(Bát Chánh Ðạo)
Phạm Kim Khánh
Tuy
nhiên,
với
bao
nhiêu
cố
gắng
và
thành
công
ấy
con
người
ngày
nay
có
hạnh
phúc
thật
sự
không?
Chúng
ta
có
thật
sự
không
còn
đau
khổ
nữa
không?
Bao
nhiêu
cố
gắng
ấy
có
giúp
chúng
ta
chặn
đứng,
làm
cho
thân
này
đừng
bệnh
hoạn,
đừng
đi
đến
già
nua
và
mãi
mãi
sống
đời
không?
Ta
có
còn
phải
sống
chung
với
người,
với
vật
hay
trong
hoàn
cảnh
mà
mình
không
ưa
thích,
còn
phải
xa
lià
người
hay
vật
thân
yêu
nữa
không?
Chúng
ta
có
luôn
luôn
thành
đạt
những
điều
mong
mỏi
không? Trong
khi
xác
nhận
bao
nhiêu
lợi
ích
mà
chúng
ta
đang
thừa
hưởng
từ
những
công
trình
chế
ngự
thiên
nhiên
đã
được
thực
hiện,
chúng
ta
cũng
nhận
định
rằng
con
người
vẫn
còn
phải
chịu
đau
khổ
và
chưa
viên
mãn
thành
đạt
hạnh
phúc
châu
toàn
mong
mỏi
từ
lâu.
Tại
sao?
-
Vì
phương
cách
mà
chúng
ta
áp
dụng
để
chữa
trị
bệnh
đau
khổ
không
nhằm
thẳng
vào
tận
gốc
rễ
của
chứng
bệnh.
Chúng
ta
chỉ
chữa
trị
trên
bề
mặt
mà
không
đi
sâu
vào
nguồn
gốc,
chỉ
nhìn
cái
ngọn
mà
không
quan
tâm
đến
căn
cội. Hạnh
phúc
và
đau
khổ
phát
sanh
từ
đâu
và
được
duy
trì
tại
đâu?
Vấn
đề
phát
sanh
nơi
nào
thì
ta
phải
giải
quyết
ngay
tại
đó.
Hânh
phúc
và
đau
khổ
phát
sanh
và
được
duy
trì
trong
tâm.
Ta
phải
giải
quyết
vấn
đề
hạnh
phúc
và
đau
khổ
ngay
chính
trong
tâm
này. Thay
vì
tìm
cách
sửa
đổi
hoàn
cảnh
bên
ngoài
để
thích
hợp
với
mình
Phật
giáo
dạy
nên
tự
sửa
đổi
chính
mình
để
sống
thích
ứng
với
bên
ngoài,
điều
hòa
với
thiên
nhiên,
phải
điều
chỉnh
cái
nhìn
của
mình
đối
với
sự
vật
để
có
một
quan
niệm
sống
điều
hợp
với
hoàn
cảnh,
nhằm
sửa
soạn
thân
tâm
hoàn
toàn
trong
sạch
và
cuối
cùng
thoát
ra
khỏi
mọi
hình
thức
đau
khổ. Chúng
ta
hãy
lắng
nghe
lời
Ngài
Acharn
Chah
khuyên
nhủ
một
cụ
già
sắp
lâm
chung: "...Nghĩ
rằng
cụ
muốn
tiếp
tục
sống
thêm
lâu
dài
sẽ
làm
cho
Cụ
đau
khổ.
Nhưng
nghĩ
rằng
Cụ
muốn
chết
ngay
trong
tức
khắc,
hay
sớm
chết
đi
cho
rồi,
thì
cũng
không
đúng.
Nó
cũng
làm
cho
Cụ
đau
khổ,
có
phải
vậy
không
thưa
Cụ?
Các
vật
hữu
lậu
không
thuộc
quyền
sở
hữu
của
ta.
Nó
phải
diễn
tiến
theo
những
định
lậut
thiên
nhiên
của
nó.
Về
phương
cách
mà
thân
này
phải
như
thế
nào
Cụ
không
thể
làm
gì
được.
Cụ
có
thể
làm
cho
nó
đẹp
hơn
đôi
chút,
hay
làm
cho
cái
hình
dáng
bề
ngoài
của
nó
có
phần
hấp
dẫn
và
sạch
sẽ
hơn
trong
một
lúc,
như
các
thiếu
nữ
điểm
trang
dồi
phấn
thoa
son,
để
móng
tay
dài...
Nhưng
khi
tuổi
già
đến
thì
tất
cả
mọi
người
đều
chung
một
hội
một
thuyền...
một
số
phận.
Thân
này
là
vậy.
Cụ
không
thể
làm
gì
khác.
Nhưng
cái
mà
Cụ
có
thể
cải
thiện,
làm
cho
đẹp
đẽ
hơn
là
tâm
của
mình. "
Bất
cứ
ai
cũng
có
thể
xây
dựng
một
ngôi
nhà,
bằng
gỗ
hay
bằng
gạch,
nhưng
Ðức
Phật
dạy
rằng
loại
nhà
ấy
không
phải
thật
sự
là
của
ta
mà
chỉ
là
của
ta
trên
danh
nghĩa,
theo
quy
ước,
trong
khái
niệm.
Nó
là
một
cái
nhà
trong
thế
gian.
Ngôi
nhà
thật
sự
của
chúng
ta
là
trạng
thái
an
tĩnh
bên
trong.
Một
cái
nhà
vật
chất
ở
ngoại
cảnh
có
thể
thật
đẹp,
nhưng
nó
không
mấy
an
tĩnh.
Nó
là
nguyên
nhân
tạo
đến
lo
âu
này
đến
lo
âu
khác,
băn
khoăn
tự
lo
nọ
đến
áy
náy
buồn
phiền
kia.
Ta
nói
rằng
nó
không
phải
là
ngôi
nhà
thật
sự
của
ta.
Nó
ở
ngoài
ta,
và
sớm
muộn
gì
rồi
ta
cũng
phải
bỏ
lại.
Nó
không
phải
là
nơi
chốn
mà
ta
có
thể
sống
vĩnh
viễn
trong
đó,
bởi
vì
không
thật
sự
thuộc
về
ta
mà
là
một
phần
của
thế
gian.
Cơ
thể
của
chúng
ta
cũng
vậy,
ta
chấp
thủ
là
tự
ngã,
là
"Ta"
và
"Của
Ta"
nhưng
thực
tế
không
phải
là
vậy.
Nó
là
một
cái
nhà
khác
của
thế
gian.
Thân
Cụ
đã
biến
đổi
theo
diễn
tiến
tự
nhiên
của
nó
từ
lúc
được
sanh
ra
đến
ngày
nay,
già
và
bệnh,
và
Cụ
không
thể
cấm
cản
nó
đổi
thay
vì
bản
chất
của
nó
là
vậy.
Muốn
cho
nó
khác
đi
cũng
điên
rồ
như
muốn
con
vịt
giống
con
gà.
Khi
nhận
thức
rằng
điều
này
không
thể
được,
con
vịt
phải
là
con
vịt,
con
gà
phải
là
con
gà
và
thân
này
phải
già
nua
và
chết...
Cụ
sẽ
phục
hồi
sức
mạnh
và
năng
lực.
Dầu
cụ
có
thiết
tha
mong
muốn
cho
thân
này
tiếp
tục
tồn
tại
lâu
dài
như
thế
nào
nó
sẽ
không
làm
được
như
vậy.
Ðức
Phật
dạy: "Aniccà
vata
sankhàrà
-
Uppàdavayadhammino "Các
pháp
hữu
vi
(sankhàrà,
các
vật
được
cấu
tạo)
là
vô
thường,
phải
sanh
rồi
hoại,
đã
có
sanh
tức
có
hoại
diệt
-
ngưng
nó
được
là
hạnh
phúc." Danh
từ
"Sankhàrà"
-
được
phiên
dịch
ở
đây
là
pháp
hữu
vi
-
hàm
ý
thân
và
tâm
này.
Các
Pháp
hữu
vi
thật
không
bền
vững,
bất
ổn
định.
Ðược
cấu
thành
nó
liền
tan
biến,
sanh
rồi
diệt
mặc
dầu
mọi
người
đều
muốn
nó
thường
còn.
Ðó
là
điên
rồ.
Hãy
nhìn
hơi
thở.
Di
chuyển
vào
trong,
rồi
đi
ra
ngoài.
Ðó
là
thiên
nhiên,
nó
phải
là
vậy.
Hơi
thở
vào
và
hơi
thở
ra
tiếp
nối
xen
kẽ
nhau:
Thở
vào
rồi
thở
ra,
thở
ra
rồi
thở
vào.
Phải
có
sự
thay
đổi.
Các
pháp
hữu
vi
được
hiện
hữu
là
do
có
biến
đổi.
Cụ
không
ngăn
ngừa
điều
này,
chỉ
nên
suy
tư
như
sau:
"Có
thể
nào
thở
ra
mà
không
thở
vào
đươc
chăng?
Nếu
thở
ra
mà
không
thở
vào
có
nghe
dễ
chịu
không?
Hay
có
thể
nào
chỉ
thở
vào
mà
không
thở
ra
chăng?
Chúng
ta
muốn
rằng
sự
vật
phải
thừơng
còn
nhưng
nó
không
thể
tồn
tại
lâu
dài,
không
thể
được.
Một
khi
hơi
thở
đi
vào,
nó
phải
trở
ra.
Khi
đi
ra,
nó
phải
vào
trở
lại,
đó
là
tự
nhiên.
Có
phải
vậy
không
Cụ?
Ðã
được
sanh
ra
tức
chúng
ta
phải
già
nua,
bệnh
hoạn,
rồi
chết.
Ðiều
này
hoàn
toàn
tự
nhiên
và
thông
thường.
Ðó
là
bởi
vì
các
pháp
hữu
vi
đã
làm
phận
sự
của
nó.
Cũng
vì
những
hơi
thở
vào
và
những
hơi
thở
ra
đã
xen
kẽ
nối
tiếp
nhau
đều
đặn
mà
loài
người
tồn
tại
đến
ngày
nay
..." Ðó
là
đường
lối
của
sự
vật.
Bản
chất
thiên
nhiên
của
sự
vật
là
vậy. Phật
Giáo
là
đạo
Giải
Thoát.
Giải
là
cởi
mở.
Ở
đây
là
"cởi
mở"
những
trói
buộc
để
"thoát"
ra
khỏi
mọi
hình
thức
đau
khổ
của
đời
sống. Con
ngườii
cố
gắng
thoát
khổ.
Nhưng
đời
sống
có
thật
sự
đau
khổ
không? Nhiều
người
vui
vẻ
mãn
nguyện
với
những
hạnh
phúc
ảo
huyền
và
tạm
bợ
của
đời
sống
và
tự
nghĩ
rằng
thế
gian
này
quả
thật
tốt
đẹp,
quả
thật
là
cảnh
giới
mà
họ
mong
mỏi.
Họ
tưởng
rằng
hạnh
phúc
lúc
nào
cũng
còn
phảng
phất
đâu
đây,
ở
một
góc
nào,
hay
có
lẽ
ở
bên
cạnh
mà
ta
chưa
hay
biết.
Họ
không
nhìn
xa
hơn,
không
nhìn
vượt
qua
khỏi
chân
trời
hạn
hẹp
của
mình.
Ðối
với
hạng
người
này
không
có
ai
là
Phật,
không
ai
thánh
thiện,
không
có
vị
giáo
chủ
hay
vị
lãnh
đạo
tinh
thần
nào
trên
thế
gian. Nhưng
đa
số
những
người
khác
thì
hiểu
biết
rõ
ràng
phần
đen
tối
phũ
phàng
ẩn
núp
dưới
lớp
mặt
nạ
thân
thiện
của
kiếp
nhân
sinh,
xuyên
qua
kinh
nghiệm
của
chính
bản
thân
họ
và
của
những
người
sống
quanh.
Dưới
mắt
họ
cuộc
sống
xem
hình
như
một
đại
dương
mênh
mông
sâu
thẳm
đầy
hiểm
họa
và
đau
khổ.
Trên
mặt
nước
chúng
sanh
bơi
lội,
lặn
hụp,
hay
cỡi
thuyền
lướt
sóng
đi
quanh
quẩn,
vài
người
mãn
nguyện,
hãnh
diện
với
số
phận
mình. Ðúng
rằng
có
những
lúc
trời
êm
biển
lặng,
buông
mình
thả
trôi
trên
mặt
nước
im
lìm
không
chao
động
thì
quả
thật
là
thích
thú.
Nhưng
những
ai
mở
mắt
nhìn
đời
và
mở
rộng
tâm
trí,
suy
tư
để
khỏi
bị
bề
mặt
giả
dối
của
thế
gian
phỉnh
gạt,
có
thể
nhận
định
rằng
bão
tố
có
thể
nổi
lên
bất
cứ
lúc
nào,
những
luồng
nước
lũ
có
thể
tuôn
đến
và
xoáy
tròn
nguy
hiểm
như
thế
nào,
và
bao
nhiêu
hiểm
họa
khác,
tiềm
tàng
sâu
ẩn
trong
lòng
biển
cả,
đang
chờ
đợi,
có
thể
trổi
dậy
bất
cứ
lúc
nào.
Ðang
bị
lôi
cuốn,
lăn
trôi
theo
những
thăng
trầm
của
thế
gian
biến
đổi
vô
cùng
tận
mắt
không
thể
tìm
ra
hạnh
phúc
vững
bền.
Mãi
mãi
triền
miên
lặp
đi
lặp
lại
những
kiếp
sống
khổ
đau
thật
là
đáng
sợ. Thử
nhìn
thực
tại
ở
quanh
ta.
Có
đời
sống
của
người
nào
từ
bé
đến
già
mà
phẳng
lặng
như
nước
ao
hồ,
không
bị
chút
lo
âu,
sợ
sệt
hay
sầu
muộn
làm
chao
động?
Có
gia
đình
nào
chưa
từng
khóc
cái
chết
của
một
người
thân?
Có
quả
tim
nào
chưa
từng
nhói
đau
vì
nghịch
cảnh?
Bao
nhiêu
người
đang
trằn
trọc
rên
xiết
hay
nằm
vùi
trên
giường
bệnh
và
bao
nhiêu
người
khác
đang
hồi
hộp,
lo
âu
và
phiền
muộn
vì
người
thân
lâm
trọng
bệnh?
Hằng
triệu
người
khác
đang
cố
bám
lấy
từng
hơi
thở
mà
hầu
như
không
còn
trở
lại.
Hằng
triệu
cha
mẹ,
con
cái,
bạn
bè,
đang
than
khóc
sự
ra
đi
của
thân
bằng
quyến
thuộc
--
ngay
trong
giờ
phút
này
và
trên
thế
gian
rộng
lớn
dãy
đầy
đau
khổ
này. Tất
cả
chúng
ta
đều
có
vấn
đề:
Những
vấn
đề
sinh
nhai,
vấn
đề
gia
đình,
sức
khỏe,
vấn
đề
xã
hội,
vấn
đề
kinh
tế,
vấn
đề
chính
trị,
vấn
đề
tâm
lý
v.v...
chí
đến
vấn
đề
tôn
giáo.
Có
vấn
đề
tức
là
có
gì
không
suông
sẻ,
có
gì
cần
phải
giải
quyết,
tức
là
trạng
thái
bất
ổn,
trạng
thái
xung
đột,
xung
đột
giữa
ý
muốn
của
ta
và
những
diễn
biến
của
đời
sống,
tức
có
gì
không
được
thỏa
mãn
hoàn
toàn,
có
tình
trạng
bất
toại
nguyện,
những
hình
thức
khác
nhau
của
đau
khổ.
Nếu
những
gì
mà
ta
gọi
là
vấn
đề
ấy
không
phải
là
bất
toại
nguyện
hay
đau
khổ
tại
sao
ta
cần
phải
cố
gắng
giải
quyết? Ta
lại
tự
hỏi:
"Trong
đời
sống
có
đau
khổ
mà
cũng
có
hạnh
phúc.
Tại
sao
chỉ
đề
cập
đến
đau
khổ
mà
lờ
hẳn,
không
nhắc
đến
hạnh
phúc?" Khổ
là
trạng
thái
không
thỏa
mãn,
bất
toại
nguyện,
làm
cho
ta
khó
chịu
đựng
và
như
thế
không
ai
muốn.
Nhưng
bất
hạnh
thay
không
ai
tránh
khỏi. Còn
hạnh
phúc
thì
ai
cũng
mong
tìm,
ai
cũng
khát
khao
muốn
thành
đạt.
Nhưng
chúng
ta
không
nhận
thức
rằng
hạnh
thức
chỉ
là
hình
thức
khác
của
đau
khổ.
Hạnh
phúc
và
đau
khổ
chỉ
giống
như
đầu
và
đuôi
của
con
rắn.
Khi
ta
đụng
vào
đầu
rắn
tức
thì
nó
cắn.
Ðó
là
đau
khổ,
hậu
quả
trực
tiếp
phát
sanh
trong
tức
khắc.
Nhưng
khi
nắm
đuôi
rắn
thì
ta
cảm
nghe
an
toàn.
Mặc
dầu
vậy
rắn
sẽ
quay
đầu
lại
cắn,
cùng
một
thế
như
khi
ta
đụng
vào
đầu
nó.
Ðó
là
hạnh
phúc.
Dầu
đụng
vào
đầu
hay
vào
đuôi
ta
vẫn
bị
rắn
cắn.
Phải
nhận
định
rằng
đầu
và
đuôi
rắn
chỉ
là
hai
phần
khác
nhau
của
con
rắn.
Cùng
thế
ấy,
hạnh
phúc
và
đau
khổ
chỉ
là
hai
phần
của
một
vấn
đề,
vấn
đề
đau
khổ. Trong
đời
sống
cái
được
gọi
hạnh
phúc
là
gì?
Hạnh
phúc
là
khi
ta
đạt
điều
mong
mỏi.
Ta
mong
có
tài
sàn.
Ðược
tài
sản
là
hạnh
phúc.
Muốn
danh
vọng.
Ðược
danh
thơm
tiếng
tốt
là
hạnh
phúc.
Muốn
quyền
thế,
được
quyền
thế
uy
lực
là
hạnh
phúc.
Truy
nhiên,
trong
thế
gian
vô
thường
không
ngừng
biến
đổi
này
tất
cả
mọi
sự
đều
nằm
trong
trạng
thái
luôn
luôn
trở
thành
một
cái
gì
khác
thì
cái
hạnh
phúc
mà
ta
khao
khát
bao
nhiêu
chỉ
ở
với
ta
trong
giây
phút
ma
ta
vừa
nắm
được
nó.
Tại
sao?
Vì
hạnh
phúc
là
thành
đạt
điều
mong
muốn,
nhưng
điều
mà
ta
mong
muốn
chỉ
tồn
tại
nhất
thời,
đối
tượng
mà
ta
khao
khát
mong
mỏi
quả
thật
phù
du
tạm
bợ.
Vớt
nước
lên
trong
lòng
hai
bàn
tay
và
mong
sẽ
giữ
mãi
mãi
trong
tay
thì
làm
sao
khỏi
thất
vọng?
Ðạo
hữu
Gunaratne
viết:
"Bây
giờ
ta
có
thể
tự
hỏi,
tại
sao
ái
dục
luôn
luôn
mang
đau
khổ
(Dukkha)
theo
vết
chân
của
mình?
Bởi
vì
ái
dục
là
khao
khát
ham
muốn
một
cái
gì
tự
nó
không
ngừng
biến
đổi,
là
chạy
theo
và
cố
bám
vào
cái
gì
tự
nó
không
thực
có.
Khi
con
người
cố
gắng
đuổi
bắt
một
mục
tiêu
huyền
ảo,
lờ
lững
như
thực
như
hư,
một
cái
gì
không
thể
bắt
được,
một
mục
tiêu
luôn
luôn
thụt
lùi
hay
tan
biến
khi
ta
gần
nó
thì
con
người
còn
có
thể
mong
mỏi
điều
gì
hơn
là
thất
vọng,
điều
gì
hơn
là
trạng
thái
bất
ổn,
không
điều
hòa,
tức
dukkha,
đau
khổ." Thử
lấy
một
thí
dụ.
Ta
mong
mỏi
được
có
tiền.
Tiền
đến,
Ta
cảm
nghe
sung
sướng
hạnh
phúc.
Thế
nhưng,
khi
nắm
được
tiền
trong
tay
ta
lại
lo
nghĩ
phải
làm
thế
nào
để
gìn
giữ.
Ta
lo
sợ
kẻ
trộm,
kẻ
cướp,
kẻ
lường
gạt.
Ta
suy
tư,
phải
làm
thế
nào
để
nó
sanh
lợi,
phải
dùng
thế
nào,
bao
nhiêu
vấn
đề
mới
lại
phát
sanh,
ắt
phải
lo
lắng
nghĩ
ngợi,
tức
đau
khổ. Hơn
nữa,
khi
có
được
tiền
của
ta
lại
mong
muốn
điều
khác,
lại
tự
tạo
cho
ta
những
khát
vọng
mới:
muốn
mua
sắm,
muốn
danh
lợi,
muốn
quyền
thế,
muốn
thay
đổi
khung
cảnh
sống,
muốn
sửa
đổi
cảnh
vật
cho
thích
hợp
với
lòng
khao
khát
của
mình.
Ðức
Phật
dạy
rằng
những
ai
đắm
say
trong
tham
vọng
sẽ
rơi
trở
vào
dòng
lôi
cuốn
của
lòng
khát
khao
ham
muốn,
như
nhện
sa
vào
lưới
của
chính
nó. Ðời
là
khổ.
Tuy
nhiên
dạy
như
thế
Ðức
Phật
không
khi
nào
cố
tình
khuyên
tất
cả
mọi
người
nên
từ
khước
những
lạc
thú
trần
gian,
vào
rừng
tìm
nơi
thanh
vắng
để
lo
tu
hành.
Ðức
Phật
đạt
toàn
thể
giáo
lý
của
Ngài
trên
nền
tàng
đau
khổ
(dukkha)
nhưng
khônbg
bao
giờ
phủ
nhận
những
lạc
thú
trong
đời.
Bộ
Tăng
Nhứt
A
Hàm
có
liệt
kê
dong
dài
những
hạnh
phúc
mà
chúng
sanh
có
thể
thọ
hưởng.
Chúng
ta
không
tìm
cách
xa
lánh
những
hạnh
phúc
vật
chất,
nhưng
hiểu
biết
rằng
nó
chỉ
là
tạm
bợ
nhất
thời.
Thọ
hưởng
những
lạc
thú
vật
chất
nhưng
không
làm
nô
lệ
cho
thể
xác.
Phật
giáo
dạy
ta
nên
tận
lực
cố
gắng,
kiên
trì
nỗ
lực,
luôn
luôn
giữ
tâm
trong
sạch
và
thận
trọng
thu
thúc
dục
vọng. Có
thân
tức
có
già,
có
bệnh,
có
chết,
có
khổ
v.v...
Ta
không
thể
sửa
đổi
thiên
nhiên,
hay
chỉ
có
thể
làm
được
một
cách
vá
víu
tạm
bợ.
Phải
hiểu
rõ
bản
chất
thiên
nhiên
của
đời
sống
là
vậy.
Phải
thấm
nhuần
chân
lý
này.
Không
thể
sửa
đổi
thiên
nhiên,
mà
chỉ
có
thể
kiểm
soát
và
sửa
đổi
cái
tâm
của
chính
mình,
làm
cho
nó
thích
hợp
với
thiên
nhiên. Pháp
hành
thiền
trong
Phật
giáo
là
rèn
luyện
tâm.
Trước
tiên,
lắng
tâm
an
trụ
vào
một
điểm,
làm
cho
nó
trở
nên
vắng
lặng,
sáng
tỏ
và
có
nhiều
năng
lực,
rồi
dùng
tâm
lực
dũng
mãnh
ấy
quán
chiếu
thâm
sâu
vào
sự
vật,
thấu
triệt
thực
tứơng
của
sự
vật,
thấy
sự
vật
đúng
như
sự
vật
là
như
vậy,
không
phải
như
mình
nghĩ
rằng
nó
là
như
vậy,
tức
nhìn
sự
vật
dưới
ánh
sáng
của
ba
đặc
tướng:
Vô
thường,
Khổ
và
Vô
ngã. Khi
nhận
định
đúng
rằng
trên
thế
gian
huyền
ảo,
tạm
bợ
và
vô
thường
này,
chí
đến
cái
mà
ta
gọi
là
hạnh
phúc
cũng
không
thể
tồn
tại
vì
những
điều
kiện
tạo
duyên
cho
nó
phát
sanh
luôn
luôn
biến
đổi
và
do
đó
không
thể
có
hạnh
phúc
thật
sự
vững
bền
Phật
Giáo
đi
tìm
nguồn
gốc
của
đau
khổ. Không
có
người
suy
tư
nào
phủ
nhận
sự
hiện
hữu
của
đau
khổ,
hay
bất
toại
nguyện,
trên
thế
gian.
Nhưng
về
nguyên
nhân
sanh
khổ
các
hệ
thống
tín
ngưỡng
đã
giải
thích
bằng
nhiều
phương
cách
khác
nhau. Trong
tư
tưởng
Phật
giáo
không
có
một
siêu
lực
huyền
bí
cầm
quyền
tưởng
thưởng
công
đức
và
hình
phạt
những
tội
ác
của
con
người.
Không
có
thửơng
hay
phạt
đến
với
ta
từ
bên
ngoài,
bên
trên,
mà
có
nhân
quả,
tức
hành
động
và
phản
ứng
của
hành
động.
Và
theo
chiều
hướng
hiểu
biết
này,
mỗi
người,
mỗi
chúng
sanh
là
vị
kiến
trúc
sư
xây
đắp
số
phận
của
mình.
Chính
ta
tạo
thiên
đàng
cho
ta
và
cũng
chính
ta
tạo
địa
ngục
cho
ta.
Ðau
khổ
mà
con
người
phải
chịu
hôm
nay
là
hậu
quả
dĩ
nhiên
của
những
nghiệp
bất
thiện
mà
con
người
đã
tạo
lúc
nào
trong
qúa
khứ.
Trong
khi
phần
lớn
những
tư
tưởng
gia
tìm
đến
một
thần
lực
huyền
bí
hay
một
nguyên
lý
bên
ngoài,
bên
trên
con
người
để
giải
thích
nguồn
gốc
đau
khổ
của
nhân
loại
thì
Ðức
Phật
nhìn
vào
bên
trong
con
người
để
tìm
nguyên
nhân
chứng
bệnh
đau
khổ
của
con
người.
Và
Ngài
đi
đến
kết
luận:
Những
đau
khổ
"của
tôi"
là
do
hành
động
"của
tôi".
Và
hành
động
"của
tôi"
là
do
ái
dục
"của
tôi"
thúc
đẩy. Chính
ái
dục
làm
động
cơ
thúc
đẩy
đến
hành
động
tạo
nghiệp
bất
thiện
bằng
thân,
khẩu
hay
ý.
Cũng
chính
ái
dục,
nằm
trong
phạm
vi
ảnh
hưởng
của
vô
minh,
thúc
đẩy
con
người
luyến
ái,
đeo
níu,
bám
chặt
vào
đời
sống,
và
lòng
ham
muốn
khát
khao
ấy
lôi
cuốn
con
người
triền
miên
lăn
trôi
từ
kiếp
sống
này
đến
kiếp
khác.
Có
sống
tức
có
khổ. Con
người
có
sáu
cửa
để
ngoại
cảnh
thâm
nhập
vào
gọi
là
lục
nhập
hay
lục
môn.
Sáu
cửa
này
tác
động
qua
lục
căn
là
nhãn,
nhĩ,
tỷ,
thiệt,
thân,
ý
và
có
sáu
đối
tượng
là
sắc
thinh,
hương,
vị,
xúc,
pháp,
mỗi
cửa
mỗi
đối
tượng. Trong
bộ
Trường
A
Hàm
(Dĩgha
Nikàya)
có
đoạn: "Ái
dục
bắt
nguồn
từ
đâu
và
phát
sanh
ở
đâu?
Nơi
nào
có
thỏa
thích
và
dục
lạc,
nơi
đó
có
ái
dục
bắt
nguồn
và
phát
sanh.
Sắc,
thinh,
hương,
vị,
xúc,
pháp
có
thỏa
thích
và
dục
lạc.
Vậy
ái
dục
bắt
nguồn
từ
đó
và
phát
sanh
ở
đó." Khi
mắt
(nhãn
căn)
tiếp
xúc
với
một
hình
thể,
(nhãn
trần)
tức
có
sự
thấy
(nhãn
thức).
Khi
tai
(nhĩ
căn)
tiếp
xúc
với
một
âm
thanh
(nhĩ
trần)
tức
có
sự
nghe
(nhĩ
thức)
v.v...
Thấy
những
hình
sắc
đẹp,
nghe
những
âm
thanh
êm
dịu
hay
những
lời
khen
tặng,
ngửi
những
mùi
thơm,
nếm
những
món
ngon
vật
lạ,
thọ
hưởng
những
cảm
xúc
dễ
chịu
hay
có
những
ý
nghĩ
tốt
đẹp
thì
ta
ưa
thích,
luyến
ái,
bám
níu
v.v...
những
hình
ảnh
khác
nhau
của
ái
dục.
Trái
lại,
những
hình
sắc
ghê
tởm,
những
âm
thanh
nghịch
nhĩ,
những
mùi
hôi
thúi
v.v...
làm
cho
ta
khó
chịu,
ghét
bỏ,
xua
đuổi. Dầu
ưa
thích
hay
ghét
bỏ,
ta
vẫn
giữ
trong
lòng.
Ưa
thích
thì
ôm
vào
giữ
chặt
lại,
còn
ghét
bỏ
thì
xua
đuổi,
đẩy
ra.
Ôm
vào
hay
đẩy
ra,
nó
vẫn
ở
trong
tâm
mình
và
từ
trong
tâm,
biểu
hiện
ra
bằng
hành
động
và
lời
nói.
Chính
thân,
khẩu,
ý
tạo
nghiệp
và
đưa
đẩy
ta
lạc
lối
trong
khu
rừng
mênh
mông
đầy
chông
gai
và
đá
nhọn
gọi
là
đời
sống
của
muôn
loài
vật. Ta
gọi
là
lục
thức,
sáu
sự
hay
biết
xuyên
qua
lục
căn,
nhưng
trong
thực
tế
nó
chỉ
là
cái
tâm,
một
cái
tâm
xuất
hiện
ở
sáu
nơi.
Theo
Vi
Diệu
Pháp
(Abhidhamma),
không
có
sự
khác
biệt
giữa
các
danh
từ
citta
(tâm),
nãma
(danh),
mana
(ý)
và
vinnãna
(thức).
Khi
phân
tách
cái
được
gọi
là
chúng
sanh
làm
hai
phần
thì
phần
tinh
thần,
tức
phần
tâm
linh,
được
gọi
là
danh
(nãma).
Khi
phân
cái
được
gọi
chúng
sanh
làm
năm
uẩn
(pancakkhandha)
thì
phần
ấy
được
gọi
là
thức,
(vinnãna,
thức
uẩn).
Còn
danh
từ
citta
thì
luôn
luôn
được
dùng
khi
đề
cập
đến
những
loại
tâm
khác
nhau.
Trong
những
trường
hợp
lẻ
loi,
theo
nghĩa
thông
thường
của
tâm,
cả
hai
danh
từ
citta
và
mana
thường
được
dùng. Như
vậy
ái
dục
phát
sanh
từ
trong
tâm.
Nhìn
và
quan
sát
tâm
tức
là
ghi
nhận
(có
trí
nhớ)
và
hiểu
biết
rõ
ràng
bản
chất
của
đối
tượng
khi
nó
phát
sanh
ở
một
trong
sáu
căn. Khi
lục
căn
tiếp
xúc
với
lục
trần
chỉ
có
sự
thấy
hình
thể,
sự
nghe
âm
thanh
v..v...
mà
thôi.
Chính
ý
căn
nhận
ra,
hiểu
biết
đối
tượng
và
do
ảnh
hưởng
của
luồng
nghiệp
ngủ
ngầm
(ansaya),
vốn
mang
theo
với
nó
những
khuynh
hướng
tâm
tánh
của
ta
từ
vô
lượng
kiếp
ta
có
những
hành
động
và
lời
nói
như
thế
nào Thí
dụ
như
người
Phật
tử
thuần
thành,
khi
thấy
một
pho
tượng
Phật
thì
hồn
nhiên
chắp
tay
hay
khấu
đầu
đảnh
lễ.
Mắt
người
ấy
tiếp
xúc
với
pho
tượng.
Có
sự
thấy.
Ý
nhận
ra
đó
là
pho
tượng
Phật.
Tâm
tánh
ngủ
ngầm
trong
luồng
nghiệp
(anusaya)
thúc
dục
anh
ta
đảnh
lễ.
Trong
một
trường
hợp
khác,
khi
anh
nọ
thấy
một
người
mà
trứơc
kia
anh
vẫn
có
ác
cảm.
Lóng
ác
cảm
vẫn
còn
ngủ
ngầm
trong
luồng
nghiệp.
Giờ
đăy
hình
sắc
kia
khiêu
gợi
khuynh
hướng
tâm
tánh
ngủ
ngầm,
thúc
đẩy
anh
có
những
hành
động
và
lời
nói
kém
thân
thiện. Vì
vô
minh,
không
thấy
đúng
sự
thật,
chúng
ta
đồng
hóa
lục
căn
với
"Ta",
xem
mắt,
tai,
mũi
v.v...
là
"Ta",
chúng
ta
tự
đồng
hóa
với
ngũ
uẩn,
xem
sắc,
thọ,
tưởng,
hành,
thức
là
ta
rồi
chấp
thủ,
khư
khư
bám
chặt
lấy
cái
"Ta
"
ấy
và
những
cái
gì
gọi
là
"Của
Ta".
Ta
không
nhận
thức
rằng
cái
gọi
là
"Ta"
ấy
chỉ
là
sự
kết
hợp
của
năm
uẩn,
và
mỗi
uẩn
lại
là
sự
kết
hợp
của
nhiều
thành
phần
luôn
luôn
biến
đổi.
Không
có
gì
đơn
thuần
nguyên
vẹn
và
thường
còn
y
hệt
trong
hai
khoảnh
khắc
kế
tiếp
mà
có
thể
gọi
là
"Ta".
Nhưng
ta
vẫn
chấp
nhận
thân
này
là
"Ta",
là
"Của
Ta",
mắt
này
là
của
ta
và
nói
"Tôi
thấy"
,
"Tôi
nghe",
"Tôi
đánh
mùi"
v.v...
Ta
cũng
chấp
nhận
cảm
giác
"Thọ
uẩn
"
này
là
"Ta"
hay
"Của
Ta"
và
nói
"Tôi
vui",
Tôi
buồn"
,
cái
buồn
hay
cái
vui
ấy
là
"Của
Tôi"
v.v...
Do
đó,
mắt
muốn
thấy
hình
sắc
đẹp.
Tai
muốn
nghe
âm
thanh
êm
dịu,
Mũi
muốn
ngửi
mùi
thơm
tho,
lưỡi
muốn
nếm
món
ngon
vật
lạ,
thân
muốn
cảm
xúc
về
nhục
dục
và
tâm
muốn
có
những
cảm
nghĩ
dễ
chịu,
những
tư
tưởng
làm
thỏa
mãn
giác
quan. Thử
lấy
một
thí
dụ:
Loại
ái
dục
đầu
tiên
phát
sanh
do
nhãn
quan.
Rất
khó
mà
kiểm
soát
và
thu
thúc
nhãn
căn,
bởi
vì
bao
nhiêu
hình
sắc
đẹp
đẽ
của
ngoại
cảnh
luôn
luôn
sẵn
sàng
làm
cho
ta
xao
xuyến.
Ðức
Phật
dạy
rằng
trên
đời
không
có
chi
làm
cho
tâm
một
người
đàn
ông
chao
động
dễ
dàng
bằng
hình
dáng
của
người
đàn
bà.
và
không
có
chi
làm
cho
tâm
người
phụ
nữ
rung
động
dễ
dàng
bằng
hình
dáng
của
người
đàn
ông.
Lịch
sử
nhân
loại
đã
từng
chứng
tỏ
rằng
bao
nhiêu
cơ
đồ
đã
bị
sụp
đổ
và
bao
nhiêu
công
nghiệp
đã
suy
tàn
chỉ
vì
sắc
đẹp.
Cũng
vì
lẽ
ấy
mà
Ðức
Phật
hằng
khuyên
dạy
hàng
tín
đồ
nên
luôn
luôn
cẩn
mật
thận
trọng
trong
việc
kiểm
soát
nhãn
quan,
như
người
lính
gác
cửa
thành,
từng
phút,
từng
giây
canh
chừng
quân
địch.
Một
khoảnh
khắc
lơ
đễnh
có
thể
gây
hậu
quả
vô
cùng
tai
hại. Mắt
bị
rung
động
vì
hình
sắc,
tai
bị
cảm
xúc
vì
âm
thanh,
mũi
bị
kích
thích
vì
hương,
lưỡi
vì
vị.
Thân
của
ta
cũng
là
một
nhịp
cầu
để
cho
ngoại
trần
thâm
nhập
và
làm
say
mê
sa
đọa.
Tâm
hay
ý,
cũng
bị
ảnh
hưởng
xấu
xa
của
những
tư
tưởng
tham
ái. Vào
thời
Ðức
Phật
có
những
người
phạm
tội
ác
như
cướp
của
giết
người
hay
phá
khuấy
dân
cư,
bị
dẫn
đến
vua
xứ
Kosala.
Vua
truyền
lệnh
dùng
dây
thừng,
dây
gai,
xích
trói
các
tội
nhân
ấy.
Lúc
bấy
giờ
có
ba
mươi
vị
sư
từ
thôn
quê
đến
hầu
Phật,
vào
đảnh
lễ
Ngài
xong
xin
kiếu
về
tịnh
thất. Qua
này
hôm
sau
các
vị
sư
ấy
vào
thành
Savatthi
(Xá
Vệ)
trì
bình,
đi
ngang
qua
khám
đường
và
thấy
các
tù
nhân.
Lúc
trở
về
chùa,
vào
buổi
chiều
các
vị
đến
hầu
Phật,
và
bạch
hỏi
Ngài,
"Bạch
Hóa
Ðức
Thế
Tôn,
hôm
nay
trong
khi
đi
trì
bình
chúng
con
đi
ngang
qua
khám
đường,
thấy
các
tù
nhân
bị
trói
bằng
dây
thừng,
dây
gai
và
xích
lại.
Trông
hình
như
họ
đang
chịu
đau
khổ
vô
cùng.
Họ
không
thể
phá
vỡ
gông
cùm
để
thoát
thân.
Bạch
Hóa
Ðức
Thế
tôn,
có
chăng
những
trói
buộc
chặt
chẽ
hơn?" Ðức
Phật
giải
thích:
"Này
chư
Tỳ
Khưu,
các
dây
trói
buộc
ấy
thật
không
chặt
chẽ
đâu,
nếu
so
sánh
với
những
trói
buộc
của
đam
mê
xấu
xa
đê
tiện,
trói
buộc
của
ái
dục,
trói
buộc
của
lòng
luyến
ái,
bám
niú
vào
tài
sản,
sự
nghiệp,
con
cái,
vợ
chồng.
Ðó
là
trói
buộc
cả
trăm
lần,
hơn
nữa,
cả
ngàn
lần
chặt
chẽ
và
vững
chắc
hơn
các
loại
dây
mà
các
con
thấy.
Tuy
nhiên,
dầu
các
trói
buộc
ấy
có
chặt
chẽ
đến
đâu,
bậc
thiện
tri
thức
vẫn
phá
vỡ
được." Và
Ngài
dạy:
"Dây
làm
bằng
sắt,
gỗ
hay
gai,
ràng
buộc
không
bền
chặt.
Bậc
thiện
tri
thức
dạy
như
thế.
Dây
luyến
ái
bám
niú
vào
kim
cương,
đồ
trang
trí
vợ,
con,
là
trói
buộc
bền
chặt
hơn
nhiều. "Trói
buộc
ấy
thật
bền
chặt,
bậc
thiện
tri
thức
dạy
như
vậy.
Nó
kéo
trì
xuống,
mềm
mỏng
dịu
dàng,
nhưng
rất
khó
tháo
gỡ.
Chính
dây
ấy,
nguời
thiện
tri
thức
cũng
cắt
lìa
và
từ
bỏ
thế
gian,
không
luyến
ái
và
từ
khước
mọi
dục
lạc."
(Kinh
Pháp
Cú,
câu
345
và
346) Trong
quyển
Paticca
Samupàda,
Pháp
Tùy
Thuộc
Phát
Sanh,
Ðại
Ðức
Piyadassi
viết: "Con
người
luôn
luôn
bị
thích
thú
và
dục
lạc
thu
hút.
Trong
khi
mưu
tìm
thích
thú
và
dục
lạc
con
người
không
ngừng
chạy
theo
và
cố
bám
lấy
những
đối
tượng
tương
ứng
của
lục
căn
(tức
là
lục
trần).
Nhưng
ít
khi
con
người
nhận
thức
rằng
không
có
số
lượng
sắc,
thinh,
hương,
vị,
xúc.
pháp
nào
có
thể
hoàn
toàn
thỏa
mãn
mắt,
tai,
mũi,
lưỡi,
thân,
hay
ý.
Trong
khi
mãnh
liệt
khát
khao
được
có
quyền
sở
hữu,
hay
được
thỏa
mãn
tham
vọng
con
người
càng
tự
ràng
buộc
mình
vào
bánh
xe
luân
hồi,
càng
bị
dày
vò
xô
xát
và
khổ
sở
quằn
quại,
vướng
mắc
trong
những
cây
căm
của
vòng
bánh
xe."
1993/2536
Uppajjitvà
nirujjhanti
-
Tesam
vupasamo
sukho."
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
Nguồn: www.quangduc.com