Khai Thị
[ Tập 2 ]
Đại Sư Tuyên Hóa Việt dịch: Ban Phiên Dịch Đại Học Pháp Giới,
Vạn Phật Thánh Thành
"Liễu
tri chúng sanh chủng chủng dị, Tất
thịTưởng, Hành sở phân biệt. Ư
thử quán sát tất minh liễu, Nhi
bất hoại ư chu pháp tánh." Dịch là: "Rõ
biết chúng sanh nhiều chủng loại, Do
Tưởng, Hành, phân biệt mà có. Nhân
vì quán sát nên hiểu rõ Song
không hủy hoại tánh các pháp." Chúng sanh do khởi hoặc tạo
nên nghiệp, thọ báo, trồng nhân nào thì gặt quả ấy, đó
là đạo lý rất tự nhiên. Nếu trồng nhân Phật thì đặng
quả Phật, trồng nhân Bồ Tát thì gặt quả Bồ Tát, trồng
nhân Duyên Giác thì gặt quả Duyên Giác, Trồng nhân Thanh Văn
thì gặt quả Thanh Văn. Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác
là bốn Thánh Ðạo. Trong sáu đường phàm thì
có ba đường thiện là Thiên, Nhân, A-tu-la; còn ba đường ác
là Súc sinh, Ngạ quỷ, Ðịa ngục. Nói tóm lại, nếu trồng
nhân của ba đường thiện sẽ gặt quả của ba đường thiện,
trồng nhân của ba đường ác sẽ gặt quả của ba đường
ác. Ðạo lý đó đúng, không sai sót một mảy may và cũng không
bao giờ thay đổi; và tuyệt nhiên chẳng có sắc thái mê tín
nào cả. Người si mê thì không biết
sự lợi hại của đạo lý nhân quả nên cứ tùy tiện hành
động chẳng tin nhân quả, thậm chí họ còn bác bỏ. Người
có trí huệ thì biết nhân quả báo ứng hết sức lợi hại
nên sợ làm những điều sai lầm với nhân quả. Bất luận
làm chuyện gì đều phải ba lần suy nghĩ rồi mới thực hành. Bậc thánh nhân xuất thế
tu hành là để thoát vòng nhân quả. Kẻ phàm phu thì tạo
nên tội lỗi trong chuỗi nhân quả . Không có tội thì tạo
thêm tội; tạo ra tội thì chẳng chịu nhận đó là tội,
còn cho là chuyện đương nhiên, chẳng có mảy may hổ thẹn.
Thật là chồng chất thêm tội lỗi, chẳng thể tha thứ đặng! Chúng sanh có nhiều loại
dị biệt; bao quát thì chỉ có hai loại là thiện với ác, nhưng
mỗi thứ đều khác nhau. Mỗi loại mỗi thứ tạo những nghiệp
riêng, rồi thọ những quả báo riêng; nhưng nói chung thì tất
cả chúng sinh đều ở trong pháp Ngũ Uẩn (sắc, thọ, tưởng,
hành, thức) mà hình thành nghiệp quả sai biệt của mình. Nếu
ta quan sát và thông đạt được nghiệp quả báo ứng sai biệt
này thì sẽ thấu suốt tất cả pháp tánh mà chẳng hủy hoại
đạo lý của pháp tánh đó: "Trí
giả liễu tri chư Phật pháp. Dĩ
như thị hạnh nhi hồi hướng, Ai
mẫn nhất thiết chư chúng sanh, Linh
ư thực pháp chánh tư duy." Dịch là: "Người
trí thấu rõ mọi Phật pháp, Vậy
nên tu hành để hồi hướng, Với
lòng thương xót mọi chúng sanh, Khiến
họ nghĩ đúng nơi chân lý.” Kẻ có trí huệ thì liễu
giải pháp của Phật nói ra, cho nên họ tu hạnh Bồ Tát, hồi
hướng tất cả thiện căn mà họ tích tập được. Vì sao
mà hồi hướng thiện căn cho chúng sanh? Vì họ ai mẫn tất cả
chúng sanh! Bồ Tát thấy chúng sanh quá mê muội; những điều
chúng sanh làm đều điên đảo. Bất luận là giáo hóa chúng
sanh như thế nào thì chúng sanh cũng không lãnh hội được. Nếu
dạy họ mà phải quên mình vì người, bỏ ngọn theo gốc,
ủng hộ Chánh Pháp, làm cho Chánh Pháp trụ thế, thì họ chẳng
bao giờ tin tưởng. Chúng sanh thật đáng thương hại. Cho nên
các ngài khuyên chúng sanh đừng làm chuyện ác, mà làm chuyện
thiện; đối với Pháp chân thật thì phải làm theo cho đúng. Thế nào là điều chẳng
đúng? Các vị hãy tự phản tỉnh và suy nghĩ một cách chi
ly, không những một lần mà phải thường thường suy nghĩ,
coi thử các vị có phạm lỗi lầm nhân quả không? Coi thử
đối với Phật Giáo các vị đã tận tâm tận lực làm tròn
trách nhiệm và nghĩa vụ chưa, hay lại tạo ra đủ thứ tộI
nghiệp lỗI lầm? Vì thế, mọi nơi, mọi lúc,
các vị phải hồi quang phản chiếu, phản tỉnh lại phản tỉnh,
kiểm thảo rồi kiểm thảo, như vậy thì mới đúng là tín
đồ chơn chánh của đạo Phật! (Vạn Phật Thánh Thành ngày 10 tháng 3 năm 1977) Phật giáo thường nói
"phản bổn hoàn nguyên" có nghĩa là chúng ta xưa
như thế nào thì trở lại như thế đó; song khi xưa bổn lai
như thế nào? Lúc xưa cái gì cũng chẳng có. Cho nên bây giờ
hoàn nguyên tức là quay trở lại trạng thái mà cái gì cũng
chẳng có. Hễ mình có một chút chấp
tức là có chướng ngại. Có chướng ngại thì không thể ra
khỏi Tam Giới, cho nên nhất định phải phá thủng mọi chấp
trước. Khi tới chỗ chẳng có gì cả, thì đó là lúc mình
khôi phục lại bộ mặt thật của chính mình. Hiện tại
mình muốn có cũng chẳng được, chờ tới khi mình chẳng muốn
gì cả thì mọi thứ đều có đủ. Trí huệ sẽ hiện tiền,
thần thông sẽ hiện tiền, diệu dụng sẽ hiện tiền. Tại sao mình chẳng có
trí huệ, thần thông? Là vì mình đi hết chỗ này đến chỗ
khác lượm lặt những thứ rơm rác, còn những thứ vàng bạc
châu báu thì mình không muốn. Cái bản hữu quí giá của
chính mình thì mình chẳng muốn, lại vất bỏ đi, mà chỉ
đi tìm những thứ rác rưởi rồi tự cho mình là thông minh lắm.
Ðúng ra thì thật là hết sức si mê vậy! "Lộ
giao tri mã lực. Nhật
cửu kiến nhân tâm." Dịch là: “TrảI
đường dài xa, biết sức ngựa, Lâu
ngày chày tháng rõ lòng người." Kẻ học Ðạo không phải
chỉ một ngày một đêm mà có thể học được Phật Pháp. Cần
có thời gian lâu dài để thể nghiệm đạo lý Phật dạy,
theo đạo lý đó mà tu hành mới có thể thành tựu được. Người chân chính nhận thức
được Phật Pháp thì chẳng kinh hãi, sợ sệt, chẳng vui cũng
chẳng buồn. Phật Pháp thì như vậy; chẳng có gì đáng lo
âu khiếp sợ, cũng chẳng có gì đáng vui hay đáng buồn cả.
Phải luôn giữ trạng thái “như như bất động, liễu liễu
thường minh,” (1) vì đó chính là bản chất của Phật Pháp
vậy! (Vạn Phật Thành ngày 15 tháng 3 năm 1977) Người học Phật pháp cần
phải luôn luôn thành thật dụng công mà tu hành, như hai chân
đứng vững trên mặt đ Ham thích hư danh thì chẳng
ích lợi gì cho việc tu Ðạo. Muốn làm những việc "hữu
thực vô danh" thì không được tham cầu chuyện "hữu
danh vô thực"; nghĩa là không tham cầu cái danh giả dối,
có tiếng mà không có miếng. Còn như làm những việc chân thật
được biểu hiện ra ngoài thì được gọi là "hữu thực
vô danh"! Các vị đừng nên
tham cầu cái hư danh; mỗi hành đ Ðừng tham cái danh hão, đừng
thích cái lợi giả của thế gian; nếu không thì cũng giống
như "cánh hoa giả" chẳng bao giờ có thể sinh "quả"
(Do
người trong cuộc thuật lại) San Francisco và những vùng
phụ cận mấy trăm dặm đã xảy ra nạn hạn hán. Trong hai năm
liền mưa rất ít, không những gây khó khăn cho việc trồng
trọt mà nước uống cũng trở thành vấn đề nghiêm trọng,
nên việc dùng nước mỗi ngày bị hạn chế. Vì thế, những
ngườI xuất gia và tại gia ở chùa Kim Sơn tự động phát
tâm cầu mưa, thực hành hạnh Bồ Tát. Vào lúc 7 giờ sáng ngày
16 tháng 12 năm 1977, tại công viên Golden Gate, thầy Hằng Thực
đại diện thiết đàn để cầu mưa. Tổng cộng có mấy trăm
ngườI tham gia thành khẩn tụng niệm chú cầu mưa. Pháp Hội
hết sức trang nghiêm; từ lúc nước Mỹ lập quốc đến nay,
đây là Pháp Hội đầu tiên vậy. Người nào không phải là
tín đồ Phật Giáo thì cho là mê tín và chuyện không thể xảy
ra được. Khi kết thúc Pháp Hội, mọi người ra về với lòng
tin vững chắc là sẽ có mưa xuống. Cổ nhân có câu? "Tinh thành sở chí, Kim thạch vi khai." Nghĩa là: "Lòng thành cùng cực, vàng đá cũng
tan." Cho nên, ngày hôm sau vào
khoảng mười hai giờ trưa, bầu trời đang quang đãng trong suốt,
đột nhiên mây đen kéo đến, sấm sét nổi lên và trong khoảnh
khắc mưa rơi phủ khắp. Mọi người ai nấy đều hết sức
vui mừng. Cơn mưa bất ngờ đã làm
cho những chuyên gia khí tượng hết sức ngạc nhiên. Có hiện
tượng này là do sự “Cảm ứng đạo giao”: Lòng thành khẩn
cao độ của những người phát tâm cầu mưa đã tác động
được tâm từ bi của Long Vương, nên dù cho không phải là
lúc trời phải mưa, nhưng mưa lại tuôn xuống để cứu độ
chúng sinh! Nạn hạn hán được tiêu
trừ sau trận mưa đó. Tin này truyền đi khắp San Francisco, ký
giả báo chí và các đài truyền hình đều tới phỏng vấn,
chụp hình, quay phim. Chuyện này được lan truyền cho là chuyện
hết sức kỳ lạ. Người viết có tham gia Pháp Hội cầu mưa
này nên ghi chép lại để các vị độc giả biết. (Vạn
Phật Thành ngày 16 tháng 1 năm 1978) Trong tương lai, các chùa
Kim Luân, Kim Sơn và Như Lai đều cần một vị Trụ Trì. Vì vậy
các vị hãy suy cử một vị có tài đức, có đủ tư cách để
làm Trụ Trì rồi ủng hộ vị đó. Tuyển trạch một vị trụ
trì phải lấy gì làm tiêu chuẩn? Thứ nhứt là vị đó
không được nóng giận, đối xử phải có hòa khí, ở đâu
cũng tạo được nhân duyên với chúng sanh; không dùng quyền
lực để áp đảo người khác, biết dùng tác phong dân chủ
mà làm việc khiến cho mọi người kính nể. Nếu tuyển chọn một vị
Trụ Trì hay nóng giận thì không ai có thể chịu được sự
áp bức của vị đó, mọi người sẽ bất mãn, hòa khí sẽ
không còn. Như vậy thì chẳng giúp ích gì cho Phật Giáo cả,
mà ngược lại còn gây khó khăn nữa! Vị nào diệt được nóng
giận, biết nhẫn nhục cao độ, tất nhiên sẽ được tuyển
làm Trụ Trì; nếu trái lại e rằng ít có hy vọng. Bởi vì
sao? Bởi vì có phiền não thì rất dễ đem Phật Pháp thiêu hủy
đi! Phiền não thuộc về lửa có thể thiêu hủy mọi thứ,
dù cho có trận mưa lớn như vừa kể, cũng không thể nào dập
tắt đại hỏa tai này. Hôm nay, ngày 16 tháng
giêng năm 1978, tôi nói với các vị những lời quan trọng
này bởi vì tương lai khi tuyển chọn vị Trụ Trì, các vị cần
phải nhận xét phẩm hạnh, kiến thức của vị đó như thế
nào. Phàm là Trụ Trì tất phải có thiện duyên quảng đại,
hòa hợp với tất cả mọi người, đồng lao cộng tác, mọi
người đều tôn kính, không làm cho ai oán ghét. Bất luận là Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, nếu các vị thấy người nào
có đạo tâm, tinh tấn tu hành, có năng lực lãnh đạo, xứng
đáng làm bậc Trụ Trì, thì người đó có thể được suy cử
làm Trụ Trì vậy! Hôm nay là ngày 17 tháng 12
năm 1976 (ngày vía Ðức A Di Ðà), tôi đối trước mười
phương chư Phật phát nguyện như sau. Nguyện gì? Nguyện này
có liên hệ đến vấn đề Kinh Lăng Nghiêm có thật hay giả. Gần đây có rất nhiều học
giả phê bình Kinh Lăng Nghiêm, cho rằng bộ Kinh này không phải
do chính Ðức Phật Thích Ca nói ra, mà là do người đời sau
ngụy tạo. Ðó là lối tuyên truyền phá hoại, làm cho rất
nhiều tín đồ không muốn thâm giải Phật Pháp, sinh lòng phỉ
báng, hoài nghi. Nhiều người nghe nói thì nói theo, nhưng lại
không biết chân giả thế nào, đó là điều rất đáng thương! Hôm nay, tôi đối trước
mọi người mà bảo chứng rằng Kinh Lăng Nghiêm là bộ Kinh
chơn thật, không những Kinh Lăng Nghiêm mà Chú Lăng Nghiêm cũng
chơn thật! Kinh Lăng Nghiêm là chân thân của Phật, là xá lợi
của Phật, không ai có thể phá hoại được! Có Kinh Lăng Nghiêm thì có
Chánh Pháp, không có Kinh Lăng Nghiêm thì không có Chánh Pháp!
Nếu như Kinh Lăng Nghiêm là giả thì tôi nguyện sẽ bị cắt
lưỡi, và đọa Vô Gián địa ngục. Tôi hy vọng các vị từ
đây về sau phải có Trạch Pháp Nhãn, đừng nghe theo lời của
các vị học giả hay ti?n sĩ nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm mà
cho rằng bộ Kinh này là ngụy tạo! Các vị đừng để bị
giao động, mà trái lại cần phảI có Ðịnh lực để chuyển
hóa sự sai lầm đó! Vì sao những kẻ đó lạI cho rằng Kinh
Lăng Nghiêm là giả tạo? Là vì họ đã mê lầm đến cực
điểm, không muốn cho Chánh Pháp trụ thế, không muốn người
khác tu hành, cho nên cố ý phá hoại! Trong Kinh Lăng Nghiêm có
dạy rằng: "Dâm tâm bất trừ, Trần bất khả xuất." Nghĩa là: "Lòng dâm không dứt, trần gian chẳng
thoát." Chỉ hai câu này thôi cũng
đủ chứng minh bộ Kinh này là hàm chứa diệu ý chân thật,
xác quyết của chư Phật nói ra: “Nếu không trừ được lòng
dâm dục, thì không thể ra khỏi được Tam Giới." (2)
Cũng có thể nói rằng: Nếu không đoạn dục, khứ ái, thì căn
bản không thể nào chứng quả được! Trong Kinh Lăng Nghiêm
còn dạy rằng: “Nhược
bất đoạn dâm, Tu
Thiền Ðịnh giả, Như
chưn sa thạch, Dục
kỳ thành phạn, Vô
hữu thị xứ." Nghĩa là: "Không
dứt lòng dâm, Mà
tu Thiền Ðịnh, Cũng
như nấu cát, Rồi
mong thành cơm, Thật
chẳng thể được.” Do đó, quán chiếu thì biết
rằng ChánhPháp Nhãn Tạng là ở đây! Phàm là người
Phật tử chân chính thì nhất định phải ủng hộ, nghiên cứu
Kinh Lăng Nghiêm và tụng trì Chú Lăng Nghiêm, bởi vì chú này
có năng lực không thể nghĩ bàn; đó là kinh nghiệm của
chính bản thân tôi. Tôi lại phát nguyện đặc
biệt nhấn mạnh rằng bộ Kinh Lăng Nghiêm là thật chứ
không phải giả. Nếu tôi có sai lầm thì nguyện sẽ đọa địa
ngục và bị cắt lưỡi! Hy vọng các vị nhận thức
rõ ràng vấn đề này, tự mình phải có chánh kiến, đừng có
cô phụ lòng tôi. Trong Kinh Lăng Nghiêm có một
đoạn thảo luận về hai thứ điên đảo vọng kiến. Thế nào
là hai thứ điên đảo vọng kiến? Thứ nhất gọI là Chúng
Sinh Biệt Nghiệp Vọng Kiến, tức là do mình đ Loại thứ hai gọi là Chúng
Sinh Ðồng Phận Vọng Kiến, tức là do chúng sinh cộng
nghiệp tạo thành, mình cùng với những người khác thì đều
giống nhau; cũng như thiên tai làm chết hàng ngàn vạn người
thì đó gọi là cộng nghiệp, là một số người cùng chịu
chung. Những người đó cùng tạo điều ác nên cùng thọ quả
báo giống nhau. Chữ “kiến” ở đây
có nghĩa là kiến giải, bởi vì lấy si mê của chúng
sinh làm của mình, nhận tên trộm làm con mình, cho nên sinh ra
đủ thứ chấp trước vọng tưởng. Do vọng tưởng mà sinh
ra mê hoặc, do mê hoặc mà tạo ra vô số ác nghiệp, bởi vậy
cho nên cùng nhau thọ quả ác. Bây giờ tôi xin kể một
chuyện thật về Cộng nghiệp như sau: Năm Dân quốc thứ 33
(1944) ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc hoàn toàn không có mưa
cả một năm trời. Ðất đai khô cằn mà còn thêm nạn bị
châu chấu. Những con châu chấu này mỗi lần bay tới thì đ Bây giờ nói tới Biệt
Nghiệp Vọng Kiến và Ðồng Phận Vọng Kiến. Trong Kinh Lăng
Nghiêm Phật có giải thích rất rõ ràng. Thế nào là Biệt
Nghiệp Vọng Kiến? Cũng như trong thế giới này, có những người
mắt bị nhặm thì thấy trước mắt toàn một màu đ Vì do chúng sanh có vọng
kiến nên mới có huyễn ảnh ở ngoại cảnh; nếu vọng kiến
mà trừ rồi thì bịnh không còn nữa, ánh sáng huyễn ảnh đó
làm sao mà có được? Con mắt tốt tượng trưng cho trí huệ
chân thật, còn bóng đèn tượng trưng cho chân lý. Dùng trí
huệ chân thật mà thấy được chân lý, thì Nhất Chân Pháp
Giới hoàn toàn không có Ngũ Ấm, Ngũ Trần gì cả. Cũng như có người mắt mình
vốn không có bịnh nhưng tự mình lại làm cho có bịnh. Giống
như một anh chàng hút thuốc phiện vậy, có lần anh ta cười
lớn trong khi anh ta đ Ðó chỉ là huyễn ảnh
mà ra, không có bịnh mà hút thuốc phiện thì tâm thần trở
nên điên đ Tiếp theo, trong Kinh lại
giải thích thế nào là Ðồng Phận Vọng Kiến. Thí dụ như
trong Diêm Phù Ðề có một châu nhỏ, chỉ có hai nước mà quả
báo chiêu cảm không giống nhau. Dân chúng của một nước thì
thọ cảm ác duyên, toàn gặp những tai nạn bất tường; còn
dân ở nước lân cận thì chẳng bị gì cả. Ðó là do vọng
hoặc, vọng nghiệp, vọng kiến mà tạo thành. Như hiện tại ở Mỹ, miền
Ðông thường có tai họa bão lụt làm chết nhiều người,
nhưng miền Tây Nam thì hoàn toàn vô sự. Ðó là vì nghiệp cảm
chỉ tại miền Ðông mà thôi, không có tại miền Tây N Ở Trung Hoa, về đời nhà
Hạ, vua Kiệt là người bạo ngược, trên không trung bỗng
nhiên hiện ra hai mặt trời, nhà Hạ nhân đó mà diệt vong.
Ðó là đ Lịch sử Trung Hoa có chép
rằng khi mặt trăng bị che lấp bảy lần thì Hán Cao Tổ
ở Bành Thành bị giặc Hung Nô vây khốn. Ngôi sao có ánh
sáng dài sau đuôi gọi là Tuệ, tức là sao chổi; hào quang ngắn
hơn quét đi bốn phía thì gọi là Bột Tinh, ở trên không
trung xẹt xuống gọi là Phi Tinh; ở dưới mà vọt lên gọi
là Lưu Tinh; đ Sách Xuân Thu có chép rằng
vua Tống Nhượng Công không có nhân nghĩa nên sao xẹt xuống
như mưa, vua Tần Thủy Hoàng hết sức bạo ngược thì sao chổi
xuất hiện; đó cũng là những điềm không lành. Ác khí ở
phía trên mặt trời gọi là Phụ, ở bên cạnh mặt trăng gọi
là Nhĩ. Sau khi trời mưa mà xuất hiện cầu vồng thì gọi
là Hồng Nghê, buổi sáng gọI là Hồng, buổi chiều gọi là
Nghê; đ ? nướ Quan Khâm Thiên giám nghe
xong liền sụp lạy mà tâu rằng: "Hoàng Thượng đúng
là bậc minh quân có lòng nhân từ, thì nhất đ Quả nhiên ngày hôm sau điềm
xấu trên trời biến mất, không còn thấy nữa. Việc đó chứng
minh rằng không có chuyện gì là cố định, chỉ do tâm mình
mà chuyển biến thôi. Nếu tâm thiện thì có thể chuyển điều
xấu thành điều tốt; cho nên Lão Tử nói rằng: "Hồi
tâm thú thiện. Thiện
tuy vị nhi Thiện Thần tùy chi/ Hồi
tâm hướng ác, Ác
tuy vị nhi Ác Thần tùy chi." Dịch là: "Quay
tâm hướng thiện, Ðiều
thìện tuy chưa làm mà Thiện Thần đã theo sát. Chuyển
tâm về ác, Ðiều
ác tuy chưa làm mà ác thần đã kề bên." Thần có thiện có ác; Thiện
thần thì bảo hộ thiện nhân, Ác thần thì trừng phạt kẻ
ác, cho nên nói rằng: "Họa phước vô môn, Duy nhân tự
chiêu." (Họa, phước không cửa vào, Chỉ do mình tự
chuốc lấy.) Nếu trong tâm mình không làm điều ác thì điều
bất tường (không lành) không thể phát sinh. (Vạn Phật Thành ngày 25 tháng 1 năm 1981) "Tụng
trì mặc niệm, thiểu ý ngôn, Thị
giáo lợi hỷ hóa đại thiên. Sở
tác chư pháp tất cứu cánh, Bất
tăng bất giảm đáo Niết Bàn." Dịch
là: "Tụng
trì thầm niệm ít nói năng, Dạy
dỗ, lợi vui, khắp nơi nơi. Mọi
việc làm ra đều cứu cánh, Không
tăng, không giảm tới Niết Bàn." Học Chú thì trước tiên
phải chánh tâm, thành ý; tâm không chánh thì học Chú gì cũng
thành tà. Tâm chánh học Chú mới có cảm ứng. Chánh tâm cũng
chưa đủ, cần phải thành ý. "Thành" tức là lúc
nào mình cũng hết sức chuyên chú, chuyên tâm, không xao lãng,
không làm những chuyện cẩu thả, tắc trách. Ðược như vậy
thì mới có cảm ứng. Nếu không "chánh tâm,
thành ý", nếu trong lòng đầy dẫy tư tưởng sai lầm, làm
hại kẻ khác, tức làm mình làm chuyện của ma. Pháp của ma
vương là hại người, không lợi ích cho ai cả. Nếu thật sự muốn tu
hành thì trong bất cứ trường hợp nào cũng không được làm
hại kẻ khác. Phải nuôi tâm làm lợi chúng sinh; không đ Người theo Phật Giáo
không có kẻ thù, không tìm người để trả thù. Ðối với
kẻ cố ý hại mình, mình phải nhẫn nại, tu hạnh Nhẫn Nhục
Ba-la-mật; không sinh tâm báo thù. Ðó là chỗ cao siêu, là ưu
điểm của Phật Giáo mà các tôn giáo khác thiếu sót. Tuy Cơ Ðốc Giáo có nói rằng
"ái đ Tôn chỉ hết sức trọng
yếu của Phật Giáo là: Nếu bạn là ma quỉ thì tôi tuyệt
đối không làm tổn hại bạn, không sinh lòng đối kháng, mà
ngược lại sẽ tìm cách để nhiếp thọ bạn. Ðây là giáo
nghĩa đặc biệ Chú Lăng Nghiêm là
chú kinh thiên đ "Tụng trì, mặc niệm,
thiểu ý ngôn." Câu chú "Yin two na" Thế nào là chuyên nhất?
Tức là luôn luôn đừng sinh tâm làm hại chúng sinh. Nếu có
tâm làm hại kẻ khác thì tương lai sẽ gặp chuyện hết sức
nguy hiểm; bởi vì: "Ða hành bất nghĩa tất tự tệ."
(Nếu luôn làm chuyện bất nghĩa thì mình sẽ tự tiêu diệt
mình.) Mình hại kẻ khác tức
là mình đã hại chính mình. Mình giết cha người thì chắc
chắn sẽ có kẻ sẽ giết cha mình; mình giết anh người thì
có kẻ sẽ giết anh mình; đó là luật nhân quả. Là Phật tử
thì cần phải làm lành lánh dữ. Nếu không tạo nhân ác thì
sẽ tránh được quả ác trong tương lai. "Th "Tài
bồi tâm thượng địa, Trưởng
dưỡng tánh trung thiên." Dịch là: “Vun
bồi miếng đất tâm linh, Nuôi
lớn bầu trời bản tánh." Thường giúp kẻ khác thì
lâu ngày tự nhiên sẽ có đức hạnh. Không phải chỉ kêu gọi
người khác làm lợi ích cho mình, mà tự mình không làm lợi
ích cho kẻ khác. Kẻ nuôi dưỡng tánh ỷ lại và chỉ muốn
tận hưởng tiện nghi là kẻ không có khí phách. Hãy xem trên đời này, những
kẻ chuyên đi tìm tiện nghi cho mình kết quả đều thất bại;
nếu các vị không tin thì hãy nghiên cứu cho kỹ lưỡng. Bất
luận là ai, với lòng tham không đ Khổng Tử nói rằng: "Ngôn
tất trung tín, Hành tất đốc kính, Tuy man trạch chi bang,
hành hỹ." (Lời nói chân thật, Hành động chắc thật,
cung kính, thì dù ở nơi nguy hiểm cũng vẫn được an toàn.) Một lời nói ra thì phải
thành thật, không được gian trá, lừa dối kẻ khác. Hành vi
thì phải hết sức thành thật, trung hậu, khiêm nhường, cung
cẩn. Bất cứ làm việc gì cũng có lòng "khiêm cung hòa
kiết"; không được cống cao ngã mạn, coi mình như ông
trời, không ai sánh bằng. Như vậy thì không thể chấp nhận
được! "Ngã
kim quy mạng Ðại Phật Ðảnh, Vô
tận Pháp tạng trí huệ quang. Nguyện
ngã minh liễu diệu Tổng Trì, Phụng
hành Như Lai sở thuyết." "Ngã kim quy mạng Ðại
Phật Ðảnh": Ðó là lời của các vị Hộ Pháp, rằng
các vị ấy quy mệnh Ðại Phật Ðảnh Thủ Lăng Nghiêm Thần
Chú. "Vô tận Pháp tạng
trí huệ quang": Ðại Phật Ðảnh là đ Như vậy không phải là
sát sanh sao? Nếu các vị cho rằng đây là sát sanh, thì có thể
không cần tu hành! Không ai bắt buộc các vị cả; các vị
có thể hoàn tục, có thể làm như những người tại gia với
đầy dẫy phiền não, chướng ngại, tranh giành, vô minh, ganh
tị. Nhưng nếu muốn tu thì phải cải biến những thứ vi khuẩn
đó và khôi phục lại Phật tánh của mình. Khi chưa thành Phật thì
trong thân mình có đến 84.000 loạI trùng ăn thịt của mình,
uống máu của mình, trú ngụ nơi thân của mình. Chúng xúi giục
mình đừng giữ giới luật, bắt mình làm chuyện điên đảo.
Bởi bị chúng chi phối nên mình mới làm đủ chuyện xấu
xa. Nếu mình nói rằng: Vậy những thứ vi trùng
đó rốt ráo là gì? Tức là trùng ngu si, làm cho thân mình chỗ
này không dễ chịu, chỗ kia không yên ổn; toàn thân thật
phiền hà! Có lúc thì chúng làm cho mình bịnh này, lúc thì
làm mình bịnh khác. Những thứ vi trùng ngu si này khiến mình
không đủ áo mặc thì không đ Vô tận Pháp tạng thì ở
nơi Ðại Phật Ðảnh mà phát sinh. Trí huệ quang này không giống
như những thứ hào quang khác mà là hào quang của Phật. Tại
sao Phật lại có hào quang? Bởi vì Phật không muốn có vi
trùng ngu si "Nguyện ngã minh liễu
diệu Tổng Trì": Tại sao cung kính Ðại Phật Ðảnh
Trí Huệ Quang? Tại sao phải cung phụng Ðại Phật Ðảnh Trí
Huệ Quang? Bởi vì mình muốn hiểu rõ Chú Ðại Tổng Trì, cũng
là Ðà La Ni Lăng Nghiêm. Chú Ðại Bi còn gọi là Ðại Bi Ðà
La Ni. Ðà La Ni là tiếng Phạn
Dharani, dịch là Tổng Trì. "Tổng" tức là bao nhiếp
tất cả các pháp, "trì" nghĩa là giữ gìn vô lượng
ý nghĩa. Tất cả các pháp đ Các vị hãy nhìn lá cờ của
Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, mỗi một màu hồng trên lá
cờ là biểu hiện cho Trí huệ quang. Ánh sáng này từ nơi
"một" mà xuất phát ra, cho nên nói rằng: "Nhất
bổn tán vi vạn thù, Vạn
thù hoàn quy nhất bổn." Nghĩa
là: Từ
"một" mà phân thành vạn thứ, Từ
vạn thứ mà trở về "một." Hào quang từ một điểm mà
phóng ra vạn phương rồi từ vạn phương mà thâu "Phụng hành Như Lai sở
thuyết nghĩa": Là khi đã hiểu ý nghĩa của thần chú
này thì phải theo đ
--- o0o ---
Nguồn: www.quangduc.com