Trong
chương
4,
chúng
ta
đã
thảo
luận
về
Tứ
Diệu
Ðế,
trong
đó
phần
cuối
Bát
chánh
đạo,
tức
sự
thực
thứ
tư,
là
toa
thuốc
giúp
chấm
dứt
đau
khổ.
Ta
đã
so
sánh
Bát
chánh
đạo
(Con
đường
Tám
bước)
với
việc
leo
núi,
bước
thứ
nhất
luôn
nhìn
về
đỉnh
núi,
bước
cuối
cùng
phải
cẩn
thận
ngay
từ
đầu
để
không
bị
vấp
ngã.
Nói
một
cách
khác,
mỗi
phần
đều
ảnh
hưởng
nhau,
nếu
bất
cứ
phần
nào
của
con
đường
không
được
hoàn
tất,
ta
sẽ
không
bao
giờ
lên
được
đỉnh
núi.
Trong
trường
hợp
Bát
chánh
Ðạo
cũng
giống
như
vậy,
tất
cả
các
bước
đều
được
hỗ
tương
và
tùy
thuộc
vào
nhau.
Chúng
ta
không
thể
bỏ
qua
bất
cứ
một
bước
nào. Như
đã
được
nói
ở
cuối
chương
4,
tám
bước
của
Con
Ðường
Ðạo
được
chia
thành
3
cách
thực
hành:
(1)
giới
hạnh,
(2)
định
tâm
và
(3)
trí
huệ.
Theo
quan
niệm
và
cách
sắp
xếp,
bước
đầu
khi
leo
núi
tùy
thuộc
bước
sau
và
bước
sau
cũng
tùy
thuộc
vào
bước
đầu;
theo
thực
tế,
ta
thực
sự
phải
leo
từ
sườn
núi
thấp
trước.
Chúng
ta
có
thể
bị
đỉnh
núi
thu
hút,
nhưng
muốn
lên
đến
đó
chúng
ta
phải
qua
được
những
sườn
núi
thấp
trước;
chỉ
có
như
vậy
chúng
ta
mới
có
thể
tiến
lên
những
bờ
cao
hơn.
Chính
vì
lý
do
thực
tế
này
mà
các
bước
của
Bát
chánh
Ðạo
được
chia
thành
ba
giai
đoạn
tu
tập. Trang
47.
Ðầu
tiên
là
giới
hạnh.
Giới
hạnh
tạo
căn
bản
tiến
bộ
trên
con
đường
phát
triển
nhân
cách.
Người
ta
nói
rằng
đất
là
căn
bản
của
tất
cả
động
vật
và
thực
vật
thì
giới
hạnh
cũng
là
nền
tảng
của
tất
cả
các
đức
tính
tích
cực.
Nhìn
chung
quanh
ta
có
thể
thấy
rằng
mọi
vật
đều
nằm
trên
quả
đãt,
từ
các
dinh
thự
cho
đến
cầu
kỳ,
từ
thú
vật
cho
đến
con
người.
Quả
đất
tiếp
trợ
tất
cả
những
vật
này;
cũng
giống
như
vậy,
giới
hạnh
là
cơ
bản
của
tất
cả
phẩm
chất,
đức
độ,
mọi
thủ
đắc
từ
cái
tầm
thường
cho
đến
cái
siêu
phàm,
từ
thành
công
giàu
có
cho
đến
khả
năng
trong
thiền
định
và
sau
rốt
là
trí
tuệ
và
giác
ngộ.
Bằng
lối
ẩn
dụ
này,
chúng
ta
có
thể
hiểu
một
cách
dễ
dàng
sự
quan
trọng
của
giới
hạnh.
Nó
là
điều
kiện
tiên
quyết
và
căn
bản
để
tuân
thủ
và
hoàn
thành
kết
quả. Tại
sao
chúng
ta
lại
chịu
khó
nhấn
mạnh
vào
sự
quan
trọng
của
giới
đức
là
căn
bản
tiến
bộ
của
Con
Ðường
Ðạo?
Bởi
vì
có
người
cho
nó
là
không
thú
vị
và
nhạt
nhẽo.
Thiền
định
có
vẻ
lý
thú
và
thu
hút
sự
chú
ý
hơn;
trí
tuệ
và
triết
lý
cũng
có
một
cái
gì
hấp
dẫn
hơn.
Thực
ra,
đây
là
sự
cám
dỗ
nguy
hiểm
khi
bỏ
qua
sự
quan
trọng
của
giới
đức.
Không
tạo
ra
nền
móng
giới
đức,
chúng
ta
sẽ
không
thành
công
trong
việc
theo
đuổi
những
bước
kế
tiếp
khác. Trang
48.
Cần
hiểu
rõ
các
điều
luật
của
giới
đức
trong
Phật
giáo,
bởi
vì
có
sự
khác
nhau
trong
các
qui
tắc
được
đưa
ra.
Nếu
xét
đến
những
điều
dạy
đạo
đức
của
các
tôn
gíao
chính
trên
thế
giới,
bạn
sẽ
ngạc
nhiên
về
mức
độ
đồng
ý
trong
các
tôn
giáo
đó.
Lấy
thí
dụ
những
điều
dạy
về
đạo
đức
của
Do
thái
giáo,
Cơ
đốc
giáo,
Hồi
giáo,
Khổng
giáo,
Lão
giáo,
Phật
giáo
và
các
đạo
sư
Ấn
độ
giáo,
bạn
thấy
rằng
các
luật
căn
bản
của
giới
đức
hầu
hết
đều
giống
nhau.
Tuy
giống
nhau
nhưng
quan
điểm
và
cách
diễn
tả
trong
mỗi
tôn
giáo
lại
được
giải
thích
khá
khác
nhau. Nói
chung,
có
hai
lối--đó
là
lối
phục
tùng
và
lối
dân
chủ.
Một
thí
dụ
điển
hình
của
nguyên
tắc
đầu
tiên
là
Chúa
ban
phát
các
bia
truyền
của
Mười
Ðiều
răn
cho
dân
Moses
trên
núi.
Trong
Phật
giáo
việc
thiết
lập
các
giới
đức
có
tính
cách
dân
chủ
hơn.
Bạn
có
thể
lấy
làm
lạ
tại
sao
tôi
nói
điều
này
khi
thực
sự
giới
luật
đã
có
in
rõ
trong
kinh
sách
Phật
giáo.
Bạn
có
thể
hỏi,
‘Bộ
những
điều
luật
này
không
tương
tự
với
những
gì
Chúa
ban
các
điều
răn
cho
người
Moses
sao?’
Tôi
nghĩ
là
không,
bởi
vì
nếu
xét
một
cách
tỉ
mỉ
ý
nghĩa
trong
kinh
sách
Phật
giáo,
chúng
ta
mới
có
thể
thấy
những
gì
nằm
đằng
sau
các
giới
luật
của
đức
hạnh--đó
là,
các
nguyên
tắc
bình
đẳng
và
tương
nhượng. Trang
49.
Nguyên
tắc
về
bình
đẳng
cho
rằng
tất
cả
sinh
vật
đều
có
chung
định
hướng
và
quan
điểm
căn
bản
của
chúng.
Nói
một
cách
khác,
tất
cả
các
sinh
vật
đều
muốn
hạnh
phúc,
vui
hưởng
cuộc
đời
và
tránh
đau
khổ,
chết
chóc.
Ðiều
này
cũng
đúng
với
các
sinh
vật
khác
giống
như
chúng
ta.
Nguyên
tắc
bình
đẳng
này
là
trung
tâm
của
mọi
vật
trong
vũ
trụ
theo
cái
nhìn
của
đức
Phật.
Hiểu
được
nguyên
tắc
bình
đẳng
này,
chúng
ta
được
khuyến
khích
hành
động
theo
sau
một
nguyên
tắc
nữa,
đó
là
tương
nhượng. Trang
49.
Sự
tương
nhượng
lẫn
nhau
có
nghĩa
là,
ta
không
muốn
bị
lợi
dụng,
bị
cướp,
bị
gây
thương
tật
hay
bị
giết.
Tất
cả
các
sinh
vật
khác
cũng
không
muốn
có
những
sự
việc
như
thế
xãy
ra
cho
chúng.
Ta
có
thể
nói
nguyên
tắc
tương
nhượng
này
một
cách
giãn
dị
là,‘Ðừng
làm
những
gì
mình
không
muốn
người
ta
làm
cho
mình.’
(Kỷ
sở
bất
dục
vật
thi
ư
nhân).
Một
khi
chúng
ta
hiểu
được
nguyên
tắc
công
bằng
và
tương
nhượng
này
thì
sẽ
không
khó
hiểu
cái
căn
bản
dân
chủ
về
giới
đức
trong
Phật
giáo. Trang
49.
Chúng
ta
hãy
xét
chi
tiết
nội
dung
giới
đức
trong
Phật
giáo.
Cách
thực
hành
giới
đức
bao
gồm
ba
phần:
chánh
ngữ,
chánh
nghiệp,
chánh
mạng. Chánh
ngữ
là
mặt
cực
kỳ
quan
trọng.
Chúng
ta
thường
đánh
giá
thấp
sức
mạnh
của
lời
ăn
tiếng
nói,
nên
đôi
khi
ít
kiểm
soát
chúng.
Một
lúc
nào
đó
trong
cuộc
đời,
ta
thường
bị
tổn
thương
vì
lời
nói
của
người
này
hay
có
đôi
khi
lại
rất
phấn
khởi
bởi
lời
nói
của
người
kia.
Trong
chính
trường,
ta
đã
thấy
những
người
ăn
nói
tài
giỏi,
ảnh
hưởng
mạnh
mẻ
đến
dân
chúng
như
thế
nào,
có
khi
tốt
đẹp
hơn,
có
lúc
tệ
hại
hơn...
Hitler,
Churchill,
Kennedy
và
Martin
Luther
King
đều
là
những
nhà
hùng
biện
có
khả
năng
ảnh
hưởng
hàng
triệu
người
với
lời
nói
của
họ.
Người
ta
nói
rằng
một
lời
nói
nặng
có
thể
làm
tổn
thương
nhiều
hơn
là
một
võ
khí,
trong
khi
một
lời
dịu
dàng
có
thể
thay
đổi
trái
tim
và
đầu
óc
ngay
cả
một
tội
phạm
khó
trị
nhất.
Hơn
bất
cứ
cái
gì
khác,
khả
năng
ăn
nói
phân
biệt
được
con
người
với
thú
vật.
Nếu
chúng
ta
muốn
tạo
ra
một
xã
hội
trong
đó
nói
năng,
cộng
tác
và
hạnh
phúc
là
những
mục
tiêu
phải
đạt
được,
chúng
ta
phải
kiểm
soát
và
dùng
lời
nói
cho
hữu
ích. Trang
50.
Giới
đức
nói
lên
sự
tôn
trọng
các
giá
trị
về
bình
đẳng
và
tương
nhượng.
‘Chánh
ngữ’
ám
chỉ
đến
sự
quí
trọng
sự
thật
và
hạnh
phúc
của
người
khác.
Dùng
khả
năng
ăn
nói
với
các
giá
trị
nầy
trong
đầu
óc
chính
là
ta
đã
gieo
trồng
chánh
ngữ
và
hoàn
thành
tốt
đẹp
các
liên
hệ
của
mình
với
người
khác.
Theo
truyền
thống,
chúng
ta
nói
đến
4
khía
cạnh
của
chánh
ngữ,
đó
là,
tránh
(a)
nói
dối,
(b)
nói
xấu,
(c)
nói
quá
và
(d)
nói
chơi. Một
trong
những
lời
chỉ
dạy
của
đức
Phật
cho
con,
đại
đệ
tử
La
Hầu
La,
là
sự
tốt
đẹp
của
việc
tránh
nói
dối.
Ông
dùng
thí
dụ
cái
chậu
đựng
nước
dơ
sau
khi
rửa
chân.
Sau
khi
chỉ
cho
ngài
La
hầu
la
thấy
nước
dơ
xong,
ông
nói,
‘Những
người
có
đức
hạnh
mà
nói
dối
một
cách
không
xấu
hổ
thì
kể
như
bỏ
đi,
giống
như
nước
dơ
trong
chậu
vậy.’
Kế
đó,
ông
đổ
nước
dơ
ra
và
nói,
‘Người
nào
nói
dối
không
xấu
hổ
tức
là
đã
bỏ
đi
đức
hạnh
của
họ,
cũng
giống
như
ta
đổ
nước
này
đi
vậy.’
Kế
đó
đức
Phật
chỉ
cho
ngài
La
hầu
la
cái
chậu
dơ
không
còn
nước
và
nói,‘
Cái
chậu
cũng
bị
ảnh
hưởng
vì
nước
dơ,
giống
như
đức
hạnh
của
những
người
quen
thói
nói
dối
vậy.’ Trang
51.
Bằng
cách
dùng
cái
chậu,
Phật
đã
chứng
minh
rằng
nói
dối
ảnh
hưởng
nặng
nề
đến
việc
tu
tâm
dưỡng
tánh.
Nếu
tin
rằng
có
thể
làm
một
đàng
nói
một
nẻo,
thế
là
ta
sẽ
không
ngần
ngại
gì
khi
làm
bậy,
bởi
vì
chúng
ta
sẽ
tự
tin
rằng
mình
sẽ
có
khả
năng
che
đậy
những
hành
động
có
hại
bằng
cách
nói
dối.
Nói
dối
mở
cửa
cho
tất
cả
các
loại
hành
động
không
lương
thiện. Vu
khống
gây
chia
rẽ.
Nó
tạo
ra
cải
cọ
giữa
bạn
bè,
gây
đau
khổ
và
bất
hòa
trong
xã
hội.
Vì
thế,
nếu
không
thích
có
người
hiềm
thù
mình
vì
những
lời
nói
xấu,
ta
cũng
không
được
nói
xấu
người
khác. Cũng
giống
như
vậy,
chúng
ta
không
nên
dè
bỉu
người
khác
với
những
lời
nói
quá,
nói
thêm.
Trái
lại,
nên
nói
năng
lịch
sự
với
kẻ
khác
giống
như
chúng
ta
thích
họ
nói
với
mình
vậy. Trang
51.
Khi
bàn
đến
chuyện
nói
chơi,
bạn
có
thể
tự
hỏi
tại
sao
chúng
ta
không
thể
tham
gia
vào
những
chuyện
vui
nho
nhỏ?
Thật
ra
việc
cấm
đoán
nói
chơi
không
phải
tuyệt
đối
như
vậy.
Loại
nói
chơi
ở
đây
là
chưyện
thị
phi
có
tính
cách
ác
ý,
đó
là,
đổi
hướng
sự
chú
ý
về
mình
và
kẻ
khác
bằng
cách
kể
ra
lỗi
lầm
và
thất
bại
của
thiên
hạ. Nói
tóm
lại,
tại
sao
không
tự
chế
mình
trong
việc
sử
dụng
một
cách
xây
dựng
khả
năng
ăn
nói,
một
khả
năng
hữu
ích
và
mạnh
mẽ,
để
trao
đổi
với
nhau
những
buổi
nói
chuyện
ý
nghĩa,
hòa
hợp
con
người,
khuyến
khích
hiểu
biết
giữa
bạn
bè
và
cho
những
lời
khuyên
hữu
ích;
thay
vì
để
lừa
dối,
gây
chia
rẽ,
nói
xấu
kẻ
khác
và
chuyện
vãn
cho
qua
thời
giờ?
Ðức
Phật
đã
từng
nói,‘Lời
nói
dễ
nghe
thì
ngọt
như
mật;
nói
lên
sự
thật
là
điều
đẹp
đẽ
giống
như
một
bông
hoa;
những
lời
nói
sai
trái
thì
không
lành
mạnh,
giống
như
vết
bẩn.
Vì
thế
chúng
ta
hãy
cố
gắng,
vì
lòng
thiện
của
mình
và
của
người
khác,
gieo
trồng
chánh
ngữ.
Ðó
là
sự
tôn
trọng
sự
thật
và
hạnh
phúc
của
tha
nhân. Trang
52.
Phần
kế
của
Bát
chánh
đạo
nằm
trong
phần
đức
hạnh
là
chánh
nghiệp.
Chánh
nghiệp
bao
gồm
(a)
quí
trọng
đời
sống,
(b)
quí
trọng
tài
sản,
và
(c)
quí
trọng
sự
liên
hệ
cá
nhân.
Hẵn
bạn
còn
nhớ
những
gì
tôi
đã
nói
trước
đây
rằng
cuộc
đời
rất
đáng
quí.
Ðiều
ấy
được
nói
đến
trong
Kinh
Pháp
cú
(Dhammapada)
rằng
mọi
sinh
vật
đều
run
sợ
trước
sự
trừng
phạt,
tất
cả
đều
sợ
chết
và
tất
cả
đều
yêu
quí
đời
sống.
Xin
nhớ
các
nguyên
tắc
về
bình
đẳng
và
tương
nhượng
là
chúng
ta
không
được
giết
các
sinh
vật.
Bạn
có
thể
chấp
nhận
điều
nầy
đối
với
con
người
nhưng
lưỡng
lự
đối
với
các
sinh
vật
khác.
Tuy
nhiên,
một
số
tiến
bộ
trong
những
năm
vừa
qua
trong
các
lãnh
vực
khoa
học
và
kỹ
thuật
chắc
phải
cho
những
người
thích
suy
nghĩ
vài
món
ăn
tinh
thần.
Chẳng
hạn,
khi
ta
diệt
một
đàn
côn
trùng,
chúng
ta
có
chắc
là
đã
hoàn
thành
sự
tốt
đẹp
nhất,
lâu
dài
nhất
không,
hay
không
khéo
lại
góp
phần
vào
sự
mất
thăng
bằng
hệ
thống
môi
trường
mà
nó
sẽ
gây
ra
nhiều
vấn
đề
hơn
trong
tương
lai? Tôn
trọng
tài
sản
có
nghĩa
là
không
trộm
cắp,
cướp
giựt
hay
lừa
gạt
người
khác.
Ðiều
này
là
quan
trọng
bởi
vì
người
nào
lấy
tài
vật
bằng
sức
mạnh;
lấy
lén
đi,
hay
lừa
lọc
tức
đã
phạm
tội
không
công
bằng
về
tài
sản.
Người
chủ
không
trả
lương
công
nhân
cho
xứng
đáng,
đền
bù
đúng
với
công
việc
làm,
cũng
là
có
tội
này;
công
nhân
lãnh
lương
nhưng
né
tránh
bổn
phận
cũng
có
tội
ngang
với
sự
thiếu
tôn
trọng
tài
sản. Trang
52.
Cuối
cùng,
tôn
trọng
sự
liên
hệ
cá
nhân
nghĩa
là
tránh
sai
trái
về
tình
dục.
Nói
một
cách
giản
dị
nhất
là
thông
dâm.
Ngoài
chuyện
đó
ra,
nó
còn
có
nghĩa
là
tránh
liên
hệ
tình
dục
với
những
người
từng
bị
đau
khổ
vì
những
sự
giao
tiếp
như
thế.
Nói
chung,
tránh
lạm
dụng
các
giác
quan.
Bạn
có
thể
dễ
dàng
thấy
kết
quả
nếu
những
chỉ
dẫn
này
được
thi
hành
trong
một
cộng
đồng
nào
đó,
chỗ
ấy
sẽ
là
nơi
sinh
sống
tốt
đẹp. Chánh
mạng
là
bước
thứ
ba
của
Bát
chánh
đạo
được
kể
đến
trong
việc
thực
hành
giới
đức.
Chánh
mạng
là
sự
nới
rộng
luật
lệ
của
chánh
nghiệp
vào
các
vai
trò
gia
trưởng
trong
xã
hội.
Trong
hai
trường
hợp
chánh
ngữ
và
chánh
nghiệp,
giá
trị
bên
trong
của
nó
là
tôn
trọng
sự
thật,
hạnh
phúc,
cuộc
sống
của
người
khác;
tôn
trọng
tài
sản
cùng
sự
liên
hệ
giữa
con
người
với
nhau.
Chánh
mạng
có
nghĩa
là
kiếm
sống
bằng
cách
nào
mà
không
vi
phạm
những
giá
trị
căn
bản
nói
trên. Trang
53.
Năm
lối
sống
không
được
khuyến
khích
đối
với
Phật
tử
là
buôn
bán
thú
vật
để
làm
thịt,
buôn
bán
nô
lệ,
khí
giới,
thuốc
độc
và
rượu.
Năm
loại
này
không
được
đề
nghị
bởi
vì
chúng
góp
phần
vào
các
tệ
nạn
xã
hội
và
vi
phạm
các
giá
trị
tôn
trọng
đời
sống
và
hạnh
phúc
của
người
khác.
Buôn
bán
thú
vật
để
làm
thịt
là
vi
phạm
giá
trị
thứ
nhứt
của
chánh
nghiệp
(tôn
trọng
đời
sống).
Buôn
bán
nô
lệ
là
vi
phạm
hai
giá
trị
trong
chánh
nghiệp
(tôn
trọng
đời
sống
và
liên
hệ
giữa
con
người
với
nhau).
Buôn
bán
khí
giới
là
vi
phạm
giá
trị
tôn
trọng
đời
sống,
trong
lúc
đó
buôn
bán
chất
độc
hoặc
rượu
cũng
không
tôn
trọng
cuộc
sống
và
hạnh
phúc
của
người
khác.
Tất
cả
những
loại
buôn
bán
này
gây
ra
sự
bất
ổn,
bất
hòa
và
đau
khổ
trên
thế
giới. Trang
53.
Thực
tập
như
thế
nào
để
có
giới
đức?
Chúng
ta
đã
nói
là
trong
khung
cảnh
xã
hội,
hành
động
theo
giới
luật
là
tạo
cho
môi
trường
xã
hội
được
hòa
hợp
và
bình
an.
Tất
cả
mục
tiêu
xã
hội
của
chúng
ta
có
thể
được
hoàn
thành
trong
phạm
vi
giới
luật,
dựa
trên
các
nguyên
tắc
căn
bản
của
sự
bình
đẳng
và
tương
nhượng.
Ngoài
ra,
mỗi
người
được
sự
lợi
lạc
từ
sự
thực
hành
các
giới
đức
đó.
Trong
một
bài
giảng,
Phật
đã
nói
rằng
người
nào
để
ý
đến
sự
tôn
trọng
cuộc
sống...sẽ
cảm
thấy
giống
như
vua,
xứng
đáng
với
danh
vị
và
khuất
phục
được
kẻ
thù
.
Người
như
vậy
cảm
thấy
bình
an
và
thoải
mái. Sự
thực
tập
giới
đức
tạo
nên
một
cảm
giác
an
toàn,
lâu
dài,
thanh
tịnh
và
bình
an.
Một
khi
tạo
được
sự
bình
an
nội
tại,
bạn
có
thể
hoàn
tất
các
bước
khác
của
Bát
chánh
đạo.
Bạn
có
thể
vun
trồng
và
hoàn
thành
các
mặt
khác
của
thiền
định
và
trí
huệ
nhưng
chỉ
được
nó
sau
khi
bạn
đã
tạo
ra
nền
móng
cần
thiết
của
giới
đức
cho
chính
bạn
và
cho
sự
liên
hệ
với
những
người
khác. Trang
54.
Nói
tóm
lại,
đây
là
nguồn
gốc,
nội
dung
và
mục
tiêu
của
giới
đức
trong
Phật
giáo.
Xin
thêm
một
điểm
nữa
khi
xét
đến
các
giới
đức.
Bạn
thường
nghĩ,
‘Làm
sao
ta
có
thể
giữ
giới
được?’
Có
vẻ
không
thực
tế
hay
khó
tuân
thủ
quá
phải
không?
Như
việc
cấm
sát
sanh
là
điều
rất
khó
theo
một
cách
tuyệt
đối.
Trong
khi
quét
dọn
nhà
bếp
hoặc
làm
việc
vặt
vãnh
trong
vườn,
chắc
là
bạn
sẽ
giết
vài
côn
trùng
mà
chúng
bất
chợt
làm
bạn
khó
chịu.
Cũng
như
vậy,
có
vẽ
cũng
rất
khó,
ngay
cả
việc
tránh
nói
dối
trong
mọi
trường
hợp.
Làm
sao
xử
trí
các
vấn
đề
nầy,
cái
nào
là
cái
đúng
đây? Trang
54.
Ðiểm
chánh
không
phải
là
bắt
buộc
ta
theo
một
cách
tuyệt
đối
tất
cả
các
luật
lệ
của
giới
đức.
Nếu
các
luật
lệ
của
giới
đức
có
giá
trị
thực
tế
(có
nghĩa
là,
nếu
các
nguyên
tắc
về
bình
đẳng
và
tương
nhượng
là
đáng
tin
và
có
thể
thực
hành
được)
thì
bổn
phận
của
chúng
ta
là
phải
theo
các
giới
luật
này
càng
nhiều
càng
tốt.
Chúng
ta
sẽ
không
có
khả
năng
theo
được
chúng
tuyệt
đối
mà
là
ta
phải
làm
hết
sức
mình
để
thực
tập
giới
luật.
Nếu
muốn
sống
bình
an
cho
chính
mình
và
với
những
người
khác,
ta
phải
tôn
trọng
cuộc
sống
và
hạnh
phúc
cùng
tài
sản
của
họ
v.v...Nếu
một
sự
việc
diễn
ra
trong
đó
chúng
ta
cảm
thấy
không
thể
áp
dụng
đúng
theo
một
luật
nào
đó,
cái
đó
không
phải
là
lỗi
của
luật,
mà
chỉ
vì
có
một
khoảng
cách
giữa
cách
thực
tập
riêng
của
mình
và
sự
thực
hành
lý
tưởng
của
nó. Cuối
trang
54.
Ngày
xưa,
khi
lái
tàu
băng
qua
đại
dương
với
sự
giúp
sức
của
các
tinh
tú,
các
thủy
thủ
không
thể
nào
theo
chính
xác
cái
thủy
lộ
được
chỉ
ra
bởi
các
thiên
thể.
Tuy
vậy
nhờ
theo
chúng
một
cách
phỏng
chừng
như
thế
nào
đó,
các
thủy
thủ
đã
đến
được
bến
bờ.
Cũng
giống
như
vậy,
khi
theo
các
luật
về
giới
hạnh,
chúng
ta
không
thể
luôn
luôn
theo
được
tất
cả
giới
luật
.
Ðây
là
lý
do
tại
sao
năm
giới
này
được
gọi
là
‘năm
giới
luật
rèn
luyện’.
Ðó
cũng
là
lý
do
tại
sao
chúng
ta
cứ
nói
đi
nói
lại
luôn.
Những
gì
có
trong
các
giới
luật
là
cái
khung
làm
việc
qua
đó
chúng
ta
có
thể
cố
gắng
sống
hòa
hợp
với
hai
nguyên
tắc
căn
bản
làm
nổi
bật
giáo
lý
của
đức
Phật:
nguyên
tắc
bình
đẳng
và
tương
nhượng
của
mọi
sinh
vật. Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002