.
|
Vì sao tin Phật
Hòa thượng K.
Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang
dịch Việt,
California,
Hoa Kỳ, 1997
Nguyên
tác: What Buddhists believe , Malaysia, 1987 |
---o0o---
Chương 5
HỌC
THUYẾT CĂN BẢN
-ooOoo-
TAM TẠNG
KINH ĐIỂN
Tam Tạng Kinh Điển là
sự tổng hợp những lời dạy của Đức Phật thuyết giảng
trên 45 năm bằng tiếng Pali, gồm có Kinh - lời dạy có tính
cách qui ước, Luật - Giới luật, và Luận (Vi Diệu Pháp) - Tâm
Lý Đạo Đức.
Tạm Tạng Kinh Điển
được kết tập và soạn thành hình thức ngày nay là do các
bậc A La Hán, những bậc thánh đã liên hệ trực tiếp với
chính Đức Phật.
Đức Phật đã qua đời,
nhưng Giáo Pháp siêu phàm của Ngài để lại cho nhân loại
vẫn hiện hữu và thuần khiết như lúc ban đầu.
Mặc dù Đấng Đại
Đạo Sư không để lại bút tích trong hồ sơ giáo lý, nhưng
các đệ tử xuất chúng của Ngài đã gìn giữ các tài liệu
này bằng trí nhớ và đã truyền khẩu lại từ thế hệ này
đến thế hệ khác.
Ngay sau khi Đức Phật
nhập diệt, 500 Vị A La Hán ưu tú triệu tập Đại Hội
Kiết Tập lần thứ nhất để ghi lại học thuyết do Ngài
dạy. Đức A Nan, thị giả thân tín một dạ trung thành, luôn
luôn kề cận Đức Phật, nên đã được nghe tất cả những
bài thuyết giảng của Ngài; Đức A Nan là người đọc lại
Kinh (Pháp), Đức U Bà Ly đọc Luật, giới luật của Tăng Già.
Một trăm năm sau lần
Đại Hội Kiết Tập lần thứ nhất, trong thời Vua Kalasoka,
một số đệ tử nhận thấy sự cần thiết phải thay đổi
một vài khinh giới. Các nhà sư chính thống cho là không có gì
cần phải thay đổi trong khi các nhà sư khác đòi hỏi thay đổi
một vài giới luật. Cuối cùng, sau lần kiết tập này,
nhiều trường phái Phật Giáo khác biệt xuất hiện. Trong
Kỳ Đại Hội lần thứ hai này, chỉ thảo luận, những vấn
đề trong Luật Tạng còn về Kinh Tạng không có gì
thay đổi.
Vào Thế Kỷ Thứ Ba
trước Tây Nguyên, trong thời Hoàng Đế A Dục, Đại Hội
Thứ Ba được triệu tập để thảo luận những quan điểm
dị biệt của Tăng Già. Tại Đại Hội này không những chỉ
thảo luận hạn chế về Luật Tạng, mà cũng thảo
luận đến Kinh Tạng. Khi Đại Hội bế mạc, Chủ
tịch Đại Hội, Đức Moggaliputta Tissa, soạn thảo một cuốn
sách gọi là Kathavatthu bác bỏ các quan điểm và lý thuyết
dị giáo sai lầm của một số đệ tử. Giáo lý được phê
chuẩn và chấp thuận gọi là Nguyên Thủy (Theravada). Luận
Tạng cũng được đem bàn cãi trong Kỳ Đại hội này. Đại
Hội Lần Thứ Tư được triệu tập tại Sri Lanka năm 80 trư?c
Tây Nguyên dưới sự bảo trợ của Hoàng Đế Vattagamini
Abbaya, một vì Vua rất hiếu thảo. Tam Tạng Kinh Điển lần
thứ nhất được kiết tập thành văn bản tại Đại Hội
Sri Lanka này.
Tam Tạng Kinh Điển
gồm ba phần giáo lý của Đức Phật: Luật, Kinh, và Luận.
Luật Tạng chuyên
về các vấn đề luật lệ và quy tắc của Đoàn thể Tăng và
Ni. Luật Tạng trình bày chi tiết sự phát triển của
hệ thống Phật Giáo Đoàn. Cuộc đời Đức Phật và sứ
mệnh hoằng pháp của Ngài được ghi nhận. Gián tiếp, Luật
Tạng nêu lên vài sự kiện rất hữu ích về lịch sử
thời cổ, phong tục của người Ấn, mỹ thuật, khoa học vân
vân...
Gần hai mươi năm sau
khi giác ngộ. Đức Phật không đặt giới luật để kiểm soát
đoàn thể Tăng Già. Sau này, do hoàn cảnh gây nên, Ngài mới
ban bố luật lệ cho đồ đệ tương lai của Tăng Già.
LUẬT TẠNG
Luật Tạng
gồm năm cuốn sau:
1. Parajika Pali (Đại
tội)
2. Pacittiya Pali (Khinh tội)
3. Mahavagga Pali (Đại Phẩm)
4. Cullavagga Pali (Tiểu Phẩm)
5. Parivara Pali (Phần Linh Tinh)
KINH TẠNG
Kinh Tạng
gồm hầu hết các bài kinh giảng bởi chính Đức Phật trong
nhiều dịp. Cũng có một vài bài kinh do các Đại Đệ Tử
của Ngài thuyết giảng như các Ngài Xá Lợi Phất, A Nan,
Mục Kiền Liên vân vân ...Các kinh này giống như cuốn sách
gồm các toa thuốc, là những bài thuyết pháp diễn giảng thích
hợp cho hoàn cảnh và tính chất tùy theo hạng người. Đôi
khi hình như có vẻ mâu thuẫn, nhưng không nên hiểu lầm vì
là các câu này do chính Đức Phật nói ra để phù hợp vào
mục đích đặc biệt nào đó.
Kinh Tạng
gồm năm bộ
1. Digha Nikaya
(Trường Bộ Kinh)
2. Majjhima Nikaya (Trung Bộ Kinh)
3. Samyutta Nikaya (Tương Ứng Bộ Kinh)
4. Anguttara Nikaya (Tăng Chi Bộ Kinh)
5. Khuddaka Nikaya (Tạp Bộ Kinh)
Bộ thứ năm phân chia
thành 15 cuốn:
1. Khaddakapatha
(Shorter Text, Tiểu Phẩm)
2. Dhammapada (The Way of Truth, Pháp Cú Kinh)
3. Udana (Heartfelt sayings or Peacon of Joy, Tự Thuyết Kinh)
4. Iti Vuttaka('Thus said' Discourses, Phật thuyết như
vậy)
5. Sutta Nipata (Collected Discourses, Kinh tập)
6. Vimana Vatthu (Stories if Celestial Mansions, Các câu
chuyện về Thiên cung)
7. Peta Vatthu (Stories of Peta, Câu chuyện về Ngạ quỷ)
8. Theragatha (Psalms of Brethren, Trưởng Lão Tăng Kệ)
9. Therigatha (Palsms of the Sisters, Trưởng Lão Ni Kệ)
10. Jatakha (Birth Stories, Túc Sanh Truyện)
11. Niddesa (Expositions, Nghĩa thích)
12. Patisambhida (Analytical Knowledge, Tuệ Phân Tích)
13. Apadana (Lives of Saint, Đời Sống các Vị Thánh)
14. Buddhavamsa (The History of Buddha, Lịch Sử Đức
Phật)
15. Cariya Pitaka (Modes of Conduct, Sở hạnh tạng)
LUẬN TẠNG
Đối với một nhà tư
tưởng uyên thâm, Luận Tạng quan trọng và đáng chú ý
nhất vì Luận Tạng hàm chứa triết lý thâm của giáo
lý Đức Phật không giống như những bài thuyết giảng có tính
cách làm sáng tỏ nhưng đơn giản hơn trong Kinh Tạng.
