làm cho hay, kẻo uổng phí thời gian, không giống như năm vừa qua không thực hiện được gì. Năm nay, quyết phải khai ngộ. Trước hết ta hãy phát điều nguyện này, chắc chắn có chí thì nên!
Mọi người tu đạo trong cái kho băng lạnh [ice box] này cần phải hết sức dũng mãnh và tinh tấn, nếu không sẽ bị đông cứng thì quả là không đáng, uổng phí một phen tâm huyết, cô phụ cái quyết chí của chúng ta lúc ban đầu. Kim Sơn Thánh Tự là cái tủ tuyết, Vạn Phật Thánh Thành là cái kho băng. Cho nên đa số đến thành Vạn Phật, không chịu nổi lạnh, phải bỏ đi nơi khác, chỉ có một vài người ngu si không sợ lạnh, không sợ cóng mới ở lại kho băng để dụng công tu đạo. Nhưng cũng có người cắn răng cố gắng chiến đấu với lạnh, đáng khen ở cái chí, ở cái tinh thần không chịu khuất phục, nhưng lại đáng tiếc ở chỗ ưa ngủ nghỉ mà không muốn tu. Nếu đã muốn ngủ, sao không đến chỗ ấm áp để ngủ, mà phải tới cái kho băng này để ngủ? Như vậy đâu có thoải mái.
Tại sao chúng ta phải khổ tu như vậy? Chính là muốn sanh đạo tâm. Nếu ở tại đạo tràng này, thì ngày ngày phải tu đạo, chớ không phải để vui đùa, ngày ngày ngủ cho đã, để lãng phí thời giờ quý báu. - trong cảnh ngộ khổ, mới biết phát tâm đạo, mới phát tâm Bồ-đề, không tham hưởng thọ, không mưu cầu an lạc. Tuy trong hoàn cảnh khổ mà tâm vẫn an nhiên, không bị cảnh ngộ chuyển đổi, mà ngược lại có khả năng chuyển đổi cảnh ngộ.
Người ta bảo: "Nghịch cảnh tạo anh hùng." Chúng ta ở trong hoàn cảnh gian nan khốn khổ, phát tâm Bồ-đề rộng lớn, coi tất cả thế gian là không, coi:
Phú quý ngũ canh xuân mộng
Công danh nhất phiến phù vân
Nhãn tiền cốt nhục dĩ phi chân
Ân ái phản thành cừu hận
Mạc bả kim già sáo cảnh
Hưu tương ngọc tỏa triền thân
Thanh tâm quả dục thoát hồng trần
Khoái lạc phong quang
bổn phận
Dịch
nghĩa là:
Cảnh
phú quý một trường xuân mộng
Bả
công danh một đám phù vân
Thân
này xương thịt chẳng chân
Tình
ân ái sẽ đổi thành cừu hận
Gông
vàng đeo cổ chi thêm quẩn
Ngọc
quý đừng mang bận tấm thân
Thanh
tâm bớt dục thoát trần
Hưởng
thú phong quang làm bổn phận.
Chúng ta nên theo như vậy mà tỉnh ngộ, ngay trong hoàn cảnh khó khăn chúng ta hãy dụng công tu đạo.
Nhân dịp năm con chó, có bài kệ tụng như sau:
Cựu niên qua khứ
hựu nghinh tân
Kê minh cẩu đạo
khởi củ phân
Khẩn thủ môn hộ
phòng thất thiết
Tự lợi lợi tha
tận duy tâm.
Giải thích sơ lược như sau: Năm ngoái đã qua rồi, nay lại nghênh tiếp năm mới. Năm cũ là năm con gà, năm nay là năm con chó, tức không phải thời kỳ tốt, cho nên chúng ta phải cẩn thận giữ gìn cửa ngõ, kẻo của quý bị mất. Của quý này chính là bổn tính chân thực của mình, cũng là cái trí huệ sẵn có của mình, chớ để nó mất tiêu, do đó sáu cửa là sáu căn phải được canh giữ, kẻo của quý vô giá bị thất thoát. Tự lợi lợi tha là hành đạo Bồ-tát, chỉ có do tâm mà thấy được, chớ không phải do bên ngoài. Tôi mong mọi người biết tiếc thời giờ, không giống như năm ngoái để ngày tháng qua đi suông, rất uổng. Năm nay quyết cố gắng nhiều lên, dụng công thiền quán, phát nguyện khai ngộ. Chúc các vị, xuân tiết an lạc, vạn sự như ý!
37.
Bắt Chước Tinh Thần Bồ Tát Địa Tạng
[^]
Thế nào
gọi là Bồ Tát Địa Tạng? Vị Bồ-tát này cũng như đại
địa, chứa hết vạn vật. Hết thảy vạn vật do đất mà
sanh ra, nương đất mà lớn lên. Bất kể chúng sanh hữu tình
hay vô tình, không thể rời khỏi đại địa mà tồn tại
được, từ đó mà suy ra con người chúng ta mỗi một lần
thở ra, thở vào, một cử một động, một lời nói một
hành động, từng giờ từng khắc, đều sinh hoạt ở trên
pháp thân của Bồ Tát Địa Tạng, chẳng qua chính chúng ta
không hay biết đó mà thôi.
Như con
kiến càng bò trên con thuyền, nó không biết tới con thuyền.
Con thuyền trôi nổi trên biển, ghé khắp mọi nơi, nhưng con
kiến càng đâu có biết thuyền là cái gì? Thuyền đi tới đâu?
Hoàn toàn không biết gì cả. Lý do tại sao vậy? Bởi thuyền
thì quá lớn, kiến thì quá nhỏ. Chúng ta sinh tồn trên pháp
thân của Bồ Tát Địa Tạng cũng cùng một ý nghĩa như vậy.
Chúng ta
sống trên quả địa cầu, không nương vào một chỗ nào
trong không gian cả. Địa cầu do phong luân nhiếp trì, theo quy
luật tự nhiên mà vận hành bất tuyệt trong quỹ đạo. Trong
hư không, địa cầu phiêu diêu xoay chuyển, rồi cuối cùng
nó đi tới đâu? Sự hiểu biết của các nhà Thiên văn học
bất quá chỉ là danh từ mà thôi, rốt cuộc như thế nào
họ cũng chẳng biết.
Chuyện
huyền bí của trời đất chẳng ai hiểu rõ một cách chân
chánh. Biết được thực sự bí mật của vũ trụ họa chăng
chỉ có các bậc thánh nhân đã chứng quả. Chúng ta là kẻ
phàm phu tục tử không thể hiểu hết, ý nghĩa của nó là
chẳng thể nghĩ bàn. Chúng ta đều là hạng hồ đồ ăn
uống tạp loạn.
Chúng ta
sinh ra đời, từ thiếu niên lên tráng niên, từ tráng niên đến
tuổi già, từ tuổi già đến chết, đó là con đường mà người
đời trải qua, không ai có thể thoát ra ngoài định luật
này. Trong cuộc sống như vậy, có người thì gặp rất
nhiều khổ nạn - nghiệp chướng nặng - lãnh tận cùng sự
khổ đau, rồi từ đó nhận thấy thân tâm tính mạng tựa hư
ảo, sanh ra những tư tưởng yếm thế, coi cuộc đời chẳng
còn hứng thú gì nữa. Có người xuất thân trong gia đình
giầu sang - nghiệp chướng nhẹ - các thứ ăn mặc nơi ở đều
thuộc giới thượng lưu, đời sống đầy đủ, được toại
lòng xứng ý. Như người ta thường nói: "muốn gió có
gió, muốn mưa có mưa," thậm chí muốn cả mặt trăng,
cha mẹ cũng chiều lòng tìm cách đưa trăng xuống cho con. Đời
sống như vậy, trông vào thì tuồng như rất vui sướng, rất
mỹ mãn. Kỳ thực, chẳng phải như vậy, mà chính là một đời
hồ đồ chẳng điều gì được minh bạch, có thể nói là
"túy sinh mộng tử," sống say chết mê. Không có được
sự hiểu biết chân chánh, tỷ dụ như vì sao ta đến thế
giới này? Đến để làm gì? Đến để ăn uống chăng? Để
mặc áo quần chăng? Hoặc giả đến để lừa gạt người?
Đến để hưởng thụ? Đó là những điều mà thế gian mê
mờ, không ai có thể phá được sự chấp mê đó.
Chẳng
riêng gì số người tại gia không phá được cái cửa mê
này, mà đối với giới xuất gia cũng còn bị hãm trong vòng
mê hoặc. Danh không buông được, lợi không bỏ được, chỗ
nào cũng chạy theo duyên, chỗ nào cũng vướng mắc, thật là
đáng thương vô cùng. Những người xuất gia phải nên có ý
nghĩ, tại sao ta xuất gia? Bởi vì ta đã coi nhẹ hết thảy
mọi thứ trên thế gian này, chẳng chấp các pháp thế gian,
do đó mới xuất gia tu đạo đặng giải quyết vấn đề sanh
tử.
Người
xuất gia phải tha thiết với vấn đề sanh tử, phát tâm
Bồ-đề, chớ không thể hồ đồ chờ chết, như người ta
nói: "Một ngày làm sư, một ngày đánh chuông."
Với một tâm lý đó xuất gia, đối với vấn đề sanh tử
quả là không nắm vững được tí nào.
Chúng ta
vào thất Địa Tạng, nên học hỏi tinh thần cứu độ chúng
sanh của Bồ Tát Địa Tạng. Trong thời quá khứ, Bồ-tát
từng phát mười tám lời nguyện lớn, nguyện chúng sanh
thoát ly biển khổ, tới bờ an lạc. Ngài nói rằng: "Địa
ngục chưa trống, nguyện chẳng thành Phật," và "Độ
hết chúng sanh, mới chứng Bồ-đề." Ngài lại nói:
"Ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục."
Thật là những lời nguyện vĩ đại! Các vị phải nên bắt
chước pháp của Bồ-tát, học hỏi tinh thần cứu người
quên mình. Bồ Tát Địa Tạng nay vẫn còn trong địa ngục
chịu khổ để thuyết pháp cho các chúng sanh.
Chúng ta
cùng ở trong pháp thân của Ngài Địa Tạng, lại cùng là người
xuất gia, cùng với Ngài vốn là đồng chí đồng đạo trong
việc quảng độ chúng sanh. "Đặt mình trong chốn nước
sôi lửa bỏng, cứu chúng sanh tới bờ mát mẻ" chính là
bổn phận của người xuất gia. Được như vậy không uổng
một đời xuất gia, hy vọng tất cả cố gắng!
Người
xuất gia không thể có tâm tham, phải quét trừ cho sạch tâm
này, nếu không sẽ không đủ tư cách làm người xuất gia.
Nếu còn tham cái này, tham cái kia, cái gì cũng tham, càng
nhiều càng tốt, thậm chí vơ vào hết mọi thứ rác rưởi
để tích trữ lại, như vậy quả là đáng thương đến cực
điểm vậy!
Niệm danh
hiệu của Bồ Tát Địa Tạng thì chúng ta phải niệm cho
thật rõ ràng, để Bồ-tát hiểu rõ tâm ý của chúng ta.
Tại sao chúng ta niệm Bồ Tát Địa Tạng? Mục đích của
chúng ta là khiến Bồ-tát sau khi nghe tiếng chúng ta niệm,
Ngài biết rõ ý muốn của chúng ta để phát tâm từ bi, cho
chúng ta được thỏa mãn tâm ý.
Năm nay
chính là năm đầu của thời kỳ "Cửu tinh liên châu,"
tượng trưng cho sự hung hiểm. Chúng ta không cần biết có
hung hiểm hay không hung hiểm, chỉ biết là chúng ta một tâm
kiền thành niệm "Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ-tát,"
nguyện cầu tai họa lớn của thế giới đổi thành tai họa
nhỏ, nếu là tai họa nhỏ thì biến thành tiêu tan. Bởi vậy
chúng ta chỉ một lòng khẩn thiết, vì toàn thể nhân loại
trên thế giới nguyện cầu hòa bình, hạnh phúc, đó chính
là mục đích chúng ta vào thất Địa Tạng.
Đây
chính là quảng đại tâm, vô lượng tâm mà kẻ xuất gia ai cũng
phải ghi tạc trong lòng, coi chúng sanh như người thân của
mình, giống như câu người ta nói: "Người chết đuối,
ta chết đuối, người đói ta đói," phải phát tâm
Bồ-tát, tự lợi lợi tha,tự giác giác tha, tự độ độ tha.
Bởi vậy trong thời gian vào thất của pháp hội Bồ Tát Địa
Tạng, chúng ta thành tâm chừng nào thì sẽ tốt chừng ấy,
chúng ta đem hết thành tâm ấy niệm "Nam mô Địa Tạng Vương
Bồ-tát."
Miệng
chúng ta hết sức thành kính niệm Bồ Tát Địa Tạng, vậy
là bánh xe của sáu nẻo luân hồi ngừng xoay. Không biết bao
nhiêu là chúng sanh nhờ cơ hội này mà có thể ra khỏi cảnh
luân hồi thoát ly khổ ách. Có thể nói rằng niệm danh hiệu
Bồ Tát Địa Tạng là một công việc thần diệu, một công
đức chẳng thể nghĩ bàn, do đó chúng ta không nên niệm
trong sự mưu đồ, trong sự đặt giá, không phải vì sự
trả ơn của chúng sanh mà niệm, tóm lại chúng ta niệm vì
lòng tình nguyện. Bởi các lý do trên đạo tràng của chúng
ta đột nhiên cử hành thất Địa Tạng, chẳng báo trước
gì, cũng không tuyên bố gì. Trong số trú tại Vạn Phật
Thánh Thành mà cũng có người không hay biết. Cái đó chính
vì cơ duyên, cơ duyên hội đủ nên mới cử hành thất Địa
Tạng.
Thất Địa
Tạng kết thúc thì tiếp theo là thất Quán Âm (ngày 19 tháng
2 âm lịch), để cầu cho hòa bình thế giới, xin tất cả
mọi người cố gắng đến niệm "Nam-mô Quán Thế Âm
Bồ Tát."
Có câu
"chúng chí thành thành," tức là góp ý chí - của số
đông - sẽ tạo thành thành trì, tất cả cùng một lòng
niệm, gắng sức niệm, hết sức thực tâm niệm, tức có
cảm ứng, như câu "cảm ứng đạo giao" vậy. Cử
hành thất Địa Tạng hay Quán Âm, chúng ta chỉ cần không có
lòng riêng tư, tự lợi, không tranh, không tham, không cầu, mà
thực sự chỉ vì hạnh phúc của chúng sanh trên thế giới.
Tại Vạn
Phật Bảo Điện của Vạn Phật Thánh Thành,
từ ngày
7 đến ngày 12 tháng 3 năm 1982
38.
Không Nên Làm Ô Nhiễm Hư Không
[^]
Chúng ta cùng với hư
không là một, chúng ta có những vọng tưởng gì, tự nhiên
chúng ta sẽ phát ra những ý vị cùng loại, làm đầy ắp hư
không. Hư không đã bị ô nhiễm, chúng ta lại hấp thụ khí
ô nhiễm vào mình, bèn sanh ra tật bệnh, nhẹ thì thân thể
không thơ thới, nặng thì ôi thôi!
Những vọng tưởng
về tà tri tà kiến của chúng ta, như các tâm sát sanh, trộm
cướp, tà dâm, nói dối, sân hận, ghen ghét, những loại tâm
chướng ngại, đều chứa đựng độc tố ở bên trong, nên
khi chúng phát ra sẽ làm cho không gian bị ô nhiễm. Bởi
không gian chứa nhiều độc tố, thành thử hấp thụ chúng
vào cơ thể, cơ thể sẽ trúng độc, các tế bào sẽ biến
thể, nạn nhân nếu không mắc chứng ung thư thì cũng là
một loại bệnh nặng, không vượt qua được. Bởi lý do đó,
chúng ta phải làm sao cho tư tưởng và hành vi lúc nào cũng
chánh đại quang minh kẻo trời đất bị nhiễm thêm độc
khí. Vũ trụ mà bị tràn ngập độc khí, thì chúng sanh toàn
thế giới phải trúng độc mà tử vong,.
