Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Tính chất của Nghiệp
"Gieo
giống nào, gặt giống nấy." -- Tạp A Hàm
---o0o---
Chúng
ta có phải gặt hái tất cả những nhân đã gieo không? Không
nhất thiết phải như thế. Trong bộ Anguttara Nikaya, Tăng
Nhứt A Hàm, Đức Phật dạy:
"Nếu
có ai cho rằng con người phải gặt hái trọn hậu quả theo
tất cả những hành động trong quá khứ thì không thể có đời
sống đạo đức, và con người cũng không thể có cơ hội
tận diệt phiền não: Nhưng nếu nói rằng quả phải gặt tương
xứng với nhân đã gieo thì ắt có đời sống đạo đức và
con người sẽ có cơ hội dập tắt phiền não." [1]
Như vậy, theo Phật Giáo có thể
uốn nắn, chuyển hoán cái nghiệp, mặc dầu kinh Pháp Cú, câu
127, có dạy:
"Không
phải bay lên trời cao, lặn xuống biển sâu, hay chui vào hang
núi, mà ta có thể tìm được nơi nào trên thế gian nầy để
lẫn tránh quả dữ của Nghiệp xấu."
Nếu như phải trả quả của tất
cả những nghiệp đã tạo trong quá khứ thì chúng sanh ắt
phải chịu vĩnh viễn sống trong đau khổ và không thể mong có
ngày giải thoát.
Dầu không hoàn toàn làm chủ cái
Nghiệp - vì nhân đã gieo - nhưng ta cũng không tuyệt đối
phải bó tay chịu làm nô lệ. Dầu con người xấu xa đê
tiện nhất cũng có thể cố gắng trở nên trong sạch đạo
đức. Chúng ta luôn luôn biến đổi và luôn luôn trở thành
một cái gì mới, và cái mới ấy tùy thuộc chính ta, tùy
thuộc nơi hành động của chính ta. Từng giây, từng phút ta
có thể tự cải hoán, làm cho ta trở nên tốt đẹp hơn, cũng
như xấu xa hơn. Dầu người tội lỗi hư hèn nhất cũng không
đáng khinh. Trái lại, nên tạo cho họ một niềm tin tưởng nơi
sự cố gắng cải thiện bẩm chất bình sanh của họ. Nên thương
hại họ, biết đâu một lúc nào trong quá khứ ta cũng cùng
ở trong tình trạng với hạng người hư hèn ấy và ta đã
tiến bộ. Hôm nay ở một vị trí thấp kém, họ cũng có
thể cố gắng theo ta và có khi tiến trổi hơn ta.
Ai biết được cái nghiệp đã tích
trữ của một người khác?
Angulimala, tên sát nhân lừng danh khét
tiếng một thời, đã giết chết cả ngàn anh em đồng loại,
trở thành một vị A La Hán và thoát khỏi quả dữ của
những hành động tàn ác ấy.
Cô Ambapali, một gái giang hồ biết
hồi tâm tu hành cũng đắc Quả A La Hán.
Alavaka, dạ xoa hung tợn thường ăn
thịt người, từ bỏ thói dữ và cố gắng tu tập, cũng đắc
Quả Tu Đà Hườn.
Vua Asoka (A-Dục) có tiếng là hung ác
bạo tàn, trở thành một đấng minh quân, đổi những trận
giặc xâm lăng khốc liệt ra những chiến dịch truyền bá đạo
lý cao siêu thâm diệu và giáo huấn từ bi của Đức Phật,
để mưu cầu hạnh phúc cho một phần nhân loại:
"Giữa oai danh của trăm ngàn vua
chúa trong lịch sử nhân loại, danh thơm cao quý vừa hùng vĩ
vừa dịu dàng, vừa trong sáng vừa trầm lặng, của Hoàng Đế
A Dục chói ngời rực rờ như một vị sao tỏ rạng."
Đó là một vài trường hợp hiếm
hoi chỉ rằng nhờ ý chí hùng dũng, con người có thể đổi
hẳn tâm tánh, từ xấu ra tốt, từ dữ ra lành.
Trong một vài trường hợp khác, cũng
có thể quả của một nhân yếu mà tái sanh tròn đủ, còn
quả của một nhân mạnh lại được lắng dịu.
Đức Phật dạy:
"Hỡi nầy các Tỳ khưu, người
kia không biết khép mình vào kỹ cương của thân, của đạo
lý, của tâm, của trí tuệ, người kém đạo đức, kém
giới hạnh và do đó, sống đau khổ.
"Dầu một hành động tầm thường
của người ấy cũng đủ tạo quả đưa vào cảnh khổ.
" Hỡi nầy các Tỳ khưu, người
nọ có nếp sống kỹ cương về phương diện vật chất cũng
như về mặt tinh thần đạo đức, và trí tuệ, người đạo
đức cao thượng, biết làm điều thiện và lấy tâm Từ vô
lượng đối xử với tất cả mọi chúng sanh.
"Người như thế, dầu có một hành
động lầm lạc tầm thường như kể trên, hành động ấy không
tạo quả trong hiện tại hay trong kiếp vị lai. [2]
"Tỷ như có một người kia sớt
một muổng muối vào bát nước. Nầy hỡi các Tỳ khưu, các
thầy nghĩ như thế nào? Nước trong bát có thể trở nên
mặn và khó uống không?
- Bạch hóa Đức Thế Tôn, có.
- Tại sao?
- Bạch Đức Thế Tôn, vì nước
trong bát thì ít mà cho vào một muổng muối thì phải mặn.
- Bây giờ, tỷ như người kia đổ
muổng muối ấy xuống sông Hằng (Ganges), nầy hỡi các Tỳ
khưu, các thầy nghĩ sao? Nước sông Hằng có vì muối ấy mà
trở nên mặn và khó uống không?
- Bạch hóa Đức Thế Tôn, không?
- Tại sao?
- Bạch Đức Thế Tôn, vì sông Hằng
rộng lớn, nước nhiều, chỉ bấy nhiêu muối ấy không đủ
làm mặn.
- Cũng dường thế ấy, có trường
hợp người kia vì phạm một lỗi nhỏ mà chịu cảnh khổ.
Người khác cũng tạo một lỗi tương tợ nhưng gặt quả
nhẹ hơn và sau khi chết, quả kia không trổ sanh nữa, dầu
trổ một cách nhẹ nhàng.
"Có thể có trường hợp người
kia bị bỏ tù vì ăn cắp nửa xu, một xu, hay một trăm đồng
xu, và cũng trong trường hợp người nọ không bị bỏ tù vì
nửa xu, một xu, hay một trăm đồng xu.
"Ai bị bỏ tù vì nửa xu, một
xu, hay một trăm xu?
"Khi người ta nghèo khổ, túng
thiếu, bần cùng thì dầu chỉ nửa xu, một xu, hay một trăm
đồng xu cũng bị bỏ tù.
"Ai không bị bỏ tù vì nữa xu,
một xu, hay một trăm đồng xu?
"Khi người ta giàu có, dư dả,
sung túc, thì không bị bỏ tù vì nửa xu, một xu, hay một trăm
đồng xu.
"Cùng một thế ấy, có trường
hợp người kia chỉ có một vài hành động bất thiện nhỏ
nhặt mà phải lâm vào cảnh khốn cùng, và có trường hợp
người nọ cũng phạm lỗi lầm y như vậy mà không phải
gặt quả nào trong kiếp hiện tại. Hành động bất thiện
ấy cũng không có hậu quả nhỏ nhen nào sau kiếp sống nầy.
[3]"
Nguyên
Do Vì Sao Đôi Khi Quả Trổ Sanh Trái Ngược Với Nhân Đã Gieo
Nhân lành tạo quả lành. Nhưng đã
gieo nhân lành rồi còn hối tiếc, đã làm một việc thiện mà
còn ăn năn, hối hận, thì quả trổ sanh không được tương
xứng với nhân.
Tích chuyện sau đây là một ví dụ:
Ngày kia Vua Pasenadi xứ Kosala đến
hầu Đức Phật và bạch rằng:
"Bạch Đức Thế Tôn, tại thành
Savatthi (Xá Vệ) có một nhà triệu phú vừa qua đời mà không
có người thừa kế. Vì lẽ ấy bao nhiêu tài sản của ông,
gồm hàng trăm thoi vàng, ngoài số bạc và của cải khác, đều
được bổ xung vào kho. Bạch Đức Thế Tôn, người giàu có
lúc ấy còn sanh tiền sống thật kham khổ, ăn thì chỉ cơm nát
với thức ăn thừa và thiu, mặc thì chỉ dùng vải thô và
chỉ gai, còn di chuyển thì chỉ có một chiếc xe cũ kỹ với
con ngựa gầy."
Đức Phật dạy:
"Mặc dầu vậy, trong một tiền
kiếp nhà triệu phú ấy thường để bát cúng dường đến
một vị Độc Giác Phật tên là Taragasikhi. Tuy để bát cúng
dường nhưng ông không bao giờ quan tâm đến công đức ấy.
Ông lại có ý hối tiếc vì đã mất của, và tự nghĩ thầm:
'Phải chi ta để dành vật thực ấy cho người ăn kẻ ở
trong nhà còn hơn.' Ngoài ra, ông còn giết chết một người
cháu để sang đoạt gia tài.
"Do quả lành của công đức bố
thí cúng dường, ông tái sanh bảy lần trong cảnh Trời. Cũng
do quả lành ấy ông tái sanh bảy lần làm triệu phú tại thành
Savatthi (Xá Vệ) nầy. Vì ông đã hối tiếc, nghĩ thầm rằng:
'Phải chi ta để dành vật thực ấy cho người ăn kẻ ở
trong nhà còn hơn', nên mặc dầu giàu có, ông không thể
toại hưởng sự nghiệp vĩ đại ấy, không dám ăn ngon, không
dám mặc đẹp, luôn luôn lo sợ hết của, không dám nhờ
tiền để tạo tiện nghi cho đời sống vật chất.
"Vì đã giết chết một người
cháu để sang đoạt tài sản, nhà triệu phú độc ác ấy
phải chịu đau đớn nhiều năm, nhiều trăm năm, trong cảnh
khổ. Và cũng vì hành động ác độc ấy ông phải chịu
tuyệt dòng liên tiếp trong bảy kiếp, do đó bao nhiêu tài
sản của ông phải bị xung vào quốc khố. [4]"
Nhà triệu phú được một sự
nghiệp vĩ đại nhờ nhân tốt đã gieo. Tuy nhiên đã gieo nhân
lành mà còn hối tiếc nên dù được sự nghiệp lớn lao, ông
không được hưởng.
Duyên
Hỗ Trợ và Duyên Trở Ngại
Trong sự báo ứng của nghiệp ta nên
biết rằng có những năng lực hỗ trợ, nâng đỡ, tạo điều
kiện, trợ duyên cho quả sớm trổ sanh, và ngược lại cũng
có những năng lực kiềm hãm, ngăn chặn, không cho quả trổ
sanh, hay nghịch duyên.
Sự sanh trưởng (gati), thời gian hay
hoàn cảnh (kala), nhân cách hay tướng mạo (upadhi), và sự
nỗ lực cố gắng (payoga) là những năng lực trợ duyên hay
nghịch duyên, hỗ trợ hay ngăn cản quả trổ sanh.
Thí dụ như người kia sanh trưởng
trong một gia đình quý phái, giàu sang, hay trong hoàn cảnh an lành,
sự tái sanh tốt ấy đôi khi là một năng lực ngăn chặn không
cho quả dữ trổ sanh.
Trái lại, người nọ sanh trưởng
trong gia đình ghèo khó khốn cùng, hay trong cảnh khổ, sự tái
sanh bất hạnh của người nầy tạo điều kiện thuận tiện
cho quả dữ trổ sanh.
Danh từ Phật Giáo gọi những năng
lực ấy là "tái sanh thuận lợi" (gati sampatti) và
"tái sanh bất thuật lợi" (gati vipatti).
Người kia, dầu không phải là hạng
thông minh, mà nhờ có Nghiệp tốt, sanh trưởng trong hoàng
tộc thì cũng được thiên hạ kính nể kiêng vì. Nếu cũng kém
thông minh như người ấy mà sanh trong gia đình túng thiếu
bần hàn thì ắt không được kính trọng như vậy.
Đức vua Dutthagamani xứ Tích Lan gieo
nhân xấu vì đã gây chiến tranh chống tộc Tamil, đồng
thời cũng tạo nhiều Nghiệp tốt do các công tác từ thiện
có tánh cách tôn giáo và xã hội. Nhờ Nghiệp Tái Tạo tốt
ấy Ngài được tái sanh vào cỏi Trời. Tục truyền rằng đến
thời Đức Phật Di Lạc (Metteya) ra đời, Ngài sẽ trở
xuống một lần chót. Nhân bất thiện mà Ngài đã gieo không
trổ quả, nhờ được "tái sanh thuận lợi" trong hoàn
cảnh tốt.
Trường hợp vua Ajatasattu (A-Xà-Thế)
là một thí dụ khác. Phạm trọng tội giết cha, nhưng về
sau ông đến gần Đức Phật và trở nên một vị minh quân có
tâm đạo nhiệt thành. Vì mang trọng giết cha, ông phải tái
sanh vào cảnh khổ, và do sự tái sanh bất thuận lợi ấy,
bao nhiêu nhân lành ông đã gieo không đủ duyên hỗ trợ để
trổ quả .
Dung mạo đẹp đẽ (upadhi sampatti)
hay xấu xa (upadhi vipatti) là hai yếu tố khác có thể hộ
trợ hay gây trở ngại cho sự báo ứng của Nghiệp.
Nếu nhờ Nghiệp tốt mà người kia
được tái sanh thuận lợi, nhưng bất hạnh phải tật
nguyền hay có tướng mạo dung nhan xấu xí thì cũng không hoàn
toàn trọn hưởng phước lành của mình. Một vị hoàng tử
đáng lẽ phải nối ngôi cha để trị vì thiên hạ, nhưng
nếu vị ấy tật nguyền cũng có thể đó là một trở ngại,
không được lên ngôi báu.
Trái lại, diện mạo phương phi là
yếu tố giúp thành công. Một đứa trẻ tuy nghèo nhưng mặt
mày thông minh sáng sủa có thể làm cho người khác chú ý đến
và gieo ít nhiều thiện cảm đến người khác.
Thời gian hay cơ hội thuận lợi và
bất thuật lợi (kalasampatti và kalavipatti) là hai yếu tố khác
có thể ảnh hưởng đến sự báo ứng của Nghiệp. Thí trong
một thiên tai, tất cả đều phải cùng chung chịu một số
phận. Đó là điều kiện bất thuận lợi, trợ duyên cho
nghiệp xấu trổ sanh. Cũng có những điều kiện thuận lợi
làm suy giảm năng lực hoặc ngăn chặn không cho Nghiệp xấu
trổ sanh.
Trong các năng lực trợ duyên và
nghịch duyên, hạnh tinh tấn hay sự nỗ lực cố gắng (payoga)
là quan trọng hơn tất cả. Trong sự báo ứng xủa Nghiệp, tình
trạng cố gắng hay thiếu cố gắng giữ một vai trò chánh
yếu. Do cố gắng trong hiện tại, ta có thể chuyển Nghiệp,
tạo Nghiệp mới, hoàn cảnh mới, môi trường mới, cả một
thế giới mới.
Dầu có điều kiện thuận lợi và
được trợ duyên đầy đủ mà nếu không nỗ lực cố gắng
thì chẳng nhưng ta bỏ mất cơ hội quý báu, mà có khi còn
hoang phí cả sự nghiệp, vật chất hay tinh thần.
Nếu bệnh mà không tìm thầy thuốc.
Nếu gặp khó khăn mà không cố gắng giải quyết, không nỗ
lực để vượt qua, thì quả dữ ắt được trợ duyên đầy
đủ để trổ sanh. Trái lại, nếu ta tận lực cố gắng để
vượt qua mọi khó khăn, luôn luôn cải thiện hoàn cảnh,
tận dụng mọi khả năng mọi cơ hội hiếm có để vững vàng
tiến bộ thật sự, Nghiệp tốt sẽ được trợ duyên đầy
đủ để trổ sanh.
Mặc dầu không hoàn toàn làm nô lệ
cũng không tuyệt đối làm chủ cái Nghiệp, chắc chắn là
những yếu tố trợ lực và nghịch duyên ấy cũng ảnh hưởng
phần nào năng lực báo ứng của Nghiệp, do sự tái sanh, hoàn
cảnh, cá tính, cố gắng cá nhân, và những yếu tố tương
tợ. Chính lý Nghiệp Báo đem lại cho người Phật tử sự an
ủi, niềm hy vọng, chỗ nương tựa và khích lệ tinh thần để
có thể đảm vững bước trên con đường tiến bộ.
Khi có việc bất chắc xảy đến,
khi gặp trợ ngại, khó khăn, thất bại, và hoàn cảnh bất
hạnh, người Phật tử nhận định rằng mình đang gặt hái
giống nào mà trước kia chính mình đã gieo, mình đang trang trãi
một món nợ đã vay lúc nào trong quá khứ.
Tuy nhiên, thay vì phải bó tay chịu
quy hàng hoàn cảnh để cho định luật Nghiệp Báo tự nhiên
diễn tiến, người Phật tử tận lực cố gắng diệt trừ,
bứng tận gốc rễ giống cỏ xấu, và gieo trồng những
giống tốt. Tương lai hoàn toàn nằm trong tay ta.
Người tin tưởng lý Nghiệp Báo không
khi nào lên án kẻ hư hèn tội lỗi bởi vì mọi người đều
có khả năng và cơ hội để tự cải thiện bất cứ lúc nào.
Người kia dầu phải chịu đau khổ trong hiện tại nhưng
vẫn có hy vọng như mọi người, rằng trong một ngày tươi
đẹp nào, chính mình cũng có thể đạt Đạo Quả cao thượng,
an vui hạnh phúc vĩnh cửu trường tồn. Ta tạo địa ngục
cho ta, do chính hành động của ta. Cũng do hành động của chính
ta, ta tạo thiên đàng cho ta.
Một người Phật tử thuần thành và
hiểu biết chắc chắn định luật Nghiệp Báo không khi nào
van vái cầu xin được cứu rỗi. Trái lại, đặt trọn niềm
tin nơi chính mình, nơi hạnh tinh tấn của mình, để được
giải thoát. Thay vì bó tay đầu hàng hay vuốt ve tâng bốc
một thần lực siêu nhân nào, người Phật tử đặt trọn
niềm tin mình trên ý trí của mình, và không ngừng hoạt động
để tạo an lành cho tất cả.
Niềm tin vững chắc nơi Nghiệp Báo
"nâng cao giá trị của hạnh tinh tấn và kích thích lòng
nhiệt thành", bởi vì lý Nghiệp Báo dạy mỗi người
phải lãnh lấy trách nhiệm của mình.
Đối với người Phật tử sơ cơ,
định luật Nghiệp Báo là một điều răn. Với hạng người
trí thức, Nghiệp Báo là một khích lệ.
Luật Nhân Quả giải thích vấn đề
đau khổ, giải thích tình trạng bí ẩn của cái được gọi
là Số Mạng và Tiền Định của một vài tôn giáo và, trên
hết, giải thích hoàn cảnh chênh lệch giũa loài người,
giữa chúng sanh.
Chúng ta là vị kiến trúc sư xây đắp
số phận của chúng ta. Chính ta tạo ra hay tiệu diệt ta. Chính
ta tạo thiên đàng cho ta và cũng chính ta tạo địa ngục cho
ta.
Những gì ta nghĩ, nói, và làm, là
của ta. Chính tư tưởng, lời nói và hành động là Nhgiệp.
Và Nghiệp đưa ta lên hay xuống từ kiếp nầy sang kiếp khác,
mãi mãi trong vòng luân hồi.
Đức Phật dạy:
"Phước và tội mà
con người tạo ra là những gì mà con người làm chủ, những
gì đưa con người đi, từ nơi nầy...
Là những gì bén gót chạy theo con người như bóng theo hình.
Vậy, từ đây con người hãy tích trữ cái tốt để đem đi
nơi khác, trong tương lai.
Hãy tạo một nền tảng vững chắc cho thế gian ngày mai."
[5]
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com