Trong Kinh Tạng
ta thường thấy đề cập đến cá nhân, chúng sinh vân vân...nhưng
trong Luận Tạng, thay vì những thuật ngữ quy ước, chúng
ta thấy những thuật ngữ về chân đế như uẩn, tâm, sắc,
vân vân...
Trong Kinh Tạng,
ta thấy Giáo lý theo Tục Đế nhưng trong Luận tạng, ta thấy
Nguyên Lý Chân Đế.
Trong Luận Tạng
mỗi vấn đề đều được phân tích và giải thích chi
tiết, cho nên ta gọi đó là Giáo Pháp Thậm Thâm (Vi Diệu Pháp).
Bốn Pháp Chân Đế
trong Luận Tạng là Tâm, Tâm Sở, Sắc và Niết Bàn.
Cái được gọi là chúng
sanh được phân tích dưới lăng kính hiển vi và các thành
phần được miêu tả chi tiết. Cuối cùng mục tiêu tối
hậu, và phương pháp đạt mục tiêu được giải thích với
những chi tiết hết sức cặn kẽ.
Luận Tạng
gồm có các tác phẩm sau đây:
1. Dhamma-Sangani (Enumeration
of Phenomina, Pháp Tựu)
2. Vubhanga (The Book of the Treatise, Phân Biệt (giải
từng phần khác nhau)
3. Katha Vatthu (Point of Controversy, Kệ Thuyết)
4. Puggala Pannati (Description of Individuals, Nhân Duyên
Thuyết)
5. Dhatu Katha (Discussion with Reference to Elements, Giới
Thuyết)
6. Yamaka (The Book of Pairs, Song Đối)
7. Pattana (The Book of Relations, Liên Đới)
Theo một cách phân
loại khác do chính Đức Phật ghi nhận Giáo Lý được chia làm
chín nhóm: 1- Sutta, 2- Geyy, 3- Veyyakarama, 4- Gatha, 5- Udana, 6-
Itivuttaka, 7- Jataka, 8- Abbhutadhama, 9-Vedalla.
1. Sutta - (Kinh)
Là những bài pháp, dài, ngắn, trung bình do Đúc phật
thuyết giảng trong nhiều trường hợp như Kinh Mangala Sutta
(Discourses on Blessings, Hạnh Phúc Kinh) Ratana Sutta (The Jewel
Discourse, Trân Bảo Kinh), Metta Sutta (Discourse on GoodWill, Kinh
về Tâm Từ) vân vân... Theo lời dẫn giải, toàn bộ Luật
Tạng cũng nằm trong Kinh này.
2. Geyya -
Những bài thuyết giảng lẩn lộn những câu kệ và những
bài thơ như Sagathavagga của Kinh Samyutta (Tương Ưng Bộ
Kinh).
3. Veyyakarana -
có nghĩa Trình Bày - Toàn bộ Luận tạng gồm những bài
thuyết pháp không thơ kệ, và tất cả những gì còn lại
không nằm trong phân loại của bộ này.
4. Gatha - Gồm
có những bài kệ trong Kinh Pháp Cú, Theragatha (Psalms of the
Brethren, Trưởng lão kệ), Therigatha (Psalms of the Sisters, Trưởng
lão ni kệ), và những bài kệ không có trong các Kinh.
5. Udana - Gồm
Paeans of Joy ghi trong Udana, một phần Khuddaka Nikaya
6. Itivuttaka -
Gồm 112 bài thuyết pháp bắt đầu với câu "Một thuở
nọ, Đức Phật ...." Itivuttaka là một trong 15 bộ Kinh
trong Khuddaka Nikaya.
7. Jataka - Gồm
547 chuyện về tiền thân của Đức Phật.
8. Abbhutadhamma
- Một số bài giảng nói về những điều đẹp đẽ tuyệt
vời thí dụ như Kinh Acchariya-Abbhutadhamma trong bộ Majjihima
Nikaya (No 123)
9. Vedalla -
Gồm có những bài thuyết pháp, như Chulla Vedalla, Maha Vedalla
(M.N. Nos 43, 44), Samma Ditthi Sutta (M.N. No. 9) vân vân . Trong
một vài bài thuyết pháp, một số giải đáp các câu hỏi
được ghi nhận trong niềm hoan hỉ.
LUẬN TẠNG (VI DIỆU
PHÁP) LÀ GÌ?
Luận Tạng (Vi Diệu
Pháp) là giáo lý phân tích khả năng tinh thần và các yếu
tố liên hệ.
Luận Tạng
hàm chứa tâm lý đạo đức và triết lý sâu xa của Giáo Lý
Đức Phật, trái ngược với các bài thuyết pháp đơn giản
trong Kinh Tạng.
Kiến thức đạt được
từ Kinh chắc chắn giúp ta vượt qua các khó khăn trở ngại,
cũng như giúp ta phát triển tinh thần và rèn luyện tâm ý. Có
được kiến thức này giúp ta có một đời sống bình an, đáng
kính, hữu ích và cao thượng. Nghe những bài thuyết giảng,
chúng ta phát triển sự hiểu biết Pháp và có thể điều hòa
cuộc sống hàng ngày theo đó. Quan niệm đằng sau của một vài
chữ hay từ ngữ dùng trong Kinh Tạng, có thể nên thay
đổi và phải được giải nghĩa trong phạm vi môi trường
thời Đức Phật tại thế. Quan niệm sử dụng trong Kinh
Tạng giống như những từ ngữ quy ước mà người cư sĩ
thường dùng để giải thích các đề tài khoa học. Trong khi
quan niệm trong kinh theo quy ước phải được hiểu với ý nghĩ
thông thường, còn quan niệm về Luận tạng phải được
hiểu theo ý nghĩa rốt ráo. Quan niệm trong Luận Tạng
giống như những từ ngữ hay thuật ngữ khoa học chính xác dùng
bởi các khoa học gia để ngăn ngừa sự giải thích sai lầm.
Chỉ trong Luận
Tạng mới thấy sự giải thích về vì sao và nơi nào đã
khiến con người tạo ý tùy theo tham ái hay tâm sở khác.
Những sự giải thích rõ ràng về bản chất của khả năng
tinh thần khác nhau, và cách lý giải chính xác các yếu tố
tạo thành được tìm thấy trong các tập thuyết giảng quan
trọng.
Hiểu Phật Pháp qua
kiến thức đạt được từ Kinh điển giống như kiến thức
đạt được trong việc nghiên cứu các toa thuốc áp dụng cho
các loại bệnh tật. Kiến thức như vậy chắc chắn là có
thể chữa được một số bệnh. Mặt khác, một lương y
giỏi, với kiến thức chính xác, có thể chẩn đoán một
số lớn các bệnh tật, khám phá ra các nguyên nhân gây
bệnh. Kiến thức đặc biệt giúp vị lương y này có vị
thế tốt đẹp hơn để có thể chữa bệnh hữu hiệu hơn. Tương
tự như vậy, một người nghiên cứu Luận Tạng, có
thể hiểu rõ bản chất của tâm, phân tách các thái độ
tinh thần khiến con người phạm lỗi, hay làm cho con người
phát triển thiện ý tránh các tội lỗi.
Luận Tạng
dạy rằng những niềm tin ích kỷ, và những ý niệm và cái
'Tôi" 'Anh', 'Người', và 'Thế gian' mà chúng ta thường hàng
ngày hay nói tới, không diễn tả nổi đầy đủ tính chất
thực sự của cuộc sống. Quan niệm thông thường không
phản ảnh cái tính chất phù du của lạc thú, những cái
bất trắc, vô thường của thành phần mọi sự vật duyên
hợp, sự đối kháng giữa những phân tử và thực chất năng
lượng nằm bên trong tất cả các vật hữu tình và vô tình..
Giáo lý của Luận Tạng trình bày rõ ràng bản chất
rốt ráo của con người và đem sự phân tích về thân phận
của con người xa hơn những sự nghiên cứu khác mà con người
đã biết.
Luận Tạng
nêu lên những thực thể hiện hữu trong ý nghĩa rốt ráo hay
paramattha (đệ nhất nghĩa đế) dhamma tiếng Pali. Có bốn
thực thể đó là:
1. Citta, (Tâm
hay Tâm Vương ) được giải nghĩa là cái biết hay hiểu
biết một đối tượng. Tâm Vương sanh khởi như những
trạng thái riêng biệt của thức.
2. Cetasika, Tâm
Sở: những trạng thái của tâm sanh khởi cùng một lúc
với Tâm Vương.
3. Sắc, hiện
tượng vật chất, hay dạng thức vật chất.
4. Niết Bàn:
trạng thái hạnh phúc hoàn toàn không điều kiện, mục tiêu
cuối cùng.
Citta
(Tâm Vương) và Cetasika (Tâm Sở) và sắc là thực
thể có điều kiện. Chúng trỗi lên vì những điều kiện, và
mất đi vì những điều kiện hỗ trợ chúng ngưng không
tiếp tục nữa. Chúng ở trong tình trạng vô thuờng. Niết
Bàn, mặt khác, là một sự thực không điều kiện. Niết
Bàn không trỗi lên, cho nên không mất đi. Bốn sự thực này
có thể chứng nghiệm dù chúng ta đặt cho chúng danh xưng nào.
Ngoài bốn thực thể đó, mọi sự vật dù trong nơi chúng ta
hay không nơi chúng ta, dù trong quá khứ, hiện tại hay vị
lai, dù là thô sơ hay vi tế, dù là thấp hay cao, xa hay gần -
vẫn là một ý niệm và không phải là một sự thực tối
hậu.
Citta
(Tâm Vương) và Cetisaka (Tâm Sở) và Nibbana (Niết
Bàn) được gọi là Nama (Danh). Niết Bàn là một nama
không điều kiện. Hai nama có điều kiện là Citta
(Tâm Vương) và Cetasika (Tâm Sở), cùng với rupa
(sắc) tạo thành cơ quan tâm-vật-lý, gồm cả con người. Tâm
và vật hay danh sắc, được lý giải trong Luận Tạng giống
như được khảo sát dưới lăng kính hiển vi. Những biến
chuyển liên kết với tiến trình của sanh tử được phân tách
chi tiết. Luận Tạng làm sáng tỏ những điểm phức tạp
của Phật Pháp, gíúp cho hiểu được sự thật, và dẫn đến
con Đường Giải Thoát. Sự hiểu biết đạt được từ Luận
Tạng về cuộc sống của chúng ta và thế giới không
phải trong ý nghĩa có tính cách quy ước, nhưng trong ý nghĩa
của sự thật tuyệt đối.
Sự trình bày sáng
sủa về những vận hành của tâm thức trong Luận Tạng không
tìm thấy ở bất cứ một luận thuyết tâm lý nào ở phương
Đông cũng như phía trời Tây. Thức thì được định nghĩa,
trong khi những tư tưởng thì được phân tách và xếp loại
từ một lập trưòng đạo đức. Thành phần của mỗi loại
thức được thiết lập chi tiết. Thức trôi chảy như một dòng
suối, quan điểm này được chứng minh bởi những nhà tâm lý
học như William Jones, trở nên hết sức rõ ràng cho người
hiểu Luận Tạng. Hơn nữa, ngưòi học Luận Tạng
có thể thấu đáo thuyết Vô-Ngã, một thuyết rất quan
trọng từ quan điểm triết lý lẫn đạo lý.
Luận tạng giải thích
tiến trình của tái sanh trong nhiều cảnh giới sau khi chết
không có một thứ gì mất đi từ kiếp này qua kiếp khác.
Sự giải thích này hỗ trợ lý thuyết về Nghiệp và Tái
Sanh. Nó cũng đem lại nhiều chi tiết phong phú về tâm, về
những yếu tố của sức mạnh tinh thần và vật chất, đặc
tính và nguồn gốc của vật, sự tương quan giữa vật và tâm.
Trong bộ luận Abhidhamma
Sangaha (Thắng Pháp Tập Yếu Luận), một tác phẩm Luận
Tạng, trình bày khái quát về Định Luật của Lý Nhân
Duyên, với phần mô tả về sự tương quan của các nguyên nhân
mà không tìm thấy tại một học thuyết nào của nhân loại
trên thế giới. Vì sự phân tích và trình bày sâu xa, Luận
tạng không phải là một đề tài hời hợt để cho người
đọc chỉ phớt qua mà hiểu được.
Đến một mức độ nào
chúng ta có thể so sánh được tâm lý học hiện đại với
những lý giải của Luận Tạng? Tâm lý học hiện đại
chỉ giới hạn cho đến nay trong các lãnh vực của Luận
Tạng về những vấn đề tâm thức - tư tưởng, tiến trình
của tư tưởng, và các tâm sở.
Sự khác biệt là Luận
Tạng không chấp nhận quan niệm về linh hồn. Chưa có
nguồn tư liệu nào có được sự phân tích về bản chất
của tâm thức như trong Luận Tạng. Cả đến những nhà
tâm lý học hiện đại cũng vẫn mờ mịt về những vấn đề
như các chập tư tưởng (Javana Citta) được trình bày trong
Luận tạng. Tiến Sĩ Graham Howe, một nhà Tâm Lý Học nổi
tiếng của Harley Street, viết trong tác phẩm "Khoa Giải
Phẫu Vô Hình" của ông như sau:
'Nhiều
nhà tâm lý học, trong công cuộc nghiên cứu của họ, như nhà
Tâm Lý Học C.G. Jung tiền phong trong lãnh vực này, đã thấy
rằng chúng ta rất gần gữi với Đức Phật. Chỉ đọc một
ít về Phật Giáo là đã thấy người Phật Tử từ hơn hai
ngàn năm trăm năm đã biết nhiều về những vấn đề tâm lý
hiện đại của chúng ta hơn người ta tưởng. Họ đã nghiên
cứu từ lâu những vấn đề này và đã tìm được những câu
giải đáp. Chúng ta bây giờ chỉ là khơi lại Trí Tuệ Cổ Xưa
mà Phương Đông đã có.
Một số học giả
quyết đoán là Luận Tạng không phải là giáo lý của Đức
Phật, nhưng nó phát xuất từ những chú giải về giáo lý căn
bản của Đức Phật. Người ta nói những chú giải này là
những tác phẩm của các vị sư học giả có tầm vóc lớn.
Tuy nhiên, theo truyền thống, người ta qui trọng tâm của Luận
Tạng về chính Đức Phật.
Những nhà chú giải
ghi rằng để nhớ ơn mẫu thân Ngài tái sanh làm chư thiên
ở cõi trời, Đức Phật thuyết giảng về Luận Tạng cho
mẹ Ngài cùng với các chư thiên trong ba tháng. Phần chính
trong giáo lý cao thâm chẳng hạn như thiện pháp và bất
thiện pháp đã được Đức Phật nhắc lại nhiều lần cho
Ngài Xá Lợi Phất. Vị Đại Đệ Tử này đã tỷ mỷ ghi
lại lời dạy của Đức Phật và sau này đã biên soạn thành
sáu cuốn.
Từ thời thượng
cổ, đã có những cuộc tranh luận về việc Đức Phật có
dạy Luận Tạng không. Trong khi các cuộc bàn cãi này có
thể gây chú ý về mục đích văn học, nhưng điều quan
trọng cho chúng ta là kinh nghiệm và hiểu thấu được những
sự thật miêu tả trong Luận Tạng. Ta sẽ chứng
nghiệm đưọc rằng những chân lý thâm sâu đầy xác chứng
như vậy chỉ có thể xuất phát từ một nguồn giác ngộ
tối thượng, từ một Đức Phật. Đa số những gì dung
chứa trong Luận Tạng cũng tìm thấy trong Kinh Tạng,
và những bài thuyết giảng này chưa bao giờ được nghe
thấy cho đến khi nghe được từ kim khẩu Đức Phật. Cho nên,
những ai cho là Luận Tạng không do nơi Đức Phật thì
cũng phải nói là Kinh Tạng không phải của Đức
Phật. Lẽ dĩ nhiên, nhận xét trên đây không cung cấp đủ
bằng cớ.
Theo truyền thống
của Nguyên Thủy, cốt lõi, nền tảng và cơ bản chủ yếu
của Luận Tạng đều do nơi Đức Phật và phần sắp
xếp và phân loại là công trình của các đệ tử Ngài làm
sau này. Điều quan trọng nhất là cốt lõi. Đó là điều mà
chúng ta phải tự chứng nghiệm. Rõ‚ ràng chính Đức Phật
đã tự mình sử dụng kiến thức của Luận Tạng để
làm sáng tỏ những vấn đề tâm lý, siêu hình và triết lý.
Ngụy biện về việc phải hay không phải Đức Phật đã
dạy Luận Tạng không giúp ích gì chúng ta trong việc tìm
hiểu chân lý.
Câu hỏi đặt ra là Luận
Tạng có thật thiết yếu cho việc thực hành Pháp không.
Câu trả lời là thiết yếu hay không thiết yếu là do nơi hành
giả. Mức độ hiểu biết, tính khí, và phát triển tinh
thần của mỗi người đều khác nhau. Một cách lý tưởng thì
tất cả các khả năng tinh thần phải được hài hòa, nhưng
một số người lại chỉ bằng lòng với cách tu tập căn
cứ theo niềm tin, một số khác lại giỏi về việc phát
triển tuệ giác (minh sát tuệ). Luận Tạng rất hữu ích
cho những ai muốn hiểu Pháp sâu rộng và chi tiết. Luận
Tạng giúp việc phát triển tuệ giác (minh sát tuệ) qua ba
đặc tính của cuộc sống: vô thường, bất-toại-nguyện và
vô ngã. Nó không những giúp ích trong lúc tu tập thiền định,
mà cũng giúp ích ngoài giờ tu tập trong suốt thời gian làm
những công việc linh tinh hàng ngày ngoài đời. Học nơi Luận
Tạng chúng ta thu được lợi ích lớn lao từ khi chúng ta
chứng nghiệm chân lý tuyệt đối. Ngoài ra, việc hiểu thấu
Luận Tạng rất hữu ích cho những ai muốn dạy giáo lý
và giảng Pháp. Tóm lại, ý nghĩa thật sự của các thuật
ngữ Phật Giáo quan trọng như Pháp, Nghiệp, Luân Hồi, Hành,
Duyên Sinh và Niết Bàn, không thể hiểu được nếu không có
kiến thúc về Vi Diệu Pháp.
DANH VÀ SẮC (NAMA-RUPA)
Theo Phật Giáo, đời
sống là sự phối hợp giữa tâm (danh) và thân (sắc). Tâm
gồm sự phối hợp của cảm giác (thọ), nhận thức (tưởng),
hoạt động có tác ý (hành) và thức. Sắc (thân) là sự
phối hợp của bốn thành phần: đất nước, gíó lửa.
Sự sống là sự kết
hợp của tâm và thân. Sự suy tàn là do thiếu sự phối hợp
của tâm và sắc. Chết là sự xa lìa giữa tâm và thân. Tái
sanh là sự tái phối hợp của tâm và thân. Sau khi thân xác
chết đi, tâm lực tái phối hợp và nắm giữ sự phối hợp
mới trong một dạng thức vật chất khác và tạo điều
kiện cho một sự sống khác.
Sự tương quan giữa
danh và sắc giống như sự tương quan của bình điện với
bộ máy xe hơi. Bình điện giúp cho máy nổ. Máy giúp nạp điện
vào bình điện. Sự phối hợp của bình điện và máy làm xe
chạy. Cũng như vậy, sắc giúp tâm điều động và tâm giúp
sắc hoạt động.
Phật Giáo dạy rằng
sự sống không phải chỉ đơn độc yếu tố vật chất và
tiến trình của cuộc sống tiếp diễn hay trôi chẩy do kết
quả của tương quan nhân quả. Những yếu tố vật chất và
tinh thần hình thành chúng sanh từ những vi khuẩn (amoeba)
đến con voi, con người, đều đã hiện hữu từ trước dưới
một dạng thức khác. Mặc dù một số người vẫn quan niệm
là sự sống bắt nguồn trong vật chất mà thôi, nhưng những
nhà khoa học lừng danh đã chấp nhận là tâm (thức) có trước
để đời sống bắt nguồn. Trong Phật Giáo, ý niệm này được
gọi là "sự tái tiếp
nối của nguồn tâm thức (kiết sanh thức)".
Mỗi người trong chúng
ta, theo ý nghĩa rốt ráo, không có gì ngoài danh và sắc, một
tập hợp (tâm và thân) của các hiện tượng tinh thần và
vật chất. Ngoài những thực thể trên tạo nên tập hợp tâm
(danh) và thân, không có cái ta và cũng không có linh hồn.
Phần tâm của tập hợp là cái kinh nghiệm được đối tượng.
Phần sắc không kinh nghiệm được thứ gì cả . Khi thân xác
bị thương, thân không cảm thấy đau đớn mà chính là phía
tinh thần cảm thấy đau đớn. Khi chúng ta đói, bao tử không
thấy đói, mà tâm ta cảm thấy đói. Tuy nhiên, tâm ta không
ăn được để khỏi đói. Tâm và các yếu tố của nó, làm
thân xác tiêu hóa đồ ăn. Cho nên cả tâm (danh) lẫn sắc đều
không tự nó có sức mạnh hiệu quả gì. Cái này tùy thuộc
cái kia và hỗ trợ cho nhau. Tâm và sắc trỗi lên do các điều
kiện và tàn ngay đi, sự kiện trên tiếp diễn không ngừng
trong sự sống của chúng ta. Bằng nghiên cứu và chứng
nghiệm các thực thể trên, chúng ta sẽ đi vào tuệ giác để
thấu hiểu: (1) Chúng ta thực sự là gì; (2) Chúng ta thấy gì
chung quanh chúng ta; (3) Tại sao và thế nào chúng ta phản ứng
với những gì trong và ngoài chúng ta; (4) Và chúng ta nên mong
muốn gì để đạt tới mục tiêu tinh thần.
Đạt được tuệ giác
về bản chất của sự sống tâm - vật lý là thấu hiểu
rằng đời sống chỉ là một ảo ảnh, một ảo tưởng,
một bọt nước, chỉ là một tiến trình hợp tan hay sinh
diệt. Bất cứ gì hiện hữu, đều sanh khởi từ những nguyên
nhân và điều kiện.
BỐN CHÂN
LÝ CAO QUÝ (TỨ DIỆU ĐẾ)
Tại sao chúng ta ở đây?
Tại sao chúng ta không có hạnh phúc với đời sống của chúng
ta? Nguyên nhân của bất-toại-nguyện là gì? Làm sao ta có
thể chấm dứt bất toại nguyện và đạt an lạc trường
cửu?
Giáo lý của Đức
Phật căn cứ vào Bốn Chân Lý Cao Quý (Tứ Diệu Đế). Muốn
hiểu những chân lý này là phải hiểu và đi sâu vào bản
chất thực sự của sự sống, kể cả kiến thức đầy đủ
về chính bản thân mình. Khi chúng ta thấy rằng tất cả các
hiện tượng của mọi vật chỉ là tạm bợ, phải chịu
khổ đau, trống rỗng không có thực thể, chúng ta mới nhận
thức sự thật và hạnh phúc bền vững không thể tìm thấy
được trong của cải vật chất và thành tựu thế gian, và
hạnh phúc thực sự chỉ đạt được bằng tâm thanh tịnh và
sự rèn luyện trí tuệ.
Tứ Diệu Đế là
một khía cạnh rất quan trọng trong giáo lý của Đức Phật.
Đức Phật dạy rằng vì không hiểu Tứ Diệu Đế nên chúng
ta cứ phải trôi lăn trong vòng sinh tử. Ngay trong thời Pháp
đầu tiên Ngài giảng về Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo
trong Kinh Chuyển Pháp Luân cho năm thầy tu tại Vườn Lộc
Uyển ở Sarnath. Tứ Diệu Đế là gì? Đó là:
- Chân Lý về Khổ
- Chân Lý về Nguyên Nhân của Khổ
- Chân Lý về Chấm Dứt Khổ
- Chân Lý về Con Đuờng dẫn đến chấm dứt Khổ
Từ ngữ Dukkha (Khổ)
trong Phạn Ngữ có nhiều nghĩa. Từ ngữ "Dukkha" này
được phiên dịch là Khổ hay bất toại nguyện, nhưng từ
ngữ dùng trong Tứ Diệu Đế có nghĩa sâu rộng hơn. Ngoài
nghĩa thông thường là Khổ, Dukkha còn bao gồm ý niệm thâm sâu
hơn như sự bất toàn, đau đớn, vô thường, bất hòa, bất
an, bứt rứt, hoặc cảm thấy không hoàn toàn, không đầy đủ
(mặc cảm). Với tất cả những ý nghĩa trên, Dukkha bao hàm
khổ về vật chất và về tinh thần: sanh, già, bệnh, chết,
phải gần với những gì không thích, phải xa lìa những gì
ưa thích, không đạt được điều mong cầu. Tuy nhiên, nhiều
người không hiểu được rằng ngay trong những lúc vui và
hạnh phúc, vẫn có khổ vì tất cả những lúc đó cũng đều
vô thường và sẽ qua đi khi các điều kiện thay đổi. Cho nên
chân lý về Khổ, bao gồm cả kiếp sống, trong tất cả các
nỗi vui buồn, trong mọi khía cạnh của cuộc đời chúng ta.
Chừng nào mà chúng ta còn sống là chúng ta còn phải lệ
thuộc hoàn toàn vào chân lý này.
Đối với một số người
cách nhìn đời là khổ như thế có vẻ hơi yếm thế. Đó không
phải là bi quan mà là cách nhìn đời một cách thực tiễn.
Nếu một người bị bệnh mà không nhìn nhận là mình bệnh,
không tìm phương cách chữa trị thì ta sẽ không cho thái độ
tinh thần của người đó là lạc quan mà là người rồ
dại. Cho nên dù lạc quan hay bi quan nếu không hiểu rõ bản
chất thực sự của sự sống ta không thể nào hành xử đúng
trước những khó khăn trong cuộc đời. Tứ Diệu Đế khởi
đầu xác nhận khổ, tiếp đến phân tích nguyên nhân khổ và
cách diệt khổ. Nếu như Đức Phật ngưng lại tại Chân Lý
Khổ, người ta có thể cho rằng Phật Giáo nhận biết có
khổ mà không có phương sách chữa trị; nếu như vậy nhân
loại sẽ ở trong tình trạng vô vọng. Nhưng Đức Phật không
chỉ xác nhận Chân Lý về Khổ, Đức Phật đi đến phân tích
nguyên nhân của nó, và dạy phương cách chữa trị nó. Làm
sao ta có thể nói Phật Giáo bi quan nếu đã đưa ra được phương
cách diệt khổ? Tóm lại, đó là một giáo lý tràn đầy
niềm hy vọng.
Ngoài ra, dù Khổ Đế
là một chân lý, đó không có nghĩa là không có hạnh phúc,
không có vui thích hay lạc thú trong cuộc sống. Đức Phật
dạy có nhiều phương pháp để đạt hạnh phúc trong đời
sống hàng ngày. Tuy nhiên trong phần lý giải cuối cùng, thì
tựu trung mọi lạc thú hay hạnh phúc mà ta kinh nghiệm trong
đời sống đều là không vĩnh cửu (vô thường). Chúng ta có
thể hưởng hạnh phúc, hoặc có người thương yêu kề bên,
hoặc chúng ta vui sống với tuổi thanh xuân và sức khỏe. Không
chóng thì chầy tình trạng trên cũng sẽ thay đổi và chúng
ta phải chịu khổ đau. Cho nên mỗi khi cảm thấy vui thú khi
ta hưởng hạnh phúc do bất cứ lý do nào, chúng ta không nên
bám níu vào tình trạng hạnh phúc ấy, hoặc bị chệch hướng,
và quên đi phương cách thực hành để đạt Giải Thoát hoàn
toàn.
Nếu chúng ta mong
muốn tự mình thoát khỏi khổ đau, trước hết phải tìm ra
nguyên nhân. Theo Đức Phật, ái dục hay tham đắm là nguyên
nhân của khổ đau. Đây là Diệu Đế Thứ Hai. Con người
khao khát được lạc thú, khao khát vật chất, khao khát cuộc
sống trường cửu, và khi thất vọng, khao khát được an
giấc ngàn thu. Họ không chỉ dính mắc vào dục lạc, của
cải và quyền thế, mà còn bám níu vào ý kiến, lập trường,
quan điểm, ý niệm và tín ngưỡng. Và ái dục thì liên hệ
với vô minh, có nghĩa là không nhìn sự vật đúng như chúng
thế nào, hoặc không hiểu thực chất của kinh nghiệm và
sự sống. Dưới ảo tưởng của cái Ta, và vì không chứng
nghiệm được Vô-Ngã, con người bám níu vào những thứ vô
thường, thay đổi, tàn lụi. Khi không thỏa mãn được tham
ái đối với những thứ này sẽ đưa tới thất vọng và
khổ đau .
SỰ NGUY HIỂM CỦA
VỊ KỶ
Tham ái là ngọn lửa
đang cháy trong mỗi chúng sinh: mỗi hành động đều thúc đẩy
bỏi lòng ham muốn .
Tham ái đi từ cái đòi
hỏi sinh lý đơn giản của thú vật đến cái ham muốn phúc
tạp, và thường là nhân tạo của con người văn minh. Để
thỏa mãn tham dục, thú vật săn mồi giết tróc lẫn nhau, và
con người thì đánh đập, giết tróc, lừa gạt, dối trá và
sử dụng đủ mọi hình thức hành động bất thiện đối
với nhau. Tham ái là một sức mạnh tinh thần mạnh mẽ thể
hiện trong mọi dạng thức sự sống, và là nguyên nhân chính
của những thói xấu. Chính tham ái dẫn đến những tái sanh
tiếp diễn trong vòng luân hồi.
Một khi nhận thức
được nguyên nhân của khổ đau, chúng ta có thể chấm dứt
được khổ đau. Vậy thì, làm sao ta có thể chấm dứt được
khổ đau. Hãy loại bỏ khổ đau tận gốc rễ bằng cách
diệt tham ái ngay trong tâm. Đó là Diệu Đế Thứ Ba. Trạng
thái khi tham ái không còn nữa gọi là Nibbana (Niết Bàn). Từ
ngữ Nibbana gồm có "Ni" và "vana", có nghĩa là
sự thoát khỏi hay chấm dứt tham ái. Đó là một trạng thái
thoát khỏi khổ đau và vòng sanh tử luân hồi. Đó là trạng
thái không bị lệ thuộc bởi định luật sanh, bệnh, gìà và
chết. Trạng thái này quá siêu phàm không ngôn ngữ nhân gian
nào có thể diễn tả được. Niết Bàn là không sanh, không
khởi, không tạo, không thành. Nếu không có cái không sanh, không
khởi, không tạo, không thành này thì việc thoát khỏi thế
gian do duyên hợp không thể làm được.
Niết Bàn vượt ngoài
khả năng của luận lý và tư duy (không thể nghĩ bàn). Chúng
ta có thể bàn cãi sâu rộng về Niết Bàn hay sự thật tối
thượng nhưng đó không phải là phương cách để có thể
thấu hiểu được nó. Muốn hiểu và nhận thức rõ được
chân lý Niết Bàn, việc cần thiết cho chúng ta là phải đi vào
Bát Chánh Đạo, chuyên cần và kiên nhẫn rèn luyện và tự
thanh tịnh hóa. Qua sự phát triển và viên mãn tinh thần, chúng
ta mới có thể chứng nghiệmđược Đế Thứ Ba.
Bát Chánh Đạo là
Diệu Đế thứ tư dẫn đến Niết Bàn. Đó là một lối
sống gồm có tám yếu tố. Đi trên con đường này giúp chúng
ta tìm thấy được sự chấm dứt khổ đau. Vì Giáo lý của
Đạo Phật hợp lý và vững chắc bao gồm mọi khía cạnh
cuộc đời nên con Đường cao quý này cũng là kim chỉ nam
dẫn đến một đời sống hạnh phúc. Tu tập Bát Chánh Đạo
đem lợi lạc cho chính mình và cho người khác, Bát Chánh Đạo
không phải là con Đường chỉ dành riêng cho người Phật
Tử tu tập, mà cả cho bất cứ những ai có hiểu biết, bất
kể tín ngưỡng thuộc tôn giáo nào.
BÁT CHÁNH
ĐẠO - TRUNG ĐẠO
Đây là Con Đường để
sống một đời đạo hạnh mà không đi tới cực đoan.
Một khía cạnh nổi
bật trong Giáo Lý của Đức Phật là việc áp dụng Bát Chánh
Đạo như một lối sống cao thượng. Bát Chánh Đạo cũng
được gọi là Trung Đạo. Đức Phật khuyên các đệ tử tu
tập con đường này để tránh cái cực đoan về hưởng lạc
và khổ hạnh. Trung Đạo là một cách sống đứng đắn, không
chủ trương chấp nhận mệnh lệnh do một người nào đó ngoài
chính mình. Người tu tập Trung Đạo, hành trì giới hạnh, không
phải do sợ hãi một sức mạnh siêu nhân bên ngoài, mà do giá
trị thực chất theo sau mỗi hành động. Người đó chọn
kỷ luật tự giác để đạt một cứu cánh nhất định: đó
là sự tự thanh tịnh hóa.
Trung Đạo là một chương
trình trau dồi tri thức và tiến bộ nội tâm. Một người có
thể tiến bộ thực sự về đạo hạnh và tuệ giác bằng cách
tu tập con Đưòng này, chứ không phải bằng cách thực hành
các nghi lễ và cầu nguyện bên ngoài. Theo Đức Phật, người
sống theo đúng Pháp, sẽ được huớng dẫn và che chở bởi
chính Định Luật này. Một người khi sống đúng theo Pháp,
người đó cũng sống hòa hợp với đinh luật thiên nhiên.
Đức Phật khuyến khích
mỗi Phật Tử nên uốn nắn nếp sống theo khuôn khổ Bát Chánh
Đạo do Ngài giảng dạy. Người nào biết điều chỉnh đời
sống theo con đường cao thượng này sẽ thoát khỏi thống
khổ và tai ương ngay trong kiếp sống này và những kiếp sau.
Người đó có thể mở mang tâm ý bằng cách tránh dữ làm lành.
Bát Chánh Đạo có
thể so sánh với bản đồ chỉ đường. Giống như một người
du hành cần có bản đồ để đi tới mục tiêu, tất cả chúng
ta đều cần sử dụng Bát Chánh Đạo để đạt đến Niết
Bàn, mục tiêu tối hậu của đời sống con người. Muốn đạt
cứu cánh này, có ba mặt của Bát Chánh Đạo mà người tu
tập cần phải phát triển: đó là Giới, Định, và Huệ.
Trong khi ba phương diện này cần phải được vun bồi cùng
một lúc thì cường độ huân tập một trong ba lãnh vực ấy
có thể thay đổi tùy theo căn cơ phát triển của mỗi người.
Hành giả phải trau dồi Giới trước nhất, có nghĩa là các
hành động của mình phải đem lợi ích cho các chúng sinh khác.
Người đó làm như vậy do tin tưởng triệt để vào việc
giữ giới như không giết hại, phỉ báng, trộm cắp, tà dâm
hay dùng các chất say. Khi trau dồi giới hạnh người đó
có thể kiểm soát tâm ý dễ dàng, do đó vun bồi được định
lực. Cuối cùng với định tâm phát triển, trí huệ sẽ
khởi sanh.
PHÁT HUY TỪNG BƯỚC
MỘT
Với trí huệ vô
luợng vô biên, Đức Phật hiểu rằng không phải tất cả
mọi người đều cùng có một khả năng có thể đạt ngay
tới mức viên mãn về tâm linh. Cho nên Ngài vận dụng Bát Chánh
Đạo để phát huy lối sống tinh thần từng bước bằng phương
cách thực tiễn. Ngài biết rằng không phải mọi người đều
có thể trở nên toàn bích ngay trong kiếp sống này. Ngài
dạy Giới Định, Huệ phải được huân tập qua nhiều kiếp
sống với nỗ lực không ngừng. Cuối cùng Bát Chánh Đạo
sẽ dẫn đến mức đạt đưọc sự an lạc tối thượng không
còn bất- toại- nguyện nữa.
ĐỜI SỐNG CHÍNH ĐÁNG
Bát Chánh Đạo gồm có tám yếu tố sau:
GIỚI: Chánh Ngữ ,
Chánh Nghiệp, Chánh Mạng
ĐỊNH: Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định
HUỆ: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy
Chánh Kiến là gì? Chánh
Kiến được giải thích là có sự hiểu biết về Tứ Diệu
Đế. Nói một cách khác là hiểu sự vật đúng như chúng là
vậy. Chánh Kiến cũng có nghĩa là hiểu biết bản chất của
các thiện Nghiệp và bất thiện Nghiệp, và cũng ảnh hưởng
của chúng đối với thân, khẩu ý như thế nào. Do hiểu
Nghiệp, ta sẽ học được cách tránh việc ác, làm việc lành,
tạo kết quả tốt đẹp trong đời sống. Khi một người đạt
được Chánh Kiến, người ấy sẽ hiểu được Ba Đặc Tính
của Sự Sống (Vô Thuờng, Khổ và Vô Ngã), và hiểu được
định luật của Lý Nhân Duyên. Người có Chánh Kiến viên mãn
là người thoát khỏi vô minh, và do bản chất của sự giác
ngộ này, sẽ nhổ hết gốc rễ các tội lỗi trong tâm ý và
đạt giải thoát. Mục đích cao thượng của một hành giả
tu Phật là trau dồi Trí Tuệ và đạt được Chánh Kiến về
chính bản thân, về đời sống và về tất cả các hiện tượng.
Một người có Chánh
Kiến cũng phát triển hoàn mãn Chánh Tư Duy. Yếu tố này đôi
khi được g?i là "Chánh Giải Pháp", "Nguyện
Vọng Chân Chánh", hay "Suy Tư Chân Chánh". Nó đưa
đến trạng thái tinh thần, có công năng loại bỏ những tà
kiến hay khái niệm sai lầm và bồi dưỡng các yếu tố khác
nhằm tiến đến Niết Bàn. Yếu tố này có hai công dụng cùng
một lúc : loại bỏ các tư tưởng tội lỗi và phát triển các
tu tưởng trong sạch.Chánh Tư Duy rất quan trọng vì tư tưởng
của một người có thể làm cho người ấy có thể thanh
tịnh hay bất tịnh.
Chánh Tư Duy có ba khía
cạnh. Trước nhất, ta phải duy trì thái độ buông bỏ lạc
thú thế gian, không ích kỷ bám níu vào chúng. Ta không nên có
tư tưởng vị kỷ mà nên nghĩ đến phúc lợi của người khác.
Thứ hai, ta phải luôn duy trì tâm từ ái, thiện chí, và bao
dung, ngược lại với sân hận, ác ý, hay thù nghịch. Thứ
ba, ta nên hành động với tác ý không làm hại ai, và từ bi
với mọi chúng sanh, ngược lại với tính hung bạo và thiếu
tôn trọng kẻ khác. Theo đà tiến trên con đuờng tu tập, tâm
ta sẽ càng ngày càng thấm nhuần tính nhân ái, hiền hòa,
vị tha, và lòng ta sẽ tràn đầy tình thương yêu và bi mẫn.
Chánh Kiến và Chánh Tư
Duy là các yếu tố Trí Tuệ dẫn đến giới hạnh trong
sạch. Có ba yếu tố trong giới hạnh: Chánh Ngữ, Chánh
Nghiệp, và Chánh Mạng. Chánh Ngữ tôn trọng chân lý và tôn
trọng phúc lợi của người khác. Đó có nghĩa là tránh nói
dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời thô ác, và nói chuyện vô
ích. Chúng ta thường coi thường lời nói và có khuynh hướng
không để ý đến khả năng của lời nói. Nhưng đôi khi chúng
ta cũng bị đau đớn hoặc cũng được phấn khởi bởi lời
nói của người nào đó. Có câu: một lời nói tàn nhẫn gây
tổn thương còn hơn vũ khí trong khi một lời nói dịu dàng có
thể cảm hóa trái tim, và trí óc của kẻ tội phạm bướng
bỉnh chai đá nhất. Cho nên để phát huy một xã hội hòa
hợp, chúng ta nên kiểm soát, trau dồi và sử dụng lòi nói
một cách tích cực. Chúng ta nói những lòi trung thực, hài hòa,
thân ái, và ý nghĩa. Có lần Đức Phật dạy: "lời nói
dịu dàng như mật ngọt, lời nói ngay thẳng đẹp như cánh
hoa, lời nói sai trái như rác rưới".
Yếu tố tiếp theo
của giới hạnh là Chánh Nghiệp. Chánh Nghiệp tôn trọng đời
sống, tôn trọng tài sản, tôn trọng sự giao tế cá nhân. Nó
tương ứng với ba điều đầu tiên trong năm giới tu tập
của mỗi người Phật Tử, đó là tránh xa sự giết hại,
trộm cắp, và tà dâm. Đời sống quý giá với tất cả mọi
người, ai cũng run sợ trước hình phạt, ai cũng sợ chết, và
quý trọng mạng sống. Vậy nên, chúng ta không nên tước đoạt
mạng sống mà chúng ta không thể cho được, và không nên làm
hại các chúng sanh khác. Tôn trọng tài sản có nghĩa là không
lấy bất cứ gì không được phép lấy bằng cách trộm
cắp, lừa đảo và ép buộc. Tôn trọng tương quan cá nhân có
nghĩa là không nên ngoại tình và tà dâm. Điều này quan
trọng vì nó duy trì tình thương và tin tưởng giữa những người
thân yêu của mình, làm xã hội trở thành một nơi tốt đẹp
hơn để chung sống.
Chánh Mạng là yếu
tố của đức hạnh liên quan đến cách mưu sinh trong xã
hội. Nó là sự mở rộng của Chánh Ngữ và Chánh Nghiệp
nhằm tôn trọng sự thật, mạng sống, tài sản, và sự tuơng
quan cá nhân. Chánh Mạng có nghĩa là chúng ta nên mưu sinh mà
không vi phạm những nguyên tắc của giới đức. Người
Phật Tử nên tránh năm loại sanh kế: buôn bán nô lệ, buôn
bán vũ khí, buôn bán súc vật để đem giết, buôn bán rượu
và ma túy, và buôn bán độc dược. Một số người nói
rằng vì sanh nhai nên phải buôn bán các nghề trên, cho nên
họ không có gì sai quấy cả . Nhưng lý luận bào chữa này
hoàn toàn vô căn cứ vì nếu việc này được chấp nhận thì
những kẻ trộm cắp, giết người, cướp bác, buôn lậu và
lừa đảo cũng có thể dễ dàng mà nói rằng họ làm các
việc phi pháp cũng chỉ vì mưu sinh, như vậy lối sống của
họ có gì là sai quấy.
Một số người tin
rằng câu cá, săn thú để tiêu khiển và giết súc vật để
lấy thực phẩm không trái với giới cấm của người Phật
Tử. Đây cũng là một quan niệm sai lầm phát sanh do thiếu
kiến thức về Pháp. Những hành đ?ng trên không chính đáng và
chỉ gây đau khổ cho chúng sanh khác. Trong những hành động
ấy, kẻ nào bị thiệt hại nhất chính là kẻ đã làm điều
bất thiện. Duy trì cuộc sống bằng những phương tiện sai
lầm không phù hợp với giáo lý của Đức Phật. Một lần
Đức Phật dạy: "Nếu phải sống đến trăm tuổi
cuộc đời buông lung và không tự chế, tốt hơn, quả thực
vậy, thà sống một ngày đời sống đạo hạnh và biết quán
tưởng (Kinh Pháp Cú, Câu 103). Thà chết là một người đức
hạnh và đáng kính còn hơn sống là người tội lỗi.
Ba yếu tố còn lại
của Bát Chánh Đạo là các yếu tố phát triển trí tuệ
bằng cách thanh lọc tâm ý. Đó là Chánh Tinh Tấn, Chánh
Niệm và Chánh Định. Hành tập những yếu tố này giúp ta
củng cố và kiểm soát được tâm, giữ vững ý chí tiếp
tục làm điều thiện gíúp tâm chuẩn bị chứng ngộ được
Chân Lý, mở cửa đến giải thoát, đến Giác Ngộ.
Chánh Tinh Tấn là trau
dồi thái độ tích cực và nhiệt tình trong công việc làm,
hoặc trong nghề nghiệp,học hành, hoặc trong việc hành đạo.
Với nhiệt tâm bền bỉ, và quyết tâm hoan hỷ, ta mới thành
công trong việc ta làm. Chánh Tinh Tấn có bốn khía cạnh: hai
khía cạnh liên quan đến bất thiện pháp và hai liên quan đến
thiện pháp. Trước tiên, tinh tấn loại bỏ điều bất
thiện đã phát sinh, và thứ nhì là ngăn chặn điều bất
thiện phát sinh. Thứ ba là phát triển điều thiện chưa phát
sinh, và thứ tư làduy trì điều thiện đã phát sinh. Áp
dụng Chánh Tinh Tấn vào đời sống, chúng ta có thể tiết
giảm hay loại bỏ tư tưởng bất thiện, tăng truởng và
quyết tâm huân tập các tư tưởng thiện lành thành một
phần tự nhiên trong tâm ý chúng ta.
Chánh Tinh Tấn liên
hệ khăng khít với Chánh Niệm. Trong Đạo Phật tu Tập
Chánh Niệm là tối cần thiết. Đức Phật dạy Chánh Niệm là
con đuờng duy nhất để chấm dứt khổ đau. Chánh Niệm phát
triển do sự chú tâm vào bốn lãnh vực đặc biệt (Tứ
Niệm Xứ). Đó là dùng Chánh Niệm để ghi nhận về thân
(oai nghi, hít thở vân vân..), về thọ (lạc, khổ, trung
tính), về tâm (tham, sân, si hay không), và về pháp
(các đối tượng của tâm như chướng ngại của tâm định
hay Tứ Diệu Đế, vân vân.). Chánh Niệm rất cần thiết ngay
cho đời sống hàng ngày, chúng ta luôn luôn phải chú tâm vào
các hành động, cảm nghĩ và tư tưởng cũng như vào hoàn
cảnh chung quanh chúng ta. Tâm luôn luôn phải sáng suốt, ý
tứ không phóng dật hay mờ mịt và phiền muộn.
Trong khi Chánh Niệm là
hướng tâm chú ý đến thân, cảm nghĩ (thọ), tâm và pháp (các
đối tượng của tâm), hay ghi nhận các sự việc khác, nói
một cách khác đó là đem tâm chú ý hướng đến đối tượng
ta chọn, thì Chánh Định là dán chắc sự chú tâm trên
đối tượng, không để tâm bị xao lãng. Định là công
phu hành trì để phát triển khả năng gom tâm thành một điểm
(nhất điểm tâm) trên một đối tượng duy nhất về vật
chất hay về tinh thần. Tâm hoàn toàn tập trung vào đề
mục, không bị phân tán, giao động, bất an hay hôn trầm. Tu
tập duới sự huớng dẫn của một vị thầy kinh nghiệm, Chánh
Định đem lại hai điều lợi ích. Thứ nhất, tinh thần và
thể chất được lành mạnh, thoải mát, hoan hỉ, bình tĩnh,
và tịch tịnh. Thứ hai, Chánh Định chuyển tâm trở thành
một dụng cụ có khả năng nhìn sự vật đúng như chúng là,
và chuẩn bị cho tâm đạt trí tuệ.
Bát Chánh Đạo là chân
lý quan trọng thứ tư do Đức Phật dạy. Như một lương y
giỏi về tâm linh, Ngài đã tìm ra căn bệnh gây tai họa cho
tất cả mọi thứ trong đời sống, đó là Khổ hay Bất-toại-nguyện.
Rồi Ngài tìm ra nguyên nhân bất-toại-nguyện là do lòng tham
vị kỷ và bám níu. Ngài khám phá ra có một phưong cách
chữa khỏi bệnh này: Niết Bàn, trạng thái chấm dứt tất
cả bất-toại-nguyện và toa thuốc đó là Bát Chánh Đạo.
Khi một bác sĩ giỏi chữa một bệnh nhân mắc bệnh nặng,
toa thuốc chữa trị không những về thân bệnh mà còn về tâm
bệnh nữa. Bát Chánh Đạo, con đường chấm dứt khổ đau, là
một phương pháp trị liệu có hệ thống chuyên chữa bệnh
luân hồi sinh tử bằng cách rèn luyện Thân và Khẩu, phát
triển tâm ý, và thay đổi toàn bộ mức độ hiểu biết và
giá trị tư tưởng của một con người. Bát Chánh Đạo chỉ
dạy đường lối đạt đến mức toàn hảo về tâm linh, và
giải thoát hoàn toàn mọi khổ đau.
MỌI
VẬT ĐỀU THAY ĐỔI
Cái gì có hiện hữu
đều thay đổi và cái gì không thay đổi thì không hiện
hữu.
Nhìn vào đời sống,
chúng ta nhận thấy mọi thứ hiện hữu không ngừng thay đổi
giữa những cực đoan và tương phản. Ta chứng kiến mọi thăng
trầm, mọi thành công và thất bại, mọi được thua; ta kinh
nghiệm mọi vinh nhục, mọi khen chê; ta đã cảm thấy tâm ta
đáp ứng như thế nào trước tất cả những nỗi vui buồn
ấy, thích thú và chán chường, thất vọng và thỏa mãn, sợ
hãi và hy vọng. Những luồng sóng hùng mạnh của cảm xúc đó
đem chúng ta lên cao, dìm chúng ta xuống đáy, không mấy chốc
chúng ta chẳng còn an lạc, rồi chúng ta lại bị đẩy đưa
bởi sức mạnh của luồng sóng mới. Làm sao chúng ta có thể
đứng vững vàng trên đầu những ngọn sóng ấy? Nơi đâu chúng
ta sẽ xây dựng được lâu đài của cuộc sống giữa cái
chao đảo không bao giờ ngừng nghỉ của đại dương?
Đó chính là một
thế giới mà niềm vui thì ít mà chỉ thấy nhiều thất
vọng, chán chường, và thất bại. Đó là một thế giới mà
niềm vui lại rất ít giữa bệnh não, thất vọng và tử
thần. Đó là một thế giới mà chúng sanh mới giao tiếp
với ta bằng niềm vui trìu mến thì ngay sau đó lại cần đến
lòng bi mẫn. Với một thế giới như vậy. sự trầm tĩnh
rất cần thiết. Đó là bản chất của thế giới mà chúng
ta đang sống thân thích với các bạn bè hôm nay nhưng hôm sau
họ lại trở thành kẻ thù hãm hại chúng ta.
Đức Phật miêu tả
thế giới như một dòng bất tận của sự tái sanh. Mọi
thứ đều thay đổi, chuyển hóa liên tục, đột biến không
ngừng và như một dòng suối tuôn chảy. Mọi thứ lúc có lúc
không. Mọi thứ tuần hoàn hiện hữu rồi lại biến mất
khỏi cuộc sống. Mọi thứ đều chuyển động từ lúc sanh
đến lúc ch?t. Sự sống là một sự chuyển động liên tục
của sự thay đổi tiến đến cái chết. Vật chất (Sắc Pháp)
hay các dạng thức vật chất biểu lộ hay không biểu lộ
trong đời sống, cũng là một chuyển động không ngừng của
sự thay đổi đi đến tàn lụi hoại diệt. Giáo lý về tính
chất vô thường của mọi sự vật này là một trọng điểm
then chốt của Đạo Phật. Không có gì trên trái đất này có
thể chia sẻ được tính chất của sự thật tuyệt đối.
Sự thật đó là không thể có cái gì có sanh ra mà không có
chết. Bất cứ gì lệ thuộc vào sự duyên hợp thì cũng
phải lệ thuộc vào sự tan rã. Thay đổi chính nó là thành
phần của mọi thực thể.
Công nhận định
luật vô thường, Đức Phật bác bỏ sự hiện hữu của
những sự vật trường cửu. Vật chất và tinh thần đều là
các ý niệm trừu tượng không thật, thật sự chỉ là
những yếu tố luôn thay đổi (Pháp), liên hệ lẫn nhau, sanh
khởi tùy thuộc lẫn nhau.
Ngày nay các khoa học
gia đều công nhận Đức Phật là người khám phá ra định
luật vô thường. Khoa học
gia mặc nhận không một thứ gì có thực chất, vững chắc và
xác thực trong thế giới này. Mọi sự vật chỉ là cơn lốc
của nhiệt lượng, không bao giờ giữ nguyên không thay đổi
trong hai giây phút liên tiếp. Cả thế giới rộng lớn này đều
bị xoáy vào vòng gió cuốn và cơn lốc của vô thường.
Một trong những nguyên lý mặc nhận bởi các khoa học gia là
viễn tượng của sự nguội lạnh cực điểm, và theo sau là
cái chết hay sự tiêu diệt của mặt trời. Người Phật Tử
không bị mất tinh thần vì viễn tượng ấy. Đức Phật đã
dạy rằng các vũ trụ hay các chu kỳ của thế giới, cứ
tiếp tục trỗi lên và mất đi vô cùng tận. giống như đời
sống của con người. Thế giới của chúng ta chắc chắn sẽ
có ngày cùng tận. Việc này đã sẩy ra cho những thế giới
trước đây, và lại sẽ sẩy ra sau này.
Thế giới là một
hiện tượng đang trôi qua. Tất cả chúng ta đều thuộc về
thế gi?i của thời gian. Mỗi chữ viết, mỗi viên đá chạm,
mỗi bức tranh vẽ, mỗi cấu trúc của nền văn minh, mỗi
thế hệ của loài người, tan tác đi qua giống như hoa, lá tàn
tạ cuối hè. "Cái gì hiện hữu thì thay đổi, cái gì không
thay đổi thì không hiện hữu."
Tất cả chư thiên,
con người, thú vật và tất cả dạng thức vật chất - tất
cả mọi thú trong vũ trụ - đều bị chi phối bởi luật vô
thường. Đạo Phật dạy:
"Sắc Thân như bèo
bọt;
Thọ như bóng nước;
Tưởng như ảo giác ;
Hành như thân cây chuối (tách ra chẳng còn gì)
Và Thức như trò múa rối" - (Tương Ưng Bộ Kinh)
(xem tiếp phần
b)
-ooOoo-
Ðầu
trang | Mục lục | 01
| 02 | 03 |
04
| 05a | 05b |
06
| 07 | 08 |
09
| 10 | 11 |
12
| 13 | 14 |
15
| 16 | 17
--- o0o ---
Trình bày:
Chân Đức & Nguyên Thảo
Cập
nhật
ngày:
01-11-2002
|
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục