.
KHÁI LUẬN TƯ TƯỞNG PHẬT HỌC ẤN ĐỘ
Tác giả: Lữ Trưng
Thích Hạnh Bình dịch
Lời người dịch:
" Khái luận tư tưởng Phật học Ấn độ" là một tác phẩm nghiên cứu Phật
học của học giả người Trung Hoa Lữ Trưng . Quan điểm của ông đối với việc
nghiên cứu Phật học là chính đáng, vì phương pháp nghiên cứu của ông gắn
liền với sử học, nghĩa là tư tưởng và bối cảnh xã hội không thể tách rời
nhau. Hiện tại, tuy ông đã qua đời nhưng tác phẩm của ông được xem như là
một bó đuốc dẫn đường cho những ai say mê nghiên cứu Phật học, thậm chí
người Nhật và người Tây Phương cũng phải kính nể về sự uyên bác Phật học
của ông. Tuy ông chỉ để lại một vài tác phẩm , nhưng tư tưởng của ông đã
nở rộ ở Đài Loan qua sự khai thác và kế thừa của Pháp sư Ấn Thuận. Có thể
nói đây là một hệ thống, phương pháp mới đối với giới học thuật trên thế
giới. Do đó, trong thời gian nghiên cứu, tôi nhín chút thời giờ để chuyển
ngữ tác phẩm này sang tiếng Việt để mọi người cùng nghiên cứu.
TIẾT THỨ 1
NGUYÊN THỦY PHẬT HỌC ( 530 TCN _ 370 TCN )
Sự phân kỳ của Phật học sử, chúng ta tính từ Phật học xuất hiện vào
những thế kỷ trước Công nguyên cho đến thế kỷ thứ XI sau công nguyên, tổng
cộng có chừng 1500 năm, chia làm 6 giai đoạn: 1. Phật học Nguyên thủy;
2.Phật học Bộ phái; 3. Phật học Đại thừa sơ kỳ; 4. Phật học Tiểu thừa; 5.
Phật học Đại thừa trung kỳ; 6. Phật học Đại thừa văng kỳ.
Thời kỳ Phật học Nguyên thủy, là chỉ cho những học thuyết được truyền
thừa tính từ thời gian đức Phật thành đạo và được truyền thừa 3,4 thế hệ
cho đến sau khi Ngài nhập diệt, là thời gian nội bộ Phật giáo vẫn chưa
phân hóa, tư tưởng vẫn còn thống nhất. Niên đại có thể tính là: Phật nhập
diệt vào năm 486 TCN, hưởng thọ 80 tuổi, cho nên năm ngài sanh là năm 565
TCN. Ngài thành đạo năm 30 tuổi, tức năm 530 TCN. Phật học phân thành Bộ
phái vào khoảng thời gian hơn 100 năm sau khi đức Phật nhập diệt. Do vậy,
chúng ta có thể đi đến xác định niên đại của thời kỳ thứ nhất là năm 530
TCN __ 370 TCN.
Những học thuyết chủ yếu của thời kỳ Phật học Nguyên thủy là KINH và
LUẬT. Kinh gồm có hai loại, Phật giáo Bắc truyền gọi là A Hàm, Phật giáo
Nam truyền gọi là Nikàya. A hàm, ngoài 4 bộ: Trường A hàm, Trung A hàm,
Tạp A hàm, Tăng nhứt A hàm còn có [ Tạp Tạng ]; Nikàya, ngoài 4 bộ tương
đương A hàm vừa dẫn, còn có [ Tiểu bộ ]. Phật giáo Nam Bắc truyền có 4 Bộ
tương đương là Trường Bộ, Trung Bộ, Tăng Nhứt Bộ, và Tạp Bộ. Luật, nội
dung cơ bản của Luật là giới điều, về sau thêm phần quảng thích và chú
giải duyên khởi của từng sự kiện, như thế luật tổng cộng gồm có 3 Bộ.
Những kinh và luật mà hiện nay được lưu truyền là đã được tăng thêm hoặc
giảm bớt theo từng quan điểm của mỗi Bộ phái, trong đó không sao tránh
khỏi mang sắc thái của mỗi Bộ phái, nếu như chúng ta muốn truy tìm lời
dạy nguyên thủy của đức Phật, cần phải tiến hành nghiên cứu và phân tích
một cách nghiêm túc. Những học giả Tây phương đã bỏ không ít thời gian
nghiên cứu về vấn đề này, nhưng họ không thể sử dụng được những nguồn tư
liệu Hán dịch (Tư liệu Phật giáo Bắc truyền phần lớn được bảo lưu trong
Hán tạng), lại thiên nặng Pàli, thậm chí cho Kinh tạng Pàli là những lời
chính đức Phật nói, quan điểm này không sao tránh khỏi sự thiên kiến.
Người Đức, Aó Đăng Bảo, người Anh, Lợi Tư Đại Ve,䠰hương pháp nghiên cứu
của hai người này về Thánh điển Pàli là: Từ trong Kinh Luật tìm ra sự sai
khác của những gì tân và cựu, sau đó đoán định cái gì gọi là lời dạy của
đức Phật. Đây là phương pháp nghiên cứu xa xưa, cách đây 40 năm về trước,
nhưng hiện nay vẫn còn ảnh hưởng. Còn phương pháp nghiên cứu của người
Nhật là: Trước tiên, đem những Kinh Luật của Nam Bắc truyền đối chiếu so
sánh, tìm xem trong ấy những gì giống nhau giữa Nam Bắc truyền, từ đó mới
phán đoán cái gì gọi là Phật học Nguyên thủy, như học giảTỷ Kỳ Chánh Trì
đã sử dụng phương pháp này. Về sau, Vũ Thăng Bá Thọ?ngoài phương pháp so
sánh đối chiếu, còn sử dụng phương pháp, tiến hành cụ thể phân tích tính
logic trong kết cấu và tính logic của sự phát triển trong từng thể hệ của
mỗi học thuyết, từ đó đi đến xác định những gì là Phật học Nguyên thủy và
những gì là những cái xuất hiện về sau. Phương pháp nghiên cứu của Tỷ Kỳ
có phần thuyết phục hơn, nhưng cũng rất khó phục hồi diện mạo Phật học
Nguyên thủy. Lý do là Phật giáo Bộ phái đã trải qua mấy lần phân hóa, do
vậy, những tư liệu cũng đã mấy phen thay đổi, cùng nhau ảnh hưởng, mô
phỏng qua lại, không ngừng bổ sung, tức có những điểm tương đồng, do đó,
những gì tương đồng ấy, thật khó đi đến xác định là Phật học nguyên thủy.
Hiện nay, nếu muốn tìm ra Phật học Nguyên thủy từ trong những Kinh luật
hiện có, vẫn còn là vấn đề nan giải.
Chương này, người viết chỉ lấy đức Phật làm trung tâm mà lưu hành
những học thuyết, từ đó truy tìm vấn đề trọng tâm của vấn đề, đồng thời
thêm phần tổ chức, cho đó là Phật học Nguyên Thủy, phương pháp này không
giống những phương pháp phân tích vừa nêu trên của những học giả Tây
phương và Nhật Bản.
Thời đại của đức
Phật Thích Ca
Thời đại đức Phật Thích Ca là vào thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ V trước
công nguyên. Bấy giờ Xã hội Ấn Độ theo chế độ chiếm hữu nô lệ, đã hình
thành Quốc gia, thành thị, ngành thương nghiệp khá phát triển. Chẳng qua
chế độ nô lệ của AᮠĐộ cùng Tây phương có những điểm không giống nhau, AᮠĐộ
không có quy mô tổ chức chế độ nô lệ, nhựng người nô lệ cũng không bị xâm
đoạt nặng nề như Tây phương, do vậy, ở Aᮠgiai cấp nô lệ không phát sanh
hiện tượng phản kháng bạo động giống như Tây phương. Có một số người cho
rằng, giai cấp nô lệ ở Aᮠchỉ là hình thức chiếm hữu nô lệ ở giai đoạn đầu,
rồi đình trệ ở giai đoạn này, không tiếp tục phát triển.
Tình hình phát triển của xã hội AᮠĐộ là: Từ Tây bắc Aᮠphát triển dần
đến Đông Aᮮ Trước tiên là vùng thượng du lưu vực sông Hằng, cửa khẩu giòng
sông AᮠĐộ và Diêm mâu na là khu vực bình nguyên, nơi đây hình thành cái
gọi là [ Trung quốc ] của nước AᮠĐộ. Vào khoảng thế kỷ thứ VI trước công
nguyên phát triển đến vùng hạ lưu sông Hằng, tức miền trung Aᮬ ở đây thành
lập khá nhiều quốc gia, lấy thành thị làm trung tâm, một số người gọi nó
là 16 quốc gia (Kinh tạng Pàli, Tăng nhứt Bộ, kinh thứ 1 và 4, tương đồng
Hán dịch, Trung A hàm, quyển 55 " Trì tế kinh " cho đến trong giáo điển
của Kỳ na giáo đều có ghi chép 16 quốc gia này.). Đến thời đại đức Phật
Thích Ca, hình thế 16 nước này, có sự chuyển biến khá lớn, trong đó những
quốc gia cường thạnh là nước Ma Kiệt Đà ở vùng Nam ngạn sông Hằng, Kiều
Tát La vùng Tây Bắc, và Bạt Kỳ (" kinh Duy Ma Cật" lấy nước này làm bối
cảnh) vùng Đông Bắc Aᮮ Tình hình chính trị của mỗi quốc gia không giống
nhau, có những nước theo chế độ quân chủ, có những nước theo chế độ cộng
hòa. Những quốc gia theo chế độ cộng hòa cũng có người lãnh đạo, chẳng qua
có chế độ hội nghị, những việc trọng đại thông qua hội nghị đa số thành
viên quyết định, đây là tàn dư của chế độ hội nghị nguyên thủy còn lưu
lại. Chế độ côﮧ hoà chỉ tồn tại ở vùng Đông bắc Ương Già, Bạt Kỳ, Mạt La
và nước Ca Tỳ la Vệ của giòng tộc Thích Ca?hiện nay những nước này hoàn
toàn bị tiêu diệt (Trong " Bổn sanh Kinh " và những Phật truyện về sau,
đều có phản ánh tình hình xã hội đương thời). Trong các nước, thông thường
chế độ chủng tánh ( Chủng tánh tức là " Ngoả nhỉ nạp ", ý nghĩa là nhan
sắc. Người Ariyan có màu da trắng, chiếm lãnh địa vị thống trị, dân bản
địa có màu da đen, là những người bị trị, đây là sự phân chia đẳng cấp
trong xã hội Aᮠ). Đầu tiên Aᮍ Độ chỉ có hai chủng tộc, về sau những người
Ariyan lại tiếp tục phân thành 4 giai cấp: 1. Bà La môn, 2. Sát đế Lợi, 3.
Phệ xá, 4 Thủ đà la. Bà La Môn vốn là giai cấp chuyên giúp cho giai cấp
thống trị là Sát Đế lợi, nắm giữ lãnh vực văn hóa, tôn giáo. Đến thời đại
Thích Ca, giai cấp Sát Đế lợi đối với giai cấp Bà la môn biểu thị sự bất
bình về mặt quyền lực, những người ủng hộ tư tưởng phi Bà la môn, hình
thành trận tuyến chống lại giai cấp Bà la môn. Giai cấp Phệ xá bao gồm
những người nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp, chịu sự áp bức của
2 giai cấp trên rất trầm trọng. Đương thời xã hội AᮠĐộ ngành thủ công
nghiệp phát đạt, thương nghiệp phồn thành (cùng các nước Miến Điện, Ba Tư,
Á rập đều có qua lại buôn bán), những thương nhân trở thành giàu có, do
vậy, đối với việc chính trị sinh ra yêu cầu bức thiết. Sự hình thành những
lực lượng xã hội này, đã làm suy yếu các mặt chính trị, tư tưởng của giai
cấp Bà la môn, điều đó đã dẫn đến xã hội đương thời xuất hiện sáu phái
triết học, là những tư tưởng đại diện cho các giai cấp không cùng vị trí
trong xã hội (" Kinh Duy Ma. Phẩm Đệ tử ", " Trường A hàm. Kinh Sa môn
quả ". Đơn hành bổn đều có tư liệu liên quan đến tư tưởng của 6 phái này.
Trường Bộ kinh của Nam truyền cũng có ghi chép, chẳng qua sự ghi chép của
Nam Bắc truyền không đồng nhất ).
Trong sáu phái triết học, Phái thứ nhất, là phái có tư tưởng duy vật,
người đại diện cho phái này là A xà Đa - Ajita Kesa Kambala, về sau được
gọi là Thuận Thế phái. Phái này cho tứ đại: đất, nước, gió, lửa là những
nguyên tố độc lập trường tồn, con người và thế giới do 4 đại này tạo
thành; không thừa nhận có linh hồn, con người khi chết đi trả về tứ đại.
Mục đích sống của con người là truy cầu và thỏa mãn những khoái lạc. Học
thuyết này, là sự phản kháng việc tế tự của Bà la môn giáo, là những người
đại diện cho giai cấp nô lệ. Phái thứ hai là Tán Nhã Di - Sanjaya
Velatthiputta, là học phái mang chủ nghĩa trực quan, đôí với mọi vấn đề
đều không có sự khẳng định, như vấn đề có hay không có đời sau, có hay
không có quả báo? Phái này cho rằng, nói có tức có, nói không liền không.
Do vậy, người ta cho tư tưởng phái này, là phái trường uốn như con lương,
thật khó nắm bắt. Phái này chủ trương thật hành thiền định, để mong cầu
chơn chánh trí tuệ. Trong những đệ tử đức Phật, ngài Mục Kiền Liên, Xá lợi
Phất đều có theo phái này học tập. Học thuyết của phái này cũng hàm ý phản
đối chủ trương cho rằng, thế giới do Phạm ngã chuyển hóa mà thành của Bà
la môn giáo. Đến thời đại " Aó nghĩa thư " vẫn còn thừa nhận thuyết
nghiệp báo, luân hồi, Tán Nhã Di biểu hiện thái độ không tín nhiệm bằng
cách không khẳng định cũng không phủ định. Phái thứ ba, là Mạt già Lê -
Makkhali - Gosala, là người có chủ trương định mệnh luận, tức không thừa
nhận có nghiệp báo, không có cha mẹ, tu hành là vô nghĩa, không ích lợi gì
cả. Chỉ cần trải qua thời gian 840 vạn đại kiếp, đến thời gian đó không
luận là kẻ trí người ngu đều được giải thoát. Phái này cho rằng, con người
là do các loại nguyên tố tạo thành, mang chủ nghĩa duy vât. Những người
theo phái này tự cho học thuyết mình là chánh kiến, ngoài ra đều là " Tà
mạng ngoại đạo " ngay cả Phật giáo. Phái thứ tư, là Bất Lan ca Diếp -
Purana - Kassapa. Học thuyết này cùng với học thuyết Mạt già Lê giống
nhau, phủ nhận thuyết thiện ác nghiệp báo và những học thuyết Bà la môn
giáo, chủ trương phóng túng dục lạc, mang chủ nghĩa hoài nghi. Những người
theo học thuyết này đều xuất thân từ giai cấp nô lệ. Phái thứ năm, là Ba
Phù Đà - Pakudha - Kaccayana, phủ nhận hành vi của con người không có ảnh
hưởng gì trong đời sống tương lai, cho rằng thân người là do 7 yếu tố tạo
thành, một trong 7 yếu tố xa lìa, con người liền chết, những yếu tố này
vĩnh viễn tồn tại, mang tư tưởng duy vật. 3 học thuyết vừa nêu, học thuyết
na ná giống nhau, do đó thường ngộ nhận giữa phái này và phái khác, 3 phái
này đều tự xưng " Chánh mạng phái ", ngược lại, Phật giáo gọi họ là " Tà
mạng ngoại đạo ". Những người theo phái này, xuất thân từ giai cấp nô lệ,
những học thuyết vừa dẫn đại diện cho quyền lợi của giai cấp thứ tư là
giai cấp nô lệ. Phái thứ sáu, là Ni Kiền Tử - Nigantha Nata-putta, phái
này về sau phát triển thành Kỳ Na giáo, chủ trương thất cú nghĩa: Trước
hết, đem thế giới phân thành hai loại, có sanh mạng và không có sinh mạng;
Có sanh mạng mà không được giải thoát, do bởi hoặc nghiệp trói buột, do đó
cần phải ngăn trừ, tiêu diệt chúng để đạt đến giải thoát. Phái này cho
rằng, nghiệp báo của con người quá nặng nề, muốn nghiệp báo mau kết thúc,
cần phải trải qua tu tập khổ hạnh, cho nên chủ trương khổ hạnh. Tư tưởng
này, trên thật tế duy trì thuyết nghiệp báo của Bà la môn. Ni Kiền Tử xuát
thân từ giai cấp Sát Đế lợi, người mẹ là con gái của nhà vua, em gái là
vương phi, cho nên có thể nói học thuyết của phái này cũng đại diện cho
quyền lợi của giai cấp thống trị. Phái này đối lập với học thuyết đức Phật
Thích Ca, đã từng xảy ra sự xung đột giữa hai bên. Phái này tuy duy trì Bà
la môn giáo, nhưng trên phương diện giải thoát, cùng Bà la môn giáo chủ
trương không giống nhau.
