.
Cư
Trần
Lạc
Ðạo
(Trọn
bộ 3 tập)
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
---
o0o
---
Tập
1
(12)
Xuân Di Lặc
Theo truyền thống
từ lâu đời của Tổ Tiên, từ nơi đô thành thị tứ, cho đến nông thôn
xóm làng, vào ngày mùng một Tết Nguyên Ðán hằng năm, chúng ta cùng gia
đình, thường hay đi chùa, lễ Phật tụng kinh, chí tâm cầu nguyện, chư
Phật mười phương, thùy từ gia hộ, nhà cửa bình yên, gia đạo hạnh phúc, từ
đầu năm chí những cuối năm. Ðồng thời chúng ta cũng gửi đến nhau những
lời cầu chúc một năm tốt đẹp, vạn sự như ý, an lạc kiết tường.
Trong nhà Phật, ngày mùng một Tết Nguyên Ðán đầu năm cũng là ngày vía
đức Bồ Tát Di Lặc.
Chúng ta thường tụng: Nam Mô Ðương Lai
Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật. Nghĩa là theo kinh điển Phật giáo, Bồ Tát Di Lặc
sẽ thành một vị Phật trong tương lai. Như vậy, lễ vía đức Bồ Tát Di Lặc
ngày đầu năm, đối với mọi người, mang ý nghĩa hy vọng được
vạn sự kiết tường, vạn sự như ý trong năm mới. Còn đối với những
người tu học, ngày vía đức Bồ Tát Di Lặc còn mang một ý nghĩa
trọng đại, đó là sự tinh tấn tu tâm dưỡng tánh, quyết tâm quyết
chí để chuyển hóa tâm trí, từ một phàm phu tục tử, đầy dẫy
phiền não và khổ đau của ngày hôm nay, trở thành sáng suốt, giác ngộ và
giải thoát của một vị Phật trong tương lai.
Nhân dịp đầu xuân năm nay, chúng ta hãy
lắng lòng, dẹp qua một bên niềm ưu tư về những chuyện thăng trầm
của thế sự, cùng nhau cố gắng tìm hiểu về đức Bồ Tát Di Lặc và
những hạnh nguyện của Ngài, để áp dụng ngay trong cuộc sống của
người Phật Tử tại gia, nhằm mục đích tạo được sự an lạc và hạnh phúc
một cách trọn vẹn và thiết thực.
Theo quan niệm thông thường của dân
gian, người ta thường kiêng cử đủ thứ chuyện trong ngày đầu năm mới,
bởi vì cho rằng, chuyện gì xảy ra trong ngày đầu một năm sẽ
"dông" suốt cả năm, nghĩa là chuyện đó sẽ được lặp lại
nhiều lần trong suốt năm đó. Người ta coi hướng tốt để xuất hành,
chọn những người "tốt tên tốt tướng" để mời đến nhà
xông đất đầu năm, với niềm hy vọng được "hên" trọn
năm, được tài lộc dồi dào suốt năm. Chẳng hạn người tên "Vinh"
đi cùng với người tên "Quang", hoặc người tên "Tấn" đi
cùng với người tên "Phát", hoặc người tên "Tài" đi cùng
với người tên "Lộc" đến thăm, trong ngày đầu năm thì được
lắm, tốt lắm, hoan nghênh. Còn như người tên "Quan" đi cùng với
người tên "Tài", thì không được đâu. Ngày đầu một năm người ta
kiêng cử không quét nhà, kiêng cử không khua chén đũa bát đĩa, với
niềm hy vọng giữ được sự sung túc, an hòa trong gia đạo suốt năm.
Thực sự, ai ai cũng biết rằng những
điều đó không đúng thực tế, người ta chỉ nghĩ và làm theo thói
quen, theo phong tục tập quán, với niềm hy vọng được điều này
điều kia, chứ không có căn cứ vào đâu cả, và nhất là không đúng với
Chánh Pháp, nhưng cho đến ngày nay, vẫn còn không ít người cứ tin như
vậy. Bởi thế cho nên, trong đạo Phật, chư Tổ chọn ngày mùng một
Tết Nguyên Ðán là ngày vía đức Di Lặc và Phật Tử chúng ta thường
gọi mùa xuân hằng năm là "Xuân Di Lặc", mang ý
nghĩa "Xuân Hoan Hỷ", "Xuân Hy Vọng", hay "Xuân
Hạnh Phúc". Ý nghĩa này hết sức tích cực, thâm trầm và lợi ích,
chúng ta nên cùng nhau tìm hiểu.
* * *
Trước hết, chúng ta được biết,
hình ảnh của đức Di Lặc được thờ trong các chùa, trông rất khỏe mạnh, mập
mạp, và gương mặt luôn luôn tươi cười một cách hoan hỷ. Ðặc biệt,
chúng ta thấy có sáu đứa bé bám trên thân của Ngài. Ðứa thì móc mắt,
đứa thì móc mũi, đứa thì móc miệng, đứa thì chọc lỗ tai, đứa
thì moi rún, mà Ngài vẫn tươi cười, như không có chuyện gì làm cho
Ngài phải phiền hà bực dọc hết trơn. Hình ảnh của sáu đứa bé
chính là bài học tích cực, giúp chúng ta xây dựng được một cuộc sống
an lạc và hạnh phúc cho chính chúng ta và cho những người chung quanh, ngay
trong hiện đời, ngay trong cuộc sống đầy phiền não và khổ đau này.
Có người còn gọi bức tượng đó là
"Phật Hoan Hỷ". Ðầu năm đến chùa cúng vái Ngài để
được "hoan hỷ" suốt năm. Nhưng cũng có nhiều người hiểu
lầm cho đó là vị thần có nhiều con cái, để những ai muốn có con,
hãy đến lễ lạy Ngài mà cầu xin! Cũng có nhiều người lầm lẫn với
bức tượng khác của một vị thần to béo, miệng cười toe toét, có vẻ
khoái trá, hai tay nâng một lượng vàng, đó chính là tượng thần tài, không
liên quan gì đến Phật giáo.
Sáu đứa bé bám vào thân của Ngài đó
tượng trưng cho "lục tặc", tức là sáu tên giặc chuyên gây phiền
não, gây rắc rối, gây bực dọc cho chúng ta trong cuộc sống thường ngày.
Sáu tên giặc đó là những ai? Làm sao chúng có thể gây rắc rối cho cuộc
đời của chúng ta được? Chúng ta cần nhận diện rõ ràng sáu tên giặc
đó, mới có thể điều phục được chúng, để xây dựng cuộc sống
an lạc và hạnh phúc, một cách tích cực hơn.
Chúng ta có lục căn, tức là sáu giác
quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Với hai con mắt, chúng ta trông thấy
những hình ảnh nào dễ thương, hạp nhãn, thì sanh tâm đắm nhiễm, nhớ nhung,
tham luyến, muốn chiếm đoạt làm của riêng mình; còn nếu trông
thấy những hình ảnh khó ưa, xấu xí, thấy phát ghét, thì sanh tâm bực
dọc, tức giận, bất an. Với hai cái tai, chúng ta nghe những tiếng êm
dịu, tâng bốc, thì sanh tâm đắm nhiễm, ưa thích; còn nếu nghe những lời
chỉ trích khó nghe, chạm đến tự ái, chạm đến bản ngã to lớn của
mình, thì không kham nhẫn, nên sanh tâm sân hận, oán ghét, bất an. Với cái
mũi, chúng ta chỉ thích những mùi hương thơm ngát, dễ chịu và ghét những
mùi khó chịu, những mùi lạ không vừa ý, nên sanh tâm bực dọc, bất
an. Với cái lưỡi, chúng ta chỉ thích ăn ngon khoái khẩu, hạp vị, mà không
nghĩ đến sự đau khổ của các chúng sanh bị giết làm thịt; còn
nếu không được ngon miệng, thì sanh tâm bực bội, gắt gỏng, bất an.
Với cái thân tứ đại giả tạm này, nhưng vì mê lầm, chúng ta thường chấp
là chính mình, chúng ta chỉ thích mặc đẹp và những xúc chạm vừa ý; còn
nếu không được như ý, thì sanh tâm cau có, quạu quọ, tức tối,
bất an. Quan trọng hơn cả với cái tâm ý lăng xăng lộn xộn, không một
giây phút ngừng nghỉ, chúng ta luôn luôn suy tư, nghĩ tưởng lung tung, linh
tinh lang tang, tính toán những điều gì có lợi cho bản thân mình, cho gia
đình mình, cho tổ chức mình, luôn luôn khen mình khinh người.
Nghĩa là trong cuộc sống hằng ngày, khi
"sáu căn" của chúng ta tiếp xúc với "sáu trần", mà tâm
niệm khởi lên thế này thế nọ, trong kinh sách gọi là
"sáu thức", tức là phiền não bất an dấy lên vậy. Trong trường
hợp như vậy, lục căn của chúng ta chính là lục tặc, tức là sáu tên giặc,
đã, đang và sẽ dẫn dắt chúng ta vào sanh tử luân hồi, nhiều đời
nhiều kiếp. Nói cách khác, sáu căn của chúng ta chính là cội gốc của
sinh tử luân hồi. Người ta thường nói: "tam bành" (tham, sân, si) do
"lục tặc" (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) gây ra, chính là nghĩa
đó vậy.
Tuy nhiên, trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức
Phật có dạy: "Sáu căn chính là cội gốc của sanh tử luân hồi và sáu
căn cũng chính là cội gốc của giải thoát niết bàn". Tại sao vậy?
Bởi vì, nếu lục căn của chúng ta, tức là sáu giác quan, gồm có: nhãn,
nhĩ, tĩ, thiệt, thân và ý, khi tiếp xúc với lục trần, tức là sáu
trần cảnh bên ngoài gồm có: sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp, mà không
đắm nhiễm, không dính mắc, không sanh lục thức, thì chúng ta đâu có bị
phiền não, trong lòng đâu có nổi "tam bành". Tức là chúng ta
không tham, không sân, không si, dù vẫn thường xuyên tiếp xúc với mọi
người mọi cảnh trong cuộc đời. Giữ gìn được như vậy tức là chúng ta
được giải thoát khỏi phiền não khổ đau, sống trong cảnh giới Niết
bàn an lạc vậy.
Mắt trông thấy hình sắc thì biết rõ
ràng người nào là người nào, món này là món này, nhưng không khởi
niệm thương hay ghét, ưa hay không ưa. Tai nghe thấy tiếng thì biết
rõ ràng là tán thán hay phê phán, nhưng không khởi niệm khoái chí hay
bực bội. Mũi ngửi thấy mùi thì biết rõ ràng là mùi hương gì, nhưng
không khởi niệm thích hay không thích. Lưỡi nếm vị thì biết rõ
ràng là vị gì, nhưng không khởi niệm khen ngon hay chê dở. Thân xúc chạm
thì biết rõ ràng là tốt hay xấu, nhưng không khởi niệm dễ chịu hay
khó chịu. Tâm ý nghĩ suy thì biết rõ ràng là đúng hay sai, phải hay
quấy, nhưng không khởi niệm kỳ thị, đố kỵ, so sánh, hơn thua, tranh
chấp. Do đó, chúng ta đâu có bị kéo lôi, không có bị cột trói vào
chuyện thương thương ghét ghét, chuyện đấu tranh tranh đấu,
chuyện lặp đi lặp lại, chuyện nói tới nói lui, chuyện nói xuôi
nói ngược, nghĩa là chúng ta đã thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi khổ đau
đó vậy.
Thí dụ như mắt trông thấy lượng vàng,
trông thấy kim cương hột xoàn, mà chúng ta không nổi lòng tham lam, ham thích,
muốn sở hữu nó, thì đâu phải khổ công khó nhọc, đi làm đầu tắt mặt
tối, để mua sắm nó. Còn nếu bản thân, vốn đã lười biếng, không
chịu làm việc, mà lại tham lam, muốn có lượng vàng, muốn có hột xoàn,
thì còn khổ hơn, gấp muôn bội phần! Không phải là chúng ta không cần
tiền để sinh sống, nhưng cổ nhơn có dạy: "Tri túc tiện túc
đãi túc hà thời túc. Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn".
Nghĩa là người nào biết đủ thì lúc nào cũng thấy đủ và người nào
biết nhàn thì lúc nào cũng thấy nhàn. Chỉ cần "biết" như
vậy thì cuộc đời đã đủ quá rồi, đã nhàn quá rồi. Bằng như ngược lại,
bao nhiêu mới gọi là đủ, chừng nào mới gọi là nhàn? Con người bận
lo toan chuyện tranh danh đoạt lợi suốt cả cuộc đời, cho nên không bao giờ
thấy đủ, chưa bao giờ thấy nhàn, chẳng kịp tỉnh thức thì đầu đã bạc
trắng, thân đã mỏi mòn, không còn thời giờ để lo liệu sắm sửa hành
trang, thì đã phải đi du lịch thế giới khác rồi!
Trong Kinh Di Giáo, Ðức Phật có dạy:
"Tri túc chi nhơn tuy ngọa địa
thượng du vi an lạc.
Bất tri túc giả thân xử thiên đàng diệc bất xứng ý".
Nghĩa là người biết thế nào là
đủ, tuy nằm trên đất cũng lấy làm an lạc, vui sướng. Người không biết
thế nào là đủ, dù thân có ở thiên đàng, tâm cũng vẫn không vừa
ý! Chỉ cần "biết" như vậy thì cuộc đời an lạc và hạnh phúc
hiện tiền! Bằng như ngược lại, dù có được cầu chúc tiêu diêu nơi
miền cực lạc hay siêu thăng về cõi thiên đàng trên báo chí, cũng
khó mà được lắm thay!
Thí dụ như tai nghe thấy tiếng khó
nghe, mà tâm không chấp những lời vô nghĩa, thì chúng ta đâu có nổi lòng
sân, và đâu có bị lôi vào vòng sanh tử luân hồi khổ đau. Trong kinh
điển, Ðức Phật có dạy chúng ta là "y nghĩa bất y ngữ", tức là
chỉ nghe theo những lời nói có nghĩa, mà không chấp những lời nói suông vô
nghĩa. Nếu có người mắng chúng ta là đồ ngu, mà chúng ta nổi sân, cãi
lại cho ra lẽ, thì quả là chúng ta ngu thật rồi, còn gì nói nữa. Nếu có
người miệt thị chúng ta mất uy tín quá, mà chúng ta khiêm nhường chẳng
thấy mình có uy tín gì để mà mất, thì bình yên quá! Những lời nói vô
nghĩa như vậy khi đến nhĩ căn của chúng ta, tức là hai cái lỗ tai,
cũng giống như gió thoảng mà thôi! Ðược như vậy, chúng ta sẽ sống cuộc
đời an lạc và hạnh phúc, không nghi.
Bởi vậy, có một bài kệ như sau:
Mắt trông thấy sắc rồi thôi, (không dính)
Tai nghe thấy tiếng, nghe rồi thì không. (không mắc)
Trơ trơ lẵng lặng cõi lòng, (vô niệm)
Nhẹ nhàng ta bước khỏi vòng trầm luân. (giải thoát)
Ngược lại, cũng có bài kệ như sau:
Mắt thấy sắc, thấy rồi thì dính, (dính)
Tai nghe tiếng, nghe rồi thì mắc. (mắc)
Tam bành lục tặc trong lòng, (loạn tâm)
Nặng nề ta lọt vào vòng tử sanh. (phiền não)
Có người đến hỏi một vị thiền
sư: Làm sao để được giải thoát? Vị thiền sư đáp:"Lục căn
tiếp xúc lục trần, không sanh lục thức là giải thoát". Nghĩa là
thường ngày, nếu chúng ta sống trong cõi đời này, sáu giác quan của
chúng ta tiếp xúc với sáu đối tượng ở trần đời, mà không sanh tâm
dính mắc, không sanh tâm loạn động vì tham sân si thì chúng ta sẽ được tự
tại, giải thoát ngay hiện đời. Mắt trông thấy sắc, tai nghe thấy
tiếng, mũi ngửi biết mùi, lưỡi nếm biết vị, nhưng mà đừng
khởi niệm thương hay ghét, thích hay không thích, nếu như có khởi
niệm rồi thì đừng theo. Như vậy chúng ta đâu có gì gọi là
phiền não, sân hận hay bực dọc nữa. Từ xưa đến giờ, mỗi khi
tâm khởi niệm, chúng ta liền theo đến cùng, theo từ chuyện
đông sang chuyện tây, từ chuyện xưa đến chuyện nay, từ
chuyện quốc gia đại sự đến chuyện hang cùng ngõ hẹp, từ
chuyện xứ người đến chuyện xứ mình, từ chuyện người lớn
đến chuyện trẻ con, từ đủ mọi thứ chuyện trên trần đời,
để rồi than nhức đầu vì nhiều chuyện quá, than trời trách đất
vì khổ thân khổ não quá!
Còn như sáu đứa bé luôn luôn chọc
phá đức Di Lặc, mà Ngài vẫn tươi cười hoan hỷ như không có chuyện
gì xảy ra. Nghĩa là "lục căn" của Ngài vẫn thường tiếp xúc với
"lục trần", mà tâm của Ngài không sanh ra "lục thức", thì
Ngài sống rất an nhiên, tự tại. Ðó là cảnh giới của những người "vô
tâm", tức là những người không có tâm niệm lăng xăng lộn xộn, cho
nên không có phiền não và khổ đau. Ðó là cảnh giới niết bàn ở ngay
trong tâm trí của chúng ta hiện đời, chứ không phải đợi sau khi chết
mới tiêu diêu nơi miền cực lạc, hay lên trên thiên đàng đâu đâu không
tưởng. Ðạo Phật chủ yếu chỉ bày phương pháp rèn luyện tâm,
chuyển hóa tâm, từ vô minh trở thành giác ngộ, từ tà vạy trở thành chân
chính, từ phiền não và khổ đau trở thành an lạc và hạnh phúc. Ðạo Phật
được áp dụng ngay trong thực tế của cuộc đời, trong mọi hoàn cảnh,
giúp những người thiện tâm được sống bình an ngay tại thế gian này,
chứ đạo Phật không phải chỉ lo cầu an cho người sống, cầu siêu cho người
quá cố mà thôi. Hiểu được như vậy mới không phí phạm cả cuộc đời
quí báu này!
Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải có dạy:
"Tâm cảnh không dính nhau là giải thoát". Nghĩa là chúng ta vẫn
thấy, vẫn nghe, vẫn hiểu, vẫn biết tất cả các cảnh trên trần đời,
trong kinh điển gọi là "kiến văn giác tri", nếu tâm
của chúng ta không dính mắc thì không phiền não. Không phiền não tức
là giải thoát. Thật là hết sức đơn giản. Lý lẽ tuy cao siêu, vi
diệu, nhưng hết sức thực tế. Bất cứ ai cũng có thể làm
được, không cần phải thờ lạy, cúng kiến, không phân biệt tôn giáo,
sắc tộc, ngôn ngữ, nghề nghiệp, xuất xứ, học thức, nam nữ, già
trẻ, bé lớn, giàu nghèo, sang hèn.
* * *
Tuy nhiên, nói như vậy thì hiểu như
vậy, chứ còn thực hiện được cái chỗ "không dính", cái
chỗ "không mắc", cái chữ "vô tâm", cái chữ "vô
niệm", thì chúng ta cần phải có phương pháp tu để ứng dụng,
để thực hành. Làm sao chúng ta có thể sống vui tươi, hạnh phúc suốt
năm và cả đời như đức Di Lặc? Ðiều đầu tiên, chúng ta hãy can đảm
nhận thấy rõ cuộc sống của chúng ta vui ít khổ nhiều, đừng tự dối mình
gạt người, nhưng không bi quan yếm thế và cũng đừng sống trong
phiền não, khổ đau bi thảm như trước đây nữa. Muốn được như vậy,
chúng ta phải đảnh lễ Ngài với tất cả lòng thành kính và hướng tâm hồn
học theo cái hạnh nguyện của Ngài, đặng tâm trí được an vui phơi
phới, dù đang ở trong bất cứ cảnh ngộ nào cũng vậy. Ðức Di Lặc tu theo pháp
môn nào mà được tự tại như vậy? Ðó chính nhờ Ngài tu bốn hạnh "từ,
bi, hỷ, xả", trong kinh sách gọi là "tứ vô lượng tâm",
tức là bốn tâm địa rộng lớn thênh thang, không thể nghĩ bàn.
Với tâm từ, Ngài luôn luôn mang niềm
vui đến với mọi người, bất cứ lúc nào, không phân biệt gì cả.
Với tâm bi, Ngài luôn luôn cứu giúp những người đau khổ, những người bất
hạnh, thương người như thương chính mình. Với tâm hỷ, Ngài luôn luôn
vui vẻ, hoan hỷ với những việc lành, những hạnh phúc, những thành tựu
của tất cả mọi người xung quanh, không có tâm ganh ghét, đố kỵ, tị
hiềm. Ngài luôn luôn nhớ câu: "Nam mô nhứt thiết chúng sanh hỷ
kiến bồ tát". Nghĩa là Ngài luôn luôn noi gương những vị bồ tát mà
tất cả mọi người đều hoan hỷ khi gặp mặt. Với tâm xả, Ngài
không bao giờ chất chứa trong lòng, trong kho tàng tâm thức, bất cứ điều
phiền muộn nào, dù nhỏ đến đâu. Trái lại, Ngài luôn luôn tha thứ
cho bất cứ ai gây phiền muộn, rắc rối cho Ngài. Ðức Di Lặc không bị bất
cứ phiền não nào tác động, cho nên thân tướng mập mạp khỏe mạnh, tâm
trí thanh thản, thảnh thơi thơi thới, nét mặt lúc nào cũng hoan hỷ vui
tươi. Nếu chúng ta muốn được an nhiên tự tại, muốn được hạnh phúc
ngay hiện đời, chúng ta phải noi gương Ngài để tu bốn hạnh "từ,
bi, hỷ, xả" vậy.
Nếu có tâm từ và tâm bi, chúng ta sẽ
biết thương yêu và thông cảm với tất cả mọi người, dù kẻ đó đang
gây phiền não cho mình, đồng thời chúng ta sẽ giảm bớt lòng tham và lòng
sân. Thí dụ như chúng ta giúp đỡ bất cứ ai điều gì, hay chúng ta nuôi
nấng con cái của mình, bởi do lòng từ bi, thì chúng ta sẽ không cầu báo
đáp, không nhớ công lao, không kể lể ơn nghĩa, với mọi người hay
ngay cả với con cái trong gia đình. Do đó, ai cũng hoan hỷ khi gặp mặt,
không ai cảm thấy khó chịu, sau khi thọ ơn của chúng ta.
Chúng ta thường có lòng từ bi với những
loài vật nhỏ nhít như ruồi muỗi côn trùng, hay lớn hơn như gà vịt heo
bò. Chúng ta không nở giết hại chúng, không nở ăn thịt chúng. Nhưng đối
với những con người sống chung quanh, như cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè,
đồng nghiệp, đồng hương, đồng đạo, đồng bào, đôi khi chúng ta không
nhịn nổi một câu nói chạm đến tự ái hay một hành động xúc phạm
đến danh dự của mình, dù vô tình hay cố ý! Lòng từ bi như vậy đó
cần phải được xét lại! Cũng vậy, chúng ta thường có lòng từ bi với người
chưa quen hay với người ở phương xa, lâu lâu gặp một lần. Nhưng chúng ta
khó có lòng từ bi với những người ở gần chung quanh, khi họ nói lời nào
mích lòng mình, làm điều gì trái ý mình.
Khi chúng ta thấy một người làm việc
phước thiện, như cúng chùa hay tặng hội từ thiện một số tịnh tài
chẳng hạn, nếu chúng ta phát tâm tùy hỷ, nghĩa là vui theo với
việc thiện người khác làm được, thì chúng ta cũng được phước báu
như người đó. Tại sao vậy? Bởi vì, trong kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
"Khi có người mồi ngọn đuốc được sáng rồi, nếu người khác
đến mồi từ ngọn đuốc đó, thì ngọn đuốc sau cũng sáng như vậy,
trong khi ngọn đuốc trước không giảm sáng chút nào". Cũng vậy, khi
có người phát tâm làm việc phước thiện, thì tâm từ bi của người
đó tăng trưởng, tâm tham lam bỏn sẻn của họ giảm bớt. Họ được
phước báu, giảm bớt phiền não, lần lần tâm tánh của họ được thanh
tịnh, cuộc sống của họ được an lạc hơn, hạnh phúc hơn. Nếu chúng ta
phát tâm tùy hỷ, một trong tứ vô lượng tâm, vui theo với việc
thiện của người khác, thì chúng ta giảm được tâm đố kỵ, ganh tị,
tâm từ bi của chúng ta cũng tăng trưởng, và khi đủ duyên, chúng ta cũng sẽ
làm việc thiện đó vậy.
Còn đối với tâm xả, đó là chỗ
hết sức cao siêu của người tu hạnh giải thoát. Muốn được giải thoát,
muốn được tự tại, nhẹ nhàng bước ra khỏi vòng trầm luân, sanh tử luân
hồi, nhứt định chúng ta phải tu hạnh xả. Nếu lục căn của chúng ta
tiếp xúc với lục trần, đừng dính đừng mắc, cái gì cũng xả, cái gì
cũng bỏ qua hết, thì chúng ta không còn gì để đem vào chứa trong kho
tàng tâm thức của chúng ta hết. Lúc đó, chúng ta sống trong tự tại nhẹ
nhàng, thảnh thơi thơi thới, không lo âu phiền muộn, không ưu tư lo lắng,
không thấp thỏm phập phồng.
Do tâm từ bi, chúng ta làm được biết
bao nhiêu việc phước thiện không mệt mỏi, và do tâm hỷ xả
chúng ta vui vẻ bỏ qua hết, quên hết tất cả những việc đã làm,
quên hết tất cả những việc bất như ý. Trong tâm thức của chúng ta
không có bốn tướng "ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả". Tức
là chúng ta không thấy có mình là người làm phước, có kẻ khác là người
nhận lãnh và không nhớ, không để tâm đến những việc tốt chúng
ta đã làm, đã cho, đã giúp đỡ bao nhiêu người khác. Như vậy chúng ta sẽ
không cầu được báo đáp, không kể lể, không đòi hỏi bất cứ ai nhớ
ơn chúng ta, thì chúng ta không có phiền não chút nào cả, nếu gặp
phải những người không biết chuyện ơn nghĩa. Sách có câu: "Thi
ân bất cầu báo", chính là nghĩa đó vậy.
Chúng ta sở dĩ bị sanh tử luân hồi
nhiều đời nhiều kiếp, bởi vì chúng ta dính mắc quá nhiều.
Chúng ta chẳng những không biết buông xả, trái lại, còn chứa nhóm quá
nhiều thứ trong tàng thức, trong kho tàng tâm thức của chúng ta. Hôm nay,
nhân dịp năm cũ sắp hết, để chuẩn bị chào đón năm mới sắp sang,
theo thông lệ, chúng ta thường lo sửa soạn trang hoàng nhà cửa, và đồng
thời mở cửa nhà kho, dọn dẹp cho sạch sẽ, sắp xếp cho ngăn nắp. Cũng
vậy, để có được một mùa "Xuân Di Lặc", mang
ý nghĩa "Xuân Hoan Hỷ", "Xuân Hy Vọng", hay
"Xuân Hạnh Phúc", chúng ta không thể quên việc chăm sóc,
dọn dẹp, sửa sang cho thực sạch cái "kho tàng tâm thức" của chúng
ta.
Lục căn của chúng ta cũng như các bộ
phận của cái máy quay phim, hằng ngày thu nhận không biết bao nhiêu là
hình sắc, âm thinh, rồi đem chứa vào trong kho tàng tâm thức. Thỉnh thoảng hay
lâu lâu, thậm chí đến mấy chục năm sau, đến lúc tuổi già, mang ra
chiếu lại, để cười chơi hoặc để tức giận, như thể
chuyện mới xảy ra ngày hôm qua còn nóng hổi vậy. Mặc dù những diễn viên
trong đó đã đi vào quá khứ từ lâu! Họ đã quên hết mọi
chuyện, chỉ có chúng ta là còn nhớ quá kỹ, để lãnh đủ phiền
não khổ đau. Nếu buông xả được, xóa được những cuốn băng trong kho
tàng tâm thức, chúng ta sẽ trở nên con người vui tươi dễ chịu, lúc nào
cũng hoan hỷ vui vẻ như đức Di Lặc vậy, nhứt thiết chúng sanh sẽ hoan
hỷ kiến, không nghi.
Lúc đức Phật còn tại thế, có một
người mang hai chậu bông đến cúng dường, với tâm mong cầu pháp môn tu
giải thoát. Khi gặp mặt, Ðức Phật bảo buông, ông ta bèn buông tay trái, chậu
bông rơi xuống đất. Ðức Phật lại bảo buông, ông ta bèn buông tay phải,
chậu bông thứ hai rơi xuống đất. Ðức Phật lại bảo buông, ông ta bèn thưa:
Bạch đức Thế Tôn, hai tay con đã buông hết rồi, đâu còn gì để
buông nữa? Ðức Phật dạy: "Như Lai bảo ông buông lần thứ nhứt là bảo
ông buông sáu căn, lần thứ hai là bảo ông buông sáu trần, lần thứ ba là
bảo ông buông sáu thức. Khi căn, trần, thức không còn nhiễm trước, tức thập
bát giới không thành lập, thì ông được giải thoát". Lục căn, lục trần
và lục thức nói chung là thập bát giới. Thập bát giới không thành lập có
nghĩa là: lục căn tiếp xúc với lục trần không sinh ra lục thức! Thực là
đơn giản!
* * *
Tóm lại, chúng ta cần lưu ý là đức
Thích Ca đã đi tìm đạo, đã tu tập, đã chứng đạo và đã thành Phật
dưới cội cây bồ đề, ngay tại thế giới ta bà này, từ 26 thế
kỷ trước, lịch sử đã ghi lại rõ ràng. Và sau này, đức Di Lặc cũng sẽ
hạ sanh ở thế giới ta bà này, để tu hành và sẽ thành Phật dưới cội
cây long hoa. Nghĩa là mười phương chư Phật đều thành Phật ở ngay tại
thế giới ta bà này, chứ không phải ở thế giới nào khác.
Bởi vì ở các cõi thiên giới quá sung
túc vật chất, chúng sanh ở đó ham vui, lo hưởng thụ quên tu, còn ở các cõi
địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh thì quá khổ về vật chất lẫn tinh thần, nên
cũng không tu được. Chỉ có ở thế giới ta bà này, con người có đủ
thuận cảnh lẫn nghịch cảnh để tu hành, để thử thách và tiến
đến chỗ giải thoát mà thôi. Chúng ta nên bình tâm xét lại những
mộng tưởng về cõi Tây phương cực lạc, hay cõi thiên đường ở kiếp
sau, để tích cực tu tâm dưỡng tánh ngay hiện đời, để khỏi uổng
kiếp làm người trong muôn một.
Chúng ta đã nghiên cứu và thấu hiểu
một cách rất rõ ràng phương pháp tu giác ngộ và giải thoát, hay ít ra cũng
đạt được an lạc và hạnh phúc hiện đời. Vậy chúng ta hãy bắt đầu cất
bước lên đường làm hành giả kể từ mùa xuân năm nay là vừa. Ðược
như vậy, chúng ta sống trên cõi đời này sẽ thấy nơi đây chính là cõi an
lành tự tại, là một thế giới đầy tình thương yêu, đầm ấm. Thế
gian này chính là cảnh giới của chư Phật, chư hiền thánh nhơn, chư
thượng thiện nhơn, chứ không còn là cảnh giới của phàm phu tục tử nữa.
Kính chúc quí vị được hưởng một mùa xuân Di Lặc, mùa xuân hy vọng,
mùa xuân an lạc và hạnh phúc, mùa xuân miên viễn của tất cả chúng ta vậy.
---
o0o
---
Mục Lục
Tập
1:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11|
12
Tập
2:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
Tập
3:
1|
2
|
3
|
4|
5|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
12|
13|
14
|15|
16
---
o0o
---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ
Chính
Trực
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ
sách
này
(Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục