.
Cư
Trần
Lạc
Ðạo
(Trọn
bộ 3 tập)
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
---
o0o
---
Tập
1
(10)
Phước Báu
Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta
thường nghe nói: Người này "có phước" quá, cho nên mới được vừa
giàu sang, vừa học giỏi, vừa đẹp đẽ, vừa mạnh khỏe, vừa may mắn, cầu
con được con, cầu của được của, vạn sự như ý, tùy tâm mãn nguyện.
Hoặc cũng có khi chúng ta nghe nói: Người này "bạc phước" quá, cho
nên làm chuyện gì cũng thua lỗ, tính toán việc gì cũng hỏng, muốn
gì cũng không nên, cầu gì cũng chẳng được, tai họa xảy ra tới tấp, gặp
xui xẻo liên miên! Khi được may mắn, khi được sung sướng, khi được những
sự như ý, khi được tất cả những điều gọi là "có
phước", người đời thường nghĩ rằng, cho rằng: mình có phước
báu như vậy là do trời thương, trời ban cho mình! Những người đó không
chịu tìm hiểu thêm: Tại sao ông trời lại thương mình và ban cho mình
phước báu như vậy, mà không ban cho biết bao nhiêu người khác? Như vậy
có phải là bất công chăng? Như vậy có đúng chăng? Tại sao con người lại
có ý nghĩ như vậy?
Sở dĩ con người có ý nghĩ như vậy là do tâm ích
kỷ nhiều đời, do tập khí tham lam bỏn sẻn, do tánh ganh tị đố kỵ
mà ra. Con người khi được sung sướng, thì mặc kệ người khác ra sao,
chẳng bận tâm đoái hoài, đó là tâm ích kỷ. Con người khi được toại
nguyện, muốn gì được nấy, thì mặc kệ người khác ra sao, thậm chí
trong lòng còn chẳng muốn ai khác được như vậy, đó là tập khí tham lam bỏn
sẻn. Con người khi được thành công thắng lợi, thì mặc kệ người khác ra
sao, chẳng muốn ai khác bằng mình hay hơn mình, đó là tánh ganh tị đố
kỵ vậy.
Thực ra, không có ông trời, thượng đế, hay đấng
tạo hóa nào làm những chuyện bất công, thiên vị như vậy. Những
"phước báu" chúng ta đã hưởng, đang hưởng, và sẽ hưởng, chính do
chúng ta đã tạo trong nhiều kiếp trước và ngay trong kiếp này. "Mình
làm mình chịu, mình làm mình hưởng" mới là lẽ công bằng tuyệt
đối vậy. Cũng không ít người thắc mắc: Làm sao biết mình "có
phước" hay không? Làm sao để tạo phước? Ðồng thời chúng ta cũng
cần nên biết: thế nào là phước hữu lậu và thế nào là phước vô
lậu? Và khi làm phước giúp đỡ ai điều gì, mình nên nguyện như
thế nào?
* * *
Trên thế gian này, nếu ngước nhìn lên chúng ta
sẽ thấy không biết bao nhiêu người giàu sang hơn mình, học thức hơn
mình, khỏe mạnh hơn mình, sung sướng hơn mình, đẹp đẽ hơn mình, địa vị
hơn mình, quyền thế hơn mình, may mắn hơn mình, nhàn nhã hơn mình,
bình yên hơn mình, thông minh hơn mình, sáng suốt hơn mình, nhứt là không
biết bao nhiêu người tu tập giác ngộ hơn mình, được an lạc và hạnh
phúc hơn mình. Những người như vậy chính là những người "có
phước" hơn mình. Trái lại, khi nhìn xuống chúng ta sẽ thấy không
biết bao nhiêu người nghèo hèn hơn mình, dốt nát hơn mình, yếu đuối
hơn mình, khổ sở hơn mình, xấu xí hơn mình, thấp kém hơn mình, cô thế
hơn mình, xui xẻo hơn mình, cực khổ hơn mình, hoạn nạn hơn mình, đần độn
hơn mình, tối tăm hơn mình, nhứt là không biết bao nhiêu người không
được sống an lạc và hạnh phúc như mình. Những người như vậy chính là
những người "bạc phước" hơn mình.
Như vậy, rõ ràng chúng ta được gọi là "có
phước", hay đang thọ hưởng "phước báo", nếu như
chúng ta có đủ tay chân, mắt mũi vẹn toàn, cơm ăn áo mặc, khỏe mạnh ít
đau, sống lâu trăm tuổi, tâm trí bình thường, gia đình hạnh phúc, cuộc
sống tương đối đầy đủ, cuộc đời tương đối bình yên, không gặp hoạn
nạn, không gặp hiểm nguy, không gặp tai biến, không gặp chiến tranh,
không gặp đói khát, không gặp kẻ thù, không gặp thiên tai, hỏa hoạn động
đất, bão lụt cuồng phong. Khi nào bị đau mắt, không còn nhìn thấy được gì
nữa cả, chúng ta mới thấy giá trị của đôi mắt, giá trị của thị giác, mà
hằng ngày chúng ta không lưu tâm. Ðến khi gặp thầy gặp thuốc, được
chữa lành bệnh, đôi mắt trở lại như xưa, chúng ta mới thấy là mình
đang "có phước"! Hoặc khi nào bị bệnh bại xuội cả hai chân,
không còn đi đứng được bình thường, phải dùng xe lăn. Ðến khi khỏi
bệnh, được bình phục như xưa, chúng ta mới thấy là mình đang "có
phước"!
Thí dụ như trên một chuyến máy bay, một chuyến
tàu thủy hay một chuyến xe lửa gặp tai nạn, hằng trăm người thương tích
tử vong, những người được sống sót chính là những người "đại
phước" vậy. Họ là những người theo đủ mọi tôn giáo, thuộc đủ
mọi sắc dân, thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội, gồm đủ mọi
lứa tuổi, nhưng điểm quan trọng là: chính họ đã "tu nhơn
tích phước" nhiều đời nhiều kiếp trước, mới được sống còn
như vậy, chứ không phải do họ cầu nguyện van xin thánh thần thiên địa
gì cả, dù là chí thành và khẩn thiết lắm, trong lúc ngộ nạn, mà được
đâu! Chúng ta thử suy nghĩ: trong khi lâm nạn, người thì cầu Ðức Mẹ cứu
giúp, người thì cầu Bồ Tát Quán Âm cứu tai, cứu khổ, cứu nạn. Vậy, khi cả
hai người cùng thoát được nạn, vị nào thực sự đã tế độ họ? Thực
sự chính "phước báo" của mỗi người đã cứu chính họ mà
thôi. Người có "phước báo" nhiều hơn, thoát nạn một cách an ổn
hơn. Người có "phước báo" ít hơn, thoát nạn với một chút xây
xát. Người hết phước báo, không phước báo, thì đã vong mạng!
Thậm chí trong số những người tử vong trong các tai
nạn, nhiều trường hợp có cả các chức sắc thuộc các tôn giáo, có cả
những người đã từng đại diện thượng đế tha tội cho nhiều
người khác! Còn chính họ có tội nghiệp, đến lúc phải trả, vẫn
phải đền trả quả báo, nghiệp báo như mọi người khác vậy! Chúng
ta đọc báo cũng thấy có những chuyến hành hương cầu nguyện của
các tôn giáo, bị lật xe trên đường đi hoặc trên đường về, gặp nạn
hỏa hoạn tại thánh địa, tại khu vực hành lễ, khiến cho hàng trăm người,
hàng ngàn người tử vong thương tích. Ðiều này giúp cho chúng ta nhận
định rất rõ ràng rằng: con người tạo nghiệp báo, dù vô tình hay cố
ý, cho đến lúc quả báo chín mùi, lại không có phước báo che chở,
thì cầu nguyện van xin cũng chẳng ích lợi gì, chẳng có hiệu quả gì.
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy: "Dù lên
non, xuống biển, vào hang, nghiệp báo vẫn theo con người như hình với
bóng, không ai có thể tránh được". Nghĩa là nếu như con
người không biết tu nhơn tích phước, chỉ lo tạo tội tạo nghiệp, trong
cuộc sống đấu tranh giành giựt hằng ngày, cho đến khi quả báo thuần
thục, không ai có thể tránh được, dù cho người đó là bất cứ ai trong
thế gian này, không phân biệt vua quan, chức quyền hay thường dân,
giàu sang hay nghèo hèn, học thức hay bình dân, nam phụ lão ấu, tín đồ
hay chức sắc!
Có ông Liêm Sứ ở Hồng Châu, đến hỏi Thiền sư
Mã Tổ Ðạo Nhất: Uống rượu ăn thịt là nên hay không nên? Mã Tổ Ðạo Nhất
đáp: Uống rượu ăn thịt là cái "lộc" của ngài. Không uống rượu
ăn thịt là cái "phước" của ngài! Có phước mới hưởng lộc. Có
phước mới trường thọ. Không phước sao được hưởng lộc, sao được
trường thọ? Như vậy, chúng ta đã tạm hiểu thế nào là "có
phước". Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu vấn đề: trong cuộc sống
hằng ngày, những phương cách nào, những pháp môn nào, những việc làm
nào, những hành động nào, những lời nói nào, hay những ý nghĩ nào có
thể tạo "phước báu", công năng và ích lợi của "phước
báu" như thế nào?
1) Trước tiên là Bố Thí.
Hạnh bố thí là nền tảng của tất cả các hạnh lành, là căn bản của
việc thực hành giáo pháp, luôn luôn được đề cập đến trong Phật
giáo. Bản chất của con người thế gian là luôn luôn muốn có, muốn thêm,
muốn nữa, không bao giờ thấy đủ, không bao giờ thỏa mãn với những gì mình
đang có. Cho nên, nếu được lên thiên đàng, nếu được về cõi
tây phương, mà vẫn còn giữ lòng tham như vậy, gọi là "đới
nghiệp vãng sanh", thì con người vẫn thấy khổ đau như hiện đời
vậy thôi. Muốn được an lạc hạnh phúc hiện đời, ngay tại thế giới ta
bà này, hãy vui thích với những gì mình đang có, bởi vì mình không thể
có những gì mình thích. Mong cầu nhiều, mơ ước nhiều, chỉ thêm
nhiều đau khổ mà thôi. Thực là đơn giản!
Ðạo Phật dạy hạnh bố thí để giúp con người dẹp
lòng tham lam ham muốn, ích kỷ hẹp hòi, gồm có tham tiền tài, tham sắc
đẹp, tham danh vọng, ham ăn ham uống, ham ngủ ham nghỉ. Ðạo Phật dạy hạnh
bố thí để đem lại an lạc và hạnh phúc cho người đời. Tại sao vậy? Bởi
vì với lòng tham ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy, nói trên, con người
trên thế gian phải đấu tranh, giành giựt, phải dùng mọi thủ đoạn
để thỏa mãn, bất chấp sự đau khổ của kẻ khác, bất chấp sự an nguy của
chính bản thân, với bất cứ giá nào cũng phải đoạt cho bằng được sự như
ý! Không được thỏa mãn, con người dễ nổi lòng sân hận, thù đời ghét
người, oán trời trách đất! Hạnh bố thí giúp con người hiểu được ít
nhiều sự an lành thiết thực của người và của chính mình như thế
nào. Cái gì mình tiêu xài thì đã qua mất rồi. Cái gì mình đang có chưa
chắc giữ được lâu dài, nhưng chắc chắn rằng sẽ để lại khi qua đời.
Chỉ có những gì mình đã bố thí, đã cho ra, mới thực sự là "của
mình", mới thực sự là "phước báu", và sẽ đến với mình
các qua dạng: bình yên may mắn, tai qua nạn khỏi, cầu gì được nấy, trong
cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Trong khi thực hành hạnh bố thí, chúng ta đừng nên
thắc mắc: nếu mình quyên góp tiền bạc cho một người hay một tổ chức
nào đó, để làm việc từ thiện, nhưng họ không làm đúng như
lời họ nói, thậm chí họ còn lợi dụng lòng tốt của nhiều người
để thủ lợi, làm việc sai trái, thì mình có được "phước
báu" hay không? Tại sao vậy? Bởi vì khi chúng ta tự nguyện, phát tâm
tùy hỷ, đóng góp tịnh tài cho một việc từ thiện, cứu người giúp
đời, với tâm vị tha bất vị kỷ, vì người quên mình, vì muốn giúp
người, không vì phước báu cho mình, thì chúng ta đã có "phước
báu" ngay tại chỗ đó rồi, ngay từ lúc phát tâm tùy hỷ như vậy
đó. Còn chuyện người đó, chùa đó, tổ chức đó, có làm đúng hay
không, tội nghiệp họ tạo, quả báo họ sẽ tự nhận. Nhân nào quả
nấy. Chúng ta không cần phải bận tâm!