Vọng tưởng của
chúng ta mang tính cách bất thiện, độc khí trong hư không
sẽ tăng thêm một chút ít; vọng tưởng của chúng ta mà
thiện thì cái ý vị tốt lành trong hư không cũng sẽ tăng
thêm. Độc khí nếu đầy ắp hư không sẽ vạn lần tàn
khốc hơn bom đạn nguyên tử.
Trong con người của
chúng ta, cũng có đạn nguyên tử, đạn khinh khí, đạn hạch
tâm. Nếu trong tâm không có thứ này thứ kia, thì trên thế
giới cũng không có hiện tượng này, hiện tượng kia. Cái đó
nghĩa là, bên trong có cái gì thì bên ngoài cũng hiện ra cái
đó, nếu trong không có gì, ngoài cũng không thấy có gì
biểu hiện, như câu nói: "Vạn pháp duy tâm tạo."
Người xưa có câu:
"Thiên hạ bổn vô sự, dung nhân tự nhiệu chi," nghĩa
là thiên hạ tự nó chẳng có chuyện gì, có chuyện là do người
gây rắc rối. Đây là ám chỉ những kẻ ngu si, nhận thấy
cái nầy thật, cái kia thật, thật này thật kia, rồi chết cũng
thật, mà chính mình chẳng hiểu chết ra sao, đáng thương
quá!
Kẻ ngu si, sống trong
thế gian, nào điên đảo, nào phiền não, nào tranh cãi,
chẳng bao giờ thôi. - ngoài không có, ở trong thì có ; ở
trong không có, trong giấc ngủ thì có. Có cái gì? Có vọng tưởng.
Vọng tưởng rối bời, tâm không thanh tịnh. Phải nhớ rằng
vọng tưởng chính là hòn đá buộc chân người tu đạo,
trở ngại cho chúng ta khó thành tựu đạo nghiệp.
Các vị coi! Người
ta đúng là một quái vật, chính mình lại không nhận ra mình
là quái vật, còn coi tấm thân này là quý giá phải yêu thương
bảo vệ, lúc nào cũng nghĩ tới nó. Phải uống viên thuốc
bổ vitamin đi! Sống thêm vài năm nữa! Bất cứ ai, Linh mục,
Mục sư, Hòa thượng, phần đông cứ mỗi ngày phải uống
những viên vitamin, coi như đó là nguồn sinh lực, nguồn khang
kiện, một phương cách duy trì sinh mạng, trường sanh bất
tử.
Bây giờ tôi nói cho
quý vị nghe! Hãy bớt vọng tưởng đi, cái đó còn hữu
dụng hơn bất cứ thứ thuốc bổ nào. Không tin sự thật đó
thì quả là quá si mê. Đó là đạo lý chân chánh, không thể
không tin, nếu như không tin tức là không có trí huệ. Người
không có trí huệ thì không biết tin vào chân lý.
Thế nào là chân lý?
Chân lý là đạo lý chân chánh. Lấy một thí dụ, người có
nhiều lòng dục, thì dùng thuốc bổ gì cũng vô hiệu. Lý do
là ở tính chất của chữ "lậu," lậu tức là thấm
ra, thoát ra ngoài.
Người đó không
hiểu rõ ý nghĩa của phép dưỡng sanh chân chánh: thanh tâm
quả dục, giữ tâm trong sạch, ít dục vọng. Chúng ta là kẻ
tu hành, đầu tiên là bỏ ái trừ dục, một quy tắc căn
bản, nếu không, dù có tu đến tám vạn đại kiếp cũng
chẳng thành tựu được gì.
Tôi từ San Francisco
đến Vạn Phật Thánh Thành giảng kinh, lẽ dĩ nhiên tôi
phải nói đúng sự thật, khiến quý vị hiểu rõ thực tánh
của việc tu đạo. Nếu tôi không nói thật cho quý vị hay
thì trời lạnh như thế này, tất cả đều ngồi ở trong
giảng đường sẽ bị gió lạnh xâm nhập, nếu như không đạt
được chân lý, thì công chịu lạnh chẳng được ích gì,
cứu vãn không lại.
Điều tôi nói ngày
hôm nay là sự thật, tôi mong quý vị nghe xong thì tự liệu
lý lấy ba độc tham, sân, si của mình, đừng phóng độc khí
lên không gian, ngỏ hầu giúp cho hết thẩy chúng sanh được
hít thở chút không khí tươi mát, thì công đức của quý
vị thật là vô lượng, giống như gián tiếp làm cuộc phóng
sanh vậy. Tôi hy vọng thêm rằng tất cả chúng ta hãy cố
tiêu diệt vọng tưởng. Nếu không có vọng tưởng thì hoàn
toàn được tự tại, rất quý. Như vậy, có chịu lạnh cũng
không uổng công.
Mùa đông tại Vạn
Phật Thánh Thành chính là để khảo nghiệm định lực của
các vị tu hành, để huấn luyện thân tâm của các vị. Tới
mùa hè, Vạn Phật Thánh Thành cũng là một trường khảo
nghiệm.
Hết thẩy là khảo
nghiệm,
Coi thử mình ra sao,
Đối cảnh như không
biết,
Phải luyện lại từ
đầu.
Các vị phải ghi
nhớ mấy câu này.
Sau đây mấy ngày
chúng ta sẽ tổ chức Phật-thất và Thiền-thất (một
Phật-thất, ba Thiền-thất, hạn kỳ là 28 ngày). Theo nghĩa
câu "Đông thiền, Hạ học," thì trong mùa Đông, khí
hậu lạnh lẽo, người ta nên tu tập tham thiền. Trong những
ngày hè vì trời nóng bức, tốt hơn là nghe giảng kinh và
thuyết pháp. Tại sao? Nếu như tham thiền trong bầu không khí
oi ả, ngồi như vậy sẽ đổ mồ hôi, trong tâm sinh phiền
muộn và ngồi lâu không nổi. Trời Đông, lạnh ngăn ngắt,
khi ngồi xuống tựa như ôm một khối băng trong lòng phải
cắn răng chịu đựng. Lúc đó trong mình sẽ có một luồng hơi
ấm bốc lên, xua đuổi khí lạnh không cho nó len lỏi vào cơ
thể, và như vậy sẽ an tâm tĩnh tọa, dễ có cơ duyên vào
định. Nếu như không phát động được luồng hơi ấm trong
thân, hành giả sẽ cảm thấy lạnh xâm nhập. Ôi chao! Trời
lạnh quá! Lạnh chết người à! Quý vị không dụng công,
cố nhiên cảm thấy lạnh; nếu dụng công thì chẳng thấy
lạnh.
Nay có công án này,
nói ra để tham khảo. Trước đây có một vị thiện tri
thức dẫn một nhóm đệ tử đi ra ngoài hành cước tham vấn
đạo. Tất cả đều là dân miền Nam, nay đi lên phương Bắc
lại gặp lúc mùa đông giá lạnh, trời băng đất tuyết
khiến các loại côn trùng đều bị chết lạnh. Nhóm đệ
tử chịu không nổi lạnh mới đốt lửa lên để sưởi ấm.
Vị thiện tri thức thấy vậy bèn quở cho một phen: "Người
tu đạo nếu không ráng chịu được đói rét thì còn tu tập
gì được," nói rồi ông tính lấy nước để dập tắt
lửa đồng thời dạy rằng: "Các ngươi không biết phát
động lò lửa bên trong của mình, lại chạy ra ngoài kiếm
lửa cho ấm, thật là chẳng có chút chí khí nào, chẳng có
chút quyết tâm nào!" Các đệ tử thấy Sư phụ giận, đều
im tiếng không dám nói một câu, dập tắt hết lửa, thấy
lửa bên trong mình nhen nhúm lên, bèn ngồi luôn xuống đất tĩnh
tọa và không còn cảm thấy lạnh nữa. Từ đó thấy rằng,
chúng ta không thể nhờ cậy vào duyên bên ngoài, mà phải
biết tự cường, dùng nghị lực của chính mình để khắc
phục mọi hoàn cảnh bất như ý.
Học Phật pháp thì càng học càng phải thông minh mới có được cơ hội khai ngộ. Chẳng thể càng học càng ngu si, học lâu mà trí huệ không tăng trưởng, lại còn hồ đồ thêm, chẳng hiểu như thế nào là chánh pháp với tà pháp. Tại sao có tình trạng đó? Lý do vì không chịu nghiên cứu đến tận cùng. Nghe xong Phật pháp thì chúng ta phải thi hành một cách thực tin, y giáo phụng hành, y pháp tu hành. Chẳng phải nghe xong kinh thì mang kinh cất trên kệ sách, rồi chẳng kể đến kinh nữa. Đạo lý nghe xong, phải nên tha thiết tự hỏi chính mình, có noi theo được đạo lý đó không. Học Phật pháp như vậy mới không uổng công phu, mới không lãng phí thời gian quý báu.
Người xưa nói: "Lời nói là pháp, việc làm là đạo." Còn nói rằng: "Nói cho tốt, nói cho hay, chẳng thực hành, chẳng phải đạo," lại có câu: "Đạo là hành, chẳng hành, đạo chẳng có dụng ích; Đức là lập thành, chẳng lập đâu còn đức." Trời giá lạnh như thế này, đến để giảng Phật pháp, để nghe Phật pháp, thế tất phải thực hành một cách thực tin, mới gọi là biết nghe pháp. Nếu không, nghe được bao nhiêu kinh, bao nhiêu pháp, đều thành vô dụng. Về điểm này, mong quý vị phải hiểu một cách sâu xa.
Tu đạo! Tu đạo! Tu đạo! Phải tu đạo! Như thế nào là tu đạo? Ăn cơm là tu đạo, mặc áo là tu đạo, ngủ là tu đạo. Khi ăn ta phải ăn cho hết sạch, chớ không phải chỉ ăn nửa chén cơm còn nửa kia thì đổ vào thùng rác, vậy là tiêu hết phước báo. Khi mặc thì quần áo phải cho sạch sẽ, không thể mặc dơ dáy, nếu không sẽ mất vẻ oai nghi. Khi ngủ cũng phải giữ sạch như vậy, chăn gối phải cho chỉnh tề tinh khiết, chớ không sống luộm thuộm, để người ngoài trông vào thì hết cả vẻ trang nhã. Hơn nữa, đối với người xuất gia thì bốn oai nghi lớn là đi, đứng, nằm, ngồi càng phải được chú trọng.
Vạn Phật Thánh Thành trong lúc còn mới mẻ, thì chỗ nào cũng phải có quy củ, hết thẩy mọi thứ phải làm cho tốt đẹp. Trước tiên hãy bắt đầu từ chỗ nhỏ, mỗi ngườì dọn dẹp sạch sẽ nơi căn phòng của mình, một tờ giấy, một cây bút, cũng phải xếp vào nơi chốn của chúng; một cái kim, một sợi chỉ cũng không vứt bừa bãi. Phải nuôi dưỡng các thói quen tốt, để ngày sau đi ra ngoài tham vấn, hoặc tá túc (quải đơn) tại một đạo tràng nào còn giữ được cung cách tề chỉnh, không sai sót, tránh trường hợp "thiên đơn" (phải đi nơi khác). Điểm này, xin đặc biệt chú ý.
Cổ đức có câu:
"Thiện ác lưỡng điều đạo, tu đích tu, tạo đích
tạo" (thiện ác hai con đường, đường tu và đường
tạo). Điều này nói ra hoàn toàn xác đáng. Tu cái gì? Tu đường
thiện. Tạo cái gì? Tạo nghiệp ác. Thiện tri thức cảnh
giác chúng ta mà không bao giờ chán, có điều chúng ta ngu si,
không biết lãnh giáo những điều ngay, cứ việc ta ta làm,
chỉ biết lợi cho mình mà không nghĩ lợi cho người khác và,
nói cách khác là chỉ biết tạo nghiệp ác, không tu thiện,
cho nên không thể nào ra khỏi sáu nẻo trong vòng luân hồi.
Ý nghĩ của chúng ta
kể ra thì vô lượng, vô biên, vô cùng tận. Niệm thì chạy
lên thiên đàng, niệm thì xuống địa ngục. Vọng tưởng
về thiện tức thuộc phạm vị thiên đàng, vọng tưởng về
ác thì thuộc về địa ngục, do đó, chúng ta nhất cử nhất
động, một lời nói một công việc làm, lúc nào cũng phải
thận trọng, từng giờ từng khắc lưu tâm, đâu đâu cũng
phải chú ý, trong ngoài như một.
Trông bề ngoài thì
hành động rất tốt, nhưng bên trong thì đầy vọng tưởng,
cái đó cũng không mang lại kết quả. Phải làm sao cho trong
ngoài như một, không chạy theo vọng tưởng mới được. Có
những người trong tâm thì đầy vọng tưởng, nghĩ rằng người
ngoài không ai biết, rồi cứ như vậy ngày ngày vọng tưởng,
cho đến khi xuống địa ngục cũng mang theo, mà chính mình
thì không biết tại sao đọa địa ngục. Những hạng người
như vậy thật đáng thương!
Chúng ta là người tu
học, ở chung phải giữ miệng. Đại chúng ở chung một nơi,
phải đề phòng chuyện thị phi. Có câu nói rất chí lý:
"Họa tòng khẩu xuất, bệnh tòng khẩu nhập." Nghĩa
là họa do bởi lời từ miệng thốt ra, bệnh cũng do từ
miệng mang vào. Chúng ta không nên bạ đâu nói đấy, cố
tránh chuyện phiền phức, giữ miệng cho kín là tốt hơn cả.
Lại có câu: "Thị phi chỉ vì hay mở miệng, phiền não
đều do cưỡng xuất đầu." Độc tọa phòng tâm, nghĩa
là khi ngồi một mình chúng ta phải cẩn thận đề phòng tâm
ý, chớ theo vọng tưởng, nhất là các tư tưởng về dâm
dục. Người xuất gia càng phải đặc biệt chú ý, quản lý
kỹ càng cái tâm, không cho những tư tưởng vô ích đến
quấy nhiễu.
Vọng tưởng thì ai
ai cũng có, nhưng khi đã khởi vọng tưởng thì ta phải vận
dụng các phương cách để khống chế, không cho vọng tưởng
làm mưa làm gió. Những phương cách đó là hoặc ta niệm
Phật, hoặc ta trì chú, hoặc giả ngồi thiền, bái sám, tóm
lại kiếm một cái gì khác để làm, sao cho tinh thần tập
trung lại thì sẽ không có vọng tưởng.
Người tu đạo, thứ
nhất phải phá được cánh cửa sắc dục. Nếu không phá
được nó thì không có hy vọng tu tập thành công. Cả ngày
mà đầu óc hồ đồ, tâm điên đảo, cũng không thành công.
Cho nên tôi thực thà nhắn quý vị là chúng ta phải hàng
phục cái tâm này. Hàng phục tâm chính là dứt cái niệm dâm
dục. Nếu không đoạn trừ được nó thì dù tu cho đến tám
vạn đại kiếp cũng chẳng khác gì nấu cát để hòng có cơm
ăn, xưa nay chẳng có chuyện đó bao giờ.
Các vị có muốn tu
thành quả thánh vô lậu không? Đoạn dục cắt ái, thanh tâm
quả dục, thì còn có chút hy vọng, nếu không, không hy vọng
gì, tốt hơn là mau mau hoàn tục kẻo lãng phí thời gian!
Bất kể là phái nam
hay phái nữ, hoặc giả là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di, là người già hay trẻ nít, ai nói đạo lý chánh đáng
thì ta nghe, ai nói không chánh đáng thì đừng có tin, chúng ta
nhất định phải có con mắt chọn pháp (trạch pháp nhãn).
Hợp đạo lý thì đi tới, không hợp đạo lý thì rút lui;
chọn điều thiện mà theo, bất thiện thì sửa đổi, đó là
quan điểm hết sức cơ bản của người tu.
Có người biết rõ
lỗi của mình mà không sửa đổi, biết mà vẫn làm quấy.
Những hạng người này rất khó giáo hóa, họ chẳng kham
nổi Phật pháp, chẳng thể học gì thêm. Người ta nói:
"Gỗ mục khó đẽo gọt, tường bằng phân khó trét,"
nếu chính mình không tự giúp cho mình, tự mình coi thường
mình, thì ai còn coi trọng mình, ai còn giúp đỡ mình nữa? Đó
là điều cần phải tự xét cho kỹ.
--- o0o ---
Nguồn: www.quangduc.com