Như
đã
được
biết
ở
các
Chương
22
và
23,
Kim
cương
thừa
và
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
tương
đồng
trong
quan
điểm
khởi
đầu
và
chấm
dứt
của
con
đường
đạo.
Cái
khác
là
ở
phương
pháp
luận.
Kim
cương
thừa
đặc
biệt
cho
rằng
nó
cung
cấp
một
phương
tiện
khéo
léo
và
mau
chóng
hơn
trong
việc
đạt
được
mục
tiêu
Phật
quả
kể
từ
giai
đoạn
đầu
của
cái
khổ.
Vì
vậy,
khảo
sát
phương
pháp
luận
là
phần
quan
trọng
cho
sự
hiểu
biết
tường
tận
thêm
về
Kim
cương
thừa. Chúng
ta
hãy
bắt
đầu
bằng
cách
thảo
luận
về
cơ
cấu
của
cái
gọi
là
giai-đoạn-
đầu-của-cái-khổ.
Nguyên
nhân
căn
bản
của
khổ
thường
được
gọi
là
vô
minh.
Vô
minh
là
sự
phân
hai
(hay
đối
tánh,
đối
đãi)
giữa
chủ
thể
và
đối
tượng,
giữa
ta
và
người.
Có
nhiều
cách
để
tháo
gỡ
các
đối
tác
vô
minh
này.
Kinh
văn
Vi
diệu
pháp
(xem
lại
Chương
19)
có
nhấn
mạnh
đến
việc
tháo
gỡ
cái
ngã
ra
từng
mảnh.
Bằng
cách
lấy
đi
cái
ngã,
tức
là
lấy
đi
một
đầu
của
cái
đối
tánh
(phân
hai,
đối
đãi),
cái
chủ
thể
đã
được
tháo
gỡ.
Và
việc
tháo
gỡ
chủ
thể
cũng
là
ngụ
ý
sự
tháo
gỡ
đối
tượng
của
nó.
Ðây
là
lý
do
tại
sao
ta
nhấn
mạnh
đến
sự
mổ
xẻ,
giải
phẫu
cái
ngã.
Ðây
là
điểm
chính
của
Vi
diệu
pháp,
dù
nó
không
phải
là
nội
dung
độc
nhứt,
vì
Luận
tạng
cũng
có
nói
đến
nó
trong
quyển
Liên
hệ
Nhân
Quả
(Patthana),
trong
đó
đối
tượng
cũng
như
chủ
thể
đều
được
tháo
gỡ. Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
và
Kim
cương
thừa
có
đường
hướng
hơi
khác
ở
chỗ
là
Kim
cương
thừa
tấn
công
thành
phần
đối
tượng
với
nhiều
cách.
Chẳng
hạn,
trong
Chương
23
ta
đã
thấy
rằng
đối
tượng
xuất
hiện
không
vững
chắc,
không
ổn
định,
và
rằng
đối
tượng
có
thể
xuất
hiện
ngay
cả
khi
không
có
một
nhân
tố
kích
thích
nào
cả.
Vì
thế
đối
tượng
được
xem
như
xuất
hiện
trong
một
giấc
mộng;
nó
không
có
thực. Trang
216.
Việc
thấy
được
thành
phần
đối
tượng
là
không
thật
nêu
lên
vấn
đề
chủ
thể,
tức
cái
ngã.
Trong
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
hay
Kim
cương
thừa,
tiến
trình
tổng
quát
cho
việc
tháo
gỡ
cái
đối
tánh
(phân
hai,
đối
đãi)
‘‘chủ
thể
-
đối
tượng’’
hay
‘‘ta
-
người’’
được
diễn
ra
sau
đây:
bắt
đầu
bằng
cách
xem
đối
tượng
như
giấc
chiêm
bao
và
không
thực,
thì
khi
áp
dụng
sự
hiểu
biết
về
tính
tác
động
hỗ
tương,
ta
được
biết
thêm
rằng,
nếu
đối
tượng
không
thực
thì
chủ
thể
cũng
như
giấc
chiêm
bao
và
không
thực.
Nếu
hạt
không
có
thực
thì
mầm
không
có
thực.
Ðiều
này
đem
đến
cho
ta
sự
hiểu
biết
về
tánh
không
của
chủ
thể
và
đối
tượng.
Tiến
trình
này
được
phản
ảnh
qua
cái
nhìn
của
2
trường
phái
Ðại
thừa,
Duy
thức
(tập
trung
vào
đặc
tánh
chiêm
bao
của
kinh
nghiệm)
và
trường
phái
Trung
Ðạo
(chú
trọng
vào
ý
tưởng
tương
tác). Ngoài
cái
đối
tác
căn
bản
này
(chủ
-
khách,
ta
-
người),
có
nhiều
cái
đối
tác
khác
cần
được
tháo
gỡ
nếu
chúng
ta
muốn
hoàn
thành
giác
ngộ.
Cái
đối
tác
chính
yếu
khác
sinh
ra
đau
khổ
là
luân
hồi
và
niết
bàn.
Nói
chung,
đây
là
cái
đối
tác
giữa
những
gì
bị
điều
kiện
hóa
và
những
gì
không
bị
điều
kiện
hóa.
Luân
hồi
bị
điều
kiện
hoá
và
niết
bàn
thì
không.
Ðiều
này
được
phản
ảnh
qua
kỷ
thuật
mô
tả
các
hiện
tượng
luân
hồi:
luân
hồi
là
tướng
trạng
bị
điều
kiện
hoá
và
niết
bàn
là
thể
tánh
không
bị
điều
kiện
hoá.
Luân
hồi
bị
điều
kiện
hoá
vì
lý
do
có
sanh
thì
có
diệt
trong
khi
niết
bàn
thì
không,
vì
tự
tánh
không
sanh
thì
không
diệt. Nhưng
cái
đối
tác
là
thực
hay
chỉ
là
dàn
dựng
lên?
Cái
nhìn
của
Ðại
thừa
và
Kim
cương
thừa
cho
rằng
cái
đối
tác
giữa
luân
hồi
và
niết
bàn
là
không
thực.
Nó
do
tâm
tạo
tác
và
vì
thế
giã
tạo.
Ðiều
này
được
chứng
minh
bằng
sự
phân
tích
đặc
tánh
của
luân
hồi:
có
sanh
thì
có
diệt. Trang
217.
Có
nhiều
cách
khác
nhau
cho
việc
khảo
sát
‘sinh
-
diệt’
trong
Ðại
thừa
và
Kim
cương
thừa.
Cách
thứ
nhứt
được
tìm
thấy
trong
việc
khảo
cứu
rộng
rãi
về
‘sinh
khởi’
của
Long
thọ
trong
Trung
đạo
Căn
bản
Luận
Chương
của
ông
(Mulamadhyamakakarika).
Ông
nói
đến
bốn
điều
có
thể
xãy
ra
về
‘sinh
khởi’
1.
do
cái
ngã,
cái
chủ
thể,
cái
ta,
mà
sinh
khởi
ra;
2.
do
đối
tượng,
cái
kia,
mà
sinh
khởi
ra;
3.
do
cả
hai;
4.
không
do
nguyên
nhân
nào
cả
(xem
lại
Chương
18).
Ở
đây,
chúng
ta
có
thể
tạm
bằng
lòng
với
dẫn
dụ
sau
đây:
nói
rằng,
nếu
đối
tượng
xuất
hiện
giống
như
đối
tượng
được
thấy
trong
chiêm
bao,
thì
thực
sự
chẳng
có
sinh
và
chẳng
có
diệt. Trong
Kinh
Tam
muội
Vương
(Samadhiraja
Sutra)
có
nói
là
nếu
một
thiếu
nữ
trinh
trắng
mơ
được
sinh
con
và
trong
cùng
giấc
mơ
đó
nàng
thấy
đứa
trẻ
chết
đi,
dĩ
nhiên
nàng
sẽ
cảm
nghiệm
được
thế
nào
là
cái
hạnh
phúc
đầu
tiên
và
thế
nào
là
nỗi
đau
khổ.
Chỉ
khi
sực
tỉnh,
nàng
mới
nhận
ra
thực
sự
không
có
chuyện
sinh
và
tử
đó.
Cũng
như
vậy,
tất
cả
các
hiện
tượng
thực
sự
không
có
sinh
và
thực
sự
không
có
diệt.
Nếu
trong
thực
tế,
tất
cả
mọi
vật
không
có
sinh
và
không
có
diệt
thì
các
đặc
tính
của
luân
hồi
thực
sự
không
phải
là
đặc
tính
nữa.
Sự
phân
biệt
giữa
luân
hồi
và
niết
bàn
không
còn
nữa
và
chúng
ta
chỉ
còn
lại
với
các
kết
luận
rằng,
như
Long
Thọ
đã
nói
trong
Trung
đạo
Căn
bản
Luận
(Mula-madhyama-kakari),
ngay
cả
sự
khác
biệt
nhỏ
nhoi
nhất
giữa
luân
hồi
và
niết
bàn
cũng
không
có.
Nếu
không
có
sanh
và
không
có
diệt
thì
các
đặc
tính
của
luân
hồi
giống
với
các
đặc
tính
của
niết
bàn,
bởi
vì
niết
bàn
được
biểu
hiện
do
sự
vắng
mặt
của
sinh
và
diệt.
Vì
thế
không
có
sự
khác
nhau
của
luân
hồi
và
niết
bàn. Ðể
tóm
tắt,
chúng
ta
đạt
được
cái
thực
tướng
của
luân
hồi
và
niết
bàn
bằng
cách
tháo
gỡ
quan
niệm
luân
hồi
là
xong.
Chúng
ta
định
nghĩa
luân
hồi
là
cái
bị
điều
kiện
hoá
và
nói
rằng
các
đặc
tính
của
những
cái
bị
điều
kiện
hoá
là
sinh
và
diệt
và
thấy
rằng
không
có
sinh
thực
sự
và
không
có
diệt
thực
sự.
Nếu
luân
hồi
không
có
những
đặc
tính
này,
vậy
thì
cái
đối
tác
của
nó,
tức
niết
bàn,
cũng
không
có
ý
nghĩa.
Với
cách
này,
chúng
ta
đạt
được
cái
thực
tướng
của
luân
hồi
và
niết
bàn. Trang
218.
Cho
tới
nay,
ba
việc
ta
đã
biết
là:
1.
cái
không
hiểu
biết
(vô
minh)
là
nguyên
nhân
căn
bản
của
đau
khổ,
2.
cái
phân
hai
chủ
thể
và
đối
tượng,
của
luân
hồi
và
niết
bàn,
và
3.
cái
tánh
không
của
hai
đầu
đối
đãi
này.
Ba
cái
này
là
sự
thật
trong
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
và
Kim
cương
thừa.
Có
sự
tương
hợp
hoàn
toàn
của
2
phái
về
sự
phân
biệt
giữa
tri
thức
trực
tiếp
và
ktri
thức
gián
tiếp. Sự
hiểu
được
sự
thật
qua
2
cách:
hiểu
phải
qua
suy
nghĩ
và
hiểu
không
qua
suy
nghĩ,
dĩ
nhiên
đã
được
thừa
nhận
xuyên
suốt
trong
Phật
giáo.
Chẳng
hạn,
Nam
truyền
(Tiểu
thừa)
chấp
nhận
sự
khác
biệt
giữa
việc
hiểu
biết
Tứ
Diệu
đế
qua
suy
nghĩ
và
hiểu
biết
qua
chứng
nghiệm
trực
tiếp.
Trong
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
và
Kim
cương
thừa,
cái
chính
của
vấn
đề
là
liệu
cái
tri
thức
của
chúng
ta
về
luân
hồi
và
niết
bàn
là
do
kiến
thức
trong
kinh
sách
hay
trực
tiếp
chứng
nghiệm. Nếu
theo
các
thủ
tục
được
đặt
ra
trong
giáo
thuyết
Trí
huệ
Bát
nhã
của
các
vị
Bồ
tát
Long
thọ,
Vô
trước
và
Thế
thân,
chúng
ta
đạt
được
hiểu
biết
theo
kinh
sách
và
không
trực
tiếp
về
chủ
thể
và
khách
thể,
luân
hồi
và
niết
bàn.
Nhờ
các
phương
pháp
mau
lẹ
hơn,
khéo
léo
hơn
mà
các
sự
hiểu
biết
lý
thuyết
trên
được
chuyển
thành
hiểu
biết
trực
tiếp
và
đồng
thời
hiểu
biết
thực
sự
phương
pháp
luận
Kim
cương
thừa. Chìa
khóa
cho
sự
hiểu
biết
chính
phương
pháp
luận
Kim
cương
thừa
là
sự
hiểu
biết
tánh
không
của
mọi
sự
vật.
Tất
cả
hiện
tượng
(pháp)
tự
chúng
là
không.
Chúng
chỉ
là
những
gì
do
tâm
tạo.
Tôi
xin
dẫn
chứng
2
thí
dụ
của
Nam
truyền
(Tiểu
thừa)
để
chứng
minh
điểm
tánh
không
(hay
trung
tính)
của
tất
cả
các
hiện
tượng.
Trong
Kinh
Rắn
nước
(The
Discourse
of
the
Water
Snake,
Alagaddupama
Sutta),
đức
Phật
ví
tất
cả
các
hiện
tượng
như
rắn
nước
(rắn
không
hại)
và
cái
bè.
Ông
nói
rằng
người
nào
bắt
rắn
nước
giỏi
có
thể
bắt
nó
được
một
cách
dễ
dàng.
Còn
người
nào
bắt
không
được
thì
sẽ
buồn
vì
bắt
không
được.
Ông
cũng
nói
rằng
các
hiện
tượng
giống
như
chiếc
bè,
một
khi
đã
qua
sông
ta
không
cần
giữ
nó
nữa. Trang
219.
Bài
thuyết
giảng
của
đức
Phật
nói
một
cách
rõ
ràng,
ngắn
gọn,
cô
đọng
về
tánh
không
(trung
tính)
của
các
hiện
tượng.
Tất
cả
các
hiện
tượng
không
phải
là
cái
này
cũng
không
phải
là
cái
kia.
Chúng
trung
lập,
tùy
thuộc
vào
cách
chúng
ta
bắt
lấy
hay
sử
dụng
chúng.
Không
phải
vì
con
rắn
nước
không
hại
mà
gây
đau
khổ;
đau
khổ
là
do
nghĩ
đến
phương
cách
bắt
nó.
Giống
như
vậy,
con
dao
tự
nó
không
gây
hại,
hại
hay
không
là
do
người
cầm
lấy
con
dao.
Nếu
nắm
con
dao
đằng
lưỡi,
đương
nhiên
ta
đứt
tay;
cầm
đằng
cán
thì
không.
Nếu
dùng
một
chiếc
bè
để
qua
sông,
ta
dùng
nó
đúng;
nhưng
khi
đã
qua
sông
rồi
ta
lại
mang
nó
lên
vai
thì
đó
là
điều
không
hay.
Cái
hữu
dụng
hay
không
hữu
dụng
của
một
hiện
tượng
(pháp)
không
phải
ở
chính
hiện
tượng
đó
mà
ở
cái
cách
chúng
ta
dùng
nó. Ðây
cũng
là
điều
đúng
không
chỉ
cho
các
sự
vật
mà
còn
cho
các
tâm
sở
(tâm
hành)
như
muốn
và
không
muốn.
Chẳng
hạn,
có
một
câu
chuyện
trong
đó
đức
Phật
chỉ
dẫn
cho
người
em
họ
của
ông,
ngài
Nanda,
người
đã
được
khuyến
khích
gia
nhập
đoàn
Tăng
già
trước
ngày
thành
hôn.
Sau
khi
được
thụ
phong,
Nanda
bắt
đầu
nhớ
vị
hôn
thê
của
ông
và
tiếc
rằng
đã
nhập
vào
Tăng
đoàn.
Ðức
Phật
biết
được
tâm
của
Nanda
nên
dẫn
ông
đến
các
cõi
trời
để
gặp
các
trinh
nữ
ở
đó.
Nanda
bị
mê
hoặc
tại
chỗ.
Khi
ông
được
hỏi
cảm
thấy
thế
nào
khi
so
sánh
với
vị
hôn
thê
của
mình,
ông
trả
lời
rằng,
hôn
thê
của
ông,
nếu
ở
kế
bên
cạnh
thì
nàng
giống
như
một
bộ
xương
của
một
con
khỉ.
Ðức
Phật
khuyên
rằng,
nếu
ông
muốn
vui
sống
với
những
trinh
nữ
cõi
trời
trong
cuộc
đời
sắp
tới,
cách
hay
nhứt
là
ở
lại
trong
Tăng
đoàn
và
tu
tập
Pháp
Phật. Trang
220.
Ngài
Nanda
trở
về
Ðoàn
với
một
nghị
lực
mới.
Khi
các
vị
tu
sĩ
khác
hiểu
ra
tại
sao
ông
thực
hành
rất
siêng
năng,
họ
chọc
ghẹo
ông.
Nhận
ra
được
động
cơ
thúc
đẩy
không
thành
thật
của
mình,
ông
tinh
tấn
tu
tập
thêm
và
trở
thành
A
la
hán
nổi
tiếng
nhứt
trong
những
người
có
khả
năng
kiểm
soát
các
giác
quan.
Ðây
là
một
thí
dụ
về
tình
trạng
trung
tính
của
dục
vọng.
Tại
một
thời
điểm
đặc
biệt
trong
sự
tu
tập
của
ngài
Nanda,
đức
Phật
đã
dùng
dục
vọng
làm
động
cơ
thúc
đẩy
giúp
ông
bình
tâm
và
cần
mẫn
tu
tập. Ta
có
thể
thấy
rằng
các
đối
tượng
như
rắn
nước,
chiếc
bè,
con
dao,
không
chỉ
trung
tính,
tùy
thuộc
vào
cách
chúng
ta
sử
dụng
chúng,
mà
những
trạng
thái
tinh
thần
(tức
tâm
sở
hay
tâm
hành,
như
buồn
vui
giận
ghét...)
cũng
tùy
thuộc
vào
cách
chúng
ta
chuyển
biến
chúng,
được
tiến
bộ
hay
lui
sụt
trong
việc
phát
triển
tâm
linh.
Ðây
là
lý
do
tại
sao
đức
Phật
đã
nói
rằng
‘diệt
sân
thì
có
lợi’.
Không
thích
thì
không
tốt
cũng
không
xấu.
Nếu
không
thích
những
hành
động
không
lành
mạnh,
ta
có
thể
đến
được
bờ
giải
thoát;
nếu
không
thích
làm
việc
thiện,
điều
này
không
dẫn
đến
việc
tốt,
chỉ
giản
dị
có
thế. Xin
nói
lại,
căn
bản
thì
tất
cả
các
hiện
tượng
đều
trung
tính,
rỗng
không.
Chúng
ảnh
hưởng
sự
tiến
bộ
của
ta
như
thế
nào
là
tùy
thuộc
vào
cách
ta
nhận
lấy
và
sử
dụng
chúng.
Ðây
là
cái
hiểu
biết
hay
thái
độ
đã
được
phát
triển
trong
Kim
cương
thừa
và
đã
giúp
Kim
cương
thừa
dùng
những
phương
pháp
đặc
biệt
để
sử
dụng
tất
cả
các
hiện
tượng
vào
việc
giúp
tâm
linh
tiến
bộ.
Ðây
là
chìa
khóa
mà
các
phương
pháp
Kim
cương
thừa
dùng
để
sử
dụng
cho
sự
tiến
bộ
tâm
linh. Chúng
ta
chỉ
dùng
một
phần
kinh
nghiệm
của
mình
để
được
tiến
bộ
trong
mục
tiêu
giải
thoát.
Dĩ
nhiên
mức
độ
tiến
bộ
có
chậm
hơn.
Hãy
tự
hỏi,
bạn
bỏ
ra
bao
nhiêu
thời
giờ
cho
thiền
định,
tụng
niệm?
Hầu
hết
thì
giờ
ta
bỏ
ra
là
để
cho
cái
ăn,
ngủ,
hay
chuyện
vãn
với
bạn
bè.
Chúng
ta
bỏ
phí
tất
cả
thì
giờ
và
kinh
nghiệm
cho
sự
tiến
bộ
hướng
về
mục
tiêu
giác
ngộ.
Chính
ở
đây
Kim
cương
thừa
sử
dụng
ý
tưởng
về
tính
trung
lập
căn
bản
của
tất
cả
các
hiện
tượng,
bởi
vì
nếu
tất
cả
các
hiện
tượng
là
rỗng
không,
tại
sao
ta
không
dùng
chúng--như
sắc
tướng,
thanh
âm
và
tâm
hành--cho
sự
tiến
bộ
tâm
linh? Trang
221.
Ðây
là
lý
do
tại
sao
Kim
cương
thừa
xem
tất
cả
sắc
tướng,
thanh
âm
và
tâm
tánh
(tâm
hành,
tâm
sở)
là
thánh
thần,
chú
niệm
và
các
sự
khó
hiểu
(tiên
nghiệm,
thần
bí)
của
Phật
quả.
Mọi
điều
chúng
ta
thấy,
nghe,
và
suy
nghĩ
thực
sự
là
trung
tính
và
rỗng
không.
Nếu
ta
xem
các
cảnh
tượng
đẹp,
các
loại
âm
thanh
và
những
suy
tư
chỉ
là
những
biểu
hiện
các
vẻ
đẹp
thuần
túy
của
khai
sáng,
giác
ngộ,
ta
có
thể
dùng
các
thành
phần
kinh
nghiệm
này
để
đóng
góp
vào
sự
tiến
bộ
tâm
linh
con
người.
Tôi
sẽ
nói
rõ
trong
các
chương
kế
tiếp,
tạm
thời
ở
đây
tôi
xin
đưa
cho
bạn
một
thí
dụ.
Cái
tách
mà
tôi
đang
cầm
là
tổng
hợp
của
vật
chất,
nó
là
biểu
tượng
của
Phật
Tỳ
Lô
Giá
Na
(Buddha
Vairochana).
Cái
vật
đó
không
chỉ
là
cái
tách
mà
là
hình
tướng
của
Phật
Tỳ
Lô
Giá
Na.
Ðây
chính
là
cái
ý
mà
người
ta
muốn
nói
rằng,
trong
Kim
cương
thừa
tất
cả
các
sắc
tướng
là
thần
thánh,
là
những
biểu
tượng
đặc
biệt
của
một
thực
tướng
thuần
khiết.
Một
cách
tương
tự,
bằng
vào
cái
tâm,
ta
có
thể
xem
tất
cả
âm
thanh
là
các
thần
chú
và
các
tâm
tánh
(tâm
hành)
là
hình
ảnh
thần
bí,
tiên
nghiệm
của
Phật
quả. Sự
sử
dụng
cẩn
thận
các
sắc
tướng,
thanh
âm,
và
các
tâm
tánh
(tâm
hành)
đặc
biệt
thấy
rõ
trong
nghi
thức
thiền
định
Kim
cương
thừa.
Trong
bối
cảnh
này,
việc
thực
hành
thiền
định
Kim
cương
thừa
có
thể
so
sánh
với
chiếc
bè,
chiếc
bè
của
sắc
tướng,
thanh
âm
và
tâm
tánh
con
người.
Chẳng
hạn
trong
nghi
thức
Kim
cương
thừa,
có
yếu
tố
sắc
tướng,
đó
là
sự
nghĩ
tưởng
đến
một
vị
thần
của
đền
thờ
nào
đó;
có
yếu
tố
thanh
âm,
đó
là
sự
tụng
chú;
và
có
yếu
tố
tâm
linh,
đó
là
sự
hiểu
biết
tính
bất
nhị
và
tánh
không. Tôi
sẽ
nói
tiếp
trong
các
chương
sau.
Còn
bây
giờ,
tôi
muốn
xin
kết
luận
là:
nghi
thức
thực
hành
thiền
định
Kim
cương
thừa
lấy
ba
yếu
tố
hình
ảnh,
thanh
âm
và
tâm
hành
để
tạo
thành
‘‘cái
bè
nghi
thức’’,
sử
dụng
nó
thành
các
hiện
tượng
và
cung
cấp
một
hình
thức
thiền
định
hiệu
nghiệm. Trang
222.
Những
người
nào
trong
các
bạn
thực
hành
thiền
thở
hay
các
loại
thiền
khác
sẽ
biết
được
giá
trị
việc
này.
Nếu
bạn
đang
cố
gắng
thiền
thở,
một
lúc
nào
đó
cái
tâm
của
bạn
trở
nên
mệt
mỏi
vì
quá
cố
gắng
tập
trung
vào
hơi
thở
và
bắt
đầu
nghĩ
lan
man.
Nếu
đang
xướng
tụng,
tâm
bạn
trở
nên
mệt
mỏi
vì
các
chữ
của
bài
xướng.
Nếu
bạn
đang
thiền
minh
sát
tuệ,
tâm
bạn
có
thể
mệt
mỏi
vì
sự
phân
tích
sâu
sắc
các
hiện
tượng.
Nhờ
vào
đặc
tính
nhiều
mặt
để
thực
hành
thiền
định
Kim
cương
thừa,
nên
khi
cái
tâm
trở
nên
mệt
mỏi,
khó
chịu
và
không
còn
khả
năng
để
tập
trung
vào
hình
ảnh
thánh
thần
nữa,
nó
có
thể
tập
trung
vào
chú
niệm;
khi
tâm
mệt
mỏi
vào
lời
chú
niệm,
nó
có
thể
tập
trung
vào
tánh
không;
và
khi
tâm
trở
nên
mỏi
mệt
vì
tánh
không,
nó
có
thể
đi
ngược
lại
với
hình
ảnh
thánh
thần. Quả
thật,
nghi
thức
Kim
cương
thừa
hiệu
nghiệm
hơn
vì
nó
dùng
phương
tiện
thiền
định
với
đặc
tính
nhiều
mặt:
thay
vì
đối
đầu
với
các
khuynh
hướng
của
một
cái
tâm
dễ
bị
xao
lãng,
nó
lại
sử
dụng
chính
khuynh
hướng
đó.
Thiền
định
Kim
cương
thừa
thực
sự
cho
phép
cái
tâm
đi
đây
đi
đó,
mặc
dầu
nó
chỉ
cho
phép
đi
đó
đi
đây
trong
một
phạm
vi
đặc
biệt
có
ý
nghĩa
tôn
giáo
hay
tinh
thần.
Cái
tâm,
dù
dựa
vào
thần
thánh,
thần
chú
hay
tánh
không,
nó
đều
nương
vào
cái
gì
đó
có
quyền
năng
về
tâm
linh. Hơn
thế
nữa,
nghi
thức
Kim
cương
thừa
giống
như
chiếc
bè
với
ý
nghĩa
là
nó
không
có
cái
gì
để
bám
lấy.
Nó
là
một
phương
tiện,
phương
pháp
mà
không
có
gì
khác
hơn.
Nghi
thức
này
cũng
không
giới
hạn
vào
những
phiên
ngồi
thiền
chính
thức
mà
nó
còn
có
thể
áp
dụng
cho
tất
cả
các
hoạt
động
ngoài
các
giờ
thiền.
Trong
những
phiên
thiền
định
khô
khan,
chúng
ta
hình
dung,
mường
tượng
đến
hình
sắc
của
thần
thánh,
đọc
chú,
vun
trồng
sự
hiểu
biết
tánh
không
của
hình
sắc
đó.
Sau
đó,
ta
nới
rộng
ra
khỏi
các
giới
hạn
chật
hẹp
của
thiền,
bao
trùm
tất
cả
các
hoạt
động
hằng
ngày
của
ta. Trang
223.
Dù
ở
chỗ
nào
hay
làm
gì,
toàn
thể
các
kinh
nghiệm
của
chúng
ta
là
một
phần
của
‘cái
bè
cho
sự
tu
tập
thiền
định’,
nó
giúp
ta
có
thể
kết
hợp
và
sử
dụng
tất
cả
năng
lượng
cho
sự
thực
hành
của
mình.
Trong
sinh
hoạt
thường
ngày,
chúng
ta
nhận
thức
cảnh
sắc,
âm
thanh
và
các
tâm
hành
bằng
lối
chuyển
biến
đặc
biệt
này.
Nói
một
cách
khác,
chúng
ta
vận
dụng
toàn
thể
thành
phần
kinh
nghiệm
của
mình
bằng
cái
cán,
không
phải
bằng
cái
lưỡi.
Qua
kỹ
thuật
thiền
định
Kim
cương
thừa,
ta
học
sử
dụng
các
cảnh
sắc,
âm
thanh,
và
tâm
hành
một
cách
có
kỹ
năng,
để
sao
cho
không
thất
bại,
rủi
ro.
Chúng
ta
học
sử
dụng
các
cảnh
sắc
để
thấy,
âm
thanh
để
nghe,
và
các
tâm
hành
để
kinh
nghiệm,
thay
vì
bị
mắc
bẫy
bởi
chính
những
kinh
nghiệm
này,
thì
ta
có
thể
biến
chúng
thành
sự
phát
triển
tinh
thần
và
tiến
bộ
cho
sự
khai
sáng
giác
ngộ
của
mình.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002