Chúng ta cũng được hiểu thế nào là
"phước điền" cao thượng nhứt, đó là những "ruộng
phước" đem lại nhiều "phước báu" nhứt, khi hành động tạo
phước của chúng ta hướng đến. Cũng ví như người nông dân hiểu
biết đám ruộng nào phì nhiêu, trồng trọt sẽ cho năng suất cao nhứt.
Phước điền cao thượng đó chính là bốn ơn nặng, hay tứ trọng ân,
gồm có: ơn cha mẹ, ơn thầy bạn, ơn xã hội, ơn tam bảo. Hạnh bố thí dù là
tài thí, pháp thí hay vô úy thí, đều đem lại "phước báu" vô
lượng vô biên, nếu như mình làm hạnh bố thí với thiện tâm, trực
tâm và bồ đề tâm. Nghĩa là tạo được bao nhiêu "phước báu" do
hạnh bố thí, chúng ta đều nên phát tâm "hồi hướng" cho toàn
thể chúng sanh trong pháp giới đồng thọ hưởng. Có như thế, quả
báo phước đức sau này, còn gọi là phước báo, mới thực sự to lớn. Tại
sao vậy? Bởi vì không giữ riêng cho mình, dù là "phước báu" do
chính mình tạo nên, có nghĩa là mình đã diệt được lòng tham. Khi lòng
tham đã diệt được, sự giải thoát mới hoàn toàn, phước báo mới vô
lượng vô biên vậy.
2) Thứ hai là Trì Giới.
Trì giới là nghiêm chỉnh ăn ở theo đúng giới luật của Phật Tử, dù là cư
sĩ tại gia, hay tu sĩ xuất gia. Nhờ đó, trong cuộc sống, chúng ta không làm
tổn nhơn, hại vật, trong khi tạo ích lợi cho mình. Ðó là cách tạo
"phước báu" vô cùng vô tận, không thể nghĩ bàn. Thí dụ như
chúng ta trì giới không nói dối, không nói lời xuyên tạc, thêm bớt, vu cáo,
để buộc tội, vu oan cho kẻ khác phải chịu nhiều đau khổ, cho thỏa mãn
lòng căm tức của chúng ta đối với người đó, dù cho đó là kẻ thù, hay kẻ
mình không ưa cũng vậy. Thí dụ như người tu sĩ Phật giáo cố gắng giữ gìn
giới hạnh trong sạch, cuộc sống thanh tịnh, chăm lo tu học, không tham gia
hoạt động thế sự, không lo chuyện thế gian, không ham danh văn sĩ,
thi sĩ, tiến sĩ gì gì đó với đời, thì vị tu sĩ đó đem lại biết
bao nhiêu "phước báu" cho chính bản thân, cho đồng bào Phật Tử và
cho đạo pháp.
Ðược như vậy, không cần đợi đến kiếp mai
sau, mà ngay hiện tại, trên cuộc đời này, ở tại nơi đây, trong kiếp
sống này, chúng ta có thể thọ hưởng "phước báu" của một
nếp sống giới hạnh. Lợi ích của giới đức phát sanh ngay trong hiện
tại. Hiện tại rất quan trọng đối với người biết sống trong tỉnh
thức, biết quán sát nội tâm, biết giữ gìn giới hạnh. Quá khứ đã
trôi qua, nhớ nhung tiếc nuối chỉ phí phạm thời giờ, chẳng những điên
rồ, mà đôi khi còn tạo nghiệp xấu, vì những chuyện tức giận, thù
hận đã qua. Trong khi đó, tương lai chỉ là viễn ảnh mơ hồ, không có gì cố
định, không có gì chắc chắn. Người nào hẹn đến khi có tuổi rồi, mới
cạo đầu vào chùa bắt đầu tu, cũng là người đang sống trong mơ, đang trong
cơn mê. Tại sao vậy? Bởi vì có ai biết được chắc chắn mình sống
đến bao lâu? Trong khi đó, chúng ta có thể tạo "phước báu"
bằng cách tu tâm dưỡng tánh, ngay hiện tại, trong cuộc sống hằng ngày,
đừng đợi đến ngày nào cả. Tu tâm dưỡng tánh được ngày nào, chúng ta
hưởng "phước báu" ngay ngày đó, thì tại sao phải hẹn? Vã lại tu
tâm dường tánh đâu phải là việc dành riêng cho các tu sĩ, hoặc đâu
phải cạo đầu vào chùa mới gọi là tu! Các bậc tôn túc thường nhắc nhở
chúng ta: "tu mau kẻo trể" và "tu trong mọi hoàn cảnh",
chính là nghĩa đó vậy.
Chẳng hạn như trước đây, chúng ta thích bàn
chuyện thị phi, phải quấy, tốt xấu, thích xen vào chuyện của thiên hạ
thế nhân, cho nên lắm khi gặp rắc rối, tranh cãi, đôi co, mích lòng, có
khi dẫn tới chuyện kiện tụng lôi thôi. Bây giờ chúng ta hiểu
được giáo lý đạo Phật, biết rằng tu tâm dưỡng tánh đem lại
nhiều "phước báu" hiện đời, có thể thực hành trong
mọi hoàn cảnh, chúng ta quyết tâm dừng ngay, chừa bỏ tất cả, thì cuộc
sống sẽ an lạc và hạnh phúc, không còn phiền não và khổ đau nữa. Giới
luật ví như hai đường sắt của một tuyến xe lửa. Chiếc xe lửa nào,
chạy đúng đường sắt, sẽ chạy ngon lành, đến nơi đến chốn, bình
yên vô sự. Chiếc nào mà chạy, trật khỏi đường rầy, tức nhiên lật
gọng, tai nạn thê thảm. Cũng vậy, những người Phật Tử, dù tại gia cư
sĩ, hay xuất gia tu sĩ, trì giới thanh tịnh, sẽ tu tinh tiến, kết quả
rõ ràng, bớt chuyện phiền não, giảm thiểu khổ đau, chóng được
niết bàn, an lạc hạnh phúc, ngay tại hiện đời.
3) Thứ ba là Nhẫn Nhịn.
Có người quan niệm: nhịn thì nhục, cự thì đục. Họ cho rằng nếu
nhịn được đằng chân, chúng sẽ lân đằng đầu, được nước lần này chúng
sẽ làm tới lần sau, nhịn hoài chúng sẽ cho là mình ngu, cho là mình hèn, làm
sao nhịn nổi, tại sao phải nhịn chứ? Chính quan niệm như vậy khiến cho
cuộc đời luôn luôn đầy dẫy những tranh chấp, cãi vã, hơn thua, kiện
tụng, đấu tranh, cho nên thường dẫn đến phiền não và khổ đau. Thực
ra, chính vì con người không thể thực hành được "hạnh nhẫn
nhịn" cho nên mới có quan niệm như trên. Người ta mắng mình một
tiếng, mình trả một miếng, có khi nhiều hơn, thì dễ dàng quá.
Người ta hành động, không tốt với mình, mình liền trả đủa, hết sức
nặng nề, cho thiệt hả giận, cho thực đả nư, thì dễ dàng quá. Nhưng
còn tiếp theo, sau đó thì sao? Câu chuyện như vậy, biết đến
bao giờ, mới được chấm dứt, và dứt thế nào? Người ta lỡ lầm, vi phạm
tội ác, mình đòi trừng phạt, cho thiệt xứng đáng, phanh thây xẻ thịt,
treo cổ bắn bỏ, đày xuống địa ngục, bỏ tù rục xương, rủa xả chửi mắng,
tưng bừng tơi tả, thì hãy thử nghĩ: ai ác hơn ai?
Có những người trên thế gian này xin ân xá cho kẻ
phạm tội đã giết người thân của mình, bởi vì những người đó đã
biết cảnh mất người thân, đau khổ như thế nào, nên không muốn gia
đình phạm nhân lâm vào cảnh ngộ bi thương đó. Chúng ta đọc báo thấy
thực sự có những người như vậy, nhưng rất hiếm hoi! Trong Kinh Pháp Cú,
Ðức Phật có dạy:" Lấy oán báo oán, oán nghiệp chập chùng. Lấy
ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan" . Người ta mắng mình một
tiếng, nếu mình nhịn được, không trả một miếng, mới thực là
khó. Người ta hành động, không tốt với mình, mình không hành động, giống y
như vậy, mới thực là khó. Hơn nữa, nếu người ta gặp, khó khăn hoạn
nạn, mình sẵn sàng giúp, thực tâm thực tình, hết lòng hết dạ, lại
càng khó hơn. Làm được như vậy, mọi chuyện bình yên, tiếp theo
sau đó. Câu chuyện thù oán, chắc chắn chấm dứt, một cách êm đẹp, nhẹ
nhàng dễ dàng.
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:"Thắng vạn
quân không bằng tự thắng mình. Tự thắng mình là điều cao quí nhứt".
Nghĩa là tự kềm chế bản thân, tự kềm chế hành động, tự
kềm chế ngôn ngữ, tự kềm chế ý nghĩ của chính mình, mới
thực là khó. Con người thường bị tâm tham lam, tâm sân hận và tâm si mê sai
khiến, điều khiển, cho nên cuộc đời mới gặp nhiều phiền
não và khổ đau. Khi tâm tham khởi lên, khi tâm sân khởi lên, khi tâm si khởi
lên, người nào tỉnh thức, tự kềm chế được, tự hóa giải được,
thì cuộc sống sẽ an lạc hạnh phúc. Chiến thắng được tâm tham lam, sân
hận, si mê của chính mình, mới thực sự gọi là "có phước", mới
thực sự đem lại an lạc và hạnh phúc cho cuộc đời mình. Cho nên cổ nhân có
dạy: "Một sự nhịn chín sự lành", chính là nghĩa đó vậy.
Khi chiến thắng được tâm tham chẳng hạn, không đi
ăn trộm, không chôm chĩa đồ, không gạt gẫm người, con người khỏi gặp rắc
rối với pháp luật. Khi chiến thắng được tâm sân chẳng hạn, không chửi
mắng đánh đập, không trả thù người khác, không thưa gửi kiện tụng,
không gây thêm phiền não, không tạo thêm kẻ thù, không tăng thêm
nghiệp báo, không chuốc thêm oán hờn, không làm chuyện càn dở, con
người được thoải mái bình yên. Khi chiến thắng được tâm si chẳng hạn,
không mê tín dị đoan, không uống nước sông suối, chẳng có chút vệ sinh,
lại cho là nước thánh, không tin chuyện huyễn hoặc, không tin thiên linh
chuỗi, chẳng có căn cứ, con người được bình tĩnh, tâm trí sáng suốt.
Nhờ đó, con người sẽ ăn được ngon, ngủ được yên. Sách có câu:
"Ăn được ngủ được là tiên". Ðó là "phước báu" do
chính mình tạo nên, không do trời ban, không do cầu nguyện.
4) Thứ tư là Tinh Tấn.
Tinh tấn nghĩa là siêng năng, cần mẫn tu tâm dưỡng tánh trong mọi hoàn
cảnh, trong mọi động tác, đi, đứng, nằm, ngồi, để ngăn chận ba
nghiệp, không tạo thêm tội lỗi, nghiệp báo mới. Không phải đợi
đến lúc quỳ trước bàn Phật, hay đi đến chùa, hoặc dự các khóa
tĩnh tâm, mới gọi là tu! Tu như vậy ít quá, một tháng mới có một khóa
tu, một tuần mới đến chùa một lần, một ngày niệm hương trước bàn
thờ, hay ngồi thiền, chừng một tiếng đồng hồ, 23 tiếng còn lại,
tha hồ để tâm trí dong ruỗi theo những ý nghĩ tạp nhạp, thương
người này, ghét người khác, thị phi phải quấy, tâm trí bất định. Ðến
khi nghịch cảnh xảy đến, tai nạn giáng xuống, không đủ năng lực để
đối phó, tâm trí của chúng ta sẽ xáo trộn, bất an, đương nhiên dẫn
đến khổ đau và than trời trách đất. Sách có câu: "Mấy người lòng
dạ tinh ma. Ðã làm phải chịu, kêu mà ai thương", chính là nghĩa đó
vậy.
Chúng ta tinh tấn làm tất cả các điều thiện,
dù lớn dù nhỏ, cứu người giúp đời, làm cho cuộc sống của chính mình và
của những người chung quanh, có ý nghĩa hơn, an lạc hơn và hạnh phúc
hơn. Chúng ta tinh tấn diệt trừ những tạp niệm vọng tưởng, thường
xúi giục chúng ta tạo thêm nghiệp báo xấu, để cho chính mình và
những người chung quanh bớt lo âu, phiền muộn vì những hành động sai
khiến bởi tâm tham, tâm sân và tâm si của mình. Chúng ta thử nghĩ: thực
hành hạnh tinh tấn như vậy, có phải chúng ta được vô lượng vô biên
"phước báu" chăng? Và nhờ hạnh tinh tấn, chúng ta không nản lòng
trên đường tu tập các hạnh lành, dù gặp biết bao nhiêu nghịch cảnh trở
ngại. Cho nên trong đạo Phật, hạnh tinh tấn được tượng trưng bởi Bồ Tát
Ðại Lực Ðại Thế Chí, là vị Bồ Tát có năng lực tinh tấn lớn lao, có
ý chí siêu xuất thế gian, dũng mãnh tiến bước không lui, trước
mọi nghịch cảnh, trước mọi nghiệp chướng.
5) Thứ năm là Thiền
Ðịnh. Thiền định nghĩa là trau dồi tâm tánh cho được tự
tại, cho được bình tĩnh thản nhiên, trước mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường gặp những bước thăng trầm, những
sóng gió của cuộc đời, chẳng hạn như lúc thịnh lúc suy, lúc được danh dự
lúc bị hủy báng, lúc được khen tặng lúc bị chỉ trích, lúc được sung
sướng lúc bị khổ đau. Trong kinh sách gọi đó là "bát phong",
thường làm cho tâm trí của chúng ta bị bất an, chao đảo, giao động, xao
xuyến, xáo trộn.
Cho nên đạo Phật dạy nhiều phương pháp để
hàng phục và an trụ tâm, tùy theo căn cơ, trình độ, hoàn cảnh, sở thích,
tâm nguyện của mỗi người, gọi là vô lượng pháp môn. Chẳng hạn
như pháp môn tịnh độ dạy chúng ta tụng kinh, niệm Phật để định
tâm. Khi chúng ta tụng kinh, thân ngồi ngay ngắn, nghiêm trang, miệng
đọc lời Phật dạy trong kinh, tâm chú ý vào lời kinh và tiếng
chuông mõ, nên không còn nghĩ ngợi linh tinh lang tang, tư tưởng không còn
chạy lung tung nữa. Như vậy có nghĩa là tam nghiệp, gồm thân khẩu ý
của chúng ta, đều được thanh tịnh. Kinh sách có câu:"Tam
nghiệp hằng thanh tịnh đồng Phật vãng tây phương". Nghĩa là khi
ba nghiệp của chúng ta luôn luôn thanh tịnh, không còn tạo nghiệp nữa,
thì "phước báu" vô lượng vô biên, chúng ta cùng chư Phật sống
trong cõi tịnh độ tây phương. Hoặc khi tâm trạng bị hoang mang, lo lắng, sợ
sệt, xôn xao, chúng ta dùng câu niệm Phật để định tâm, để
trấn áp những tâm trạng bất an vừa kể.
Ở đây, cần biết thêm rằng không phải chúng ta
tụng kinh để cho Ðức Phật nghe! Cũng không phải chúng ta niệm Phật
để cho Ðức Phật tính sổ, coi chúng ta niệm được bao nhiêu câu, cộng
được bao nhiêu chuỗi mỗi ngày! Kinh điển ghi lại lời dạy của
Ðức Phật cốt để hướng dẫn chúng ta tu tâm dưỡng tánh, điều trị
tâm bệnh của chúng sanh, ví như toa thuốc của bác sĩ để điều
trị thân bệnh, chứ không phải để đọc đi, đọc lại, tụng cho
bác sĩ nghe! Mục đích chúng ta tụng kinh, niệm Phật là để hàng
phục và an trụ tâm, chuyển hóa từ kẻ phàm phu tục tử, trầm luân đau
khổ, thành người trí tuệ, giác ngộ giải thoát. Hàng phục và an trụ
được tâm, chúng ta mới có được cuộc sống phước báu, an lạc và hạnh
phúc.
Cũng với mục đích hàng phục và an trụ được tâm,
thiền tông dạy chúng ta "tứ oai nghi thiền". Nghĩa là trong bốn
oai nghi, gồm có: đi, đứng, nằm, ngồi, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta
luôn luôn giữ gìn tâm được chánh niệm, không loạn tưởng, không tạp
niệm, như vậy sẽ được chánh định. Cho nên mỗi khi tạp niệm,
vọng tưởng khởi lên, chúng ta liền biết ngay và dừng lại, không
bị luồng tư tưởng lăng xăng lộn xộn đó dẫn đi. Thí dụ như khi đang ngồi
chơi, bổng dưng chúng ta nhớ tới chuyện thù oán năm xưa, tâm trí
liền xao xuyến với ý nghĩ trả thù phục hận! Nếu chúng ta không
thức tỉnh dừng lại ngay, thì luồng tư tưởng này sẽ tiếp tục dẫn chúng
ta đi tới ý nghĩ tìm cách nào để trả thù, cho đáng đời kẻ đã
hại mình, đã thưa gửi mình ra tòa, đã vu oan giá họa cho mình, đã cáo
gian mình, và hậu quả là chúng ta tạo thêm nghiệp báo! Cuộc đời chắc
chắn sẽ gặp nhiều khổ đau! Tây phương có câu: "Do not mess up your
beautiful life!", chính là nghĩa đó vậy.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy: "Quá khứ
tâm bất khả đắc. Hiện tại tâm bất khả đắc. Vị lai tâm bất khả
đắc". Nghĩa là: Chuyện quá khứ qua rồi đừng luyến tiếc,
đừng nhớ nghĩ làm gì cho bận tâm, chỉ gieo thêm nghiệp chướng chứ chẳng
ích lợi gì. Chuyện hiện tại rồi cũng qua mau, cố níu kéo cũng chẳng
được, có lo âu phiền muộn cũng chẳng ích lợi gì. Chuyện tương lai
chưa đến, lo lắng, ưu tư, sầu muộn cũng chẳng giúp ích được gì. Chi
bằng chúng ta giữ gìn tâm trí được như như, bình tỉnh, thản nhiên, có
phải khỏe hơn không? Chuyện gì phải tới nó sẽ tới, lo sợ cũng chẳng
ngăn cản được đâu. Tốt nhứt chúng ta đừng tạo thêm tội nghiệp mới,
thì khỏi phải lo sợ quả báo, tội báo, nghiệp báo sẽ đến!
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:"Lấy oán
báo oán, oán nghiệp chập chùng. Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu
tan". Nghĩa là chuyện oán thù trong quá khứ chỉ nên cởi mở, không
nên kết chặt thêm. Thí dụ như trong gia đình trước kia có chuyện bất
hòa, tranh chấp, chúng ta bèn bỏ nhà đi xa. Khi có dịp trở về quê hương
viếng thăm, chúng ta mang theo quà cáp với tấm lòng từ bi hỷ xả, một
trời thương nhớ, quên hết chuyện không vui trong quá khứ, tức nhiên
mọi chuyện sẽ trở nên êm đẹp vui vẻ. Tâm trí của chúng ta sẽ an lạc
hơn, cuộc đời sẽ hạnh phúc hơn.
Ở đây, cần biết thêm rằng thiền tông không
dạy tọa thiền như con cóc, từ giờ này sang giờ khác, chẳng hiểu
mục đích để làm gì, ngoài chuyện đem khoe khắp nơi khắp chốn! Chính
thiền tông dạy chúng ta ngồi thiền để "chăn trâu",
để thúc liễm thân tâm, tức là dẹp trừ tạp niệm và vọng tưởng,
với mục đích hàng phục và an trụ tâm. Hơn thế nữa, không phải chỉ có
lúc ngồi thiền mới dẹp trừ tạp niệm và vọng tưởng mà thôi. Trong
đời sống hằng ngày, lúc tiếp xúc với ngoại cảnh, lúc thấy hình sắc,
lúc nghe âm thanh, lúc ngửi mùi, lúc nếm vị, lúc xúc chạm, chúng ta luôn
luôn giữ gìn tâm trí được bình tĩnh thản nhiên, không xao xuyến, không
loạn động. Nếu trong tâm "lỡ" nổi loạn, tạp niệm khởi lên,
chúng ta liền biết ngay và dừng lại kịp thời, thì đó chính là
thiền định vậy.
Tổ Ðiều Ngự Giác Hoàng, tức là Hoàng Ðế Trần
Nhân Tôn nhường ngôi, đi tu, trở thành Sơ Tổ Thiền Phái Trúc Lâm, có
dạy rằng:
"Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Ðối cảnh vô tâm mạc vấn thiền".
Nghĩa là dù sống trên trần đời, muốn được vui theo
đạo lý, hãy đừng chấp chặt, tùy duyên hành sự, tùy hoàn cảnh mà ứng
xử. Chẳng hạn như đói đến thì ăn, mệt ngủ khò. Chẳng có gì đòi
hỏi, chẳng có gì buồn lo, chẳng có gì bận tâm, chẳng có gì ưu phiền.
Trong mỗi con người chúng ta, ai ai cũng có "của báu", đó chính
là "con người chân thật" của chúng ta. Cho nên chẳng cần chạy vào
chùa, hay lên non lên núi, tìm kiếm làm gì cho mất công, nhọc sức vô
ích. Trong cuộc sống hiện nay, đối với các cảnh trần đời, chúng ta đừng
khởi vọng tâm lăng xăng lộn xộn, thương thương ghét ghét, phải quấy
thị phi, tranh đua hơn thua. Lúc đó, chính là lúc chúng ta đạt được
thiền định, hiểu được và sống được với "con người chân
thật" của chính mình. Ðó chính là mục đích cứu kính của đạo Phật
vậy.
6) Thứ sáu là Trí tuệ.
Trí tuệ trong đạo Phật, kinh sách gọi là trí tuệ bát nhã, không
phải sự hiểu biết, kiến thức, trí thức của thế gian. Ở
thế gian, người trí thức là người học cao hiểu rộng, có bằng cấp
các ngành, nhưng vẫn sống trong trong sanh tử luân hồi, thường gặp phiền
não khổ đau. Trí tuệ trong đạo Phật là sự nhận thức sáng suốt, đưa con
người đến chỗ giác ngộ và giải thoát, được an lạc và hạnh phúc.
Người có trí tuệ là người có chánh kiến, nghĩa là người thấy muôn
pháp, biết muôn việc "đúng như thực", không mê lầm điên
đảo, không mê tín dị đoan, không nhận giả làm chân, không chấp chặt thành
kiến. Chẳng hạn như khi thấy việc gì xảy đến cho mình hay cho
người, chúng ta biết ngay rằng: đó là kết quả hay hậu quả của một
việc hay nhiều việc đã làm trước đây. Không bao giờ tự nhiên có
khói, mà không do lửa phát sanh. Không bao giờ tự nhiên có sóng, trong khi gió
lặng yên. Không bao giờ tự nhiên có cái cây mọc lên, mà không có hạt
giống trong đất trước đó. Nhờ đó, chúng ta không ngạc nhiên, khi có
chuyện may mắn đến, cũng như không đau khổ, khi có chuyện xui xẻo
xảy ra.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Chư
pháp tùng duyên sanh. Chư pháp tùng duyên diệt". Nghĩa là mọi
việc muôn sự trên thế gian này, trong kinh sách gọi là chư pháp,
tùy theo nhân duyên mà sanh ra, cũng tùy theo nhân duyên mà diệt đi. Không
có việc gì sanh diệt mà không có nguyên nhân. Không có cái gì, vật
gì, việc gì tự nhiên xảy ra, tự nhiên sanh ra, tự nhiên xuất hiện.
Không có cái gì, vật gì, việc gì tự nhiên biến mất, tự nhiên
diệt đi, tự nhiên không còn nữa. Chẳng hạn như khi thấy một tòa nhà sụp
đổ, một tình bạn kết thúc, chúng ta hiểu ngay phải có nguyên nhân và
cũng hiểu rằng không có chuyện gì trên đời tồn tại vĩnh viễn. Nhờ
đó, chúng ta có thể giữ gìn được tâm trí bình tĩnh thản nhiên, khi
mọi chuyện tang thương biến đổi xảy ra trong cuộc đời.
Không có cái gì, vật gì, việc gì do ông trời, do
thượng đế sanh ra cả. Chẳng hạn như một cơn mưa do hội đủ nhân duyên
mà có, chứ làm gì có ông thần mưa, ông thần gió, ông thần sấm, ông thần
sét, ông thần sông, ông hà bá, như người xưa tin tưởng, khi khoa học
chưa phát triển. Bây giờ con người còn có khả năng làm mưa nhân tạo, ở
bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào. Tại sao thượng đế làm ra cuồng phong,
bão tố, lũ lụt, động đất, để giết hại con người? Thượng đế
vẫn còn nổi cơn thịnh nộ, nổi cơn sân hận, để giáng họa trừng phạt
con người ngoan cố, không nghe theo, không làm theo, như vậy có khác gì những
kẻ phàm phu tục tử ở trên đời này, hay nổi sân hận, khi gặp chuyện
không vừa ý?
Nếu chỉ đọc giáo lý của đạo Phật và chỉ
biết Phật giáo qua lý thuyết, ắt là không đủ. Không học
hiểu giáo lý, không thực sự biết Phật giáo như thế nào, chỉ
nhắm mắt làm theo những tập tục cổ truyền một cách máy móc, tức nhiên
là sai lầm và thiếu sót nặng nề. Học mà không hành thì khác nào
cái đãy sách, cái tủ sách, cái tàng kinh các. Hành mà không học
hiểu, khác nào người đi trong đêm tối, không có đèn đuốc, đụng đầu
lọt hố, bất cứ lúc nào! Trọng Phật tin Phật mà không nghe Pháp
học Pháp, như vậy chưa phải là đệ tử chơn chánh của Ðức Phật. Vì
không nghe Pháp học Pháp, làm sao thực hành đúng theo lời Phật dạy
được? Do đó, con người sống mãi trong vô minh, mờ mịt u tối, si mê lầm
lạc, bao giờ mới giác ngộ và giải thoát được, bao giờ mới hết phiền
não giảm khổ đau được? Chư Tổ có dạy: "Tu mà không học
là tu mù. Học mà không tu là đãy sách", chính là nghĩa
đó vậy.
Chúng ta cần phải phát tâm học Phật Pháp, nếu
muốn có được trí tuệ "đúng như thực", còn gọi là
"trí tuệ bát nhã". Ðó chính là "phước báu" tối
thượng. Người có trí tuệ bát nhã, chiếu kiến ngũ uẩn giai không,
độ nhứt thiết khổ ách. Nghĩa là con người muốn được tự tại, muốn
không sợ hãi, muốn qua mọi khổ ách, thì phải có trí tuệ bát nhã,
thấy tất cả các pháp đều không thực, không tồn tại vĩnh viễn, không cố
định. Cái thân ngũ uẩn của chúng ta cũng là một trong các pháp trên thế
gian, cho nên cũng sẽ biến hoại sau một thời gian tại thế, không có gì
đáng luyến tiếc, than thở, khổ đau. Chỉ có "con người chân thật
không sanh diệt" mới là cứu kính mà thôi. Ðó là những lời dạy vô
cùng quí báu của Ðức Phật, đó là bản đồ hướng dẫn chúng ta đạt được
cuộc sống an lạc và hạnh phúc, tiến đến chỗ giải thoát và giác
ngộ.
* * *
Tóm lại, trong cuộc sống hằng ngày, có rất nhiều
cơ hội, có rất nhiều cách, có rất nhiều phương pháp, để cho con
người làm phước, tạo phước, kiếm phước. Dù là phước hữu lậu hay vô
lậu, đều có công năng giúp con người có cuộc sống bình yên, ít đau
khổ, bớt phiền não, để tiến tới chỗ giải thoát khỏi vòng sanh
tử luân hồi. Phước hữu lậu do những việc làm tạo sự an vui thoải mái,
có ích lợi cho người, giúp đỡ người lúc gặp khó khăn về vật chất hay
tinh thần. Phước hữu lậu có công năng đem lại sự may mắn, tai qua nạn khỏi,
chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, bớt oan trái, giảm
nghiệp báo. Người làm phước với ước mong được hưởng phước về
sau, đó là phước hữu lậu, còn trong vòng sanh tử luân hồi.
Phước vô lậu do những việc làm có ích lợi cho
người, nhưng đồng thời cũng chuyển hóa được con người chính mình, thí
dụ như bố thí cúng dường, tụng kinh niệm Phật, tư duy thiền quán, tu
tâm dưỡng tánh. Người làm phước với tâm từ bi hỷ xả, không cầu mong
được hưởng phước về sau, chỉ cố gắng tu học để tiến dần
đến chỗ giác ngộ và giải thoát, đó là phước vô lậu, vượt khỏi
vòng sanh tử luân hồi. Trong lúc thực hiện hành động tạo phước, không
nghĩ rằng mình đang làm phước, giúp đỡ người khác vì tình thương, do
lòng tốt tự nhiên, với tâm bất vụ lợi, vì người quên mình, đó là hành
động tạo phước cao thượng nhứt, đem lại "phước báu" vô lượng vô
biên, không thể nghĩ bàn.
Phước hữu lậu ví như tiền tiết kiệm, có
khả năng giúp con người giàu sang, sung sướng, may mắn, bình yên. Hưởng
phước này có ngày cũng cạn, cũng dứt. Khi đó, con người sẽ phải đền
trả những nghiệp báo trước kia. Chúng ta đã từng thấy các ông vua, các
bà hoàng, các hoàng tử, các công chúa, các nhà giàu có trưởng giả, thế
lực quyền quí, cao sang danh vọng, các lãnh tụ chính trị, các lãnh tụ
tôn giáo, khi hưởng hết phước báo hữu lậu, họ phải chịu nhiều
tai nạn, khổ ách, tán gia bại sản, thân bại danh liệt, thậm chí có
thể mất mạng thê thảm, không chỗ chôn thân! Trong Kinh A Hàm, Ðức
Phật có dạy: "Phước báo con người đang hưởng ví như mũi tên bắn
lên không trung, đến khi hết trớn, rớt trở xuống đất rất nhanh",
chính là nghĩa phước hữu lậu đó vậy. Bởi vậy cho nên, Ðức Phật dạy chúng
ta khi làm phước, đừng mong cầu hưởng phước báo, mà nên nguyện được
phước duyên, đời đời gặp Chánh Pháp, gặp thầy lành bạn tốt, giúp đỡ tu
tập, cho đến ngày giác ngộ và giải thoát, mà thôi.
Ðiều dĩ nhiên ai ai cũng có thể hiểu được
là: tất cả những hành động nào, những lời nói nào, những ý nghĩ nào,
ngược lại với việc tạo "phước báu", chính là hành động, lời
nói, ý nghĩ, tạo tội lỗi, tạo nghiệp báo xấu vậy! Tội lỗi là
do hành động, lời nói hay ý nghĩ làm cho mình, cho người khác đau khổ
trong hiện tại và vị lai, dù vô tình hay cố ý. Trong Kinh A Hàm, Ðức
Phật có dạy: "Chỉ có phước báo mới có thể giảm thiểu
nghiệp báo mà thôi". Con người tạo tội nghiệp từ trước,
đến lúc phải đền trả quả báo, nhẹ thì bị chửi mắng, đau yếu,
nặng thì gặp tai nạn, thậm chí mất mạng.
Tội nghiệp do con người tạo tác, sanh ra tội báo
nghiệp báo, được ví như một nắm muối. Nếu phải bị nuốt nắm muối
đó, thì con người sẽ đau khổ biết là dường nào. Nhưng nếu có
thể bỏ nắm muối đó vào trong một tô nước rồi uống, thì có lẽ sẽ dễ
chịu hơn một chút. Nếu có thể bỏ nắm muối đó vào trong một lu nước
rồi uống, thì chắc sẽ dễ chịu hơn một chút nữa. Nếu bỏ nắm muối đó
vào trong một hồ nước lớn, rồi từ từ uống, thì chuyện sẽ không còn
thành vấn đề. Tô nước, lu nước, hồ nước tượng trưng cho "phước
báu", do chính chúng ta tạo được ít hay nhiều, sẽ giúp chúng ta tai
qua nạn khỏi, chịu đựng được quả báo, do tội nghiệp đã tạo trước
đây. Chuyện lớn sẽ hóa nhỏ, chuyện nhỏ sẽ hóa không, chuyện khó
sẽ hóa dễ. Chứ không phải chúng ta tạo tội nghiệp đầy dẫy trong cuộc
đời, gây đau khổ cho không biết bao nhiêu người thân kẻ thù, dù cho
nhân danh công lý lẽ phải, trả thù báo oán, gì gì đi nữa, rồi đến
lúc giựt mình thức tỉnh, bèn đem tất cả tội lỗi đã tạo, giao cho Trời
Phật gánh giùm, chịu tội thế cho mình, bằng cách đi chùa cúng kiến,
đi nhà thờ xưng tội, "thì mà là" tất cả tội lỗi đó tiêu tan
hết đâu? Con người thường có thói quen "quịt nợ", cho nên mới
có ý nghĩ như vậy!
Luật nhân quả không bao giờ sai chạy, dù cho con người
tu hành đắc thánh quả, vẫn phải chịu quả báo do những tội nghiệp đã
gây nên, từ nhiều đời nhiều kiếp trước kia. "Chỉ có phước
báo mới có thể giảm thiểu nghiệp báo mà thôi". Chúng ta nên
ghi nhớ lời Ðức Phật đã dạy. Ðọc lịch sử, chúng ta cũng đã nhận
thấy, ngay cuộc đời của Ðức Phật, cũng như các vị giáo chủ khác, vẫn bị
người đời gièm pha, vu khống, mạ lỵ, chửi bới, ám sát, xét xử, giam
cầm, giết hại. Nếu là bậc "phước tuệ lưỡng toàn" như
Ðức Phật, nghĩa là phước báu và trí tuệ đầy đủ, thì mọi
chuyện trở ngại trên thế gian này rồi cũng qua, cuộc đời kết thúc
một cách êm đềm, bình an, tự tại. Nếu không có đủ phước báo thì,
dù là bất cứ ai, cũng sẽ bị xử chết một cách thê thảm!
Khi Ðức Phật còn tại thế, có người ngoại đạo
đến hỏi Ðức Phật: Ngài có kinh điển nào đem đọc tụng, có
thể giúp cho đệ tử của Ngài vãng sanh niết bàn được không? Ðức
Phật trả lời rõ ràng: Không! Tại sao vậy? Bởi vì con người hiền
thiện, biết tu tâm dưỡng tánh khi còn sinh thời, tâm tư thanh thản,
nhẹ nhàng, thì nhứt định kiếp sau sẽ sinh ở cõi lành. Con người hung ác,
luôn luôn làm việc lợi mình hại người, bất chấp thủ đoạn, bất kể
sự phiền não khổ đau của tất cả mọi người, thì nhứt định kiếp
sau sẽ sinh vào tam đồ ác đạo, gồm có: địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.
Thí dụ như dầu nhẹ hơn nước thì nổi trên mặt nước, đá nặng hơn nước
thì chìm dưới đáy nước, không nghi ngờ gì cả, không thể nào khác hơn
được. Ðó là chân lý công bằng tuyệt đối vậy.
Cuối cùng, vấn đề sau hết là phân biệt "phước
báu" và "phước báo". Phước báu là từ
ngữ chỉ những hành động, lời nói và ý nghĩ, thiện lành quí báu,
tạo phước trong hiện tại, ví như chúng ta làm việc, kiếm tiền
sinh sống, có dư dả thì để dành về sau. Phước báo là từ ngữ chỉ
kết quả, còn gọi là quả báo lành, do những hành động, lời nói, hay
ý nghĩ thiện lành, từ nhiều đời trước cũng như đời này,
đến với chúng ta qua các dạng: thới hên, may mắn, bình yên, an ổn, đẹp
đẽ, vui vẻ, hạnh phúc, giàu sang, sung sướng, nhàn nhã, trong cuộc đời
hiện tại, ví như tiền tiết kiệm chúng ta dành dụm được từ
trước đến nay, bây giờ đem ra xử dụng khi cần thiết.
---
o0o
---
Mục Lục
Tập
1:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11|
12
Tập
2:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
Tập
3:
1|
2
|
3
|
4|
5|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
12|
13|
14
|15|
16
---
o0o
---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ
Chính
Trực
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ
sách
này
(Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục