Chí
tâm sám hối:
Chúng con từ vô
thỉ kiếp đến nay;
bỏ mất bản tâm,
không biết chánh đạo,
Rơi ba đường
khổ, bởi sáu căn lầm;
Không sám lỗi
trước, khó tránh lỗi sau.
Nghiệp căn mắt là:
Nhân ác xem kỹ,
nghiệp thiện coi khinh;
Lầm nhận hoa
giả, quên ngắm trăng thật.
Yêu ghét nổi
dậy, đẹp xấu tranh giành;
Chợt mắt dối
sanh, mờ đường chánh kiến.
Trắng qua xanh
lại, tía phải vàng sai;
Nhìn lệch các
thứ, nào khác kẻ mù.
Gặp người sắc
đẹp, liếc trộm nhìn ngang;
Lòa mắt, chưa
sanh bản lai diện mục.
Thấy ai giàu có,
gương mắt mãi nhìn;
Gặp kẻ bần cùng,
lờ đi chẳng đoái.
Người dưng chết
chóc, nước mắt ráo khô.
Thân quyến qua
đời, đầm đìa lệ máu.
Hoặc đến Tam
Bảo, hoặc vào chùa chiền;
Gần tượng thấy
kinh, mắt không thèm ngó.
Phòng Tăng điện
Phật, gặp gỡ gái trai;
Mắt liếc mày
đưa, đam mê sắc dục.
Không ngại Hộ
Pháp, chẳng sợ Long Thần;
Trố mắt ham vui,
đầu chưa từng cúi.
Những tội như
thế, vô lượng vô biên;
Đều từ mắt sanh,
phải sa địa ngục.
Trải hằng sa
kiếp, mới được làm người;
Dù làm được
người, lại bị mù chột.
Nghiệp Căn Tai Là:
Ghét nghe chánh
pháp, thích lắng lời tà;
Mê mất gốc chơn,
đuổi theo ngoại vọng.
Sáo đàn inh ỏi,
bảo khúc Long ngâm;
Văng vẳng mõ
chuông, bỗng nhiên để dạ.
Lời kinh câu kệ,
không chút lắng tai.
Thoảng nghe khen
hảo, khấp khởi mong cầu;
Biết rõ lời
lành, đâu từng ưng nhận.
Bài ba bạn rượu,
năm bảy khách chơi;
Tán ngắn bàn
dài, châu đầu nghe thích.
Hoặc gặp thầy
bạn, dạy bảo đinh ninh;
Nhiều điều hiếu
trung, che tai bỏ mặc.
Hoặc nghe tiếng
xuyến, bổng nẩy lòng dâm;
Nghe nửa câu
kinh, liền như tai ngựa.
Những tội như
thế, vô lượng vô biên;
Đầy ắp bụi trần,
kể sao cho xiết.
Sau khi mạng
chung, rơi ba đường ác;
Hết nghiệp thọ
sanh, lại làm người điếc.
Nghiệp Căn mũi là:
Thường tham mùi
lạ, trăm thứ ngạt ngào;
Chẳng thích chân
hương, năm Phần thanh tịnh.
Lan xông xạ ướp,
chỉ thích tìm tòi;
Giới định hương
huân, chưa từng để mũi.
Trầm đàn thiêu
đốt, đặt trước Phật đài;
Nghểnh cổ hít
hơi, trộm hương phẩy khói.
Theo dõi hương
trần, Long Thần chẳng nể;
Chỉ thích mùi
sằng, trọn không chán mõi
Mặt đào mát
hạnh, lôi kéo chẳng lìa;
Cây giác hoa
tâm, xây đi không đoái.
Hoặc ra phố chợ, hoặc vào bếp sau;
Thấy bẩn thèm
ăn, ưa nhơ kiếm nuốt.
Chẳng ngại tanh
hôi, không kiêng hành tỏi;
Mê mãi không
thôi, như lợn nằm ổ.
Hoặc chảy nước
mũi, hoặc hỉ đàm vàng;
Bôi cột quẹt
thềm, làm nhơ đất sạch.
Hoặc say nằm
ngủ, điện Phật phòng Tăng;
Hai mũi thở hơi,
xông kinh nhơ tượng.
Ngửi sen thành
trộm, nghe mùi thành dâm;
Không biết không
hay, đều do nghiệp mũi.
Những tội như
thế, vô lượng vô biên;
Sau khi mạng
chung, đọa ba đường khổ.
Trãi nghìn muôn
kiếp, mới được làm người;
Dù được làm
người, quả báo bệnh mũi.
Nghiệp Căn Lưỡi Là:
Tham đủ mọi mùi,
thích xét ngon dở;
Nếm hết các thứ,
biết rõ béo gầy.
Sát hại sinh
vật, nuôi dưỡng thân mình;
Quay rán cá
chim, nấu hầm cầm thú.
Thịt tanh béo
miệng, hành tỏi ruột xông;
Ăn rồi đòi nữa,
nào thấy no đâu.
Hoặc đến đàn
chay, cầu thần lễ Phật;
Cố cam bụng đói,
đợi lúc tiệc xong.
Sáng sớm ăn
chay, cơm ít nước nhiều;
Giống hệt người
đau, gắng nuốt thuốc cháo.
Mắt đầy mỡ thịt,
cười nói hân hoan;
Rượu chuốt cơm
mời, nóng thay nguội đổi.
Bày tiệc đãi
khách, cưới gả cho con;
Giết hại chúng
sinh, vì ba tất lưỡi.
Nói dối bày
điều, thêu dệt bịa thêm;
Hai lưỡi bỗng
sanh, ác khẩu dấy khởi.
Chửi mắng Tam
Bảo, nguyền rủa mẹ cha;
Khinh khi hiền
thánh, lừa dối mọi người.
Chê bai kẻ khác,
che dấu lỗi mình;
Bàn luận cổ kim,
khen chê này nọ.
Khoe khoang giàu
có, lăng nhục người nghèo;
Xua đuổi Tăng
Ni, chửi mắng tôi tớ.
Lời dèm thuốc
độc, nói khéo tiếng đàn;
Tô vẽ điều sai,
nói không thành có.
Oán hờn nóng
lạnh, phỉ nhổ non sông;
Tán dóc Tăng
phòng, ba hoa Phật điện.
Những tội như
thế, vô lượng vô biên;
Ví như cát bụi,
đếm không thể cùng.
Sau khi mạng
chung, vào ngục bạt thiệt; (kéo lưỡi)
Cày sắt kéo dài,
nước đồng rót mãi.
Quả báo hết rồi,
muôn kiếp mới sinh;
Dù làm được
người, lại bị câm bặt.
Nghiệp Căn Thân Là:
Tình cha huyết
mẹ, chung hợp nên hình;
Năm tạng trăm
hài, cùng nhau kết hợp.
Chấp cho là
thật, quên mất pháp thân;
Sinh dâm, sát,
trộm, bèn thành ba nghiệp.
Nghiệp Sát Sanh Là:
Luôn làm bạo ngược, chẳng khởi nhân từ;
Giết hại bốn
loài, đâu biết một thể.
Lầm hại cố giết,
tự làm dạy người;
Hoặc tìm thầy
bùa, đem về ếm đối.
Hoặc làm thuốc
độc, để hại sinh linh;
Chỉ cốt hại
người, không hề thương vật.
Hoặc đốt núi
rừng, lấp cạn khe suối;
Buông chài bủa
lưới, xuýt chó thả chim.
Thấy nghe tùy
hỉ, niệm dấy tưởng làm;
Cử động vận
hành, đều là tội lỗi.
Nghiệp Trộm Cắp Là:
Thấy tài bảo
người, thầm khởi tâm tà;
Phá khóa cạy
then, sờ bao mò túi.
Thấy của thường
trụ, lòng dấy khởi tham;
Trộm của nhà
chùa, không sợ thần giận.
Không những vàng
ngọc, mới mắc tội to;
Ngọn cỏ cây kim,
đều thành nghiệp trộm.
Nghiệp Tà Dâm Là:
Lòng mê nhan
sắc, mắt đắm phấn son;
Chẳng đoái liêm
trinh, riêng sanh lòng dục.
Hoặc nơi đất
Phật, chánh điện phòng Tăng;
Cư sĩ gái trai,
đụng chạm đùa giỡn.
Tung hoa ném
quả, đạp cẳng kề vai;
Khoét ngạch trèo
tường, đều là dâm nghiệp.
Những tội như
thế, vô lượng vô biên;
Đến lúc mạng
chung, đều vào địa ngục.
Gái nằm giường
sắt, trai ôm cột đồng;
Muôn kiếp tái
sinh, lại chịu tội báo.
Nghiệp Căn Ý Là:
Nghĩ vơ nghĩ
vẫn, không lúc nào dừng;
Mắc mưu tình
trần, kẹt tâm chấp tướng.
Như tằm kéo kén,
càng buộc càng bền;
Như bướm lao
đèn, tự thiêu tự đốt.
Hôn mê chẳng
tỉnh, điên đảo dối sinh;
Não loạn tâm
thần, đều do ba độc:
Tội keo tham là:
Âm mưu ghen
ghét, keo cú vơ vét;
Mười vốn ngàn
lời, còn cho chưa đủ.
Của chứa tợ
sông, lòng như hủ chảy;
Rót vào lại hết,
nên nói chưa đầy.
Tiền mục lúa hư,
không cứu đói rét;
Lụa là chất
đống, nào có giúp ai.
Được người mấy
trăm, chưa cho là nhiều;
Mất mình một
đống, tưởng như hao lớn.
Trên từ châu
báu, dưới đến tơ gai;
Kho đụn chất
đầy, chưa từng bố thí.
Bao nhiêu sự
việc, ngày tính đêm lo;
Khổ tứ lao thần,
đều từ tham nghiệp.
Tội nóng giận là:
Do tham làm gốc,
lửa giận tự thiêu;
Quắc mắc quát
to, tiêu tan hòa khí.
Không riêng
người tục, cả đến thầy tu;
Kinh luận tranh
giành, cùng nhau công kích.
Chê cả sư
trưởng, nhiếc đến mẹ cha;
Cỏ nhẫn héo
vàng, lửa độc rực cháy.
Buông lời hại
vật, cất tiếng hại người;
Không nhớ từ bi,
chẳng theo luật cấm.
Bàn thiền tợ
thánh, trước cảnh như ngu;
Dầu ở cửa không,
chưa thành vô ngã.
Như cây sinh
lửa, lửa cháy đốt cây;
Những tội trên
đây, đều do nghiệp giận.
Tội ngu si là:
Căn tánh đần
độn, ý thức tối tăm;
Chẳng hiểu tôn
ti, không phân thiện ác.
Chặt cây hại
mạng, giết gấu gãy tay;
Mắng Phật chuốt
ương, phun trời ước mặt.
Quên ơn quên
đức, bội nghĩa bội nhân;
Không tỉnh không
xét, đều do si nghiệp.
Những tội như
thế, rất nặng rất sâu;
Đến lúc mạng
chung, rơi vào địa ngục.
Trải muôn ngàn
kiếp, mới được thọ sanh;
Dù được thọ
sanh, lại mắc ngu báo.
Nếu không sám
hối, đâu được tiêu trừ;
Nay trước Phật
đài, thảy đều sám hối.
Nguồn: www.quangduc.com