Dựa
vào
tập
sách
Luận
Tạng
đầu
tiên
‘Phân
loại
các
Pháp’
(Dhammasangani),
trong
chương
kết
thúc
này,
tôi
xin
phân
tích
các
loại
thức
thuộc
về
‘siêu
thức’
(alokiya
chitta).
Ðây
là
cách
phân
loại
cuối
cùng
của
4
cách
phân
loại
các
thức
(xin
xem
từ
đầu
Chương
32). Có
hai
cách
phân
biệt
các
loại
thức
siêu
thế
gian
với
các
loại
thức
thế
gian
(dục
giới,
sắc
giới
và
vô
sắc
giới).
Hướng
phân
biệt
đầu
tiên
là
dựa
vào
sự
quyết
định
và
phương
hướng.
Thức
thế
gian
thì
đã
bị
định
nghiệp,
không
định
hướng,
thuộc
vào
nghiệp
lực
và
cơ
duyên,
trong
khi
siêu
thức
có
tính
cách
đang
được
quyết
định,
có
thể
hướng
về
một
mục
tiêu
và
không
tùy
thuộc
vào
các
lực
bên
ngoài
nó.
Siêu
thức
là
đang
được
định
hướng,
chính
yếu
là
ở
trí
huệ
chứ
không
phải
ở
định
nghiệp. Cách
phân
biệt
thứ
hai:
trong
khi
đối
tượng
của
các
loại
thức
thế
gian
là
những
hiện
tượng
đã
bị
tác
động,
thì
các
đối
tượng
của
các
loại
thức
siêu
thế
gian
là
những
hiện
tượng
không
bị
ảnh
hưởng
gì
cả,
đó
là
niết
bàn.
Ðức
Phật
nói
đến
niết
bàn
là
một
tình
trạng
vô
sanh
và
vô
tác.
Một
tình
trạng
như
vậy
là
điều
cần
thiết
để
thoát
ra
khỏi
thế
giới
đau
khổ
và
bị
tác
động.
Với
ý
nghĩa
này,
đối
tượng
của
siêu
thức
là
vô
tác
và
không
còn
bị
ảnh
hưởng
nữa. Một
cách
tổng
quát,
chúng
ta
có
thể
chia
ra
các
loại
thức
siêu
thế
gian
thành
4
loại
chủ
động
và
4
loại
thụ
động.
Thường
thì
các
loại
thức
hoặc
chủ
động
hoặc
thụ
động.
Loại
thụ
động
có
thể
gây
ra
kết
quả
(reactive,
resultant)
hoặc
bất
động
hay
thực
dụng
(inactive,
functional).
Trong
siêu
thức
không
có
các
loại
thức
bất
động
bởi
vì
ở
đây
các
loại
thức
là
‘đang
được
quyết
định’
chứ
không
phải
là
‘đã
bị
định
sẵn’. Trang
307.
Tám
loại
căn
bản
siêu
thức
này,
4
chủ
động
và
4
thụ
động,
tương
đương
với
Tứ
Thánh
Quả:
Tu
đà
hoàn
(Sotapanna),
Tư
đà
hàm
(Sakadagami),
A
na
hàm
(Anagami),
và
A
la
hán
(Arhat,
Vô
sanh).
Ở
đây
tôi
phải
phân
biệt
rõ
thêm
giữa
thức
thế
gian
và
thức
siêu
thế
gian.
Trong
thức
thế
gian,
các
loại
chủ
động,
gây
kết
quả
có
thể
bị
gián
đoạn
qua
một
thời
gian
tương
đối
dài:
nó
phải
đợi
đến
một
thời
gian
khá
lâu
sau
đó
trong
hiện
tại
và
có
thể
cả
kiếp
sau
mới
có
thể
gây
ra
quả.
Chẳng
hạn,
trong
trường
hợp
của
thức
sắc
giới
và
vô
sắc
giới,
phải
đợi
đến
một
đời
sau
đó,
thức
kết
quả
mới
xảy
ra.
Còn
trong
các
loại
thức
siêu
thế
gian,
thức
kết
quả
(hay
thành
tựu)
theo
ngay
sau
thức
chủ
động
(hay
con
đường
đạo)
ngay
sau
đó. Tám
loại
thức
siêu
thế
gian
có
thể
trở
thành
40
bằng
cách
kết
hợp
từng
cái
một
trong
8
cái
với
từng
cái
một
trong
Ngũ
Ðịnh
sắc
giới.
Bốn
loại
siêu
thức
chủ
động
(tức
các
thức
tu
cho
quả
Tu
đà
hoàn,
v.v...)
kết
hợp
cùng
với
thức
thuộc
định
đầu
tiên...,
nhờ
thế
có
20
loại
siêu
thức
chủ
động
cùng
với
quả
Tứ
thánh
và
5
định
sắc
giới.
Cũng
vậy,
4
loại
siêu
thức
gây
kết
quả
(thức
quả
của
Tu
đà
hoàn...)
kết
hợp
với
thức
thuộc
về
định
đầu
tiên...,
nhờ
thế
có
20
loại
siêu
thức
gây
kết
quả
và
tất
cả
là
40. Trang
308.
Ðiều
này
xảy
ra
như
sau:
dựa
vào
định
đầu
tiên
của
sắc
giới,
con
đường
đạo
và
thành
quả
thức
của
các
vị
Tu
đà
hoàn
xuất
hiện.
Cũng
vậy,
căn
cứ
vào
các
định
thứ
hai,
thứ
ba,
thứ
tư
và
thứ
năm,
con
dường
đạo
và
thành
quả
thức
của
các
vị
Tu
đà
hàm,
A
na
hàm
và
A
la
hán
xuất
hiện.
Vì
vậy
thức
thuộc
về
thức
siêu
thế
gian
được
phát
triển
dựa
vào
các
định
khác
nhau. Chúng
ta
hãy
tiếp
tục
định
nghĩa
thêm
4
giai
đoạn
giác
ngộ
Sơ
quả
Tu
đà
hoàn,
Nhất
Lai
Tu
đà
hàm,
Bất
Lai
A
na
hàm
và
Vô
sanh
A
la
hán.
Sự
tiến
bộ
của
một
bậc
thánh
qua
bốn
giai
đoạn
giác
ngộ
được
đánh
dấu
bởi
khả
năng
khắc
phục
một
số
kiết
sử
(kiết
là
trói
buộc,
sử
là
sai
khiến;
fetters)
của
người
ấy.
Có
tất
cả
10
kiết
sử
(samyojana.P)
‘trói
buộc
sai
khiến’
ta
vào
thế
giới
này.
Ta
cần
phải
đoạn
diệt
để
có
thể
hoàn
thành
giải
thoát. Ðắc
Sơ
quả
đánh
dấu
việc
trừ
được
3
trói
buộc
sai
khiến
(kiết
sử).
Cái
trói
buộc
sai
khiến
ta
đầu
tiên
là
sự
tin
vào
một
cái
ta
hiện
hữu
độc
lập,
thường
hằng
(sakkaya
ditthi)
tức
là,
lấy
sắc
và
tâm
(thọ
tưởng
hành
thức)
của
cái
ta
làm
cái
ngã.
Vì
thế
không
phải
là
ngẫu
nhiên
khi
nói
rằng
các
loại
thức
thế
gian
bị
ảnh
hưởng
bởi
5
uẩn,
trong
khi
các
loại
siêu
thức
lại
không
bị.
Khắc
phục
được
kiết
sử
thứ
nhứt
đánh
dấu
con
đường
đi
của
một
người
từ
tình
trạng
người
trần
tục
lên
quả
vị
thánh. Kiết
sử
thứ
hai
được
khắc
phục
bởi
Vị
Tu
Ðà
Hoàn
là
nghi
hoặc
(vichikichchha).
Chủ
yếu
là
nghi
hoặc
Phật,
Pháp,
Tăng,
nghi
cả
về
giới
luật
và
thuyết
duyên
khởi. Kiết
sử
thứ
ba
là
tin
về
luật
lệ
và
nghi
thức
(silabbataparamasa,P.,
Giới
thủ
kiến).
Kiết
sử
này
thường
bị
hiểu
lầm,
đặc
biệt
nói
đến
các
sự
hành
trì
của
những
người
ngoại
đạo;
họ
tin
rằng
chỉ
cần
gắn
bó
vào
các
qui
tắc
của
giới
luật
và
các
nghi
thức
khổ
hạnh
cũng
đủ
dẫn
họ
đến
giải
thoát. Trang
309.
Khi
ba
điều
trói
buộc
sai
khiến
này
được
khắc
phục,
ta
bước
vào
dòng
thánh
(nhập
lưu)
và
sẽ
hoàn
thành
giải
thoát
không
quá
bảy
kiếp
người.
Con
người
sẽ
không
bị
tái
sinh
vào
các
hoàn
cảnh
khổ
sở,
bất
hạnh
(tức
các
cõi
địa
ngục,
ngạ
quỹ,
súc
sanh),
và
được
bảo
đảm
lòng
tin
tuyệt
đối
vào
Phật,
Pháp
và
Tăng. Sau
khi
hoàn
thành
giai
đoạn
giác
ngộ
đầu
tiên,
bậc
này
tiếp
tục
làm
yếu
đi
2
kiết
sử
nữa,
đó
là
tình
dục
và
không
thân
thiện,
nhờ
vậy
đạt
được
quả
vị
Nhất
Lưu
Tu
đà
hàm.
Các
kiết
sử
này
rất
mạnh,
vì
vậy
nên
ngay
cả
giai
đoạn
nầy,
chúng
chỉ
được
làm
yếu
đi,
chứ
không
dứt
bỏ
được.
Nhục
dục
và
tính
không
thân
thiện
có
thể
vẫn
thỉnh
thoảng
nổi
lên,
mặc
dầu
không
khởi
lên
dưới
hình
thức
thô
tục
mà
ta
thường
thấy
nơi
những
người
trần
tục. Khi
hai
kiết
sử
này
được
diệt
trừ,
ta
đạt
được
giai
đoạn
Bất
Lưu
A
na
hàm.
Ở
giai
đoạn
ba
này
người
ta
không
còn
tái
sinh
trong
vòng
sinh
tử
luân
hồi
mà
chỉ
ở
các
nơi
sinh
sống
dành
cho
các
vị
Bất
Lưu
và
A
la
hán. Khi
năm
ràng
buộc
sai
khiến
còn
lại
được
diệt
trừ,
người
ta
hoàn
thành
được
đỉnh
cao
của
các
loại
thức
siêu
thế
gian,
cái
quả
của
siêu
thức
cho
A
la
hán.
Năm
kiết
sử
đó
là
sự
vướng
mắc
vào
cõi
sắc
(rupa
raga),
vướng
mắc
vào
cõi
vô
sắc
(arupa
raga),
lừa
dối
(mana),
kích
động
(uddahachcha),
và
vô
minh
(avijja). Bốn
giai
đoạn
này
có
thể
được
chia
ra
thành
2
nhóm:
nhóm
1
gồm
3
giai
đoạn
đầu
là
của
người
đang
được
huấn
luyện,
và
nhóm
2
tức
giai
đoạn
cuối
là
của
người
không
còn
cần
được
huấn
luyện.
Vì
lý
do
này,
ta
có
thể
ví
quả
vị
A
la
hán
là
một
tiến
trình
của
sự
tốt
nghiệp,
giống
như
trong
chương
trình
của
các
môn
học
trên
đại
học.
Vào
mỗi
giai
đoạn
người
ta
khắc
phục
một
vài
hàng
rào
vô
minh
và
vì
thế
tốt
nghiệp
lên
một
giai
đoạn
cao
hơn
trong
tiến
trình
huấn
luyện. Vào
thời
điểm
này,
có
một
sự
tiến
bộ
về
phẩm:
từ
một
hoàn
cảnh
không
định
hướng
và
đã
bị
định
nghiệp
tăng
lên
một
hoàn
cảnh
có
định
hướng
và
đang
được
quyết
định.
Làm
sao
mà
người
ta
tạo
được
niết
bàn
từ
một
vật
của
thức,
nhờ
chuyển
hóa
một
thức
thế
gian
mà
vật
đó
đã
bị
điều
kiện
hoá,
thành
một
thức
siêu
thế
gian
mà
vật
đó
lại
không
bị
điều
kiện
hoá?
Làm
sao
mà
người
ta
nhận
ra
được
niết
bàn?
Ðiều
này
được
hoàn
thành
qua
sự
hiểu
biết
đang
được
phát
triển,
hay
trí
tuệ
(panna,P;
prajna,S). Trang
310.
Ðể
phát
triển
mức
hiểu
biết
bát
nhã
ba
la
mật,
chúng
ta
áp
dụng
hai
phương
pháp
phân
tích
và
tổng
hợp
của
Vi
diệu
pháp
(xem
Chương
32).
Chúng
ta
áp
dụng
phương
pháp
phân
tích
trong
việc
khảo
sát
thức
và
các
đối
tượng
của
nó,
tức
tâm
và
sắc.
Qua
sự
phân
tích
này,
chúng
ta
đi
đến
việc
thừa
nhận
rằng
những
gì
chúng
ta
trước
đây
xem
nó
là
một
hiện
tượng
đồng
nhất,
có
nhiều
thành
phần
thì
thực
ra
nó
bao
gồm
các
yêu
tố
cá
nhân,
tất
cả
những
cái
này
là
vô
thường
và
trong
một
tình
trạng
thay
đổi
liên
tục.
Ðiều
này
đúng
sự
thật
cho
cả
tâm
và
sắc. Cũng
giống
như
vậy,
chúng
ta
áp
dụng
phương
pháp
tổng
hợp
bằng
cách
xem
xét
các
nhân
và
duyên
tạo
ra
sự
hiện
hữu
của
mình.
Ta
liên
hệ
với
những
yếu
tố
nào
để
thành
một
thực
thể
tâm
sinh
lý?
Sự
xem
xét
này
cho
ta
thấy
rằng
cá
tính
hiện
hữu
được
là
tùy
thuộc
vào
5
yếu
tố:
vô
minh,
ái,
thủ,
nghiệp
và
sự
ăn
uống
dinh
dưỡng. Mức
hiểu
biết
bát
nhã
ba
la
mật
nói
chung
được
phát
triển
qua
việc
áp
dụng
hai
phương
pháp
phân
tích
nội
tại
và
ngoại
vi
của
Vi
diệu
pháp
(Abhidharma),
các
hiện
tượng
tinh
thần,
vật
chất
và
xem
xét
chúng
liên
hệ
đến
các
nhân
và
duyên
của
chúng.
Các
sự
điều
tra
phân
tích
và
liên
hệ
cho
thấy
3
đặc
tính
hiện
hữu
hỗ
tương
và
phổ
biến:
vô
thường,
đau
khổ
và
vô
ngã.
Bất
cứ
cái
gì
vô
thường
là
đau
khổ,
vì
khi
ta
thấy
những
yếu
tố
của
kinh
nghiệm
tan
rã
ra
thì
sự
phân
hủy
và
sự
vô
thường
của
chúng
là
một
cơ
hội
cho
đau
khổ.
Ngoài
ra,
bất
cứ
cái
gì
vô
thường
và
đau
khổ
thì
không
thể
nào
có
cái
ngã,
bởi
vì
ngã
không
thể
vừa
là
nhất
thời
vừa
là
đau
khổ. Hiểu
thấu
được
3
đặc
tính
này
dẫn
đến
sự
dũng
cảm,
sự
tự
do
ra
khỏi
thế
giới
bị
điều
kiện
hoá.
Qua
sự
hiểu
biết
đặc
tính
này,
người
ta
nhận
thấy
rằng
3
cõi
thế
gian
giống
như
một
cây
chuối
tức
không
có
bản
thể.
Nó
dẫn
đến
lònh
dũng
cảm,
hay
sự
thoát
ra
khỏi
cõi
bị
điều
kiện
hoá,
và
giúp
cái
thức
hướng
thẳng
tới
một
đối
tượng
không
bị
điều
kiện
hóa,
tức
niết
bàn. Trang
311.
Bất
cứ
một
trong
ba
đặc
tính
đều
có
thể
phục
vụ
như
là
chìa
khóa
cho
việc
chuyển
hướng
này.
Bất
cứ
một
trong
ba
đặc
tính
có
thể
được
xem
là
một
vật
để
quán
tưởng
hầu
phát
triển
sự
hiểu
biết
con
người.
Chúng
ta
có
thể
thấy
điều
này
trong
các
tiểu
sử
kể
lại
của
các
Ðại
Ðệ
tử
của
Phật.
Khema,
chẳng
hạn,
đã
hoàn
thành
giải
thoát
qua
việc
quán
tưởng
vô
thường
(xem
Chương
22). Một
khi
ta
đã
phát
triển
sự
hiểu
biết
bát
nhã
ba
la
mật
thành
một
trong
ba
đặc
tính
phổ
biến
này,
ta
có
thể
chứng
nghiệm
trong
thoáng
qua
hình
ảnh
của
niết
bàn.
Sự
làm
quen
đầu
tiên
về
niết
bàn
có
thể
được
xem
giống
như
một
lằn
chớp
còn
lại
trong
một
thời
gian
lâu
vào
tâm
thức
của
ta,
và
có
thể
giúp
ta
tiếp
tục
trên
con
đường
mà
ta
biết
rằng
mình
đang
đi
đúng
hướng. Cái
nhìn
lướt
qua
về
niết
bàn
được
hoàn
thành
bởi
vị
Tu
đà
hoàn
có
tác
dụng
như
sự
định
hướng,
nhờ
đó
ông
hướng
sự
tiến
bộ
của
mình
về
phía
niết
bàn.
Người
ta
có
thể
nói
nó
giống
như
sự
phát
triển
sự
hiểu
biết
dần
dần
để
đạt
được
một
kỹ
năng.
Sau
khi
điều
khiển
xe
đạp
chạy
được
vài
chục
thước
mà
không
ngã,
ta
có
thể
tốn
thêm
một
thời
gian
nữa
trước
khi
thành
một
tay
chuyên
nghiệp
trong
việc
lái
xe
đạp.
Sau
khi
lái
thành
công
không
ngã
trong
vài
chục
thước
đầu
tiên,
người
ta
không
bao
giờ
quên
cái
kinh
nghiệm
ấy
và
có
thể
tự
tin
tiến
đến
mục
tiêu
của
mình. Chính
trong
ý
nghĩa
này
mà
sự
quán
tưởng
3
dặc
tính
dẫn
đến
3
cửa
giải
thoát:
cửa
không
dấu
hiệu,
cửa
không
mong
cầu,
và
cửa
không.
Quán
đặc
tính
của
vô
thường
dẫn
đến
cửa
không
dấu
hiệu;
quán
đau
khổ
dẫn
đến
cửa
không
mong
cầu
hay
không
tham
dục;
và
quán
vô
ngã
dẫn
đến
cửa
không.
Ba
cửa
giải
thoát
này
là
sự
kết
thúc
của
việc
quán
tưởng
vào
3
đặc
tính
phổ
biến
trên. Trang
312.
Vì
thế
người
ta
dần
dần
tiến
lên
qua
4
giai
đoạn
của
giác
ngộ
và
sau
đó
hoàn
thành
quả
vị
A
la
hán,
giai
đoạn
chiến
thắng
các
phiền
não
trong
đó
các
gốc
rễ
bất
thiện
như
tham,
sân,
si
hoàn
toàn
được
tẩy
trừ.
Sau
khi
diệt
phiền
não,
A
la
hán
thoát
khỏi
vòng
sanh
tử
và
không
còn
tái
sinh. Mặc
dầu
có
vài
mưu
toan
muốn
làm
hoen
ố
quả
vị
A
la
hán
với
sự
kết
tội
là
ích
kỷ,
nhưng
mục
tiêu
của
quả
vị
A
la
hán
là
một
mục
tiêu
có
lợi
lạc
và
từ
bi.
Người
ta
chỉ
cần
xem
xét
những
lời
chỉ
dạy
của
Phật
cho
các
các
đệ
tử
A
la
hán
xuất
chúng
và
nhìn
vào
các
sư
nghiệp
của
các
đệ
tử
này,
ta
thấy
rằng
trong
thời
của
đức
Phật,
quả
vị
A
la
hán
không
phải
là
một
tình
trạng
thụ
động
và
ích
kỷ.
Xá
Lợi
Phật,
Mục
Kiền
Liên
và
những
vị
khác
đã
tham
gia
tích
cực
vào
việc
hoằng
pháp
cho
cả
hai
giới
cư
sĩ
và
tăng
sĩ
trong
Giáo
hội
Phật
giáo.
Chính
Phật
cổ
vũ
các
đệ
tử
A
la
hán
đi
làm
lợi
ích
cho
chúng
sanh.
Mục
tiêu
của
A
la
hán
là
mục
tiêu
huy
hoàng
và
xứng
đáng
mà
chúng
ta
không
được
coi
thường
dưới
bất
cứ
cách
nào
vì
rằng
tín
ngưỡng
Phật
giáo
cũng
thừa
nhận
mục
tiêu
Phật
riêng
tư
hay
cá
nhân
(tức
Phật
Ðộc
giác,
Phật
Duyên
giác,
Phật
Bích
chi,
Pachchekabuddha)
và
mục
tiêu
của
quả
vị
Phật.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002