Chủng tộc của Thích Ca vốn không rõ ràng, có người cho là chủng tộc
Ariyan, tức là chủng tộc Mông Cổ, nằm phiá nam Nipal, tiếp giáp giòng
sông Rapti thuộc đông bắc AᮠĐộ. Truyền thuyết cho rằng, dưới chân Hy mã
lạp sơn, có một vùng đất chiều rộng chừng 20 cây số, chiều ngang 16 cây
số, tổng diện tích độ khoảng 320 cây số vuông, nơi đây có 10 thành thị
nhỏ, trong đó thành lớn nhất là Ca tỳ la vệ, nhơn đó lấy thành này làm tên
nước. Theo truyền thuyết cho rằng, đương thời AᮠĐộ có 16 nước lớn, nhưng
trong đó không có tên Ca tỳ la vệ, có thể bấy giờ nước này chưa thể độc
lập, vẫn còn thuộc địa nước Kiều tát la. Ngài Huyền Trang đã từng đến nơi
này, căn cứ " Tây Vức ký " ghi rằng, sự đổ nát của thành này vẫn còn tồn
tại? Nước này có 80 ngàn hộ, tổng cộng có 500 ngàn người, theo chế độ cộng
hòa. Đương thời, về mặt chánh trị xã hội Aᮠđang ở trong tình trạng mạnh
hiếp yếu, Ca tỳ la vệ đang bị nước Kiều tát la uy hiếp là một điển hình cụ
thể. Đứng trước tình hình như vậy, Thích Ca đối với đất nước tất nhiên
phải có trách nhiệm, làm thế nào để thoát khỏi sự uy hiếp của Kiều tát la
? Vua Tịnh Phạn đương nhiên mong muốn người con của mình là Thích Ca tiếp
tục kế vị, để duy trì lãnh thổ là điều tất yếu.
Nhưng, bản thân Thích Ca không muốn kế vị lãnh đạo quốc gia, ngược
lại, ngài rời bỏ hoàng cung theo các nhà tư tưởng học tập, cuối cùng Thích
Ca tự mình sáng lập học thuyết, truyền bá khắp nơi, phát triển thành tôn
giáo. Từ đó, những huyền thoại về ngài tự nhiên càng lúc càng thần thánh
hóa. Đối với những huyền thoại này, đã có nhiều học giả nghiên cứu và hiện
nay cũng còn có nhiều người tiếp tục nghiên cứu, cho đến nay, lịch sử về
cuộc đời của ngài tương đối rõ ràng.
Những truyền thuyết về đức Phật, một phần được bảo tồn trong Kinh
tạng, phần lớn được bảo tồn trong Luật tạng. Luật, mỗi Bộ phái đều có Luật
riêng, do đó Phật truyện cũng không giống nhau. Đại chúng bộ lấy Phật
truyện gọi là [ Đại sự} , Pháp tạng bộ gọi là [ Bổn hành kinh ] ( Luật của
phái này gọi là " Tứ phần luật " ). Trong thánh điển Hán dịch, có một bộ
Phật truyện tương đối hoàn chỉnh là " Phật bổn hành tập kinh " bao gồm 16
quyển, được dịch vào nhà Tùy, tập họp những Phật truyện khác nhau từ 5 Bộ.
Những Phật truyện trong các bộ luật của các Bộ phái chỉ ghi chép về gia
thế, sự kiện xuất gia, thành đạo của đức Phật, và ngay cả sau khi thành
đạo 6 năm, ngài trở về hoàng cung, nhưng từ đó về sau những hoạt động của
ngài không thấy ghi chép, trong " Phật bổn hành kinh " cũng chỉ ghi chép
như thế. Ngài Mã Minh viết quyển " Phật sở hành tán " cũng dựa vào những
nguồn tư liệu này, rồi viết thêm cho đến khi đức Phật nhập diệt ( Ngoài ra
ngài Mã Minh còn viết phần tụng Quy kính trong " Đại trang nghiêm luận
kinh ", quy kính không chỉ một Bộ, trong đó bao gồm Độc tử Bộ?). Thích Ca
sau khi thành đạo, những người theo ngài xuất gia tổ chức thành đoàn thể,
đặc ra nhiều chế độ, trong đó có chế độ an cư. Căn cứ những tư liệu hiện
có, sau khi Phật thành đạo, trong vòng 45 năm, mỗi địa điểm an cư đều có
ghi chép, vả lại rất hợp lý, thứ nhất, Phật thường trú tại thành Vương Xá,
là thủ đô của nước Ma kiệt đà, thứ hai, hơn 20 năm ở tại thành Xá Vệ, là
thủ đô nước Kiều Tát La. Thế thì, dựa trên tư liệu, co thể tường thuật 45
năm đức Phật giáo hóa. Điều này, những truyện ký về đức Phật Thích Ca là
có sự thật.
Những việc làm trọng tâm của đức Phật, ngang qua tác phẩm " Aᮠđộ
Phạ䴠học sử lược", qua đó chúng ta có thể thấy phần nào về cuộc đời của
Ngài. Đại khái như dưới đây: Thuở thiếu thời Ngài được giáo dục một cách
nghiêm túc, khi trưởng lập gia đình, sinh con, năm 29 tuổi xuất gia, đến
nước Ma Kiệt Đà tìm thầy học đạo, nhưng không thoả mãn, trải qua 6 năm khổ
hạnh vẫn không hài lòng, cuối cùng tự ngài tư duy sáng lập học thuyết mới
vào năm 35 tuổi. Từ đó, đức Phật bắt đầu tuyên dương giáo pháp, trải qua
tròn 45 năm. Những nơi mà Ngài thường nói pháp là nước Ma Kiệt Đà, Kiều
Tát La và Bạt Sa, đông đến Chiêm Ba (?) Tây đến Ma thâu La, phạm vi khá
rộng.
Tại sao Thích Ca muốn xuất gia ? Qua sự phản ánh trong học thuyết của
Ngài, biểu hiện nội dung xã hội như thế nào ? Aᮠđộ xã hội đương thời tự do
tư tưởng rất phát triển, những nhà tư tưởng này xuất thân từ giai cấp Sát
Đế Lợi không phải là ít. Trên thực tế, có nhiều vấn đề mà giai cấp Bà La
Môn không hiểu phải học tập ở giai cấp Sát Đế Lợi (Trong " Aghĩa thư "
có đề cập đến vấn đề này). Như liên quan đến vấn đề Thần ngã, khái niệm
này vốn là lý luận của Bà La Môn, thế nhưng về sau bản thân họ giải thích
không rõ ràng, phải học tập ở Sát Đế Lợi. Lại như học thuyết luân hồi, do
nhà vua Bát phược ha na thuộc giai cấp Sát Đế Lợi sáng lập, sau đó những
người Ba la môn giữ phần tế tư,#273;ối với học thuyết này phát triển
thành thuyết nghiệp lực, và được xem như là sự bí mật để phụng thờ. Trước
tình hình như thế, Thích Ca cho là, nếu như không thể đề cao được địa vị
chính trị nước Ca tỳ la vệ, thì tốt nhất cá nhân cần tranh thủ với mọi
người trong lãnh vực tư tưởng học thuật. Theo truyền thuyết, sau khi ngài
sinh ra, tướng sư dự đoán, nếu như Ngài không làm vua chuyển luân thì làm
nhà tư tưởng, điều tiên đoán này, phản ánh cục diện đương thời mà Ngài
phải đối phó, chỉ có hai con đường là chọn học thuật hay chính trị. Đó là
nguyên nhân dẫn đến Thích Ca xuất gia, ngoài ra còn có nhiều thuyết khác
nhau. Như cho rằng, Ngài thấy sự khổ đau của người già, người bịnh và
người chết, đồng thời thấy đời sống tự do tự tại của vị Sa môn, dẫn đến sự
xuất gia của Ngài; ngoài ra còn có thuyết cho rằng, khi Ngài trông thấy
người nông phu cày ruộng, những loài trùng bị chim ăn, nhưng người nông
phu vẫn thản nhiên, không tỏ sự thương tâm trước sự chết của một sinh
mạng. cảnh tượng này, khiến Ngài động lòng bi mãn trước cái chết của kẻ
khác, đồng thời hiểu rõ ý nghĩa vô thường? Phải chăng sự xuất gia của Ngài
là do thấy sự khổ nhọc của người nông phu và sự khổ đau của sinh mạng vô
thường ? Trung quốc, có một số tư liệu ghi rằng, Thích Ca sống rong hoàng
cung không cảm nhận được sự đau khổ, phải ra khỏi hoàng cung, tiếp xúc
những hiện tượng sinh hoạt của xã hội, khiến ngài sinh ý niệm thế giới là
khổ đau. Tư liệu này, tuy không rõ ràng và xác thực, nhưng cho rằng nông
phu là khổ, khái niệm này cùng học thuyết của Ngài có sự tương đồng. Đối
với việc duy trì và hưởng ứng học thuyết của Thích Ca, một số tư liệu ghi,
nhà vua Tần Bà Sa La nứơc Ma kiệt đà rất kính phục, và đem Trúc Lâm tinh
xá cúng dường Thế Tôn để làm nơi tuyên dương chánh Pháp. Về sau, Ngài cũng
được chủng tộc của Ngài hưởng ứng, và cuối cùng được vua Ba Tư Nặc nước
Kiều Tát La tín nhiệm. Ngoài ra, Thế Tôn còn được những người thương nhân
như Tu Đạt Đa, Cấp Cô Độc.v.v. là những vị thí chủ nổi danh đương thời ủng
hộ. Còn có thuyết cho rằng, Đông viên Lộc mẫu giảng đường là do một cô dâu
giàu có đem đồ trang sức quí giá của mình bán đi, lấy tiền kiến thiết
Giảng đường này. Về sau, Thế Tôn đi đến thành Phệ Xá Ly, ở đây vốn là khu
vực của Kỳ Na giáo, hoạt động rất khó khăn, nhưng Ngài cũng được vị trưởng
giả Aa La Vệ cúng dường một Tinh xá (Trong kinh " Duy Ma Cật " có đề cập
đến Tinh xá này. Có thuyết cho rằng, Aa La Vệ là một vị trưởng giả, có
thuyết cho rằng là một kỷ nữ, bất luận như thế nào, sự ủng hộ về mặt vật
chất vốn từ những giai cấp quí tộc. Trong hàng đệ tử của đức Phật, mở đầu
là 5 vị Tỳ kheo, thứ đến là thương nhân Da Xá, ông cùng 60 môn đồ của mình
đến qui y đức Phật. Qua đó, chúng ta thấy, những người ủng hộ đức Phật là
những người thuộc giòng dõi Sát đế lợi, giàu có?, do vậy học thuyết của
Ngài là đại diện cho giới quần chúng, và ở đây không đủ lời để dẫn chứng
những ví dụ cụ thể.
SÁCH THAM KHẢO:
1. Bách Duy dịch: " Phật tại
thế thời Aᮍ độ thập lục quốc đích chính trị hình thế ", đăng trên [ Hiện
đại Phật học ], 1960, số 6,7.
2. Dục Hưởng: " Phật Đà thời
đại Aᮠđộ chư quốc đích xã hội tư tưởng khái huống ", đăng trên [ Hiện đại
Phật học ], 1956. Số 5.
3. Đáng Dụng Đồng: " Aᮠđộ triết
học sử lược", chương 3,4.
4. Lữ Trưng: " Aᮠđộ Phật giáo
sử lược ", chương 1.
TIẾT 2:
SỰ KẾT CẤU VÀ HÌNH THÀNH PHẬT HỌC NGUYÊN THỦY.
Sự kết cấu Phật học nguyên thủy, gồm hai phương diện hình thức và nội
dung. Sau đó, những đệ tử của Ngài Phật tin tưởng và duy trì hai tạng Kinh
và Luật này. Thế thì, phương thức duy trì như thế nào ? Suốt 45 năm, Thế
Tôn tuyên dương chánh pháp, những nơi mà Ngài thuyết giảng tương đối khá
rộng, không những chỉ có thế, Ngài còn cho phép những đệ tử dùng tiếng địa
phương truyền bá, khi tuyên dương chắc chắn có một phương thức cố định.
Căn cứ tập quán đương thời, phương thức duy trì những Kinh Luật này là [
khẩu truyền ], nương vào ký ức truyền trao cho nhau, thích nghi nhất cho
ký ức là dùng hình thức [ Kệ tụng ], vì hình thức kệ tụng vừa ngắn gọn,
lại vừa có âm vận, thuận tiện cho việc tụng đọc và ghi nhớ. Trong Luật
tạng của các Bộ phái, còn bảo tồn một số tư liệu những đệ tử Phật tụng
kinh ( Tham khảo Lai Duy " Phật kinh nguyên thủy tụng dọc pháp ", những
kinh đề cập đến vấn đề này như " Nghĩa túc kinh " ( Hán dịch có đơn hành
bản, Pàli văn, được chép trong Kinh tập ), " Ba la diên kinh " ( Hán dịch
trong " Đại trí độ luận " " Du già sư địa luận " đều có dẫn dụng, Pàli văn
được chép trong Kinh tập ), " Pháp cú kinh " ( Hán, Pàli đều có đơn hành
bản ).v.v. những kinh vừa nêu trên toàn bộ đều dùng hình thức kệ tụng.
Những kệ tụng này, có một số thuộc loại không có câu hỏi mà tự trả lời (
vô vấn tự thuyết ), có một số thuộc loại vấn đáp. Ngoài ra, còn có một số
vấn đề như Phật nói kinh lúc nào, ở đâu và đối tượng là ai.v.v., cũng đều
được ghi chép, gọi đó là [ Duyên khởi ].
Qua đó, có thể nói rằng, hình thức bảo tồn kinh luật lấy [ kệ tụng ]
làm trung tâm, nghĩa lý của nó, hẳn nhiên phải thông qua sự giải thích,
tức là tiếp tục có sự phát triển. Sự giải thích này được gọi là A tỳ đạt
ma ( Abhidhrma ), ý nghĩa là [ đối pháp ]; Kinh là phạm vi của [ pháp ],
những gì giải thích về [ pháp ] được gọi là [ đối pháp ]. Hình thức của
đối pháp có mấy loại như dưới đây: 1. Ưu ba đề xá ( nghị luận ), đơn thuần
đem lời Phật dạy giải thích, vừa đơn giản vừa rõ ràng, dễ dàng tìm hiểu
nghĩa lý. Phương pháp này, chính bản thân đức phật cũng đã sử dụng, như
kinh " Đại duyên phương tiện " trong Trường A hàm, là sự giải thích của
đức Phật đối với pháp duyên khởi. 2. Màtrka ( Bổn mẫu ), đây là phương
thức giải thích những điểm chính yếu của toàn văn, gọi đó là [ bổn mẫu ],
nghĩa là từ trọng điểm đơn giản này, phát sinh nhiều đạo lý, như người mẹ
sinh con. Phương pháp này, có một số do chính Phật nói, có một số do đệ tử
nói.3. Quyết trạch, nghĩa là trong những loại nói pháp không giống nhau
chọn ra một loại, đây chủ yếu là đề xuất phương thức chọn lựa danh tướng.
Vì có rất nhiều ỳ nghĩa danh tướng giống nhau, để xát định ý nghĩa của nó,
cho nên phân chia chủng loại khác nhau. Phương pháp này phần lớn căn cứ
vào số chữ nhiều ít mà phân loại, nghĩa là từ pháp thứ nhất cho đến pháp
thứ mười, do đó gọi là pháp [ thập thượng ] hay pháp [ Tăng nhất ]. Pháp
thứ mười trở lên cũng có như [ Mười hai nhân duyên ].v.v. nhưng rất ít.
Như thế, phương pháp phân loại này, vừa thuận tiện cho việc hoằng dương
chánh pháp, vừa dễ dàng ghi nhớ.
Do vì tình hình như thế, có thể nói phương pháp lưu trữ những lời Phật
dạy là sử dụng hình thức [ kệ tụng ], kế đến là [ duyên khởi ], từ đó phát
triển thành [ A tỳ đạt ma ]. Sau khi Phật diệt độ, những hình thức này trở
thành cố định. Theo truyền thuyết cho rằng, sau khi Phật diệt độ không bao
lâu, tại động Thất diệp thuộc thành Vương xá, có cuộc kết tập thánh điển
gồm 500 vị Tỳ kheo. Lần kết tạp này, được ghi chép trong luật tạng của các
Bộ phái, nội dung cơ bản giống nhau, nhưng có một số bộ phận nhỏ không
giống nhau, vì mỗi Bộ tự thêm vào hoặc giảm đi. Lần kết tập này, những
người tham gia là đệ tử của Phật, do ngài Ca Diếp chủ trì đại hội, phương
thức hội nghị là [ tụng đọc ], tức trong hội nghị đề cử một người đọc lại
những lời Phật dạy cho mọi hội nghị nghe, sau đó do các thành viên trong
đại hội thẩm định. Những gì được đại hội thông qua, cái ấy được xem là
Phật nói. Phương thức kết tập kinh điển này cũng là hình thức kết tập của
những làn sau. Nội dung Kết tập lần này, theo truyền thuyết, gồm có kinh
và luật, thậm chí có cả luận ( Abhidharma ). Lần kết tập thứ nhất là sự
kết tập kinh và luật là điều có tin được, nhưng kết tập luận là điều không
thể xảy ra. Ngay cả việc sau khi đức Phật nhập diệt liền có kết tập này
cũng là vấn đề khó đi đến xác định, huống hồ là việc kết tập luận tạng,
nhưng cũng có thể xảy ra việc này, đặc biệt là vấn đề giới luật, vì cần
phải xác định những giới điều. Căn cứ vào những bộ luật mà các Bộ phái
truyền thừa, chúng ta có thể tìm ra cái gọi là [ nguyên thủy ]; hoặc là
cái được sản sinh từ làn kết tập đầu tiên. Kinh điển mà được kết tập ở lần
thứ nhất này phải chăng là A hàm ? Dường như là không phải. Vì trong A hàm
có đề cập đến hình thức [ Cửu phần giáo ] ( 1. Kinh; 2. Ứng tụng; 3. Ký
biệt; 4. Kệ tụng; 5. Tự thuyết; 6. Như thị ngữ; 7. Bổn sanh; 8. Vì tằng
hữu; 9. Phương quảng ), Theo ngài Giác A⭠giải thích, hiện còn lưu trữ một
bộ phận trong 9 phần giáo là Kinh ( Pàli văn xếp vào Tiểu Bộ, Hán dịch là
Tạp tạng ). Do đó, chúng ta có thể suy đoán, rất có khả năng kinh điển mà
được kết tập ở lần thứ nhất là hình thức cửu phần giáo, về sau mới biên
tập thành A hàm.
Tiêu chuẩn biên tập A hàm. Thứ nhất là căn cứ vào sự dài ngắn của kinh
mà phân loại: Như những kinh có nội dung dài được xếp vào Trường A hàm;
nội dung ngắn xếp vào Tạp A hàm ( Tương ưng ); nội dung trung bình xếp vào
Trung A hàm; ngoài ra, có một loại y cứ vào số mục lớn nhỏ mà phân định,
loại này được xếp vào Tăng nhất A hàm. Thứ hai là căn cứ vào nội dung của
kinh mà phân loại: Như kinh Trường A hàm, phần lớn nội dung của kinh này
là đề cập đến những vấn đề của ngoại đạo, như kinh " Sa môn quả " là bài
kinh có nội dung bài xích 6 phái ngoại đạo; Những kinh chuyên giải thích
vấn đề học tập, được biên tập vào Trung A hàm; Những kinh trình bày đạo lý
tu tập Thiền định, biên tập vào Tạp A hàm; Những kinh, nội dung mang
khuynh hướng tuyên truyền rộng rãi, biên tập vào Tăng nhứt A hàm. Sự biên
tập và hình thành kinh A hàm vào khoảng 100 năm sau khi Phật nhập diệt. Từ
đó về sau có khá nhiều quan điểm khác nhau về sự biên tập A hàm và luật
bộ, có thể nói sở dĩ có sự bất đồng này, do liên quan đến sự truyền thừa.
Theo truyền thuyết cho rằng, Kinh là do A Nan tụng, luật là do Ưu Ba Li
đọc, đương nhiên mỗi bên đều có hệ thống riêng, đồng thời theo truyền
thuyết cũng đề cập rằng, Ngài Phú lâu Na đối với việc kết tập phát sanh ý
kiến bất đồng, điều đó nói lên rằng, Ngài cũng có hệ thống riêng. Kết tập
kinh điển lần thứ 2, Ngài A Na Luật tự mình lại có hệ thống riêng. Những
sự dị biệt này, chắc chắn có ảnh hưởng đến sự phân phái trong Phật giáo.
Liên quan đến nội dung của vấn đề lời dạy nguyên thủy của đức Phật,
trong truyện ký của Thích Ca có đề cập đến một số vấn đề như sau: Thích Ca
từ khi xuất gia, thành đạo cho đến tuyên truyền giáo pháp, đều không rời
khỏi bối cảnh của giai cấp Sát đế lợi. Ngài muốn thay thế cho giai cấp Sát
đế lợi giải quyết những vấn đề nan giải về sự hổn loạn tư tưởng của xã hội
đương thời, triết học của ngài là triết học thật tiễn ( nhân sanh triết
học ) nhằm phản bát triết học Bà la môn, đây là sự thay thế tổ quốc của
ngài là Ca tỳ la vệ để tranh dành địa vị, nhờ vậy mà có được danh hiệu
Thích Ca Mâu Ni ( Bậc tánh của giòng tộc Thích Ca ). Điểm này, đối với
tiền đồ tổ quốc của Ngài có lợi thế khá lớn. Ví như, vào độ tuổi già yếu
Thề Tôn thường tuyên thuyết giáo pháp ở nước Kiều tát la, điều đó đã dẫn
đến sự ôn hoà giữa hai nước Kiều Tát La và Ca Tỳ La Vệ thay vì bị uy hiếp.
Dưới chế độ xã hội giai cấp, học thuyết của Thích Ca mang khuynh hướng
chống lại chủ nghĩa duy vật là điều tự nhiên. Ngài cực lực phản đối 6 phái
triết học đương thời, tư tưởng của Ngài không đi vào con đường cực đoan,
ngược lại mang sắc thái ôn hoà. Điều đó đã dẫn Ngài đến thành công, vì
được các giai cấp trong xã hội ủng hộ, thậm chí có một số tư tưởng gia của
Bà La Môn theo Ngài. Một mặt, Ngài không tán thành chế độ chủng tánh của
Bà la môn, nhưng mặt khác, Ngài gần như đồng ý chế độ chủng tánh. Chúng ta
có thể lấy "Ngũ giới" là căn bản đạo đức của xã hội đương thời làm thí dụ
điển hình. 5 giới vốn là của Bà la môn và Kỳ na giáo, Thích Ca cũng lấy 5
giới này làm tiêu chuẩn đạo đức, nhưng không phải hoàn toàn đồng ý, Ngài
lấy giới "ly dục" là một trong 5 giới của Bà la môn đổi thành giời "không
uống rượu". Lại, như Ngài chủ trương xuất thế, cho rằng tất cả sự vật
trong thế gian vốn không thật có - không, tuyên dương Niết bàn, nhưng ở
phương diện khác, Thích Ca đối với mọi người lại đề cao bố thí và trì
giới, cho rằng, chính sự ưa thích giúp đỡ người khác là niềm hạnh phúc. Có
thể nói, phương pháp tu tập của Thích Ca so với cách tu tập khổ hạnh hà
khắc, tế tự phiền phức của Bà la môn giáo có phần đơn giản đi nhiều, do đó
được mọi người hoan nghênh tiếp nhận, nhất là giai cấp thương nhân.
Thích Ca đã từng tham vấn và học tập qua những học giả nổi danh đương
thời, do đó, học thuyết của Ngài có phần hoàn chỉnh, vì Ngài biết kế thừa
và chọn lọc cái hay của những học thuyết khác. Do vậy, học thuyết của Ngài
có liên quan mật thiết đến những học thuyết khác của đương thời xã hội Aᮮ
Những học thuyết đương thời có hai khuynh hướng: 1. Tư tưởng Bà la môn,
cho rằng sự hình thành vũ trụ là từ một nhân căn bản chuyển biến hình
thành những cái khác, tư tưởng này được gọi là thuyết trong nhân có quả.
Dùng nó để chỉ đạo thật tiễn, những người theo tư tưởng này lấy tu tập
thiền định làm trung tâm, thông qua tu thiền định để nhận thức cái gọi là
"nhân căn bản", từ đó có thể đạt đến cảnh giới giải thoát. 2. Tư tưởng phi
Bà la môn, cho là sự vật do nhiều nhân kết họp mà thành, phái này được gọi
là thuyết " trong nhân không qua "ọc thuyết này dùng để chỉ đạo cuộc
sống, sau đó phái này lại chia thành hai phái khác nhau, một phái đề cao
tu tập khổ hạnh, và phái khác đề cao thỏa mãn dục vọng. Đối với những lý
thuyết trên Thích Ca đều không chấp nhận, cho nên tự mình đưa ra thuyết "
Duyên khởi ", Ngài cho rằng, các pháp cùng nhau nương tựa, cùng làm điều
kiện sanh diệt cho nhau, chẳng phải do một nhân sanh nhiều quả, cũng chẳng
phải nhiều nhân sanh một quả mà là cùng nhau làm nhân làm quả. Mục đích
của lý thuyết này nhằm đả phá lý thuyết " nhứt nhân luận " của Bà la môn,
có khuynh hướng vô thần luận, nhưng học thuyết của Ngài không triệt để đả
phá toàn bộ học thuyết Bà la môn nhưng Ngài lại tin tưởng sử dụng thuyết "
nghiệp lực ", cho rằng, tác dụng của nghiệp có tầm mức quan trọng trong
cuộc sống.
Hai hệ thống học thuyết vừa tường thuật trên đều lấy bản thể luận làm
điểm căn cứ, nhưng học thuyết của Thích Ca trên căn bản không đề cập thảo
luận những vấn đề liên quan bản thể luận, như " 14 vấn đề vô ký " ( Ký là
phân biệt, nghĩa là 14 vấn đề không giải thích ) mà Ngài đề cập: Vũ trụ là
thường hay vô thường ? vũ trụ là hữu biên hay vô biên ? sanh mạng sau khi
chết còn hay mất ? Sanh mạng và thân là một hay khác ? .v.v. (3 loại đầu,
mỗi loại phân thành 4 vấn đề, như thường, vô thường, hữu thường vô thường,
phi hữu thường phi vô thường.v.v., loại sau lại phân thành hai vấn đề,
tổng cộng có 14 vấn đề), những vấn đề này, đối với giới học thuật đương
thời, là đề tài được đưa ra cùng nhau thảo luận, nhưng riêng Thích Ca thì
ngược lại, không chịu thảo luận, với lý do là những vấn đề này cùng với
đời sống thật tế con người không một tí gì quan hệ, giả như nếu đem chúng
thảo luận, cũng không giải quyết giúp ích được gì cho con người. Do đó,
trong nhân quả, Ngài không thừa nhận cái gọi là " nhân thứ nhất ".
Học thuyết của Thích Ca có những đặc điểm riêng của nó, như chúng ta
thấy học thuyết của Thích Ca từ đầu đến cuối luôn luôn sử dụng thái độ
phân tích, so sánh của từng vấn đề. Như ngay từ lúc đầu giữa hai khuynh
hướng hưởng thọ dục vọng và khắc khổ của khổ hạnh, Ngài nên lựa chọn con
đường nào trong hai cực đoan ấy, cuối cùng Ngài chọn con đường " trung đạo
". Con đường trung đạo của Ngài là chú trọng phương diện hành động thật
tế, như Ngài cho rằng, quan điểm của những nhà duy vật đương thời, chủ
trương thỏa mãn dục vọng là mục đích của nhân sinh là không hợp lý, ngay
cả việc Ni kiền tử chủ trương hà khắc trong việc tu khổ hạnh cũng không
đúng, ngược lại Ngài cho rằng, chỉ có con đường " Trung đạo ", là con
đường không khổ cũng không vui mới là con đường chân chính. Về sau, Thích
Ca phát huy tư tưởng này thành hệ thống lý luận, không chấp trước ở một
bên. Ngài tự cho rằng, ta là " người phân tích, phận biệt " chẳng phải là
người luận bàn thiên về một bên. Tư liệu đề cập đến quan điểm này, một
cách sớm nhất là " Kinh Pháp Cú. Phẩm Nê hoàn ", nói rằng, " Pháp qui phân
biệt, chân nhân qui diệt ". Đây là sự chứng minh nội dung mà Phật nói
trong nguyên thủy là " phân biệt luận giả ".
Học thuyết của Thích Ca có hay không có người thừa kế ? có người cho
rằng, trước Phật Thích Ca vẫn còn có Phật, như Phật Ca Diếp, " Kinh Pháp
Cú" là do Phật Ca Diếp truyền thừa. Cũng có người cho rằng, không phải chỉ
có một vị Phật mà có tất cả là 4 vị Phật. Vua A Dục đã lấy 4 vị Phật này
làm đối tượng tôn thờ.
SÁCH THAM KHẢO:
1. Lại Duy: " Phật kinh nguyên
thủy đọc tụng pháp ", " Phật học nghiên cứu " thiên thứ 2.
2. " Tứ phần luật " Quyển 54.
3. Lữ Trưng: " Aᮠđộ Phật giáo
sử lược ", chương 1, tiết 1.
4. Vô bách Duy: " Nguyên thủy
Phật giáo đích nhược can vấn đề ", " Hiện đại Phật học " năm 1956, kỳ 10,
1957 kỳ 1.
TIẾT THỨ 3:
NHỮNG ĐIỂM TRỌNG
YẾU CỦA PHẬT HỌC NGUYÊN THỦY
Những tín đồ Phật giáo cho rằng, sau khi Thích Ca thành đạo, lần đầu
tiên tuyên thuyết giáo pháp tại vườn Lộc Uyển, gọi đó là sơ chuyển pháp
luân. Pháp luân là tỷ dụ, truyền thuyết Aᮠđộ cho rằng, ai có khả năng
thống trị toàn cõi Aᮠđộ, tự nhiên có [ luân bảo ] xuất hiện. Luân bảo này
không gì lay chuyển được, vô địch không gì bằng. Nếu ai được luân bảo này,
xưng là chuyển luân thánh vương. Khi Thích Ca chưa xuất gia, chính Ngài
phải chọn một trong hai con đường, một là làm vua Chuyển luân thánh vương
( nhà lãnh đạo quốc gia ), hai là làm Pháp luân vương (nhà tư tưởng ).
Những lời dạy của Phật gọi là chuyển pháp luân, đồng thời biểu hiện chơn
lý cao tuyệt của Phật đã giác ngộ.
Tương truyền, lần đầu tiên Thế Tôn chuyển pháp luân, cho 5 anh em Kiều
Trần Như tại vườn Lộc Uyển, thuộc thành Ba la nại. Nghiên cứu từ trong
kinh luật cho thấy, lần đầu Thích Ca nói Pháp, không phải là pháp Tứ đế,
mà chính là pháp Trung đạo, điều này phù hợp với sự thật, vì 5 người này
vốn là những người cùng ngài tu hành khổ hạnh trước kia, sau đó Thích Ca
từ bỏ đời sống khổ hạnh, để lại trong lòng họ suy nghĩ không hay về Ngài.
Dĩ nhiên giáo pháp mà Thế Tôn nói với họ đầu tiên phải là phê bình đời
sống khổ hạnh, cùng những học thuyết mà họ chủ trương, sau đó cùng họ giới
thiệu học thuyết trung đạo, là con đường không khổ không lạc, đồng thời
chứng minh khổ hạnh vốn không phải là phương pháp tu tập chơn chánh, chỉ
có trung đạo mới là hợp lý. Sau đó nói giáo lý [ Bát chánh đạo ] ( Chánh
kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn,
chánh niệm, chánh định ), sau khi thuyết phục xong mới tuyên thuyết giáo
lý Tứ đế.
Trọng tâm của giáo lý Tứ đế là trình bày sự thật về những hiện tượng
trong cuộc sống con người. Toàn bộ đời sống con người không ra ngoài hai
phương diện, một là nhiễm ( khổ, tập ), hai là tịnh ( diệt đạo ). Phương
pháp tổ chức pháp Tứ đế, lấy khổ đế làm căn bản, [ tập ] là sự tích tâp
của khổ, [ diệt ] là diệt trừ khổ đau, [ đạo ] là phương pháp diệt trừ khổ
đau. Thế Tôn nói pháp Tứ đế, nói đi nói lại pháp này cho đến 3 lần, 3 lần
này được gọi là [ Tam chuyển pháp luân ]. Chuyển lần đầulà khẳng định pháp
tứ đế (nhân sanh là khổ, già chết là khổ.v.v. ); Chuyển lần hai, chỉ rõ tứ
đế là ý nghĩa sự thật của cuộc sống con người ( khổ nên biết, tập nên
đoạn, diệt nên chứng, đạo nên tu ); chuyển lần thứ ba, là chứng minh Thích
Ca đã chứng ngộ thành đạt được những gì mà tứ đế yêu cầu ( Khổ đã rõ, tập
đã đoạn, diệt đã chứng, đạo đã tu. ). Trong 3 lần chuyển pháp luân, mỗi
một lần đối với một đế đều có 4 loại nhận thức không giống nhau, gọi đó là
[ Tứ hành tướng ] __ Nhẫn, trí, minh, giác, do đó Tứ đế có 12 hành tướng,
gọi là [ Tứ đế 12 hành tướng ]. Quan điểm này, là sự khẳng định những điểm
cơ bản của nguyên thủy Phật học. Những tư liệu trong kinh luật được ghi
chép như vừa trình bày, vào khoảng 200 năm, sau khi Thế Tôn nhập diệt,
những sắc lệnh mà nhà vua A Dục còn lưu lại, đề cập đến việc này cũng như
thế ( Trong [ pháp lệnh] yêu cầu những tín đồ Phật giáo thường niệm một
trong 7 kinh là: " Tỳ nại da tối thắng kinh ", căn cứ vào những tư liệu
khảo cổ chứng minh, tức là đề cập đến tam pháp luân. ); Về sau, Phật học
phát triển đến giai đoạn Đại thừa, có thể nói sớm nhất là " kinh Duy Ma
Cật ", " Kinh Pháp Hoa ".v.v. phần mở đầu của những kinh này, đều đề cập
đến pháp Tứ đế, những kinh điển thuộc giai đoạn hậu kỳ đại thừa như " Kinh
Giải thâm mật ", phân chia lời Phật nói thành 3 thời, Thời thứ nhất cho
rằng, Phật nói Tứ đế. Từ đó có thể nói, Tứ đế là trung tâm tư tưởng của
Phật giáo nguyên thủy, đều này cũng được mọi người công nhận.
Khổ đế trong giáo lý tứ đế, về sau phát triển thành 8 khổ: Sanh, lão,
bịnh, tử, oán tắng hội, aí biệt ly, cầu bất đắc, ngũ thủ uẩn. Bốn loại khổ
đầu là những loại khổ thuộc về tự nhiên, không ai tránh khỏi, những mong
cầu của con người, thường ngược lại những qui luật này, như mong cầu không
già, được trường sanh.v.v. do đó mà sanh khổ. 3 chi kế tiếp, là những nỗi
khổ do mối quan hệ không hợp lý giữa người và người trong xã hội tạo
thành, như chế độ phân biệt đẳng cấp của xã hội đương thời. Những người
không hợp ý mà luôn luôn phải sống với nhau, những người thương yêu mà
phải phân tán chia lìa, những yêu cầu vật chất thường không được như ý?
những loại này đều được gọi là khổ ( Từ góc độ này, chúng ta có thể thấy,
Thích Ca phản ánh những hiện tượng xã hội đương thời ). Nhưng thử hỏi
nguồn gốc cái khổ của con người là gì ? Thích Ca cho là { cầu bất đắc ].
Tại sao mong cầu mà không được là nguyên nhân của khổ ? Thích Ca lại cho
rằng, do bởi { 5 thủ uẩn ], tức là Ngài phân tích sự cấu thành con người
do 5 loại: Sắc ___ Vật chất, thọ ___ cảm tình cảm giác ( gọi là tình ),
tưởng ___ sự hoạt động của lý tánh khái niệm ( gọi là trí ), hành ___ là
hoạt động của ý chí ( gọi là ý ), thức ___ thống nhất mấy loại trước. Nội
dung của những loại này rất là phức tạp, sự tích tập của những thứ này gọi
là [ uẩn ], 5 uẩn cùng với [ thủ ] ( chỉ loại dục vọng cùng chấp trước )
liên kết với nhau, từ đó sinh ra một loại tham dục, do đó cho nên gọi là [
ngũ thủ uẩn ]. Căn cứ quan điểm của Thích Ca, con người sinh ra liền có
5 uẩn, có 5 uẩn tức là có khổ, do đó cho nên gọi 5 uẩn là khổ. Nguồn gốc
của khổ này do tham dục ( tập đế )mà sanh, đoạn trừ tham dục, tức đoạn trừ
khổ( diệt đế ), liền được giải thoát.
Trong học thuyết Tứ đế của Thích Ca, duyên khởi là đặc tính xuyên suốt
biểu hiện sự bất đồng quan điểm với những hệ thống triết học khác về vũ
trụ. Khi Thích Ca còn tại thế, trong xã hội Aᮠđã có hai loại tư tưởng chỉ
đạo cuộc sống nhơn sanh: 1.Bà la môn, họ cho rằng, con người do Phạm thiên
sanh, là sự chuyển hóa của thần ngã gọi đó là thuyết [ chuyển hóa ]. 2.
Sáu phái triết học, họ cho rằng, con người là do nhiều yếu tố kết họp mà
thành ( chủ trương của Thuận thế phái ), gọi đó là thuyết [ Tích tụ ].
Thích Ca phản đối 2 học thuyết này, chủ tương [ duyên khởi ]. Ngài cho
rằng, thế giới hiện tượng đều là sự quan hệ mật thiết về nhân quả, cùng
làm điều kiện cho nhau trong sự tồn tại. Trong kinh Phật thường lấy bó
trúc làm ví dụ để trình bày sự quan hệ của mọi sự vật. Nếu như lấy quan
điểm này, giải thích những hiện tượng vũ trụ, thuyết minh quy luật tồn tại
của vũ trụ là duyên khởi, như thế rất cụ thể và biện chứng. Nhưng lý
thuyết duyên khởi này, không phải xuất phát từ sự quan sát vũ trụ, mà được
phát hiện ngang qua đời sống con người, đồng thời cũng lấy nó làm điểm tựa
căn bản để giải quyết những vấn đề của nhân sanh. Thích Ca đem con người
phân chia thành nhiều chi phần. Theo sự ghi chép trong kinh gồm có 5 phần,
9 phần,10 phần, 12 phần.v.v. đặc biệt Bắc phương phân chia nhiều nhất là
12 phần, gọi đó là 12 nhân duyên, về sau đại thừa Phật giáo cố định thành
12 nhân duyên, tức là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ,
aí, thủ, hữu, sanh, lão tử. Kết cấu này là vô minh làm duyên dẫn khởi
hành. Do đó mà có công thức : Thử hữu cố bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh.
Dựa vào thứ tự này, cấu thành mối quan hệ nhân quả. Người sau lấy 12 nhân
duyên và luân hồi dung họp thành tam thế lưỡng trùng nhân quả của Tiểu
thừa : Quá khứ thế [ nhân ] --- Hiện tại thế [ quả, nhân ] --- Vị lai thế
[ quả ]. Thuyết [ lưỡng thế nhất trùng ] của Đại thừa : Quá khứ thế [ nhân
] --- Hiện tại thế [ quả ], hoặc là Hiện tại thế [ nhân ] --- Vị lai thế
[ quả ]. Lý thuyết này, có phần hợp lý, vì trong hiện tượng, vốn là sự
liên hệ 2 đời, trên nguyên tắc này, chúng ta có thể tìm ra mối quan hệ
nhân quả của nó. Thí như, lão tử là quả, căn bản nguyên nhân của nó là [
sanh ]. Theo sự ghi chép của kinh điển, Thích Ca quán sát nhân sanh, bắt
đầu từ { lão, tử ] rồi suy diễn quán 12 nhân duyên. Trong Tứ đế lấy tham
dục của tập đế làm trọng tâm, 12 nhân duyên lấy aí dục làm căn bản, nếu
như muốn được giải thoát trước phải đoạn trừ aí dục. Thích Ca cho là, ái
dục là vô cùng, không bao giờ biế đủ, ngược lại, lòng mong muốn của con
người thì vô cùng, chính lòng ham muốn này là nguyên nhân sanh ra khổ đau.
Thích Ca cho là, hành vi và nghiệp lực của con người có sự liên quan
mật thiết. [ Hành ] là ý chí hành động có mục đích của con người, bản chất
của nó là nghiệp. [ Nghiệp có 3 loại : Thân, khẩu và ý, nếu như chúng ta
thử đặt vấn đề, cái gì quyết định thành nghiệp ? Lời giải đáp hẳn nhiên là
do [ vô minh vô tri ]. Chúng sanh vô tri cái gì ? Thích Ca cho là, nhân
sanh vốn là vô thường, nhưng chúng sanh yêu cầu [ thường ], đây chính là [
vô minh vô tri ]. Nhân sanh là vô ngã, vì nó vốn không thể tự sanh, do đó
không có tự thể, giống như nhà do từ gạch, ngoái, cây, đá kết hợp mà
thành, cũng vậy, con người do ngũ uẩn kết họp mà thành, nhưng ngược lại
chúng sanh chấp trước có thật ngã, đây gọi là [ vô minh ]. Chúng sanh do
bởi những loại vô tri này mà dẫn khởi hành động, là nguồn gốc của khổ đau.
Thích Ca luận chứng, nhân sanh là [ vô thường ] [ vô ngã ], từ đó đề
xuất 3 mệnh đề : Chư hành ( chỉ hữu vi pháp ) vô thường, các pháp vô ngã,
tất cả đều là khổ. 3 mệnh đề này gọi là [ tam tướng ], lại cũng gọi là [
Tam pháp ấn ]. Ngoài tam tướng này, thêm một chi nữa là [ Niết bàn tĩch
tịnh ], gọi là [ Tứ pháp ấn ]. Cho rằng, trong vô thường, vô ngã đã bao
gồm khổ, cho nên [ khổ ] bỏ đi, vẫn còn lại Tam pháp ấn. [Tam pháp ấn] lấy
duyên khởi làm cơ sở phát triển. Duyên khởi bao gồm hai phương diện [
thuận ] và [ nghịch ]. Thuận là chỉ cho sự sản sinh đau khổ, nghịch là chỉ
cho sự hướng đến Niết bàn. Thích Ca nói, ai hiểu duyên khởi, người ấy hiểu
[ pháp ]. Có thể nói, thuyết duyên khởi là điểm đặc trưng của Phật giáo.
Tuy nhiên, có một số vấn đề Thích Ca vẫn chưa giải thích rõ ràng, Ví
như, Lý thuyết Duyên khởi của Thích Ca chỉ nhằm mục đích thuyết minh về
những hiện tượng trong đời sống con người, không chú trọng vào những mục
đích khác, nhưng nó cũng có thể giải thích những hiện tượng khác, chẳng
qua đem nguyên lý này phổ biến hóa mà thôi, như thế ắt hẳn sẽ có sự cải
biến kết cấu của nó và lý tưởng Niết bàn. Thí dụ như, Thích Ca một mặt phủ
nhận sự tồn tại tự ngã, đồng thời lại thừa nhận tác dụng của nghiệp lực.
Thuyết nghiệp lực của Bà la môn là sự kết hợp thuyết luân hồi, nhưng Thích
Ca đã phủ nhận chủ thể luân hồi, thế thì lấy gì để luân hồi ? Đây là vấn
đề mâu thuẩn nội tại của học thuyết Thích Ca. Vì lý do đó, về sau, những
người kế thừa tư tưởng của Ngài đã phát sinh sự phát triển không đồng nhất
về tư tưởng. Thích Ca là người đôn hậu, thuyết nghiệp lực của Ngài cũng
được biểu hiện rất cụ thể. Cuộc đời của Ngài phần nhiều thời gian ở tại
nước Kiều Tát La, đã 2 lần ngăn cản sự tấn công vua Tỳ Lưu Ly đi với giòng
tộc Thích Ca, cuối cùng cũng không sao tránh khỏi Thích Ca tộc bị diệt
vong. Ngoài ra, Ngài đối với Bà la môn giáo, chề độ chủng tộc, biểu hiện
sự không đồng lòng trong thái độ ôn hòa, điều đó biểu hiện tính từ mãn của
Ngài. Nguyên nhân là, Thích Ca chỉ là một nhà tôn giáo vĩ đại, không phải
là một nhà cải cách xã hội.
SÁCH THAM KHẢO:
1. " Tạp A hàm kinh " quyển 15
: " Đế tụng ".
2. " Trung A hàm kinh " quyển 7
: " Phân biệt thánh đế kinh ".
3. " Tạp A hàm kinh " quyển 12
: " Duyên khởi tụng ".
4. " Trường A hàm kinh " quyển
10 : " Đại duyên phương tiện kinh ".
5. Lữ Trung: " Aᮠđộ Phật giáo
sử lược ", thiên thứ nhất, chương 2.
---o0o---
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-12-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục