Phật
tử nghiên cứu và học hỏi giáo lý của đức Phật là cốt tìm một phương pháp
giải thoát và an lạc cho chính mình. Cũng như ngày xưa, khi đức Phật còn
tại thế, các vị cư sĩ cũng đi đến với Ngài là để cầu sự chỉ giáo của Ngài,
hầu mong đem lại cho họ một cuộc sống hạnh phúc an vui.
Kinh Tăng Chi
Bộ tập IIIA ghi lại rằng:
"Một hôm, một
vị cư sĩ tại gia đệ tử của Ngài tên là Dìghajamnu (Đầu gối dài) đi đến
Ngài, đảnh lễ và bạch rằng:
- Bạch đức Thế
Tôn, chúng con là những người gia chủ, đang hưởng thọ các dục, sống hệ
phược với vợ con, dùng các thứ hương hoa phấn sáp, lãnh thọ vàng bạc; bạch
Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho những người như chúng con, thuyết như
thế nào để pháp ấy đem đến cho chúng con hạnh phúc an lạc ngay trong hiện
tại và hạnh phúc an lạc cả trong tương lai".
Ngày nay, các
Phật tử tại gia trong thời đại chúng ta, dù không nói ra những điều thầm
kín trong tâm tư của mình, nhưng có lẽ cũng ôm ấp một hoài bảo tương tự,
ấy là, làm thế nào để với tư cách là một tại gia cư sĩ, còn thọ hưởng dục
lạc, có được một đời sống hạnh phúc an lạc ngay trong hiện tại và cả về
tương lai?
Mặc dù vị
thương gia Dìghajamnu (Đầu gối dài) này sống với dục lạc thế gian, nhưng
ông nhận thấy những tài sản vật chất chỉ giúp cho ông được sống, chứ không
giúp cho ông được an lạc. Ông sống trong vòng vây giữa quyến thuộc vợ con
đầy đủ, danh vọng tràn trề, tài sản sung túc, nhưng tâm tư còn trĩu nặng
những lo âu sợ hãi, tham lam thù hận, ước vọng thèm khát không bao giờ
dừng nghĩ, ông nghĩ rằng ông không bao giờ có được an lạc. Ông cầu mong
đức Phật dạy cho ông một phương pháp để đem lại cho đời sống tại gia như
ông một cuộc sống an lạc và hạnh phúc lâu dài. Ông cư sĩ ấy còn nhấn mạnh,
trong khi vẫn thụ hưởng dục lạc thế gian, chứ không phải xuất gia, sống
đời sống khất thực như các vị Tỷ-kheo.
Đó là một lời
thỉnh cầu rất tha thiết và chân thành, đồng thời cũng là một viên đá thử
vàng đối với đạo Phật. Đạo Phật với một lòng từ bi vô hạn, với một nền
giáo lý siêu việt, nhưng liệu có giúp ích gì cho đại đa số con người đau
khổ, còn lăn lóc trong thế gian hay không?
Câu trả lời của
đức Phật sau đây cho chúng ta thấy rằng, đức Phật đặc biệt chú trọng đến
đời sống của người tại gia cư sĩ biết là dường nào.
I. Bốn pháp
đưa đến hạnh phúc, an lạc cho hiện tại.
Đức Phật dạy cư
sĩ Dìghajamnu rằng: "Này Cư sĩ, có bốn pháp này đưa đến hạnh phúc và an
lạc ngay trong hiện tại". Thế nào là bốn?
- Đầy đủ sự
tháo vác,
- Đầy đủ sự phòng hộ,
- Làm bạn với thiện,
- Sống thăng bằng điều hòa.
1. Này Cư sĩ,
thế nào là "đầy đủ sự tháo vác"?
Nghĩa là tại
gia cư sĩ dù làm nghề gì cũng cần phải tinh xảo, siêng năng không biết mệt
mỏi, biết suy tư tìm hiểu, biết phương tiện hành động để vừa tự làm và
điều khiển người khác làm cho có lợi ích và đạt hiệu quả kinh tế cao.
2. Thế nào là
"đầy đủ sự phòng hộ"?
Nghĩa là những
tài sản do tháo vác siêng năng mà thu hoạch được, do mồ hôi đổ ra đúng
pháp tìm được, thì phải khéo giữ gìn phòng hộ, để cho khỏi bị vua tịch
thâu, bị trộm mang đi, bị lửa đốt, bị nước trôi, bị con cái hư hỏng phá
tan.
Đây là những
lời dạy rất thiết thực, vì hàng tại gia không như hàng xuất gia khất thực
để sống, họ còn nhiều bổn phận đối với cha mẹ, vợ con quyến thuộc nên cần
phải có một nghề nghiệp sinh sống chính đáng để làm ra của cải. Muốn thế
cần phải siêng năng, tinh xảo trong công việc và nghề nghiệp của mình. Nếu
không siêng năng tháo vác thì sẽ bị lôi cuốn vào những việc bất chính, làm
rối loạn xã hội chỉ vì đồng tiền không do mồ hôi đổ ra. Mỗi khi tiền của
do bất chính tạo ra không do sức mình thì tiền của vật chất ấy là tiền của
phi pháp, nó sẽ bị vua chúa tịch thu. Vậy cách giữ gìn của cải vật chất
khỏi bị vua mang đi là phải có nghề nghiệp chính đáng. Những tài sản nào
do mồ hôi kiếm được một cách khó khăn thì phải lo đề phòng, chớ để cho các
tai nạn như lửa, nước, trộm cướp và nhất là con cái bất hiếu phá hoại.
Trong xã hội
xưa cũng như nay, có nhiều gia đình giàu có mà vì quá thương con, sự giáo
dục lỏng lẻo, để con cái hư hỏng phá của không thương tiếc vào những cuộc
vui vô bổ như cờ bạc, rượu chè say sưa..., làm cha mẹ như vậy là dung
dưỡng cho những kẻ bất lương phá cửa, làm hại cho gia đình, xã hội và cả
quốc gia nữa. Khi đã phá tán tài sản của cha mẹ hết rồi, chắc chắn sẽ đi
vào phá làng, phá xóm, làm hại mọi người. Bởi thế, đức Phật dạy có của, có
tiền thì phải lo phòng hộ, đừng để lọt vào những trường hợp trên. Nghĩa là
ngoài việc làm giàu chính đáng do sức lao động của mình ra, cần phải chú
trọng đặc biệt đến sự giáo dục con cái cho cẩn thận để đưa nó vào đời, tạo
dựng cho con cái một cuộc sống hạnh phúc hầu góp phần vào sự giàu mạnh cho
xã hội.
3. Thế nào là
"làm bạn với thiện"?
Nghĩa là tại
nơi mình sinh sống trong làng hay trong thị trấn, có những gia chủ hay con
trai gia chủ có giới đức, đầy đủ lòng tin, đầy đủ trí tuệ và có lòng bố
thí thì nên làm quen, nói chuyện, thảo luận với họ. Từ những người đầy đủ
lòng tin, hãy học tập lòng tin. Từ những người đầy đủ giới đức, hãy học
hỏi giới đức. Từ những người đầy đủ bố thí hãy học hỏi bố thí. Từ những
người đầy đủ trí tuệ, hãy học tập trí tuệ. Đó là làm bạn với thiện.
Trong ba lời
dạy trên, hai lời dạy đầu là dạy làm ra của cải vật chất và cách giữ gìn
nó. Lời dạy thứ ba là lời dạy về pháp tài, tức là của cải tâm linh thuộc
về tinh thần. Áp dụng nó trong cuộc sống thì các cư sĩ theo Phật khỏi bị
mang tiếng, bị người chê cười là có của mà vô lương. Vậy người tại gia cư
sĩ phải trau dồi Phật pháp để có những ngôn ngữ, hành động, ý nghĩ, phù
hợp với giáo lý và trở thành Phật tử lợi đạo ích đời.
4. Thế nào là
"sống thăng bằng điều hòa"?
Nghĩa là khi
làm ra của cải cần phải chi dùng một cách thích ứng, không quá phung phí
mà cũng không quá bỏn xẻn. Nếu trong sự tiêu dùng hàng ngày, số xuất quá
số nhập sẽ dẫn đến phá sản và mất thăng bằng trong cuộc sống. Ngược lại,
chi tiêu quá bỏn xẻn, những việc cần chi không dám chi, không dám tiêu
dùng, thì sẽ trở thành người nô lệ của cải. Người làm chủ của cải vật chất
thì được sống an lạc, trái lại, bị vật chất làm chủ chi phối thì đó là nô
lệ lại cho của cải, sẽ gây ra khổ sở. Làm chủ vật chất là thế nào? Là khi
cần tiêu vào việc chính đáng thì phải tiêu, không cần tiêu thì giữ lại.
Tóm lại người bị của cải làm chủ là người có tiền mà cứ giữ bo bo, thậm
chí đến việc tiêu dùng cho bản thân cũng không dám, nói gì đến gia quyến
vợ con và bố thí cho người khác.
Như vậy sống
thăng bằng có nghĩa là không phung phí, cũng không nên bỏn xẻn. Phật dạy
bốn nguyên tắc để sống thăng bằng điều hòa là: 1. Không đam mê sắc dục; 2.
Không đam mê rượu chè; 3. Không đam mê cờ bạc; 4. Không giao du với kẻ ác.
Nếu đóng bốn cánh cửa ấy lại, thì tài sản sẽ không bị thất thoát, gia chủ
sẽ được sống an lạc.
II. Bốn pháp
đưa đến hạnh phúc, an lạc cho tương lai
Phật dạy làm
bạn với thiện là để trau dồi lòng tin, tăng trưởng giới đức, học tập cách
bố thí và trau dồi trí tuệ. Đó chính là bốn điều để sống an lạc trong
tương lai.
a. Thứ nhất,
đầy đủ lòng tin.
Phật tử quy y
Tam Bảo là thực hiện đầy đủ lòng tin.
b. Thứ hai,
tăng trưởng giới đức.
Phật tử thọ
giới là thực hiện đầy đủ giới đức. Là Phật tử mà không giữ gìn giới hạnh,
hành động tà vậ không xứng đáng với lời dạy của Thế Tôn, thì dù có xưng
là Phật tử cũng không phải là Phật tử. Cho nên đầy đủ giới đức mới xứng
đáng là con Phật.
c. Thứ ba, là
học tập bố thí.
Bố thí là hạnh
đầu tiên mà đức Phật dạy cho chúng ta thực hành. Con người vì lòng tham
đứng đầu nên gây mọi tội ác. Muốn điều phục nó thì phải bố thí. Bố thí là
san sẻ vật chất, khả năng, công lực, hiểu biết, tình cảm, giáo lý... là
những điều mình có mà người khác không có. Một nụ cười với người đang sợ
hãi cũng là một sự bố thí. Bố thí cao nhất là mở rộng lòng, mở rộng tâm
tư. Nếu chỉ biết thu mà không biết chi thì người ấy là người bỏn xẻn, ích
kỷ. Nếu xã hội chỉ gồm những người như vậy, thì xã hội ấy không có hạnh
phúc. Một gia đình ai cũng nghĩ đến bản thân, thì gia đình ấy không có an
lạc. Bố thí trước hết là dứt lòng tham, dứt tính bỏn xẻn và đặc biệt là
dứt lòng ganh tị. Khi có của, có quyền, có danh... mà họ muốn bố thí san
sẻ thì người đó phải làm như thế nào? Khi được người trân trọng, thì mình
phải đối lại bằng đức khiêm cung, thì đó cũng là hình thức bố thí. Bố thí
như vậy chẳng những tạo được hạnh phúc cho người mà còn làm an lạc cho
chính mình. Bởi thế, không phải chỉ có tiền của mới là bố thí được mà nên
hiểu rộng ra rằng ai có thân, có tâm là có thể bố thí được cả. Nếu trong
tâm mọi người đều luôn luôn nghĩ đến bố thí, thì sự đua tranh, ganh ttham
lam, bỏn xẻn sẽ giảm bớt rất nhiều.
d. Thứ bốn,
trau dồi trí tuệ.
Phật tử là con
của đấng Đại giác. Ngài đã chứng ngộ được thực thể vũ trụ, hiểu biết tâm
tánh chúng sanh, nên Ngài giáo hóa phù hợp với đủ mọi căn cơ và trình độ
của các hạng chúng sanh. Chúng sanh nhờ đó mà nuôi lớn tâm hồn. Phật tử là
con của đấng giác ngộ mà còn quá vô minh thì thật là không xứng đáng, do
đó mà cần phải trau dồi trí tuệ. Phật dạy: "Mọi sự tuần hoàn trong nhân
duyên nhân quả". Nghe như vậy, chúng ta cần phải suy xét ra như thế nào?
Nghe là văn tuệ, suy xét là tư tuệ. Văn tuệ là nghe, nhưng nghe cho đúng,
nghe phải có đầu có đuôi. Có người đi nghe thuyết pháp về, có ai hỏi thì
lại chỉ biết trả lời: Hay lắm mà tôi không nhớ hết. Vậy cần phải ghi nhớ
mỗi khi một ít, để tư duy rồi tu tập theo đó, tức là tu tuệ. Tu tuệ là
thực hành giáo lý bằng kinh nghiệm bản thân của mình. Qua thực hành văn,
tư mà tu mới thấu hiểu lời đức Phật dạy mà tu tập mới có kết quả.
Ngày xưa có một
lần Phật đi qua đồng ruộng, có Tôn giả A-nan theo hầu. Bỗng Ngài đưa tay
chỉ vào một bụi rậm bảo: Độc xà, A-nan! Tôn giả A-nan nhìn vào cũng nói:
Đại độc xà, Thế Tôn!
Tình cờ một
nông phu đi sau nghe lén, bèn vào xem là cái gì, anh ta khám phá một hủ
đầy vàng ròng, vô cùng mừng rỡ thầm bảo: nghe đồn Thế Tôn là bậc Nhất
thiết trí, cái gì cũng biết mà đây là vàng, Ồng lại bảo là rắn độc! Anh
liền khiêng vàng về, tạo mãi nhà cửa, ruộng đất, xe cộ. Xóm giềng thấy anh
lâu nay nghèo kiết xác, ăn bữa hôm lo bữa mai, nay bỗng dưng phát giàu,
thì không khỏi nghi ngờ, nên họ lên trình quan. Quan gọi lên tra hỏi và về
nhà lục xét, lấy hết vàng bạc châu báu và bắt anh bỏ tù. Ngồi trong ngục
tối, anh mới thấm thía lời Phật dạy, tưởng là từ nay sẽ được ăn cao lương
mỹ vị, thì ngược lại bị giam đói. Tưởng từ nay sẽ được nhà cao cửa rộng,
hóa ra lại nằm trong ngục, cảm kích lời Thế Tôn dạy, anh ta kêu to: "Độc
xà, A Nan! Đại độc xà, Thế Tôn".
Quan giữ ngục
nghe, hỏi lý do, anh kể đầu đuôi câu chuyện rồi kết luận: Giờ phút này ở
trong tù, tôi mới tỉnh ngộ, mới tin hiểu lời Phật dạy thật sâu xa vô cùng!
Nghe câu chuyện
trên, không dễ gì ngày nay chúng ta là Phật tử, chúng ta đã tỉnh ngộ, tin
theo lời dạy của đức Thế Tôn. Giả sử một mai đẹp trời, đi giữa đường gặp
một thỏi vàng như vậy, chúng ta có mang về không? Chắc cũng mang về. Cho
nên lắm lúc người đời bảo Phật dạy không thực tế, viễn vông! Hàng Phật tử,
chúng ta cần phải nhận thức cho rõ, có phải lời Phật dạy là chí lý không?
Hay chẳng qua vì lòng tham của chúng ta còn nặng, nên chúng ta không làm
ngơ được?
Nhưng khi chưa
nghe lời Phật dạy thì chúng ta sử dụng vàng một cách khác, nhưng khi đã
nghe rồi thì chúng ta sử dụng nó một cách khác. Nghĩa là chúng ta phải
biết học cách bắt rắn như trong kinh Xà Dụ có dạy, nếu bắt đằng đuôi nó sẽ
ngoái đầu cắn lại. Nếu dùng nạn chặn đầu đè xuống rồi mới bắt thì sẽ không
bị rắn cắn. Ở đây, điều đáng nói là đừng vị kỷ khi sử dụng. Tất cả mọi cái
vị kỷ điều xấu xa, trái lại những việc vị tha đều tốt. Nếu chúng ta đem
vàng về mà làm việc vị tha thì đó là chúng ta biết cách bắt rắn, không bị
rắn cắn. Suy rộng ra, không những vàng mà mọi chuyện khác cũng đều như
vậy. Nếu thiếu trí tuệ thì chúng ta làm sao hiểu hết lời thâm thúy của đức
Phật. Nếu có trí tuệ thì anh nông dân đã không vào tù. Vàng mà Thế Tôn bảo
là rắn độc, có người không tin thì không khác gì hôm nay đạo Phật nói đời
là đau khổ, vẫn có người không tin.
Nếu không có
trí tuệ thì chúng ta sẽ như anh nông phu nói rằng: Thật viễn vông, ở đời
có nhiều thứ vui đáng để thưởng thức lắm như xem xi-nê, nghe tân nhạc, xem
cải lương, xem video... bao nhiêu chuyện vui như thế sao lại nói đời là
đau khổ! Nhưng có biết đâu rằng cái vui đó là vui trong đau khổ?
Có trí tuệ là
có nhận thức, biết được sự việc trước khi nó xảy đến, chứ không phải chờ
nó xảy ra rồi mới biết. Trí tự giác là một ngọn lửa sáng từ trong tâm,
khiến cho chư Phật và Bồ-tát, Tổ sư thấy ngay được chân lý không cần thầy
dạy. Đó cũng gọi là vô sư trí, vô sư tự ngộ hay tự giác thánh trí. Nhưng
đó cũng là kết quả tu tập, công phu thực hành lâu đời lâu kiếp mới có
được.
Đã là Phật tử
mà lấy tà làm chánh, không biết phân biệt phải trái hay dở thì không phải
là người có trí tuệ và dễ trở thành mê tín dị đoan, tin theo tà sư ngoại
đạo. Đó là điều thứ tư mà Phật dạy cho hàng cư sĩ tại gia phải trau dồi
trí tuệ để được hạnh phúc trong hiện tại và tương lai.
Trong cuốn
"What the Buddha taught" của tiến sĩ Wallop Rahula, có nhận xét: Những
người nghĩ rằng Phật giáo chỉ quan tâm đến những lý tưởng cao siêu, tư
tưởng triết lý và đạo đức siêu phàm, và không kể đến lợi ích xã hội và
kinh tế của con người, là sai lầm. Đức Phật rất quan tâm đến hạnh phúc con
người. Đối với Ngài, không thể có hạnh phúc mà không sống một đời sống
trong sạch, dựa trên những nguyên tắc đạo đức và tâm linh. Nhưng Ngài biết
rằng sống một đời như vậy rất khó trong những điều kiện xã hội và vật chất
không thuận.
Phật giáo không
xem hạnh phúc vật chất như một cứu cánh: nó chỉ là một phương tiện để đến
một cứu cánh - một cứu cánh cao quý hơn. Nhưng đấy là một phương tiện rất
cần thiết, cần thiết để hoàn thành một mục đích cao hơn cho hạnh phúc nhân
loại. Bởi thế Phật giáo công nhận sự cần thiết của một vài điều kiện vật
chất tối thiểu thuận tiện cho sự thành công của tâm linh - ngay cả đối với
một Thiền sư thiền định trong một nơi cô tịch nào.
Đức Phật không
xét đến sự sống một cách tách biệt ra ngoài bối cảnh kinh tế và xã hội.
Ngài nhìn đời trong toàn diện, trong tất cả mọi phương diện xã hội, kinh
tế và chính trị của nó. Những lời dạy của Ngài về những vấn đề đạo đức,
triết lý và tâm linh đã được khá nhiều người biết đến. Nhưng người ta biết
rất ít, nhất là ở Tây phương, về giáo lý của Ngài trong những vấn đề xã
hội, kinh tế và chính trị. Tuy vậy có rất nhiều bài giảng của ngài bàn về
những vấn đề ấy rải rác khắp các bản kinh văn cổ xưa của Phật giáo. Ta hãy
lấy chỉ một vài thí dụ: Kinh Chuyển luân Thánh vương Sư tử hống
(Cakkvattisìhanàda-sutta, Trường bộ kinh, Dìghanikàya) số 26, nói rõ rằng
sự nghèo khó (dàliddiya) là nguyên nhân của vô đạo và tội ác như trộm cắp,
tà vạy, bạo động, thù hằn, độc ác v.v... Những vị vua chúa ngày xưa, cũng
như các chính phủ ngày nay, cố đàn áp tội lỗi bằng hình phạt. Kinh
Kùtadantasutta cùng thuộc bộ ấy giải thích sự vô ích của hình phạt, nói
rằng phương pháp ấy sẽ không bao giờ thành công. Thay vì vậy, đức Phật đề
nghị rằng, muốn diệt tận gốc các tội lỗi, thì cần phải cải thiện điều kiện
kinh tế của con người: cần phải cung cấp cho tá điền và nông phu hạt giống
và phương tiện trồng trọt khác, vốn phải được cung cấp cho những thương
gia và những người buôn bán; lương hướng thích đáng phải được trả cho
những người làm công. Khi mọi người đều được cung cấp những cơ hội để kiếm
được một lợi tức đầy đủ họ sẽ bằng lòng, không sợ hãi lo âu và do đó xứ sở
sẽ thanh bình và không có các tội lỗi.
Bởi vậy, đức
Phật thường dạy những cư sĩ tại gia tầm quan trọng của sự cải thiện điều
kiện kinh tế. Điều này không có nghĩa Ngài tán đồng sự tích trữ tài sản
với lòng khao khát và ràng buộc, vì nó trái ngược với giáo lý Ngài, và
cũng không phải Ngài tán đồng bất cứ phương tiện sinh nhai nào. Có vài
nghề thương mãi như sản xuất và mua bán khí giới bị Ngài cấm chỉ, xem như
là những phương tiện sinh sống không chân chính như ta đã thấy trước đây.
Đôi khi đức
Phật còn đi vào những chi tiết về để dành tiền bạc và tiêu dùng, chẳng hạn
như khi Ngài bảo thanh niên Sigàla rằng anh ta nên dùng 1/4 lợi tức vào sự
tiêu pha hàng ngày, một nửa lợi tức để đầu tư vào việc kinh doanh và để
riêng 1/4 phòng khi nguy cấp.
Một hôm đức
Phật bảo Cấp Cô Độc (Anàthapindika) một thương gia danh tiếng, một trong
những đệ tử tại gia thuần thành nhất của Ngài đã lập cho Ngài tu viện
Kỳ-đà (Jetavana) hữu danh ở Xá-vệ (Sàvatthi) rằng một cư sĩ sống đời
thường nhật, có bốn thứ hạnh phúc:
- thứ nhất là
thụ hưởng sự bảo đảm về kinh tế hay tài sản đầy đủ kiếm được bằng những
phương tiện chính đáng (sở hữu lạc - atthi-sukha);
- thứ hai là tiêu dùng tài sản ấy một cách rộng rãi cho chính mình, cho
gia đình bà con, bè bạn và trong những việc công đức (thọ dụng lạc -
bhoga-sukha);
- thứ ba là không có nợ nần (vô trái lạc - anana-sukha);
- thứ tư là sống một đời trong sạch, không phạm những điều ác trong ý
nghĩ, lời nói hay hành vi (vô tội lạc - anavajja-sukha).
Ở đây ta phải
chú ý rằng trong bốn thứ này, ba thuộc về kinh tế, và cuối cùng đức Phật
còn nhắc cho thương gia ấy biết rằng hạnh phúc về kinh tế và vật chất thì
không "đáng một phần mười sáu" của hạnh phúc tâm hồn phát sinh từ một đời
sống không lỗi lầm và lương thiện.
Qua những ví dụ
kể trên, ta có thể thấy rằng đức Phật xem sự thoải mái về kinh tế là cần
thiết cho hạnh phúc con người, nhưng Ngài không công nhận sự tiến bộ là
chân thật nếu nó chỉ thuần vật chất, không có một nền tảng đạo đức và tâm
linh. Trong khi khuyến khích sự tiến bộ vật chất, Phật giáo luôn luôn nhấn
mạnh đến sự phát triển đạo đức và tâm linh để kiến tạo một xã hội hòa bình
an lạc. (Trí Hải dịch, Tu thư Đại học Vạn Hạnh xuất bản 1974).
Tóm lại, đức
Phật dạy cho người tại gia bốn pháp an lạc cho hiện tại là: Tháo vác,
phòng hộ của cải bằng nghề chân chính, làm bạn với thiện và sống điều hòa
thăng bằng. Và bốn pháp tạo hạnh phúc cho tương lai, đời sau là: Lòng tin,
giới đức, bố thí và trí tuệ. Có đủ tám điều như vậy, thì giờ phút nào, ở
đâu, chúng ta cũng xứng đáng là Phật tử, không những lợi ích cho chính
mình mà còn lợi ích cho nhiều người khác nữa. Cho nên Phật tử muốn hộ trì
Chánh pháp phải cần có trí tuệ thì việc làm mới thành tựu viên mãn.
---o0o---
Source:
www.buddhismtoday.com
Trình
bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
05-10-2001