|
Vì sao tin Phật
Hòa thượng K.
Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang
dịch Việt,
California,
Hoa Kỳ, 1997
Nguyên
tác: What Buddhists believe , Malaysia, 1987 |
---o0o---
Chương 10
CẦU
NGUYỆN, THIỀN ĐỊNH VÀ
TU TẬP
-ooOoo-
ĐỨC TIN, TIN TƯỞNG VÀ
THÀNH TÂM
Chánh Kiến chỉ đường đến tin tưởng; tin tưởng mở
đường đến trí tuệ.
Đức tin theo ý nghĩa
hữu thần không tìm thấy trong đạo Phật vì Phật Giáo
nhấn mạnh đặc biệt vào sự hiểu biết. Đức tin hữu
thần là ma túy cho các đầu óc đa cảm, và đòi hỏi phải
tin vào những gì không được biết. Kiến thức phá vỡ đức
tin và đức tin bị tự phá vỡ khi đức tin huyền bí bị
khảo sát dưới ánh sáng của lý trí. Tin tưởng không thể
đạt được bằng đức tin vì đức tin đặt nhẹ về lý trí,
nhưng chỉ đạt bằng sự hiểu biết.
Nhắc đến bản chất
đức tin ngu dốt và mù quáng, Voltaire nói: "Đức tin là
tin vào điều gì mà lý trí của bạn nói là không có thật;
bởi nếu lý trí của bạn chấp nhận nó, thì vấn đề đức
tin mù quáng khỏi cần phải đặt ra".
Tuy nhiên tin tưởng không
giống như đức tin. Tin tưởng không phải là sự chấp nhận
tinh thần vào cái không thể biết được. Tin tưởng là một
hoài bão chắc thực, không phải vào một cái vượt ngoài
hiểu biết, mà là vào cái có thể được xét qua kinh nghiệm
hiểu biết bản thân. Tin tưởng giống như sự hiểu biết mà
người học sinh tiếp thu nơi thầy giáo giảng trong lớp về
định luật vũ trụ bình phương của lực hấp dẫn chứng
minh bởi Newton. Người học sinh không nên chấp nhận đức
tin mù quáng nơi thầy giáo và sách vở của ông. Người học
sinh nghiên cứu sự kiện, khảo sát luận cứ khoa học, và đánh
giá tính chất xác thực của tài liệu. Nếu có nghi ngờ, người
học sinh nên dè dặt xét đoán cho đến khi tự mình tra cứu
thấy sự trung thực của tài liệu. Với người Phật Tử,
tin tưởng là một sản phẩm của lý trí, kiến thức và kinh
nghiệm. Khi được phát triển, tin tưởng không bao giờ là
niềm tin mù quáng. Tin tưởng trở thành sức mạnh của tâm.
Trong cuốn "Đức Phật Dạy Gì", Hòa thượng Walpola
Rahula viết:
"Vấn đề đức
tin sanh khởi khi ta không thấy - thấy trong mọi nghĩa của
tiếng này. Đến khi bạn thấy được, vấn đề đức tin
biến mất. Nếu tôi nói với bạn tôi đang có một hạt
ngọc trong nắm tay tôi, đức tin phát khởi vì chính bạn chưa
nhìn thấy viên ngọc này. Nhưng nếu tôi mở bàn tay ra và
đưa cho bạn xem hạt ngọc, chính mắt bạn nhìn thấy, vấn
đề đức tin không sanh khởi. Cho nên trong kinh Phật giáo cổ
xưa có câu như sau: "Thấy rõ, giống như một người
thấy một hạt ngọc trong lòng bàn tay".
Ý NGHĨA CỦA SỰ CẦU
NGUYỆN
Thiên nhiên vốn vô tư;
những lời cầu nguyện không làm cho thiên nhiên hãnh diện.
Thiên nhiên không ban thưởng đặc ân do lời yêu cầu nào.
Con người không phải
là một sinh vật bị sa cơ có nhu cầu phải cầu xin, trông
chờ vào tình thương. Theo Phật Giáo, con người là chủ tể
đầy tiềm năng của chính mình. Chỉ vì vô minh sâu xa nên
con người không nhận ra được tiềm năng phong phú của mình.
Vì Đức Phật đã chỉ cho sức mạnh tiềm ẩn này, con người
phải trau dồi tâm ý, và cố gắng phát triển tâm ý bằng cách
chứng nghiệm được khả năng bẩm sinh này.
Phật Giáo cho con người
trách nhiệm và phẩm giá hoàn toàn. Phật Giáo làm cho con người
thành chủ tể của chính mình. Theo Phật Giáo, không có chúng
sanh nào ngồi trên cao xét xử công việc và định mệnh mình.
Có nghĩa là đời sống, xã hội, thế giới của chúng ta, là
cái mà bạn và tôi muốn làm ra chứ không phải là cái mà
một đấng không biết nào khác muốn làm ra như vậy.
Xin nhớ là thiên nhiên
không thiên vị; những lời cầu nguyện không làm cho thiên
nhiên hãnh diện. Thiên nhiên không cho ân huệ đặc biệt gì
theo lời yêu cầu.
Vì vậy trong Phật Giáo,
cầu nguyện là thiền định tự nó thay đổi tùy theo đối tượng.
Cầu nguyện trong thiền định là sự tu sửa lại bản tính
của mình. Đó là sự chuyển hóa bản chất bên trong ta bằng
cách thanh lọc ba khả năng: tư tưởng, lời nói và hành động.
Do thiền định, ta có thể hiểu được rằng "ta sẽ
trở thành cái mà ta nghĩ " theo như những khám phá của tâm
lý học. Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta thấy tâm ta khuây
khỏa; đó là ảnh hưởng tâm lý do chúng ta tạo ra nhờ
niềm tin và thành tâm. Đọc một vài câu kệ, chúng ta cũng
kinh nghiệm được kết quả như vậy. Tên và những ký hiệu
tượng trưng trong tôn giáo rất quan trọng đến mức độ giúp
ta phát triển thành tâm và tin tưởng.
Chính Đức Phật đã
giải thích rõ ràng chẳng có cách làm nào như đọc tụng
kinh điển, hành xác, nằm đất, liên tục cầu nguyện, sám
hối, tán tụng, bùa ngải, bùa phép, thần chú, và cầu khẩn
có thể mang lại hạnh phúc thực sự của Niết Bàn.
Về việc dùng cầu
nguyện để đạt mục tiêu tối hậu, Đức Phật có lần cho
thí dụ về một người muốn qua sông. Nếu người đó cứ
ngồi và cầu cho bờ sông bên kia sẽ đến với mình và mang
mình qua sông, nhất định lời cầu nguyện chẳng bao giờ
được đáp ứng. Nếu muốn qua sông, người đó phải cố
gắng, tìm gỗ và làm một cái bè, tìm một cây cầu, hoặc làm
một cái thuyền hay lội qua sông. Dù bằng cách nào đi nữa
thì người đó phải ra tay làm việc mới qua sông được.
Giống như vậy, nếu muốn vượt qua dòng sông Luân Hồi,
cầu nguyện không thôi chưa đủ. Người đó phải hết sức
cố gắng bằng cách sống một cuộc đời đạo hạnh, kiềm
chế đam mê, lắng đọng tâm tư, và quét sạch tất cả
những bất tịnh và ô trược trong tâm. Chỉ lúc ấy, người
đó mới đạt mục tiêu cuối cùng. Cầu nguyện suông không
bao giờ mang ai tới mục tiêu cuối cùng được.
Nếu cần cầu nguyện
thì chỉ nên cầu nguyện cho tâm thêm mạnh chứ không phải
cầu xin để được lợi lộc. Lời cầu nguyện dưới đây
của một thi sĩ nổi danh dạy chúng ta phải cầu nguyện như
thế nào.
Người Phật Tử hãy
coi lời nguyện này như thiền định để trau dồi tâm ý:
"Đừng cho tôi
nguyện cầu xin tránh thoát
tai ương
Mà chỉ để không sợ khi đối đầu với chúng
Đừng cho tôi khẩn cầu êm đi cơn đau đớn
Mà chỉ để tim tôi vượt thắng được cơn đau
Đừng cho tôi khát khao được cứu khỏi lo sầu
Mà chỉ để kiên nhẫn thắng tự do ham muốn".
THIỀN ĐỊNH
Thiền định là phương
pháp tâm lý để mở mang, rèn luyện và thanh tịnh tâm ý.
Thay vì cầu nguyện,
người Phật Tử hành thiền để trau dồi tâm ý, và phát
triển tinh thần. Không ai có thể đạt Niết Bàn hoặc giải
thoát mà không phát triển tâm ý qua thiền định. Bất cứ
một số lượng công đức nào cũng không thể giúp cho một
người đạt được mục tiêu cuối cùng nếu tâm không được
thanh lọc tương ứng. Đương nhiên một cái tâm không được
huấn luyện rất khó nắm giữ, hay quyến dụ thuyết phục
con người phạm tội lỗi, và trở thành nô lệ cho giác quan.
Tưởng tượng và xúc cảm bao giờ cũng khiến con người
lầm lạc nếu tâm trí không được huấn luyện đứng đắn.
Người biết tu tập thiền định có thể kiểm soát tâm mình
khi bị các giác quan dẫn dắt sai lầm.
Hầu hết những khó
khăn mà chúng ta phải đương đầu ngày nay là do tâm không
được huấn luyện và trau dồi. Thiền đã được thiết
lập để chữa trị các bệnh tâm và bệnh thân. Giới khoa
học và những nhà tâm lý học lỗi lạc trên khắp thế
giới đều công nhận rằng khủng hoảng tinh thần, lo lắng,
thống khổ, băn khoăn, căng thẳng, và sợ hãi là những nguyên
nhân của nhiều chứng bệnh như loét bao tử, viêm dạ dầy,
đau thần kinh, và bệnh tâm thần. Và cả đến những bệnh
ẩn tàng sẽ càng ngày càng nặng thêm vì những tình trạng
của các bệnh tâm thần như vậy.
Khi cái thức về
"TÔI" quá ư bực bội, quá nhiều lo lắng, hay phiền
muộn, kéo dài quá lâu hay quá căng thẳng, thì tình trạng xáo
trộn phát triển nơi thân. Viêm và loét dạ dầy, lao phổi,
bệnh do động mạch, và và cả loạt những rối loạn chức
năng là những sản phẩm của tâm thần và xúc cảm không quân
bình. Về trường hợp các trẻ em, răng sâu và mắt có tật
thường liên quan đến các rối loạn xúc cảm mà ra.
Nhiều bệnh và rối
loạn như thế có thể tránh được nếu ta có thể dành ít
phút trong một ngày để làm lắng dịu các giác quan bằng
thực hành thiền định. Do thiếu hiểu biết nhiều người không
tin việc này hoặc quá lười biếng không chịu hành thiền.
Một số người lại nói thiền định chỉ phí phạm thì
giờ. Chúng ta phải nhớ rằng tất cả giáo chủ tinh thần trên
thế giới này đạt được đến mức độ cao nhất của lẽ
sống đều do tu tập thiền định. Ngày nay các Ngài được hàng
triệu người tôn kính do công trình phục vụ vĩ đại cho nhân
loại bằng kiến thức và hạnh kiên nhẫn siêu việt mà các
Ngài đạt được bằng tu tập thiền định.
Thiền định không nên
là một công việc bắt buộc phải "răng nghiến, tay
siết" ; thiền định phải là điều gì lôi cuốn ta, cho
ta tràn ngập niềm vui và cảm hứng. Chừng nào mà ta còn
miễn cưỡng, thì ta chưa sẵn sàng hành thiền được. Thay vì
hành thiền ta đã vi phạm bản chất thực sự của chúng ta.
Thay vì để chúng thoải mái và tự nhiên qua đi, ta lại cứ
giữ chặt cái ta, cái sức mạnh của ý muốn trong ta. Thiền
định theo đường lối như vậy trở nên trò chơi của tham
vọng, của phô trương thành quả cá nhân. Thiền định
giống như tình yêu là một kinh nghiệm tự phát chứ không
phải là điều bị bắt buộc hay đạt được bằng nỗ lực
hăm hở.
Cho nên Thiền Phật Giáo
không ngoài mục đích đem tâm trở về hiện tại, vào một
trạng thái hoàn toàn tỉnh thức, bằng cách quét sạch tất
cả những chướng ngại đã được tạo ra bởi thói quen hay
truyền thống.
Đức Phật đạt Giác
Ngộ do sự phát triển tâm ý của Ngài. Ngài không tìm đến
sức mạnh thánh thần để giúp đỡ Ngài. Ngài đạt trí
tuệ nhờ sự tự nỗ lực bằng tu tập thiền định. Muốn tâm
và thân lành mạnh, và muốn cuộc sống an lạc, ta phải học
hỏi cách tu tập thiền định.
BẢN
CHẤT CỦA ĐỜI SỐNG HIỆN ĐẠI
Ngày nay chúng ta đang
sống trong một thế giới mà con người cật lực làm việc
về vật chất lẫn tinh thần. Nếu không hết sức làm việc,
sẽ không có chỗ cho ta trong xã hội hiện đại này. Mọi nơi,
mọi lúc đều có cạnh tranh mạnh mẽ. Người này muốn hạ
người kia trong mọi khía cạnh của cuộc sống, và con người
không được nghỉ ngơi chút nào cả. Tâm là hạt nhân của
đời sống . Khi không có an lạc và thư thái thực sự trong tâm,
toàn bộ đời sống sẽ sụp đổ. Thông thường con người
cố vượt qua đau khổ bằng cách thỏa mãn các giác quan:
uống rượu, cờ bạc, ca hát và khiêu vũ - lúc nào cũng có
ảo tưởng là họ thật sự vui huởng hạnh phúc thực sự
của đời sống. Kích động giác quan không phải là con đường
thực sự để được nghỉ ngơi. Nếu chúng ta càng thỏa mãn
giác quan bằng lạc thú nhục dục, càng ngày ta càng phải
lệ thuộc vào giác quan. Thèm muốn thỏa mãn chẳng bao giờ
chấm dứt. Con đường thực sự để buông thủ, thoải mái là
phải lắng đọng giác quan bằng sự kiểm soát tâm ý. Nếu
chúng ta có thể kiểm soát tâm ý, chúng ta có thể kiểm soát
được mọi thứ. Khi kiểm soát hoàn toàn được tâm và tâm
được thanh tịnh, tâm sẽ giải thoát khỏi những xáo trộn
tâm thần. Khi tâm giải thoát khỏi những xáo trộn tinh
thần, tâm có thể nhìn thấy nhiều điều mà ta không thể nhìn
thấy bằng mắt trần. Cuối cùng, chúng ta có thể đạt
giải thoát và tìm thấy an lạc và hạnh phúc.
Muốn hành thiền, ta
phải cương quyết, cố gắng, và nhẫn nại. Không nên mong
cầu đạt được kết quả tức khắc. Chúng ta phải nhớ
phải mất nhiều năm một người mới trở thành bác sĩ,
luật sư, nhà toán học, triết gia, sử gia hoặc khoa học gia.
Cũng giống như vậy, muốn thành một người hành thiền
thuần thục, phải có một thời gian cho người đó kiểm soát
được cái tâm lăng xăng xao lãng và lắng đọng được giác
quan. Hành thiền giống như bơi ngược dòng sông. Cho nên ta
phải nhẫn nại đừng nản chí vì không thấy ngay kết quả.
Đồng thời người hành thiền phải trau dồi giới đức.
Chỗ thích hợp cho việc thiền tập là một khía cạnh quan
trọng khác. Người hành thiền phải có một đối tượng để
thiền tập, nếu không có một đối tượng, cái tâm lăng xăng
khó mà kiềm chế được. Đối tượng không được tạo
tham, sân, ảo tưởng hay xúc động trong tâm người hành
thiền.
Khi chúng ta bắt đầu
hành thiền, chúng ta điều chỉnh lại tâm ý từ cách suy nghĩ
cũ, thường bằng tưởng tượng, sang cách suy nghĩ mới lạ,
không bị ngăn ngại. Trong lúc hành thiền khi chúng ta thở
trong chánh niệm, chúng ta hít vào năng lượng vũ trụ. Khi chúng
ta thở ra trong chánh niệm với tâm từ - Metta, chúng ta thanh
lọc bầu không khí. Ở đây, trí năng cần thiết để thắng
lướt sự dao động về xúc cảm và tinh thần cũng như trực
giác cần thiết để vượt qua sự giới hạn của trí thức,
và sự trừu tượng của ý niệm.
Chúng ta dành hầu
hết thì giờ cho thân: nào ăn, nào mặc, nào tẩy sạch, tắm
rửa, trang điểm, nghỉ ngơi, nhưng chúng ta dành bao nhiêu thì
giờ cho tâm của chúng ta cũng vào những mục đích ấy?
Một số người lấy
hình ảnh Đức Phật làm đối tượng và tập trung vào hình
ảnh này. Một số khác tập trung vào hơi thở vào và hơi
thở ra. Dù là phương pháp nào đi nữa, nếu bất cứ ai cố
gắng tu tập thiền định, chắc chắn người ấy tìm được
sự thoải mái. Thiền giúp ta rất nhiều để có sức khỏe
tinh thần và vật chất và để kiểm soát tâm khi cần
thiết.
Con người có thể giúp
ích hữu hiệu nhất cho xã hội đơn giản bằng cách không làm
các điều tội lỗi. Tâm được rèn luyện và phát triển do
thiền tập có thể giúp ích đắc lực nhất cho người khác.
Thiền định không làm mất thì giờ quý báu của con người.
Tâm tiến bộ của người hành thiền có thể giải quyết
rất nhiều khó khăn của nhân loại và rất hữu ích để soi
sáng người khác. Thiền định giúp cho ta sống an lạc dù
nhiều xáo trộn đang lan tràn trong thế giới hiện đại này.
Chúng ta không thể cầu mong được rút lui trong rừng sâu để
sống trong tháp ngà - "xa hẳn đám đông điên loạn".
Bằng cách tu tập thiền định đúng cách, chúng ta có thể có
được một trú xứ cho sự quên lãng tạm thời. Thiền định
có mục đích huấn luyện con người để có thể đương đầu,
hiểu biết và chiến thắng ngay trong thế giới này mà chúng
ta đương sống. Thiền định dạy chúng ta tự điều chỉnh
để có thể chịu đựng nhiều chướng ngại của cuộc
sống trong thế giới hiện đại này.
Một số người hành
thiền để thỏa mãn những tham muốn vất chất; họ muốn đạt
nhiều hơn nữa lợi lộc vật chất. Họ muốn dùng thiền để
có một công việc tốt hơn. Họ muốn kiếm được nhiều
tiền hơn nữa hoặc điều động công việc làm ăn hữu
hiệu hơn. Có lẽ họ không hiểu rằng mục đích của thiền
không phải là tăng thêm mà là giảm bớt tham muốn. Những động
lực thiên về vật chất không thích hợp cho thiền định chính
đáng, mục đích của thiền vượt ra ngoài những công việc
giữa thế gian. Ta nên thiền tập để đạt một điều gì mà
cả đến tiền bạc cũng không sao mua hay mang lại được.
Tu tập thiền định,
bạn có thể học hỏi cách tiếp xử như một người lịch
thiệp dù bị những người khác quấy rầy. Nhờ thiền định
bạn biết cách thư giãn thân thể, lắng đọng tâm tư; nội
tâm an tĩnh và hạnh phúc.
Giống như một máy xe
bị khét nóng và hư hại sau khi đã chạy trong một thời gian
dài, cần phải cho máy mát xuống để khỏi hư, cũng vậy tâm
làm việc quá nhiều khi phải nỗ lực tinh thần đến một
mức độ chịu đựng nào đó, thì chỉ nhờ hành thiền mới
có sự buông thủ, mát mẻ được. Thiền định làm cho tâm
thêm sức mạnh để kiểm soát xúc cảm của con người khi
bị nhiễu loạn bởi các tư tưởng và cảm nghĩ tiêu cực như
ghen ghét, sân hận, kiêu hãnh và đố kỵ.
Tu tập thiền định,
bạn có thể biết chọn lựa quyết định thích hợp khi bạn
đến ngã tư cuộc đời, và đang bị lạc hướng không biết
nên quay sang ngả nào. Những đức tính này không thể mua ở
đâu được. Không có tiền của hay tài sản nào có thể mua
được các đức tính ấy, mà chỉ do thiền định bạn mới
có được. Và cuối cùng, đối tượng tối hậu của thiền
Phật Giáo là nhổ tất cả những ô trược trong tâm để đạt
mục tiêu cuối cùng: Niết Bàn.
Tuy nhiên, ngày nay người
ta đã lạm dụng việc tu tập thiền định. Họ muốn lập
tức có kết quả nhanh chóng, giống như họ muốn được
trả lại ngay về mọi điều mà họ làm trong đời sống hàng
ngày. Trong Phật Giáo, cũng như trường hợp của các văn hóa
đông phương khác, kiên nhẫn là một đức tính quan trọng
nhất. Tâm phải được kiểm soát từ những mức độ thấp,
và ta không nên cố gắng đem nó lên những trình độ cao hơn
mà không có huấn luyện thích nghi. Chúng ta đã nghe nói về các
nam nữ thanh niên quá cuồng nhiệt, có những thể hiện phàm
tục vì họ đã áp dụng thái độ sai lầm về thiền. Thiền
là đường lối dịu dàng để chiến thắng những ô trược
làm tâm sa đọa. Nếu họ muốn "thành công hay đạt
"thành quả" để khoe khoang với người khác là đã
đạt được những mức độ thiền như thế này thế kia,
họ đã lạm dụng phương pháp trau dồi tinh thần. Ta phải rèn
luyện giới hạnh, phải hiểu rõ rằng muốn thành công trong
kỷ luật thiền, những thành quả thế tục không được coi
ngang với sự phát triển tâm linh. Một cách lý tưởng nên hành
thiền dưới sự hướng dẫn của một vị thầy có kinh
nghiệm để giúp đỡ thiền sinh trên con đường học tập đúng
cách. Nhưng trên tất cả, ta không bao giờ nên vội vã để
đạt thành quả quá nhiều quá nhanh.
Ý NGHĨA VÀ TỤNG KINH
PARITTA
Tụng Paritta là đọc
một vài đoạn trong Kinh do Đức Phật thốt ra bằng tiếng
Pali để cầu an và chúc phúc các đệ tử thành tâm.
Tụng Paritta hay Tụng
Kinh là cách hành trì rất phổ biến của Phật Giáo trên toàn
thể thế giới, nhất là tại các xứ Phật Giáo Nguyên Thủy
mà tiếng Pali được sử dụng để đọc tụng. Nhiều những
bài kinh quan trọng từ giáo lý căn bản của Đức Phật được
chọn ra do các đệ tử của Ngài. Nguồn gốc những kinh này
được ghi vào khoảng hai nghìn năm qua trên những lá
"ola". Sau này, những kinh này được sưu tập vào
một cuốn gọi là " Paritta Kinh Tụng". Tên những bộ
kinh nguyên thủy được chọn ra là Anguttara Nikaya (Tăng Chi
Bộ Kinh), Majjhima Nikaya (Trung Bộ Kinh), Digha Nikaya (Trường
Bộ Kinh), Samyutta Nikaya (Tương Ưng Bộ Kinh) và Khuddaka
Nikaya(Tiểu Bộ Kinh) trong Kinh Tạng.
Những kinh mà người
Phật Tử tụng để cầu an được gọi là Paritta Kinh Tụng.
Nơi đây "cầu an" có nghĩa là tự chúng ta bảo vệ
khỏi các hình thái của ma quỷ, bất hạnh, đau ốm, và ảnh
hưởng của những hệ thống hành tinh cũng như để đặt tin
tưởng nơi tâm. Tiếng vang của lời tụng tạo bầu không khí
vui tuơi khắp vùng. Nhịp điệu trong lúc tụng cũng rất quan
trọng. Ta có thể nhận thấy khi các thầy tỳ kheo tụng
những kinh ấy, âm điệu thay đổi để hòa hợp với loại
kinh dành cho những đoạn khác nhau. Người ta đã sớm thấy
được rằng trong suốt quá trình phát triển tinh thần một
số các âm điệu của giọng tụng có thể tạo được
những trạng thái tâm lý an lạc và thanh thản rất có ý nghĩa
trong tâm thức những người đang thành khẩn lắng nghe. Hơn
nữa, giọng trầm bổng kêu gọi đến chư thiên, trong khi
một số âm điệu tạo nhiều ảnh hưởng đến chúng sinh
thấp kém như súc vật, rắn, hoặc ma, hoặc quỷ. Cho nên
một âm điệu êm dịu và đúng cách là một khía cạnh quan
trọng của việc tụng kinh Paritta.
Việc sử dụng các
nhịp điệu này không phải chỉ giới hạn riêng cho Phật Giáo.
Trong mọi tôn giáo, khi các tín đồ đọc tụng lời cầu
nguyện của họ qua kinh thánh, họ cũng áp dụng những nhịp
điệu. Chúng ta có thể nhận thấy việc này khi nghe Quran đọc
bởi người Hồi Giáo và Kinh Vệ Đà tụng bởi các nhà tu
thuộc Ấn Độ Giáo bằng tiếng Phạn. Một vài bài tụng
rất hay cũng được hành trì tại một số giáo phái Cơ đốc,
nhất là Gia Tô La Mã và hệ phái Chính Thống Giáo Hy Lạp.
Khi các kinh được
tụng đọc, ba oai lực lớn và hùng mạnh được hoạt hóa.
Đó là sức mạnh của Phật, Pháp và Tăng. Phật Giáo là sự
phối hợp của "Tam Bảo" này và khi cùng cầu nguyện
có thể mang phúc lành to lớn cho nhân loại.
(1) Phật:
Đức Phật đã trau dồi tất cả những phẩm hạnh cao quý,
trí tuệ và giác ngộ, đã phát triển sức mạnh tinh thần và
trao cho chúng ta Giáo Lý cao thượng của Ngài. Dù Đấng Đạo
Sư không còn hiện diện với chúng ta, Giáo Lý của Ngài vẫn
được lưu truyền cho phúc lợi của nhân loại. Cũng giống
như người khám phá ra điện đã không còn nữa, nhưng cách
sử dụng kiến thức của ông, hiệu quả trí tuệ của ông
vẫn còn với chúng ta. Nguồn ánh sáng mà chúng ta được hưởng
ngày nay là kết quả trí tuệ của ông. Những khoa học gia khám
phá ra năng lượng nguyên tử đã không còn nữa, nhưng kiến
thức của họ vẫn ở với chúng ta. Cũng giống như vậy, Giáo
Lý Cao Quý cho chúng ta do trí tuệ và giác ngộ của Ngài, là
sức mạnh hữu hiệu nhất cho ta nguồn cảm hứng. Khi bạn
nhớ tới Ngài, kính trọng Ngài, bạn phát triển tin tưởng nơi
Ngài. Khi bạn đọc tụng hay nghe những lời do Ngài thốt ra,
bạn cầu mong sức mạnh ở nơi phước báu của Ngài.
(2) Pháp:
Giáo Pháp là oai lực của chân lý, công bằng và hòa bình
khám phá ra bởi Đức Phật, oai lực này mang niềm an ủi tinh
thần đến cho những thiện tín thuần thành để duy trì an
lạc và hạnh phúc. Khi bạn mở rộng lòng từ bi, thành tâm và
hiểu biết, sức mạnh của Giáo Pháp sẽ bảo vệ bạn và giúp
bạn phát triển tín tâm vững mạnh hơn nữa. Rồi tâm tự nó
trở thành một sức mạnh lớn để bảo vệ chính bạn. Khi
biết bạn là người duy trì Giáo Pháp, mọi người và các chúng
sinh khác sẽ kính trọng bạn. Sức mạnh của Pháp bảo vệ
bạn khỏi các loại ảnh hưởng xấu và các sức mạnh tội
lỗi. Những ai không hiểu được oai lực của Pháp và không
biết làm sao sống theo Pháp, thường bao giờ cũng tự đầu hàng
trước tất cả những hình thức của mê tín dị đoan và
tự lệ thuộc vào ảnh hưởng của nhiều loại thượng đế,
ma quỷ, và sức mạnh thần bí bắt họ phải thi hành những
nghi thức và nghi lễ kỳ quặc. Cách hành trì như vậy, chỉ
làm tăng trưởng nơi họ nhiều sợ hãi và ngờ vực phát
sanh từ vô minh. Nhiều số tiền lớn đã chi dùng trong các hình
thức trên, nhưng người đã vun bồi được tín tâm nơi Giáo
Pháp thì dễ dàng tránh khỏi được việc này. Pháp cũng được
mô tả là "thiên nhiên" hay "hiện tượng tự nhiên"
và "định luật vũ trụ". Những ai đã biết bản
chất của những sức mạnh ấy, có thể tự bảo vệ nhờ Giáo
Pháp. Khi tâm được thanh tịnh bằng sự hiểu biết hoàn
hảo, các xáo trộn không thể tạo sợ hãi trong tâm được.
(3) Tăng: Tăng
Già tức đoàn thể thánh thiện của các vị tăng đã từ
bỏ đời sống thế tục để phát triển sự nghiệp trí
tuệ. Chư tăng được coi là đệ tử của Đức Phật, đã
trau dồi các phẩm hạnh cao cả để đạt thánh quả hoặc A
La Hán quả. Chúng ta dâng lòng thành kính tới cộng đồng Tăng
Già, là các vị đang thừa hành nhiệm vụ chăm lo bảo vệ và
tiến dẫn Giáo Pháp cho thế giới từ trên 2500 năm qua.
Những công đức cống hiến bởi cộng đồng Tăng Già đã hướng
dẫn nhân loại sống một cuộc đời chánh đáng và cao thượng.
Những công đức ấy là mối liên lạc sống động với Bậc
Đại Giác đã mang thông điệp đến cho chúng ta qua lời
tụng thốt ra từ kim khẩu Ngài.
Tụng kinh chúc phúc
khởi sự từ thời Đức Ph?t. Sau này tại nhiều xứ Phật Giáo
như Sri Lanka, Thái và Miến Điện, cách hành trì này được
phát triển thêm nữa bằng cách tụng niệm kéo dài suốt cả
đêm hay một vài ngày. Với tâm thành tín cao độ, Phật Tử
tham dự các khóa tụng kinh bằng cách hết sức chú ý lắng
nghe. Trong nhiều dịp Đức Phật và các đệ tử của Ngài
tụng kinh để an ủi tinh thần những người đau khổ vì
bệnh dịch, nạn đói, đau yếu và các thiên tai khác. Có
lần Đức Phật được biết một đứa bé mắc bệnh do ảnh
hưởng của tà ma, Đức Phật đã chỉ thị cho chư tăng
tụng kinh để bảo vệ đứa bé thoát khỏi sức mạnh của
chúng.
Khóa lễ tụng kinh
cầu phước rất hữu hiệu. Đương nhiên có những trường
hợp, tụng niệm không kết quả vì nạn nhân đã phạm một
số nghiệp rất xấu. Tuy nhiên một số nghiệp xấu nhẹ có
thể qua được nhờ oai lực của âm ba vang động phối hợp
với những đức hạnh và lòng từ bi cao cả của các vị thánh
thiện tụng niệm. Điểm này, sự vượt qua được nghiệp
quả xấu không có nghĩa là nhổ hết cả nghiệp quả, mà
chỉ tạm thời đình chỉ nghiệp quả đó thôi.
Những thiện tín thường
khi bị quá sức hay mệt mỏi, cảm thấy khuây khỏa và bình
tĩnh sau khi nghe tụng kinh. Kinh nghiệm trên không giống như trường
hợp nghe nhạc vì nhạc có thể làm cho tâm kích động và xúi
giục cảm xúc của người nghe mà không tạo được lòng thành
tâm và tin tưởng.
Trong hơn 2500 năm qua,
những người Phật Tử thuần thành đã kinh nghiệm những
hiệu quả tốt lành do tụng kinh. Chúng ta nên hiểu thế nào
và tại sao những lời thốt ra từ kim khẩu Đức Phật với
mục đích chúc phúc lại quá hữu hiệu ngay cả sau khi Ngài
đã nhập diệt. Trong giáo lý của Đức Phật ghi nhận là
từ khi Ngài có hoài bão trở nên một Đức Phật, trong
những tiền kiếp của Ngài, Ngài đã hết sức duy trì nguyên
tắc đặc biệt là không "nói dối". Không lạm dụng
và không sử dụng sai lệch lời nói, Ngài nói năng từ tốn,
không làm tổn thương đến cảm nghĩ của người khác. Sức
mạnh của Chân Lý trở thành nguồn oai lực trong những lời
do Đức Phật thốt ra với lòng từ bi rộng lớn. Tuy nhiên,
sức mạnh của lời Đức Phật không thôi không thể bảo đảm
phước lành mà không có thành tâm và và hiểu biết của người
Phật Tử thuần thành.
Hiệu quả huyền
diệu chứng nghiệm bởi nhiều người trong việc tự khỏi
bệnh và các xáo trộn tinh thần qua trung gian của Kinh Phật,
khiến cho họ mở mang niềm tin và lòng tin tưởng trong hình
thức khóa lễ tụng niệm này.
PHẬT TỬ CÓ TÔN THỜ
THẦN TƯỢNG KHÔNG?
Phật Tử không tôn
thờ thần tượng mà là tôn thờ lý tưởng .
Mặc dù người Phật
Tử theo tập tục giữ hình ảnh Đức Phật để tỏ lòng tôn
kính Ngài, nhưng họ không phải là người tôn thờ thần tượng.
Sùng bái thần tượng thông thường có nghĩa là dựng lên hình
ảnh của nam hay nữ thần không biết rõ nào đó trong nhiều
kiểu và cỡ khác nhau, và cầu nguyện thẳng với các hình
ảnh ấy. Người cầu nguyện xin thần linh hướng dẫn và
bảo vệ họ. Họ cầu xin nam hay nữ thần ban cho họ sức
khỏe, của cải, tài sản, và cung cấp cho họ những nhu cầu
cần thiết, họ xin được tha tội.
Việc lễ lậy hình
ảnh Đức Phật lại là một vấn đề hoàn toàn khác hẳn.
Phật Tử tôn kính hình ảnh Đức Phật là một hành động
để tỏ thiện ý tới một bậc thánh thiện cao cả, uyên bác,
nhân đức, và từ bi nhất chưa từng có trên thế giới này.
Đó là một sự kiện lịch sử vì con người vĩ đại này đã
sống trên thế giới và đã triệt để phục vụ nhân loại.
Sự lễ lạy Đức Phật thực sự có nghĩa dâng lòng kính
trọng, tán tụng và thành tâm lên Ngài, và lên những gì mà
Ngài tượng trưng chứ không phải lên một hình tượng bằng
đá hay bằng kim khí.
Hình ảnh của Ngài
chỉ là thị giác giúp hồi tưởng tới Đức Phật trong tâm
và quán tưởng tới những phẩm hạnh vĩ đại của Ngài đã
gây cảm hứng cho triệu triệu người từ thế hệ này đến
thế hệ khác khắp tất cả thế giới văn minh. Phật Tử dùng
hình tượng Ngài như một biểu tượng tôn giáo và là một
đối tượng để tâm tập trung tinh thần hầu đạt bình an
trong tâm khảm. Khi người Phật Tử nhìn vào hình ảnh Đức
Phật, họ dẹp ra một bên tư tưởng đấu tranh, và chỉ nghĩ
đến an lạc, thanh thản, bình tĩnh, và tịch tịnh. Tượng Ngài
giúp cho tâm hồi tưởng đến con người vĩ đại này, và
truyền cảm hứng cho các người thành tâm theo gương sáng và
chỉ thị của Ngài, người Phật Tử thuần thành cảm thấy
như Vị Giáo Chủ có mặt trong hiện tại. Cảm nghĩ này
khiến hành động lễ lạy của họ trở nên sống động và
có ý nghĩa. Hình ảnh thanh tịnh của Đức Phật gây ảnh hưởng
và cảm hứng để họ giữ vững chánh đạo về giới hạnh
và tư tưởng.
Người Phật Tử
hiểu biết không bao giờ xin ân huệ từ hình tượng Đức
Phật và cũng chẳng bao giờ xin được tha thứ về những
lỗi lầm đã phạm. Người Phật Tử hiểu biết luôn luôn
cố gắng kiểm soát tâm mình, theo lời khuyên của Đức
Phật để dứt bỏ những đau khổ thế tục, và tìm được
sự giải thoát.
Người nào chỉ trích
hình thức lễ bái thần tượng của người Phật Tử đã
giải thích sai lầm về những gì người Phật Tử làm. Nếu
người ta có thể cất những bức ảnh của cha mẹ hay ông bà
để làm kỷ niệm dấu yêu, nếu người ta có thể giữ các
bức hình của các vua, hoàng hậu, thủ tướng, những anh hùng,
triết gia, và thi hào vĩ đại, thì chắc chắn không có lý gì
tại sao người Phật Tử không thể giữ hình tướng vị Giáo
Chủ của họ để tưởng nhớ và tôn kính Ngài.
Có gì hại nếu người
ta đọc tụng một vài câu kệ tán dương các phẩm hạnh cao
cả của Vị Giáo Chủ của họ? Nếu người ta có thể đặt
các vòng hoa trên các mộ của nguời thân yêu để bầy tỏ lòng
biết ơn, có điều gì hại nếu người Phật Tử dâng cúng
một vài bông hoa, nén nhang, trầm hương vân vân.. lên vị Đạo
Sư kính mến của họ, người đã hiến dâng cả cuộc đời
để giúp đỡ nhân loại khổ đau? Người ta đã tạc tượng
các anh hùng chiến thắng mà thật ra chính là những kẻ
giết người, những người chịu trách nhiệm về cái chết
của cả triệu triệu người vô tội. Để giữ được uy
quyền, những kẻ chiến thắng đó đã phạm tội giết người
bằng hận thù, tàn bạo và tham lam. Họ đã xâm chiếm các
quốc gia nghèo nàn và tạo biết bao khổ đau không thể kể
hết được, chiếm hữu đất đai, tài sản và gây bao tàn phá
cho người vô tội. Nhiều kẻ chiến thắng này được coi như
anh hùng quốc gia; các cuộc lễ kỷ niệm được tổ chức
cho họ, và hoa được dâng trên bia mộ họ. Có sai quấy gì
không nếu người con Phật dâng lòng thành kính lên Vị Đạo
Sư đã được thế giới vinh danh, người đã hy sanh lạc thú
trần gian để tìm Giác Ngộ và chỉ cho mọi người Con Đường
Giải Thoát?
Hình ảnh là tiếng nói
của tiềm thức. Cho nên hình ảnh của Vị Giác Ngộ thường
tạo trong nội tâm ta như một hiện thân của toàn hảo, hình
ảnh xuyên thấu vào chiều sâu của tâm thức (nếu đủ
mạnh) có thể hành hoạt như một cái thắng tự động
chống lại những thôi thúc dao động. Sự quán tưởng tới
Đức Phật tạo niềm hỉ lạc, làm tâm sung mãn, và nâng con
người ra khỏi trạng thái bồn chồn, căng thẳng và khủng
hoảng. Như vậy lễ bái Đức Phật không phải là lời cầu
nguyện theo nghĩa thông thường mà là thiền định. Cho nên,
không phải tôn sùng thần tượng mà là tôn sùng lý tưởng.
Do đó người Phật Tử có thể tìm thấy sức mạnh sung mãn
để xây đắp chốn linh thiêng cho đời mình. Người Phật
Tử thanh lọc tấm lòng cho đến khi cảm thấy xứng đáng
được mang hình ảnh ở nơi linh thiêng sâu thẳm nhất. Người
Phật Tử dâng lòng tôn kính lên bậc vĩ nhân được tượng
trưng bằng hình ảnh. Họ cố gắng đạt cảm hứng từ nhân
phẩm cao quý của Ngài và tích cực noi gương Ngài. Người
Phật Tử không coi hình ảnh Đức Phật như một thần tượng
chết bằng gỗ hay bằng kim khí, hay bằng đất sét. Hình
ảnh đó tượng trưng một cái gì sống động cho những ai
hiểu biết và được thanh tịnh về tư tưởng, lời nói và
hành vi của mình.
Hình ảnh của Đức
Phật không ngoài gì hơn là biểu tượng các phẩm hạnh vĩ
đại của Ngài. Không phải là trái tự nhiên mà sự tôn kính
sâu xa Đức Phật đã được bầy tỏ trong một vài tác
phẩm nghệ thuật điêu khắc tuyệt mỹ mà thế giới từng
biết đến. Thật cũng khó hiểu tại sao một số người
lại hạ thấp những ai dâng lòng tôn kính lên hình ảnh tượng
trưng các bậc đạo sư thánh thiện.
Hình ảnh trầm lặng
và thanh thoát của Đức Phật là một quan niệm chung về cái
đẹp lý tưởng. Hình ảnh của Đức Phật là tài sản chung
cao quý của nhà văn hóa Á Châu. Không có hình ảnh của Đức
Phật, nơi đâu ta có thể tìm thấy được một nhân phẩm
thanh tịnh, sáng chói và đầy tinh thần giải thoát?
Không những chỉ người
Á Châu hay Phật Tử trân trọng hình ảnh Đức Phật. Anatole
France trong cuốn tự thuật của ông viết: "Vào ngày 1 Tháng
5 năm 1890, tôi may mắn đến thăm Viện Bảo Tàng Ba Lê. Nơi
đây có các tượng thần thánh Á Châu ngồi trong thầm lặng
và đơn giản, mắt tôi bỗng nhiên hướng về bức tượng Đức
Phật đang ra hiệu cho nhân loại khổ đau biết mở tâm hiểu
biết và từ bi. Nếu có một vị thượng đế nào đang đi trên
trái đất này, tôi cảm thấy phải là Ngài. Tôi cảm thấy
giống như đang quỳ xuống bên Ngài, và cầu nguyện với Ngài
như với một vị Thượng Đế".
Có một vị tướng lãnh
tặng bức hình Đức Phật như để một di sản cho Winston
Churchill. Vị tư?ng này nói: "Khi ông bị xao xuyến và
bối rối, tôi muốn ông hãy nhìn bức hình này, ông sẽ
thấy tâm ông được lắng dịu ". Cái gì đã làm bức thông
điệp của Đức Phật lôi cuốn được những con người đã
trau dồi trí thức? Có lẽ ta tìm được câu trả lời nơi
vẻ thanh thoát của hình ảnh Đức Bổn Sư.
Không phải bằng màu
sắc và đường nét mà người ta thể hiện niềm tin của mình
nơi Đức Phật và sự từ bi trong Giáo Lý của Ngài. Bàn tay
con người đã rèn tạc kim khí và thạch đá để tạo hình
Đức Phật là một trong những sáng tạo vĩ đại nhất của
thiên tài nhân loại. Hãy chiêm ngưỡng bức tượng trứ danh
tại Abhayagiri Vihara ở Sri Lanka, hay bức tượng Phật tại
Sarnah, hay những tượng trứ_danh tại Boro-budur. Mắt đầy ánh
từ bi, và bàn tay biểu hiện tâm vô úy, thiện chí và ân phước,
bàn tay như đang gỡ mối dây tư tưởng, hay như đang vẫy
gọi trần gian đến chứng kiến việc tìm thấy Chân Lý của
Ngài. Giáo Pháp đi đến đâu thì hình ảnh của Vị Đại Đạo
Sư đi đến đấy, không chỉ là một vật dụng để sùng bái
mà cũng là một đối tượng để thiền định và tôn kính.
Keyserling nói: "Tôi biết trên thế gian này không có cái gì
hùng vĩ hơn hình ảnh Đức Phật. Hình ảnh ấy là một
hiện thân tuyệt đối toàn hảo của tinh thần trong lãnh
vực thị giác".
Một đời sống thật
cao đẹp, một con tim thật trong sạch và khả ái, một cái tâm
thật sâu sắc và giác ngộ, một nhân cách truyền cảm và
vị tha - một cuộc sống toàn bích như vậy, một tấm lòng
từ ái như vậy, một cái tâm trầm tĩnh như vậy, một nhân
cách thanh tịnh như vậy quả thực đáng được tôn kính, đáng
được vinh danh, đáng được cúng dường. Đức Phật là sự
toàn bích cao cả nhất của nhân loại.
Hình ảnh Đức Phật
là một biểu tượng tôn giáo, không phải của một người,
mà của Phật Quả mà tất cả ai cũng có thể đạt được dù
chỉ có một số ít. Phật Quả không phải chỉ cho một người
mà cho nhiều người: "Chư Phật thời quá khứ, chư Phật
vị lai, Đức Phật hiện tại; mỗi ngày tôi thành kính tôn
thờ".
Tuy nhiên không bắt
buộc là mỗi người Phật Tử đều phải có tôn tượng Đức
Phật để tu hành. Những ai có thể kiểm soát được tâm ý
và giác quan, vẫn có thể tu tập không cần đến hình ảnh làm
đối tượng. Nếu người Phật Tử thật sự muốn chiêm ngưỡng
Đức Phật với tất cả vẻ uy nghi lộng lẫy về nhân dáng,
lý tưởng của Ngài, thì phải đem giáo lý của Ngài mà tu
tập trong đời sống hàng ngày. Chính do sự thực hành giáo
pháp của Ngài mà họ có thể đến gần Ngài hơn, và cảm
thấy sự chói sáng tuyệt vời của trí tuệ và từ bi bất
diệt của Ngài. Chỉ kính trọng hình ảnh mà không theo Giáo
Lý Tối Thượng của Ngài thì không phải là con đường tìm
giải thoát.
Chúng ta cũng phải
nỗ lực để hiểu tinh thần Đức Phật. Giáo lý của Ngài là
con đường duy nhất cứu độ thế giới xáo trộn này. Mặc
dù khoa học và kỹ thuật đã tiến bộ vượt bực, con người
trên thế giới ngày nay vẫn đầy sợ hãi, lo âu và thất
vọng. Câu giải đáp cho thế giới sôi động của chúng ta
nằm trong Giáo Lý của Đức Phật.
Ý NGHĨA VÀ SỰ NHỊN
ĂN
Nhiều người trên
thế giới bị chết bất thần vì ăn quá độ.
Trong Phật Giáo, nhịn
ăn được coi như một phương pháp thực hành tự thu thúc. Đức
Phật khuyên các tỳ kheo không nên ăn thực phẩm đặc
(nặng) sau giờ ngọ (12 Giờ trưa). Cư sĩ tu Bát Quan Trai vào
ngày rằm cũng không dùng thực phẩm nặng sau giờ ngọ.
Đôi khi có những
lời phê bình cho cách tu tập này là lập dị. Đây không
phải là những kiểu lập dị của tôn giáo mà là sự hành
trì căn cứ trên tuệ giác về giới đức và tâm lý .
Trong Phật Giáo, nhịn
ăn là giai đoạn tiên khởi cho tinh thần kỷ luật tự giác
để trau dồi hạnh thu thúc. Trong mỗi tôn giáo đều có một
phương thức nhịn ăn. Nhịn ăn và hy sinh một bữa trong một
ngày hay trong một thời gian, chúng ta có thể đóng góp thực
phẩm cho người đói hay cho những người thiếu thốn không có
đủ bữa cơm hàng ngày.
Leon Tolstoy viết:
"Kẻ ăn quá nhiều không thể tranh đấu chống lại lười
biếng, kẻ tham ăn và biếng nhác không bao giờ có thể tranh
đấu chống lại nhục dục". Cho nên, theo tất cả giáo lý
về giới đức, nỗ lực về tự kiềm chế bắt đầu với
việc tranh đấu chống lại tính tham ăn, bắt đầu với sự
nhịn ăn cũng như điều kiện đầu tiên cho một cuộc sống
tốt đẹp là tự kiềm chế, vậy điều kiện đầu tiên
của cuộc sống tự kiềm chế là nhịn ăn.
Các bậc hiền triết
tại nhiều quốc gia thực hành hạnh tự kiềm chế bằng
một phương thức nhịn ăn có quy củ, và đã đạt được đỉnh
cao tinh thần không thể tưởng tượng được.
Một nhà tu khổ hạnh
bị đánh đá và tra khảo, tay và chân bị cắt do lệnh của
một vị vua ngông cuồng. Nhưng nhà tu khổ hạnh này, theo
chuyện trong Phật Giáo, đã chịu đựng tra tấn bình thản không
chút gì giận dữ hay sân si. Người đạo hạnh như vậy đã
phát triển sức mạnh tinh thần do sự diệt dục.
ĂN CHAY
Ta không nên phán đoán
sự thanh tịnh hay bất tịnh của một người đơn giản
bằng cách chỉ nhìn xem người ấy ăn gì.
Trong Kinh Amagandha, Đức Phật nói:
"Chẳng phải
thịt, chẳng phải nhịn ăn, chẳng phải lõa thể,
Chẳng phải cạo đầu, chẳng phải bện tóc, chẳng phải
trát đất,
Chẳng phải da xù xì, chẳng phải thờ thần lửa
Chẳng phải tự hành xác nơi đây trong thế giới này
Chẳng phải thánh ca, chẳng phải hiến cúng, chẳng phải
tế thần
Chẳng phải hội mừng mùa màng
Có thể làm một kẻ tâm đầy hoài nghi trở thành trong
sạch."
Ăn cá hay ăn thịt
tự nó không làm cho một người trở thành bất tịnh. Một
người tự làm mình không trong sạch bởi niềm tin mù quáng,
gian dối, thèm muốn, tự đề cao, ô danh và những dụng ý
tội lỗi. Do những tư tưởng và hành động xấu xa của mình
tự làm mình bất tịnh. Không có một giới luật khắt khe nào
trong Phật Giáo nói là tín đồ của Đức Phật không nên ăn
cá thịt. Đức Phật chỉ khuyên là không nên liên quan vào
việc giết chóc có dụng ý hoặc không nên yêu cầu người
khác giết bất cứ chúng sanh nào cho mình. Tuy nhiên những ai
ăn chay và không ăn thịt của thú vật đáng được ca ngợi.
Mặc dù không chủ trương
các thầy tu phải ăn chay, Đức Phật vẫn khuyên các thầy không
nên ăn mười loại thịt vì sự tôn trọng và bảo vệ cho chính
các thầy. Mười loại thịt ấy là: người, voi, ngựa, chó,
rắn, sư tử, hổ, báo, gấu, linh cẩu. Một số các thú vật
tấn công người khi chúng ngửi mùi thịt sống cùng loại
với chúng. (Vinaya Pitaka - Tạng Luật)
Một đệ tử của Ngài
là Đề Bà Đạt Đa yêu cầu Đức Phật bắt các đệ tử
của Ngài ăn chay, nhưng Ngài từ chối. Vì Đạo Phật là
một tôn giáo tự do, nên Ngài khuyên là để cá nhân các đệ
tử tự mình quyết định việc ăn chay. R‚ ràng Đức Phật
không coi việc ấy là một luật lệ đạo lý quan trọng. Đức
Phật cũng không đả động gì về vấn đề ăn chay của các
cư sĩ Phật Giáo trong giáo lý của Ngài.
Jivaka Komarabhacca, một
vị lương y bàn thảo về vấn đề tranh luận này với Đức
Phật: "Bạch Đức Thế Tôn, con có nghe thấy rằng thú
vật bị giết để dành cho Ẩn Sĩ Cồ Đàm, và Ẩn Sĩ Cồ
Đàm cố ý ăn thịt thú vật bị giết để dành cho Ngài. Thưa
Thế Tôn, có phải người ta nói thú vật bị giết là để
cho Ẩn Sĩ Cồ Đàm, và Ẩn Sĩ Cồ Đàm cố ý ăn thịt thú
vật bị giết vì mục đích để dâng cho Ngài Cồ Đàm. Họ
buộc tội sai cho Đức Phật phải không? Hay đó là họ nói
sự thật? Những lời tuyên bố và những lời giải thích thêm
của Ngài phải chăng là đề tài bị người khác báng nhạo
bằng một thái độ nào đó?"
"Này Jivaka, những
ai nói: 'Thú vật bị giết là để cho Ẩn Sĩ Cồ Đàm, và
Ẩn Sĩ Cồ Đàm cố ý ăn thịt thú vật bị giết để dâng
cho mình', không nói đúng điều ta nói, họ đã buộc tội ta
không đúng. Này Jivaka, ta đã nói là không nên ăn thịt, nếu
nhìn thấy, nghe thấy hay nghi ngờ thịt đó do thú vật bị
giết để dâng cho các thầy tỳ kheo. Ta cho phép các thầy
tỳ kheo dùng thịt trong ba điều kiện: Nếu không nhìn thấy,
không nghe và không nghi ngờ thịt do thú vật bị giết để
cung cấp cho các thầy tỳ kheo" (Kinh Jivaka).
Trong một số quốc
gia, Phật Tử Trường Phái Đại Thừa chỉ ăn chay. Sự tuân
hành này dưới danh nghĩa tôn giáo đáng tán dương nhưng chúng
ta phải nhấn mạnh là họ cũng không nên buộc tội những người
không ăn chay. Họ phải hiểu rằng không có giới luật trong
Giáo Lý nguyên thủy của Đức Phật bắt tất cả người
Phật Tử phải ăn chay. Chúng ta phải nhận thức Phật Giáo là
con đuờng Trung Đạo. Phật Giáo là một tôn giáo tự do, và
lời khuyên của Đức Phật là không cần thiết đi đến
cực đoan để thực hành lời Ngài dạy.
Ăn chay không thôi không
thể giúp cho một người trau dồi nhân phẩm. Có những người
mộ đạo thuần thành khả ái, nhữn nhặn và lễ phép giữa
những người không ăn chay. Cho nên ta không nên bỏ qua quan điểm
là một người trong sạch, mộ đạo là phải ăn chay.
Mặt khác, nếu bất
cứ ai nghĩ rằng con người nếu không ăn thịt cá thì không
thể sống khỏe mạnh, không cần thiết phải theo điều đó
vì không đúng: hàng triệu người ăn chay trên khắp thế
giới mạnh hơn và có sức khỏe hơn những người ăn thịt.
Những ai phê bình
Phật Tử ăn thịt không hiểu thái độ của đạo Phật về
thực phẩm. Mỗi chúng sanh cần có thực phẩm. Chúng ta ăn để
sống. Như vậy con người cần phải cung cấp cho thân xác
thực phẩm cần thiết để giữ cho được khỏe mạnh và có
đủ năng lực làm việc. Tuy nhiên, do kết quả của sự gia tăng
của cải, càng ngày càng nhiều người, nhất là trong các
quốc gia phát triển, đơn giản ăn để thỏa mãn khẩu vị
của họ. Nếu ta tham đắm vào bất cứ loại thực phẩm nào,
hay giết thú vật để thỏa mãn thói tham ăn thịt của mình
thì điều đó là sai quấy. Nhưng nếu một người ăn thịt
chẳng phải vì tham lam, và không trực tiếp liên can vào hành
động giết mà chỉ là để trợ sức cho xác thân vật
chất, người đó thực hành hạnh tự chế.
NGÀY TRĂNG TRÒN (RẰM)
VÀ CÁC TẬP TỤC ĐẠO GIÁO.
Những sự kiện nổi
bật trong cuộc đời Đức Phật đều sẩy ra vào những ngày
trăng tròn.
Nhiều người muốn
biết ý nghĩa tôn giáo của ngày trăng tròn (ngày 15 âm lịch)
và ngày trăng mới xuất hiện (mồng một âm lịch). Với người
Phật Tử, những ngày này có một ý nghĩa tôn giáo đặc
biệt nhất là ngày trăng tròn vì một số biến cố quan
trọng và nổi bật liên quan với đấng Thế Tôn đều sẩy
ra vào những ngày rằm. Đức Phật sanh ra vào ngày trăng tròn.
Ngài xuất gia vào ngày trăng tròn. Ngày Ngài Giác Ngộ, ngày
Ngài thuyết giảng bài Pháp đầu tiên, ngày Ngài nhập Niết
Bàn, và những biến cố quan trọng trong suốt cuộc sống 80 năm
tại thế của Ngài, đều xẩy ra vào ngày trăng tròn.
Phật Tử trên khắp
thế giới rất kính trọng những ngày trăng tròn. Vào ngày này,
họ nhiệt tình giữ giới luật, tu tập thiền định, và tránh
đời sống nhục dục thế gian. Vào ngày này họ chú ý hướng
vào việc phát triển tinh thần. Ngoài những người Phật
Tử, có những người đạo khác cũng tin tưởng có một ý
nghĩa tôn giáo nào đó liên quan đến những tuần trăng. Họ
cũng tuân theo một số kỷ luật như nhịn ăn và cầu nguyện
vào ngày trăng tròn.
Niềm tin cổ xưa của
Ấn nói trăng kiểm soát nước, và lưu hành qua vũ trụ, hỗ
trợ tất các các sinh vật, trăng là bộ phận tương ứng
của nước trên thiên giới "amrta" để các thần thánh
dùng. Sương và mưa trở thành nhựa cây, nhựa trở thành
sữa bò, và sữa biến thành máu - nước Amrta, nhựa, sữa, máu
tượng trưng những trạng thái khác nhau của một loại
thuốc trường sanh. Cái bình hay cái ly tách đựng chất lỏng
bất diệt này là trăng.
Người ta cũng tin
rằng mặt trăng, giống như các hành tinh khác, ảnh hưởng
một mức độ nào đó đến con người. Người ta nhận thấy
một số người đau thần kinh có những cảm nghĩ say mê và xúc
động vào những ngày trăng tròn. Chữ "người điên"
(lunatic) nguồn gốc từ chữ (lunar) mặt trăng, rất có ý nghĩa
và cho thấy rõ ràng ảnh hưởng của trăng đến đời sống
con người. Một số người đau đớn bởi những hình thức
bệnh hoạn khác cũng thấy bệnh nặng thêm vào thời điểm này.
Các nhà nghiên cứu tìm thấy một số các tuần trăng không
những ảnh hưởng đến người và vật, mà cũng ảnh hưởng
đến đời sống cây cỏ và các thành phần khác. Nước
thủy triều lên xuống là kết quả trực tiếp của ảnh hưởng
áp đảo bởi trăng.
Thân xác chúng ta gồm
có 70 phần trăm chất lỏng. Các thầy thuốc nhận thấy
chất nuớc trong thân chảy mạnh hơn vào ngày trăng tròn.
Những người bệnh suyễn, viêm cuống phổi, và cả đến
một số bệnh ngoài da thấy bệnh nặng thêm do ảnh hưởng
của trăng. Trên năm ngàn năm qua, người ta đã nhận thấy
ảnh hưởng của trăng về trồng trọt. Người nông dân chú
ý đặc biệt đến ảnh hưởng của con trăng về mùa màng
của họ. Họ biết một số các hạt giống hay thóc bị ảnh
hưởng khi lúc nở hoa vào lúc trăng tròn. Y khoa cũng xác định
những phản ứng khác biệt của một số thuốc dưới khía
cạnh khác nhau của trăng vì ảnh hưởng của mặt trăng với
con người.
Về quan điểm có
thể có ảnh hưởng của trăng, những nhà hiền triết thời
xưa khuyên người ta nên giảm bớt những công việc ràng
buộc vào ngày đặc biệt này và hãy nên coi nhẹ mọi sự để
ngày đó êm ả trôi qua. Ta nên để tinh thần được nghỉ ngơi
vào ngày này và dành nó cho mục tiêu tinh thần. Tất cả
những ai phát triển tâm ý đến một mức độ cao nào đó có
thể đạt giác ngộ khi trí óc đang ở trong trạng thái tỉnh
thức. Những ai không rèn luyện tâm ý bằng kỷ luật tôn giáo
có khả năng bị ảnh hưởng mạnh mẽ của trăng. Đức
Phật đạt giác ngộ vào ngày trăng tròn vì Ngài đã phát
triển và điều hòa sự kiện này một cách đứng đắn trong
một thời gian dài.
Ngày xưa, một số các
quốc gia Phật Giáo lấy ngày trăng tròn và ngày trăng mới là
những ngày lễ chung và dân chúng được khuyến khích dành
những ngày này vào việc trau dồi tinh thần. Chỉ từ sau khi
thuộc địa thực dân xuất hiện, những ngày lễ công cộng
này đã bị đổi vào Ngày Chủ Nhật. Trên phương diện này,
một số các quốc gia Phật Giáo đang cố gắng tái lập hệ
thống ngày lễ theo hệ thống âm lịch cũ. Ta nên lấy ngày
trăng tròn là ngày tôn giáo để tập trung vào an lạc và
hạnh phúc bằng cách lắng đọng các giác quan. Nhiều Phật
Tử tu tập Bát Quan Trai Giới vào ngày trăng tròn, giải thoát
các ràng buộc gia đình, tránh các lạc thú trần tục đạt
an lạc nội tâm cho việc nâng cao tinh thần. Ảnh hưởng của
trăng vào đời sống và trái đất đã và đang được phân tích
một cách khoa học.
Một nhà văn viết:
"Tôi đọc một bài trong một tạp chí khoa học Hoa Kỳ
mới đây, tác giả đã đem những gì đã nghiên cứu được
cho tới nay về mặt trăng và cho thấy vật thể lâu đời lâu
kiếp này của bầu trời ảnh hưởng đến đời sống của
chúng ta một cách cụ thể ra sao, nhất là vào tuần trăng
thứ tư khi trăng qua chu kỳ 28 ngày."
Sự nghiên cứu này,
chủ trương bởi các Trường Đại Học Hoa Kỳ, Yale, Duke và
Northwestern với tính cách hoàn toàn độc lập, những đại
học này đã khám phá bằng chứng hết sức ngạc nhiên là
mặt trăng giữ một vai trò lớn trong đời sống hàng ngày
của chúng ta, và cả đến đời sống của tất cả mọi sinh
vật.
Chúng ta được đoan
quyết là không có gì huyền bí trong hiện tượng về các
tuần trăng đã thật sự thôi thúc các hành động về thân
như sửa đổi sự trao đổi chất, nạp điện, và độ acid
(vị chua) trong máu.
Một trong những thí
nghiệm then chốt thực hành để thiết lập sự kiện là thí
nghiệm các đàn cua, chuột nhắt và một số cây. Tất cả đều
được đặt vào phòng không bị ảnh hưởng của điều
kiện thời tiết, nhưng để chúng chịu sức ép của không khí,
ẩm thấp, ánh sáng và khí hậu trong điều kiện được
kiểm soát.
Hàng trăm lần quan sát
cho thấy một sự kiện đặc biệt là tất cả thú vật và cây
cối hoạt động trên một chu kỳ 28 ngày. Sự thay đổi
chất giảm xuống với ngày trăng mới mọc cao hơn 20 phần trăm
vào ngày trăng tròn. Sự sai biệt này được mô tả là một
mức biến đổi nổi bật.
Có lần một nữ y tá
tại Florida nói với một bác sĩ là bà ta nhận thấy hiện tượng
máu chảy sẩy ra nhiều hơn vào những ngày trăng tròn. Giống
như tất cả các bác sĩ hoài nghi về những loại tin tưởng
này nên ông bác sĩ chỉ cười về câu nói này.
Nhưng bà y tá, không
nao núng sờn lòng, đã đem những hồ sơ giải phẫu cho thấy
rõ ràng, vào những ngày trăng tròn, nhiều bệnh nhân đã
phải quay về phòng mổ nhiều hơn bất cứ thời gian nào khác
để điều trị vì máu chảy quá nhiều sau giải phẫu. Để
thỏa mãn cho chính mình, vị bác sĩ nọ bắt đầu thiết
lập hồ sơ theo dõi cho riêng mình và đã đi đến kết luận
tương tự. Khi ta xét đến tất cả những sự kiện này, ta có
thể hiểu được tại sao tổ tiên và các vị đạo sư chúng
ta khuyên hãy thay đổi nếp sống bình thường hàng ngày để
cho tâm và thân được nghỉ ngơi vào ngày trăng tròn hay ngày
trăng mới mọc. Tu tập tôn giáo là một phương pháp rất thích
đáng cho ta kinh nghiệm an lạc tinh thần và thư giãn thân
thể. Người Phật Tử chỉ đơn thuần gìn giữ trí tuệ
trong quá khứ khi tinh tấn dành nhiều thì giờ hơn nữa cho
những sinh hoạt tinh thần trong những Ngày Trăng Mới và Ngày
Trăng Tròn.
-ooOoo-
Ðầu
trang | Mục lục | 01
| 02 | 03 |
04
| 05a | 05b |
06
| 07 | 08 |
09
| 10 | 11 |
12
| 13 | 14 |
15
| 16 | 17
--- o0o ---
Trình bày:
Chân Đức & Nguyên Thảo
Cập
nhật
ngày:
01-11-2002
|