Mấy vần thơ nổi tiếng nhận định về sự
ra đi của Đức Phật:
Chẳng phải vì ghét
đứa con yêu
Chẳng phải vì ghét người vợ hiền khả ái
Trong thâm tâm - chẳng phải vì kém lòng thương,
Mà vì Phật tính nhiều hơn nên Ngài đã từ bỏ tất cả.
(Dwight Goddard)
CON NGƯỜI
CỦA ĐỨC PHẬT - ÁNH SÁNG CỦA THẾ GIỚI
"Đã hiểu được
những điều cần phải hiểu
Đã trau dồi những điều cần phải trau dồi
Đã đoạn trừ những điều cần phải đoạn trừ
Vậy nên, Brahmin, Như Lai là Đức Phật". (Sutta Nipata)
'Này các thầy, chừng
nào mà Mặt Trăng và Mặt Trời, không mọc ở thế giới này
thì lúc ấy không có ánh sáng rạng ngời của vầng quang minh
rực rỡ. Tối tăm sẽ lan tràn, cái tối tăm của hoang mang
bối rối. Sẽ không phân biệt được trăng tròn, trăng
khuyết, cả đến tiết mùa, năm, tháng.
Nhưng này các thầy,
khi Mặt Trăng và Mặt Trời mọc ở thế giới này, ánh sáng
rạng ngời của của vầng quang minh rực rỡ chiếu rọi
khắp nơi nơi. Cái tối tăm mờ mịt kia, cái tối tăm của
hoang mang bối rối không còn nữa. Năm, Tháng, các mùa trong năm
và Ngày rằm đều tỏ rạng.
'Cũng giống như vậy,
này các thầy, bao lâu mà Đức Phật là một vị A La Hán, Đức
Phật Tối Thượng không xuất hiện, thì ánh sáng rạng ngời
của vầng quang minh rực rỡ không có. Chỉ có cái tối của
mờ mịt, cái tối của hoang mang bối rối lan tràn. Không có
tuyên ngôn, không có giáo lý, không có trình bày, không có
bố trí, không có cởi mở, không có phân tách, không có làm
sáng tỏ Tứ Diệu Đế.
' Thế nào là Bốn? Đó
là Chân Lý của Khổ, Nguyên nhân của Khổ, Chấm dứt Khổ,
và con Đường để diệt Khổ.
'Vì thế, này các
thầy, các thầy phải cố gắng để thân chứng được:
"Đây là Khổ, đây là Nguyên nhân Khổ, đây là sự
Chấm dứt Khổ và đây là con Đường diệt Khổ'".
Những lời dạy trên
đây cho chúng ta bức tranh rõ ràng về giá trị cao cả của
sự xuất hiện của Đức Phật trên thế gian này. Đức
Phật xuất hiện cùng thời với nền triết học Tây Phương
được mở đầu bởi người Hy Lạp với Triết Gia Heraclites
đã đem lại khúc ngoặt cho tôn giáo sơ khai của các vị
thần Olympian. Cũng là thời gian mà Ngài Jeremiah gửi một thông
điệp mới cho người Do Thái tại Babylon.
Cũng là thời gian mà
Pythagoras trình bày thuyết luân hồi tại Ý. Cũng là thời
gian mà Đức Khổng Tử khai sáng lý thuyết nhân trị áp
dụng vào đời sống quốc gia Trung Hoa.
Cũng trong thời gian này,
cơ cấu xã hội Ấn bị bao phủ nặng nề bởi sự lững đoạn
của hàng tăng lữ, sự tự hành xác, chia rẽ giai cấp, phong
kiến tham những, coi rẻ phái nữ và lo âu sợ hãi dưới
thế lục của Bà La Môn.
Chính trong thời gian này,
Đức Phật, đóa hoa thơm ngát nhất của nhân loại, xuất
hiện trên mảnh đất mà những bậc thánh và những nhà
hiền triết đã tận tụy hiến hết đời mình để tìm cầu
chân lý.
Ngài là một vĩ nhân
đã đem ảnh hưởng phi thường đến cho mọi người ngay
trong khi còn đang tại thế. Sức hấp dẫn cá nhân, uy tín đạo
đức và kết quả rực rỡ trong việc tìm ra chân lý, đã
khiến Ngài thành công khắp nơi. Là một đạo sư lúc còn
tại thế, Ngài đã giúp biết bao nhiêu người nghe theo lời
dạy của Ngài được giác ngộ. Ngài thu hút mọi hạng người,
kẻ sang, người hèn, kẻ giàu người nghèo, người học
thức kẻ mù chữ, nam hay nữ, nội trợ, các nhà tu khổ
hạnh, người quý tộc kẻ bần hàn. Ngài tìm đến những
kẻ độc ác để giáo hóa họ, trong lúc những người thanh
tịnh đạo đức thì tìm đến Ngài để học hỏi. Tất cả,
ai nấy đều được ân hưởng món quà tinh thần quý giá
"Chân Lý" mà Ngài đã tìm ra được. Trong các đệ
tử của Ngài có các vua chúa, quân binh, thương gia, triệu phú,
hành khất, kỷ nữ, người tu hành, kẻ lừa đảo. Ngài đem
hòa bình khi có chiến tranh giữa người dân. Ngài giác ngộ
kẻ lầm lạc. Những kẻ bị lửa tham dục và sân si thiêu đốt,
Ngài cho họ nước cam lồ của Chân Lý. Khi họ bị bỏ rơi
khốn khổ, Ngài đem cho họ tình thương bao la từ tấm lòng
bi mẫn của Ngài.
Đức Phật không sắp
xếp gì để tái tạo thế gian. Ngài là "Lokavidu", 'Người
Hiểu R‚ Thế Gian'. Ngài quả hiểu rõ thế gian nên không còn
một ảo ảnh nào về bản chất thực sự của nó hoặc tin
rằng các định luật của nó có thể hoàn toàn tái lập cho
thích hợp với dục vọng của con người. Ngài hiểu rằng
thế giới không phải tồn tại cho lạc thú của con người.
Ngài hiểu rõ tính thăng trầm của kiếp nhân sinh. Ngài hiểu
rõ cái phù phiếm của óc tưởng tượng hay mơ mộng của con
người về thế gian này.
Ngài không khuyến khích
tư tưởng ước mong thành lập một thế giới 'Không Tưởng
'. Nhưng Ngài dạy mỗi chúng ta Con Đường có thể chinh phục
thế giới riêng tư của mình - cái thế giới chủ quan nội tâm
trong địa hạt riêng tư của mỗi cá nhân. Bằng một ngôn
ngữ đơn giản, Ngài nói cho chúng ta biết rằng cả cái thế
giới này là ở trong chúng ta và thế giới chỉ huy bởi tâm
thức cho nên tâm thức phải được huấn luyện và thanh lọc
một cách đứng đắn.
Giáo Lý của Ngài căn
bản rất đơn giản và có ý nghĩa: 'Không làm điều ác ; làm
mọi điều thiện; và thanh lọc tâm ý. Đó là lời dạy của
Chư Phật.' (Kinh Pháp Cú, Câu 183)
Ngài dạy chúng ta cách
nhổ tận gốc rễ vô minh. Ngài khuyến khích ta hãy có thái
độ tự do khi tư duy. Nghi thức cứng rắn, giáo điều khắt
khe, niềm tin mù quáng và hệ thống giai cấp, tất cả những
thứ đó không có trong cuộc đời của Ngài. Mọi người đều
là một dưới mắt của Đức Phật.
Qua mọi trắc nghiệm
về những gì Ngài đã nói, đã làm, đã biểu lộ Đức
Phật đã tự chứng minh Ngài là một con người phi thường
trong thời bấy giờ. Ngài thể hiện cho niềm tin của hạnh
phục vụ, cho thiên chức của tinh thần hy sinh và hoàn tất
nhiệm vụ. Ngài khuyên chúng ta nên, ngay từ hôm nay, bắt đầu
cuộc sống như mới vào đời, nên chu toàn trách nhiệm và
bổn phận trong cuộc sống thường nhật ngay bây giờ và
tại đây và không nên ỷ lại vào người khác làm thế cho
chúng ta.
Ngài trình bày cho
thế giới một giải thích mới về vũ trụ. Ngài đem đến
cho ta một nhãn quan mới về Hạnh Phúc vĩnh cửu, đó là đạt
đến toàn hảo để trọn thành Phật Đạo. Ngài vạch ra con
đường tiến đến tình trạng vĩnh viễn vượt khỏi mọi vô
thường, con Đường tiến đến Niết Bàn, sự giải thoát
cuối cùng khỏi cuộc sống khổ đau.
Thời gian của Ngài cách
đây 2500 năm, nhưng ngày nay vị Đạo Sư Vĩ Đại này, không
những được vinh danh bởi những người đạo hạnh, mà còn
được quý trọng bởi các sử gia, các nhà duy-lý-luận, người
theo chủ nghĩa vô thần, và các nhà trí thức trên toàn thể
thế giới, tất cả đều công nhận Ngài là Đấng Giác
Ngộ, Bậc Đạo Sư phóng khoáng và từ bi nhất.
'Sukho Buddhanam Uppado'
'Hạnh Phúc Thay, Chư Phật Giáng Sanh' (Kinh Pháp Cú, Câu 194)
PHẢI CHĂNG
ĐỨC PHẬT LÀ HÓA THÂN CỦA THƯỢNG ĐẾ?
Đức Phật không bao
giờ tuyên bố Ngài là con hay là một sứ giả của Thượng
Đế.
Đức Phật là một
con người độc nhất đạt được tự Giác Ngộ. Không ai là
người được coi như là Thầy của Ngài. Ngài đạt giác
ngộ là do những cố gắng của chính Ngài, và do Ngài tu tập
hoàn bị mười đức tính tối thượng (Thập Độ Ba La Mật)
'bố thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn
nhục, quyết định, tâm từ và tâm xả. Do thanh lọc được
tâm ý, Ngài đã mở được cánh cửa tri thức. Ngài biết
tất cả những điều gì cần biết, trau dồi tất cả những
điều gì cần trau dồi, và đoạn trừ tất cả những điều
gì cần phải đoạn trừ. Thật vậy, không có một vị thầy
của một tôn giáo nào khác có thể so sánh với Ngài được
trong phạm vi tu tập và đạt được cứu cánh.
Phẩm tính đặc biệt
và sức thuyết phục của thông điệp của Đức Phật mạnh
mẽ đến nơi nhiều người phải hỏi Ngài "Ngài là Gì"
(không nhiều như "Ngài là Ai"). Những câu hỏi
'"Ngài là Ai" ắt liên quan đến tên tuổi, gốc gác,
tổ tiên của Ngài.... trong khi câu hỏi "Ngài là Gì"
ắt muốn biết về đẳng cấp chúng sanh nào mà Ngài tùy
thuộc . Ngài có vẻ thần thánh và gây nhiều cảm kích đến
nỗi ngay cả vào thời Ngài tại thế, có nhiều người đã
toan phong cho Ngài là một vị thần linh hay hóa thân của Thượng
Đế. Ngài chẳng bao giờ đồng ý về điều trên đây. Trong
kinh Anguttara Nikaya, Ngài nói: 'Quả thực Như Lai chẳng phải là
thiên nhân, chẳng phải là càn-thát-bà, chẳng phải là quỷ
thần, chẳng phải là nhân mà Như Lai là Phật'. Sau khi Giác
Ngộ, không thể sắp Đức Phật là một chúng sinh bình thường
vì Ngài thuộc về giống Phật, một loại giống đặc biệt
hay loại các chúng sinh đạt giác ngộ, tất cả những gì
thuộc về Chư Phật.
Thỉnh thoảng Chư
Phật xuất hiện nơi cõi trần. Nhưng có một số người
lầm lẫn coi là chỉ vẫn một Đức Phật đó luân hồi hay
thị hiện xuống trần nhiều lần. Thật sự không phải chỉ
có một Đức Phật, mà có nhiều Đức Phật, nếu không
chẳng ai có thể thành Phật được cả. Nguời Phật Tử tin
rằng bất cứ ai cung có thể thành Phật nếu người đó phát
triển những phẩm tính đến mức toàn hảo, và khi người đó
có thể diệt vô minh bằng những cố gắng của chính mình.
Sau khi Giác Ngộ, Chư Phật đều giống nhau trong cứu cánh và
kinh nghiệm về Niết Bàn.
Tại Ấn, tín đồ
của nhiều giáo phái chính thống cố gắng kết tội Đức
Phật vì giáo lý phóng khoáng của Ngài đã cách mạng xã
hội Ấn thời đó. Nhiều người coi Ngài như kẻ thù, nhất
là khi thấy một số đông trí thức và những người thuộc
đủ các gia cấp trong xã hội theo tôn giáo của Ngài. Khi âm
mưu tiêu diệt Ngài không thành, họ thay đổi chiến lược và
gán cho Ngài là một hóa thân của một trong các thần linh
của họ. Làm như vậy, họ có thể đem Phật Giáo vào tôn giáo
của họ. Ở một mức độ nào đó, chiến lược này đã thành
công tại Ấn, và do đó qua nhiều thế kỷ, đã làm suy thoái
Phật Giáo và hậu quả là đã làm bật gốc đạo Phật ra
khỏi mảnh đất khởi thủy của tôn giáo này.
Ngay cả đến ngày nay
một số các nhà tôn giáo đã cố gắng đem Đức Phật vào tín
ngưỡng của họ, ngõ hầu quy nạp người Phật Tử theo đạo
họ. Chủ yếu làm như để nói là chính Đức Phật đã tiên
đoán có một Vị Phật khác ra đời, và Đức Phật cuối cùng
này lại rất đại chúng hơn. Một nhóm khác lại phong cho
một đạo sư sống 600 năm sau Đức Phật Cồ Đàm là Vị
Phật cuối cùng. Một nhóm khác nói là vị Phật kế tiếp đã
đến Nhật Bản vào Thế Kỷ Thứ 13. Lại cũng có một nhóm
khác tin là vị khai sáng ra đạo của họ thuộc dòng dõi các
Đại Đạo Sư (như Đức Cồ Đàm và Chúa Jesus), và vị khai
sáng này là Đức Phật cuối cùng. Những nhóm này khuyến cáo
người Phật Tử nên bỏ Đức Phật cũ và nên theo Đức
Phật mới. Đồng thời với cái nhìn tốt của ta về họ vì
họ đã coi Đức Phật như những Đạo sư của họ, chúng ta
cũng cảm thấy được thâm ý muốn lôi cuốn ngưòi Phật
Tử vào một niềm tin khác bằng cách xuyên tạc chân lý,
quả là cực kỳ chua cay.
Những kẻ cho là Đức
Phật mới đã ra đời rõ ràng xuyên tạc lời Đức Phật nói.
Dù Đức Phật có tiên đoán một vị Phật tương lai sẽ
xuất hiện, nhưng Ngài có nêu rõ có một số điều kiện
cần phải có trước khi điều này có thể xẩy ra. Do đặc tính
của Phật Quả nên Vị Phật Tương Lai sẽ không thị hiện
khi nào mà Giáo Pháp của Đức Phật hiện tại vẫn còn
hiện hữu. Vị Phật tương lai chỉ thị hiện khi Tứ Diệu
Đế và Bát Chánh Đạo hoàn toàn bị quên lãng. Con người
sống thời bấy giờ sẽ được hướng dẫn đúng cách để
hiểu rõ vẫn cái Chân Lý đã được giảng dạy bởi các Đức
Phật trước. Chúng ta hiện nay đang sống trong hệ thống Giáo
Pháp của Đức Phật Cồ Đàm. Mặc dù nền đạo đức bị
suy thoái ở một số người, với rất ít ngoại lệ, nhưng
Đức Phật tương lai chỉ thị hiện sau một thời gian không
thể tính được khi mà nhân loại hoàn toàn lạc mất con Đường
đi tới Niết Bàn và chính lúc đó là lúc con người sẵn sàng
tiếp đón Vị Phật tương lai này.
ÂN ĐỨC
CỦA ĐỨC PHẬT
Đức Phật xuất
hiện để phá tan cái tăm tối của vô minh và để chỉ cho
nhân gian biết phương pháp giải thoát khỏi khổ đau.
Đức Phật là hiện
thân của tất cả những phẩm hạnh mà Ngài thuyết giảng.
Trong thành quả của 45 năm dài hoằng pháp, Ngài đã chuyển
lời nói thành hành động. Không lúc nào mà Ngài không trình
bầy bất cứ cái yếu đuối của con người hay bất cứ
dục vọng căn bản nào. Giới luật của Đức Phật là giới
luật toàn hảo nhất mà thế giới từng được biết đến.
Trên 25 thế kỷ qua, hàng
triệu người đã tìm được nguồn cảm hứng và an ủi trong
Giáo Lý của Ngài. Ngày nay sự vĩ đại của Ngài vẫn rực
rỡ như vầng thái dương chiếu sáng nơi tối tăm. Giáo Lý
của Ngài vẫn đem yên ổn và bình an của Niết Bàn cho người
hành hương lo âu. Không có ai đã hy sinh quá nhiều lạc thú
trần gian để cứu khổ cho nhân loại như Ngài.
Đức Phật là vị lãnh
đạo tôn giáo đầu tiên trong lịch sử thế giới khiển trách
việc dùng sanh mạng con vật để hy sinh bất cứ vì lý do gì,
và kêu gọi con người không nên hại bất cứ sinh vật nào.
Với Đức Phật, tôn
giáo không phải là chuyện mặc cả nhưng là đường lối để
tiến tới giác ngộ. Ngài không muốn tín đồ của Ngài mù
quáng; Ngài muốn họ suy gẫm một cách tự do và trí tuệ.
Toàn thể nhân loại
được Ngài ban phước do sự hiện diện của Ngài.
Chưa có lúc nào Ngài
dùng đến những lời bất nhã với bất cứ một ai. Ngay cả
đến những người chống đối Ngài, những kẻ thù xấu
nhất, Ngài cũng không bao giờ tỏ ra thiếu thân thiện với
họ. Một số người có thành kiến, chống đối Ngài và
muốn giết Ngài, nhưng với họ, Đức Phật vẫn không coi
họ là kẻ thù. Đức Phật có lần nói: 'Như voi chiến ra
trận, hứng lãnh làn tên mữi đạn, cũng thế ấy, Như Lai
phải chịu đựng lời nguyền rủa'. (Kinh Pháp Cú, Câu 320).
Trong biên niên sử, không
có một nhân vật nào đã hy sinh đem hạnh phúc cho nhân loại
như Đức Phật đã làm. Từ giờ Giác Ngộ cho đến lúc
Nhập Diệt, Ngài không ngừng tranh đấu để nâng cao nhân
loại. Ngài chỉ ngủ có hai giờ một ngày. Hai Mươi Năm Lăm
thế kỷ trôi qua từ khi Vị Đại Đạo Sư này đã qua đời,
thông điệp tình thương và trí tuệ của Ngài vẫn hiện
hữu thuần khiết như lúc ban đầu. Thông điệp của Ngài
vẫn ảnh hưởng sâu xa đến vận mệnh của nhân loại. Ngài
là một Đấng Từ Bi cao cả nhất đã soi sáng thế giới
với tình thương thân ái.
Sau khi nhập Niết Bàn,
Ngài đã để lại bức thông điệp bất tử cho chúng ta. Ngày
nay hòa bình thế giới của chúng ta bị đe dọa khủng
khiếp. Không bao giờ trong lịch sử của thế giới thông điệp
của Ngài lại thiết yếu hơn như cho thời đại này.
Đức Phật đản sanh
để xóa tan cái tăm tối của vô minh, chỉ cho thế gian làm
sao thoát khỏi khổ đau, bệnh não, suy tàn, cái chết và tất
cả lo âu, đau đớn khổ sở của chúng sanh.
Theo một số tín ngưỡng,
một đấng thiêng liêng nào đó sẽ thỉnh thoảng xuất hiện
để diệt kẻ ác, và che chở người lương thiện. Đức
Phật không xuất hiện trên thế gian này để diệt kẻ ác nhưng
để dạy họ con đường chân chính.
Trong lịch sử thế
giới cho đến thời kỳ Đức Phật, chúng ta chưa hề nghe
thấy một vị thầy trong bất cứ tôn giáo nào lại chan
chứa tình cảm thương yêu đối với nhân loại khổ đau như
Đức Phật? Đồng thời với Đức Phật, chúng ta có nghe
thấy một số nhà hiền triết Hy Lạp như Socrates, Plato, và
Aristotle. Nhưng các vị này chỉ là những triết gia, những nhà
tự do tư tuởng và những người đi tìm chân lý; họ đều
thiếu sự phát triển tình thương trước sự đau khổ bao la
của chúng sanh.
Con đường cứu độ
nhân loại của Đức Phật là dạy cho con người làm sao tìm
được giải thoát. Ngài không chú trọng đến làm nhẹ bớt
một vài trường hợp về thân và tâm bệnh. Ngài quan tâm
nhiều đến việc vạch ra con Đường để mọi người đi
theo.
Chúng ta hãy lấy tất
cả những triết gia, tâm lý, những nhà tự do tư tưởng,
khoa học gia, duy lý luận, xã hội, các nhà cách mạng vĩ đại
nhất của tất cả các đạo sư của các tôn giáo khác, và
với một tinh thần không thiên vị, chúng ta đem so sánh
những vĩ đại của họ, đức hạnh của họ, ân đức phục
vụ của họ, và trí tuệ của họ với đức hạnh, lòng từ
tâm và sự giác ngộ của Đức Phật. Ta có thể thấy ngay Đức
Phật đứng trong một vị thế nào giữa những người này.
BẰNG CHỨNG LỊCH SỬ
VÀ ĐỨC PHẬT
Đức Phật là người
chiến thắng vĩ đại nhất mà thế gian từng được thấy.
Giáo lý của Ngài soi sáng con đường cho nhân loại để vượt
khỏi thế giới tối tăm, hận thù, và đau khổ để tiến
tới một thế giới mới của ánh sáng, tình thương và hạnh
phúc.
Đức Phật Cồ Đàm
không phải là một nhân vật huyền thoại nhưng là một con
người thật với nhân cách lịch sử, là người khai sáng ra
Đạo Phật. Bằng chứng xác nhận cuộc sống của vị Đại
Đạo Sư ấy cho thấy trong những sự kiện sau:
1. Lời chứng của
những người đích thân biết Ngài. Những lời chứng này
được ghi trên tảng đá, trụ đá, và các chùa vinh danh Ngài.
Những lời chứng và những lâu đài kỷ niệm Ngài tạo
dựng bởi các vị Vua và nhiều người, rất gần với
thời của Ngài nên có thể kiểm chứng tiểu sử của Ngài.
2. Công trình khám phá
những nơi chôn và tàn tích của những kiến trúc được
ghi trong những bài tường thuật thời Ngài.
3. Tăng Già, đoàn
thể thánh thiện do Ngài khai sáng, vẫn được duy trì hiện
hữu cho đến ngày nay. Tăng Già có những dữ kiện về đời
sống và giáo lý của Ngài được truyền thừa qua nhiều
thế hệ tại nhiều nơi trên thế giới.
4. Sự kiện vào năm
Ngài nhập diệt và vào nhiều thời điểm khác với các
cuộc đại hội được kiết tập bởi Hội Đồng Tăng già
để kiểm chứng giáo lý hiện tại của Vị Khai Sáng. Giáo
lý kiểm chứng được truyền thừa từ Bậc Đạo Sư đến
các môn đồ từ thời Ngài cho đến ngày nay.
5. Sau khi Ngài nhập
diệt, xác thân của Ngài được hỏa táng, và xá lợi của
Ngài được chia cho tám vương quốc tại Ấn. Vua nào cũng
đều xây dựng chùa tháp để thờ xá lợi của Ngài. Phần
xá lợi chia cho Vua Ajata Satthu được thờ trong một ngôi Chùa
xây dựng bởi vị Hoàng Đế này tại Rajagriha. Gần hai
thế kỷ sau, Hoàng Đế Asoka (A Dục) đem xá lợi này chia
cho khắp nước. Những chữ khắc trên những Chùa Tháp xác
nhận xá lợi thờ tại nơi đó là của Đức Phật Cồ Đàm.
6. 'Mahavansa', cuốn
lịch sử thời cổ trung thực nhất cho chúng ta thấy chi
tiết về đời sống của Hoàng Đế A Dục và tất cả
những chư hầu liên hệ đến lịch sử Phật Giáo. Lịch
sử Ấn cũng dành những trang sử vẻ vang nói về đời
sống, hành hoạt của Đức Phật, truyền thống và tập
tục của người Phật Tử.
7. Một vài thế kỷ
sau khi Đức Phật nhập diệt, chúng ta có thể tìm thấy
những tài liệu tại các nước tiếp nhận giáo lý của Ngài
như Tích lan, Miến Điện, Trung Hoa, Tây Tạng, Nepal, Triều
Tiên, Mông Cổ, Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam, Cao Miên và Lào,
đều một loạt ghi lịch sử, văn hóa, đạo lý, văn học và
các bằng chứng truyền thừa lại do vị Đại Đạo Sư
của Ấn tức Đức Phật Cồ Đàm.
8. Tam tạng kinh điển,
hồ sơ không hề bị gián đoạn trong suốt 45 năm hoằng Pháp
của Ngài thừa đủ để chúng minh là Đức Phật thực sự
sống trên thế giới này.
9. Sự chính xác và
trung thực trong kinh điển Phật giáo cung cấp tài liệu cho
những nhà viết sử Ấn ghi chép lịch sử Ấn trong thế
kỷ thứ 5 và thứ 6 trước Tây Lịch. Các bản văn, tiêu
biểu là những tài liệu cổ điển được tin cậy ghi chép
trong thời thượng cổ Ấn, cho thấy sự thấu hiểu tường
t?n tình trạng xã hội, kinh tế, văn hóa, môi sinh chính
trị, và những hoàn cảnh trong thời Đức Phật cũng như
những người đương thời với Ngài chẳng hạn như Đức
Vua Bình Sa Vương.
GIẢI THOÁT QUA QUẢ THÁNH
A LA HÁN.
Đạt Niết Bàn do
quả thánh A La Hán không phải là ích kỷ.
Một số Phật Tử tin
giải thoát bằng cách trở nên A La Hán là một động cơ vị
kỷ; vì lẽ mọi người đều tuyên bố, phải cố gắng thành
Phật để cứu độ người khác. Niềm tin đặc biệt này không
có một chút liên quan gì đến Giáo Lý của Đức Phật. Đức
Phật chẳng bao giờ nói là Ngài muốn cứu độ tất cả các
chúng sanh trên toàn thể vũ trụ này. Ngài chỉ giúp những ai
có tinh thần chấp nhận lối sống cao quý của Ngài.
'Cánh cửa của bất
tử đang mở rộng!
Cho những ai nghe theo để từ bỏ học thuyết sai lầm ...
'Bây giờ Như Lai sẽ quay Bánh xe của Đại Định Luật
Để đi vào cảnh giới bất hoại
Nơi đó Như Lai sẽ đánh trống của bất tử
Trên thế gian này đang mò mẫm trong tối tăm'.
-- (Kinh Ariya Pariyesana - Majjhima Nikaya)
Trong giáo lý nguyên
thủy của Đức Phật, không có việc 'cứu người khác'. Theo
như phương pháp chỉ dẫn bởi Đức Phật, mỗi người hay
bất cứ ai phải cố gắng tu hành để thanh tịnh chính mình
hầu đạt giải thoát bằng cách thực hành lời dạy của Ngài.
Ta luôn luôn nhớ tới lời khuyên của Đức Phật: Chính tự
các con phải kiên trì cố gắng để được giải thoát. Chư
Phật chỉ là các vị thầy chỉ đường cho các con' (Kinh Pháp
Cú, câu 276).
Niềm tin là mỗi người
phải cố gắng để trở thành Phật hầu đạt giải thoát không
hề được đề cập đến trong Giáo Lý nguyên thủy của Đức
Phật. Nếu tin như vậy thì chẳng khác gì đòi hỏi mỗi người
chúng ta phải trở nên một bác sĩ để chữa bệnh cho chính
mình và cho người. Lời đòi hỏi như vậy không thể thực
thi được. Nếu người bệnh muốn chữa bệnh, phải tuân
theo lời chỉ dẫn của một vị lương y giỏi. Bệnh nhân
dễ dàng làm việc trên mà chẳng cần phải chờ đợi cho đến
khi thành bác sĩ mới chữa được bệnh. Nếu mọi người đều
trở thành bác sĩ hết, thì ai là bệnh nhân? Cũng như vậy
nếu tất cả ai ai cũng thành Phật cả thì ai cứu ai? Đương
nhiên, ai muốn trở thành bác sĩ có thể thực hiện được
ý nguyện mình. Nhưng người đó phải thông minh, can đảm và
có các phương tiện cần thiết mới học thuốc được. Tương
tự như vậy, không phải là bất cứ ai bắt buộc trở thành
Phật, mới có thể giải thoát cho chính mình được. Ai ước
muốn thành Phật, người đó có thể làm được. Tuy nhiên hành
giả phải can đảm, có kiến thức, hy sinh các tiện nghi của
chính mình, từ bỏ trần tục để đạt Phật Quả. Cũng có
những người không mong ước gì hơn là được mạnh khỏe.
Muốn được Quả Thánh
A-La-Hán, ta phải nhổ hết gốc rễ tham ái, và ích kỷ. Điều
này hàm ý trong khi liên hệ với người khác, Vị A-La-Hán
phải hành hoạt với lòng từ bi và cố gắng ảnh hưởng người
khác để họ tiến tu trên đường giải thoát. Vị đó đó là
bằng chứng sống động của những kết quả tốt lành mà
một người đạt được do theo phương pháp chỉ dạy của Đức
Phật. Không thể đạt được Niết Bàn, khi ta hành động
với động cơ ích kỷ. Do đó, thật là vô căn cứ khi nói
rằng nỗ lực để trở thành A La Hán là một hành động ích
kỷ.
Phật quả là lý tưởng
tối thượng và cao quý nhất trong ba lý tưởng (Phật, Bích-Chi
Phật và A-La-Hán). Nhưng không phải là bất cứ ai cũng đạt
được lý tưởng tối thượng ấy. Dĩ nhiên tất cả các
khoa học gia không thể trở thành Einsteins và Newtons được.
Tuy vậy cũng vẫn có chỗ cho những khoa học gia kém lỗi
lạc hơn phục vụ cho thế giới tùy theo khả năng của họ.
BỒ TÁT
Bồ Tát là một chúng
sanh hiến đời mình để Giác Ngộ.
Là một đấng từ bi,
một vị Bồ Tát nhắm mục đích đạt Phật quả và qua sự
trau dồi tâm ý, sẽ trở thành Vị Phật tương lai.
Muốn đạt Giác Ngộ
Tối Thượng, Bồ Tát thực hành các phẩm hạnh siêu việt
(Ba La Mật) đến mức toàn hảo. Những phẩm hạnh ấy là
bố thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nhục,
thành thực, quyết định, tâm từ và tâm xả. Vị Bồ Tát
trau dồi các phẩm hạnh ấy với lòng từ bi, trí tuệ, không
mảy may vì động cơ ích kỷ hay tự phụ. Bồ Tát làm vì
hạnh phúc và an vui của chúng sanh, tìm hiểu cái đau khổ
của người khác qua hàng loạt các kiếp sống không kể
siết. Trên con đường tiến đến toàn hảo, Bồ Tát luôn luôn
sẵn sàng thực hành các phẩm hạnh này đôi khi phải hy sinh
cả thân mạng.
Trong Kinh Điển Pali,
Thái Tử Tất Đạt Đa trước khi Giác ngộ, và trong các
tiền kiếp của Ngài, được gọi là Bồ Tát. Chính Đức
Phật đã dùng từ ngữ này khi nói về đời sống của Ngài
trước khi Giác Ngộ. Trong các bản văn bằng tiếng Pali, không
có chỗ nào ghi là Bồ Tát Đạo là con đuờng duy nhất để
đạt mục tiêu tối hậu, hạnh phúc Niết bàn. Rất hiếm có
một đệ tử trong thời Đức Phật bỏ dịp đạt thánh quả
mà tuyên bố Bồ Tát thừa là nguyện vọng của mình. Tuy nhiên,
qua vài hồ sơ cho thấy có một số đệ tử của Đức Phật
uớc nguyện thành Bồ Tát để đạt Phật quả.
Trong tư tưởng Đại
Thừa, tu hành hạnh Bồ Tát giữ vai trò rất quan trọng. Lý tưởng
Đại Thừa coi Bồ Tát là chúng sanh đã tiến tới Niết Bàn
nhưng tình nguyện hy sinh đắc quả này trở lại thế gian để
cúu độ các chúng sanh khác. Vị Bồ Tát này vui lòng trì hoãn
việc giải thoát khỏi luân hồi hầu chỉ cho chúng sanh con
đường đạt Niết Bàn.
Mặc dù Phật Giáo
Nguyên Thủy kính trọng Bồ Tát, nhưng không cho rằng các Bồ
Tát có thể giác ngộ hay cứu độ các người khác trước
khi chính bản thân các vị này chưa giác ngộ. Cho nên các
vị Bồ Tát không được coi như là các vị cứu thế. Muốn
đạt được giải thoát cuối cùng, tất cả chúng sanh phải
theo phương pháp do Đức Phật dạy và theo gương Ngài. Chúng
sanh phải tự mình nhổ hết gốc rễ ô trược tinh thần và
phát triển tất cả những hạnh lành.
Phật Giáo Nguyên
Thủy không đồng ý niềm tin cho rằng mọi người phải tranh
đấu để trở thành Phật hầu đạt Niết Bàn. Tuy nhiên,
từ ngữ 'Bồ Đề' là để dùng khi nói đến các đức tính
của một Đức Phật, một Bích Chi Phật, hay một A-La-Hán để
diễn tả Samma SamBodhi (Giác Ngộ hoàn toàn), PaccekaBodhi (Giác
ngộ của các Bích Chi Phật), và SavakaBodhi (Giác Ngộ của các
Bậc A-La-Hán). Ngoài ra, có nhiều Vị Phật ghi trong các trường
Phái Đại Thừa không phải là các Đức Phật lịch sử, cho
nên Phật Giáo Nguyên Thủy không mấy quan tâm đến. Quan điểm
cho rằng một số các Đức Phật và Bồ Tát lúc nào cũng đang
ở một cảnh giới thanh tịnh chờ đợi những ai cầu đến
các Ngài hoàn toàn xa lạ với giáo lý căn bản của Đức
Phật. Một số Bồ Tát được mô tả là tình nguyện ở
trong các cảnh giới thanh tịnh, tự mình không cần đến giác
ngộ và chỉ giác ngộ khi không còn một chúng sanh nào cần
được cứu độ. Do tầm rộng lớn của vũ trụ và số lượng
chúng sanh không kể siết trong vòng vô minh và vị kỷ cho
thấy rõ ràng là nhiệm vụ đó không thể thành tựu được,
và vì số lượng của chúng sanh có bao giờ chấm dứt.
Có bắt buộc một
Vị Bồ Tát bao giờ cũng phải là một Phật Tử không? Chúng
ta có thể tìm thấy giữa những người Phật Tử, một số có
hạnh hy sinh và rất mến mộ các vị Bồ Tát. Đôi khi có
thể họ cũng không để ý gì đến nguyện vọng cao thượng,
họ chỉ tự nhiên hăng say làm việc để phục vụ người khác
và trau dồi đức tính ban sơ của họ. Tuy nhiên các Vị Bồ
Tát không những tìm thấy trong số Phật Tử mà cũng có thể
tìm thấy ở những người có tôn giáo khác. Những chuyện
tiền thân của Đức Phật, miêu tả gia đình và hình thái
sinh sống Đức Bồ Tát. Đôi khi Ngài tái sanh làm kiếp thú.
Thật là khó có thể tin được là Đức Bồ Tát này được
sanh trong một gia đình đạo Phật vào mỗi kiếp sống. Tuy
nhiên dù sanh duới hình thái nào, hay vào một gia đình nào,
Đức Bồ Tát vẫn tranh đấu cam go để phát triển phẩm
hạnh. Đại nguyện đạt được toàn hảo từ kiếp này đến
kiếp khác cho đến lần sanh chót khi được thành Phật, là
đức tính phân biệt rõ ràng một vị Bồ Tát với chúng sanh
khác.
ĐẠT
PHẬT QUẢ
Đạt Phật Quả là
một nhiệm vụ khó khăn nhất cho một con người theo đuổi
trên thế gian này.
Phật Quả không phải
chỉ để dành riêng cho một số người được lựa chọn hay
cho các siêu nhân. Ai cũng có thể thành Phật. Không có một
vị khai sáng tôn giáo nào lại tuyên bố cho tín đồ của mình
là họ có cơ hội và khả năng đạt được địa vị như chính
vị khai sáng đó.
Tuy nhiên, đạt được
Phật Quả là một nhiệm vụ khó khăn nhất cho một con người
theo đuổi trong thế gian này. Con người đó phải hết sức
nỗ lực, hy sinh mọi lạc thú trần tục. Người đó phải
trau dồi, thanh lọc tâm ý khỏi tất cả những tư tưởng
xấu xa hầu đạt được sự Giác ngộ này. Con người đó
phải tự thanh tịnh hóa qua vô lượng kiếp, phát triển tâm
linh để trở thành Phật. Rất cần thiết phải qua những quãng
thời gian dài với cố gắng vượt bực mới có thể hoàn thành
được tiêu chuẩn cao tột của sự tự tu này. Tiến trình tu
học tột bực để đạt Phật quả gồm có kỷ luật tự giác,
tự kiềm chế, nỗ lực siêu phàm, quyết tâm, và thiện chí
chịu đựng mọi loại đau khổ vì lợi ích cho chúng sanh đang
đau khổ trong thế gian này.
Điều trên đây cho
thấy rõ ràng Đức Phật không đạt Giác Ngộ Tối Thượng
chỉ đơn giản bằng cầu nguyện, sùng bái, hay dâng hiến
lễ vật cho những đấng siêu nhiên. Ngài đạt Phật quả do
sự thanh lọc tâm ý Ngài. Ngài đạt Giác Ngộ Tối Thượng
không do ảnh hưởng của một sức mạnh siêu nhiên bên ngoài
nào mà do do chính sự phát triển tuệ giác của chính Ngài.
Như vậy chỉ ai có quyết tâm, can đảm vượt qua các chướng
ngại, nhược diểm và vị kỷ mới có thể đạt được
Phật quả.
Thái Tử Tất Đạt Đa
đạt Phật quả không phải chỉ đơn giản qua một đêm bình
thường ngồi dưới cội cây Bồ Đề. Không có một đấng
siêu nhiên nào xuất hiện và tiết lộ ra một điều gì
bằng cách thì thầm bên tai Ngài lúc Ngài đang nhập định
duới cội Bồ Đề. Đã có một lịch sử dài với nhiều
kiếp trước của Ngài trước khi ngài đạt Phật Quả Tối
Thượng. Nhiều chuyện tiền thân của Ngài cho chúng ta thấy
Ngài đã tận tụy, hy sanh mạng sống trong nhiều kiếp như
thế nào mới đạt Phật quả. Không ai có thể đạt Phật
quả mà không thực hành viên mãn mười điều toàn thiện hay
Ba La Mật. Thời gian cần thiết để phát triển mười điều
toàn hảo này giải thích tại sao một Đức Phật chỉ ra đời
sau một thời gian rất dài.
Cho nên lời khuyên
của Đức Phật dặn dò các môn đồ là muốn được giải
thoát không cần phải chờ đợi cho đến khi mỗi chúng ta
được thành Phật. Hành giả có thể đạt giải thoát bằng
cách đạt quả Bích-Chi-Phật hay Thánh quả A-La-Hán. Bích-Chi-Phật
hay Duyên Giác Phật xuất hiện trong thế gian này khi không có
Đức Phật Giác Ngộ nào. Bích-Chi-Phật cũng là những Đấng
Giác Ngộ. Tuy nhiên mức độ toàn hảo thì chưa được tương
đồng như Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác nhưng Bích-Chi-Phật
cũng chứng đắc hạnh phúc Niết Bàn. Không giống như Đức
Phật Chánh Đẳng Chánh Giác, Bích-Chi-Phật không thuyết
giảng cho đại chúng. Các Ngài sống một cuộc đời ẩn
dật.
Các Vị A-La-Hán cũng
chứng đắc hạnh phúc Niết Bàn như các chư Phật. Niết Bàn
không phân biệt giữa Chư Phật, Bích-Chi-Phật hay A-La-Hán.
Sự khác biệt duy nhất là A-La-Hán không đạt được Giác
Ngộ Tối Thượng để giác ngộ người khác như chư Phật.
A-La-Hán phải vượt thắng được tham dục và nhược điểm
của con người. A-La-Hán thực hành đúng Pháp do Đức Phật
khám phá và truyền dạy. A-La-Hán cũng chỉ bày cho mọi người
chánh Pháp và con đường tiến tới giải thoát.
"Kiccho Buddhanam Uppado"
Hi hữu thay một Vị Phật ra đời! (Kinh Pháp Cú, câu 182)
BA THÂN PHẬT
Ba thân Phật gồm có:
Pháp Thân, Hóa Thân và Báo Thân.
Theo triết lý Đại
Thừa, nhân cách của Đức Phật được phân tích kỷ lưỡng.
Theo triết học này, Đức Phật có ba thân: hay ba khía cạnh
của nhân cách: Pháp Thân, Hóa Thân và Báo Thân.
Sau khi một Đức
Phật giác ngộ, Ngài là hiện thân của trí tuệ, từ bi,
hạnh phúc và tự tại. Lúc đầu, chỉ có một Đức Phật
trong truyền thống Phật Giáo. Ngài là Đức Phật lịch sử
Thích Ca Mâu Ni. Tuy nhiên, ngay trong hiện kiếp của Ngài, Ngài
đã phân biệt giữa Ngài là Bậc Đại Giác, nhân vật lịch
sử, và mặt khác Chính Ngài là hiện thân của Chân Lý. Con
người giác ngộ của Ngài được gọi là Báo Thân. Đó là xác
thân vật chất sanh ra giữa mọi người, đạt Giác ngộ,
thuyết giảng Pháp, và đạt Đại Niết Bàn. Báo thân hay xác
thân vật chất của các Đức Phật có rất nhiều và khác
biệt giữa Đức Phật này với Đức Phật kia.
Mặt khác, nguyên tắc
giác ngộ hiện thân nơi Ngài được gọi là Pháp Thân
(Dharma-kaya) hay Chân Thân. Đây là phần tinh hoa của Đức
Phật và độc lập hoàn toàn với con người đã giác ngộ.
"Dharma" có nghĩa là "Chân Lý" và không liên
quan gì đến các lời dạy trong kinh điển. Giáo lý của Đức
Phật cũng bắt nguồn từ cái "Chân Như" hay Chân Lý
ấy. Cho nên Đức Phật thực sự là Chân Lý hay nguyên tắc
của Giác ngộ. Tư tưởng này được nói rõ trong kinh điển
Phật Giáo Nguyên Thủy tiếng Pali. Đức Phật nói với
Vasettha rằng Như Lai là Pháp Thân, 'Chân Thân hay 'Hiện Thân
của Chân Lý' hoặc là Dharmabhuta, 'Trở-Thành Chân Lý', có nghĩa
là ' Người đã trở thành Chân Lý' (Kinh A Hàm). Trong một
dịp, Đức Phật nói với Vakkali: "Kẻ nào nhìn thấy Pháp
tức nhìn thấy Như Lai; ai nhìn thấy Như Lai tức nhìn thấy
Pháp (Kinh A Hàm). Trên đây có nghĩa là Đức Phật tức Chân
Lý, và tất cả các Đức Phật là một và đều giống nhau,
không có gì khác biệt nơi Pháp Thân vì Chân Lý chỉ có
một.'Trong lúc hiện tiền, Báo Thân và Pháp Thân hợp nhất
trong thân Phật. Tuy nhiên, sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn,
có sự khác biệt trở thành rõ nét hơn, nhất là trong triết
học Đại Thừa Phật Giáo. Báo thân của Ngài chết, và xá
lợi của Ngài được tôn thờ trong những Bảo Tháp ; Pháp thân
của Ngài vẫn mãi mãi trường tồn.
Sau này, triết học Đại
Thừa triển khai 'Hóa Thân' (Sambhoga-kaya). Hóa thân được coi
như một hiện thân hay một cách thị hiện nào đó mà Đức
Phật tự tại độ đời, dạy Pháp, thuyết giảng Chân Lý,
huớng dẫn cho ta hiểu Chân Lý, và hoan hỷ độ các người
thiện, người cao thượng. Đó là một niềm hoan hỷ tinh
thần, vị tha và thuần khiết không nên nhầm lẫm với lạc
thú của cảm giác. Hóa thân này tuyệt đối không có ghi
trong các các kinh điển Nguyên Thủy dù rằng quan niệm về Hóa
Thân này được đánh giá cao nếu hiểu theo trong phạm vi này.
Trong giáo lý Đại Thừa, Hóa Thân không giống như Pháp Thân
khách quan và trừu tượng của Đức Phật, mà Hóa Thân cũng
được coi như một người, tuy không phải là con người
lịch sử bình thường.
Mặc dù từ ngữ Hóa
Thân và Pháp Thân tìm thấy sau này trong các bản văn Pali
xuất phát từ các bản văn của Đại Thừa và Bán Đại
Thừa, học giả của các truyền thống khác không phản đối.
Hòa Thượng Buddhaghosa trong cuốn Thanh Tịnh Đạo của Ngài nói
về những thân của Đức Phật như sau:
"Đức Phật có
một sắc thân đẹp đẽ với tám mươi vẻ đẹp và ba mươi
hai tuớng tốt của một đại nhân, Ngài có một Pháp thân
thanh tịnh tuyệt hảo về mọi mặt, rạng ngời bởi giới
luật và thiền định...đầy huy hoàng và đức hạnh, giác
ngộ toàn bích., không gì có thể so sánh".
Mặc dù quan niệm
Buddhaghosa thực tế, nhưng không khỏi tránh được khuynh hướng
đạo giáo siêu nhân hóa quyền năng Đức Phật. Phẩm
Atthasallini, nói trong thời gian ba tháng Đức Phật vắng mặt,
khi Ngài thuyết giảng Vi Diệu Pháp cho mẹ Ngài tại cung
trời Đâu Xuất, Ngài tạo ra một số Hóa Thân giống y như
Ngài. Không thể phân biệt lời nói, giọng nói, và cả đến
hào quang trên thân giữa các hóa thân này và Đức Phật. Đức
Phật hóa hiện này chỉ có thể được khám phá bởi các đấng
phạm thiên thuộc một cảnh giới cao hơn còn những chư thiên
bình thường và người thường không thể nhận biết được.
Từ sự miêu tả này, rõ ràng cho thấy Phật Giáo Nguyên
Thủy thời cổ chấp nhận báo thân hay hóa thân là của một
chúng sanh, và Pháp thân như là sự tổng hợp các Pháp của
Ngài bao gồm các giáo thuyết và giới luật.
-ooOoo-
Ðầu
trang | Mục lục |
01
| 02 | 03 |
04
| 05a | 05b |
06
| 07 | 08 |
09
| 10 | 11 |
12
| 13 | 14 |
15
| 16 | 17
--- o0o ---
Trình bày:
Chân Đức & Nguyên Thảo
Cập
nhật
ngày:
01-11-2002