Khai Thị Đại Sư Tuyên Hóa Việt dịch: Ban Phiên Dịch Đại Học Pháp Giới,
Vạn Phật Thánh Thành
Phần
05
42. Thái Thượng Lão Quân Thanh Tịnh Kinh
43. Đạo Tràng Của Chánh Pháp Trụ Thế
44. Cảnh Giới Của Thời Đại Chánh Pháp
45. Giải Thích Cấu Tạo Chữ "Đạo"
46. Thất Tình Làm Chướng Ngại Tâm Tu Đạo
47.
Chín Pháp Giới Chúng Sanh Đều Điên Đảo
48.
Học Thần Thông Để Báo Thù ?
49. Bốn Kiếp Thành, Trụ, Hoại, Không Của Thế Giới
50. Xuất Gia - Bố Thí Một Cách Triệt Để
Kinh
Hoa Nghiêm nói: Trên vô số báo thân của chư Phật hiện ra vô
số các lỗ chân lông. Tại mỗi lỗ chân lông lại hiện ra các
cõi của chư Phật, hiện ra cả bông sen quý to lớn và vô
số các lá sen. Mỗi lá lại phóng hào quang, mỗi tia hào quang
lại phóng quang nữa, hiện ra bao nhiêu sắc tướng, vô cùng vô
tận. Trong hào quang hiện ra mặt trăng, trong mặt trăng lại có
mặt trăng. Những loại cảnh giới đó là do chư Phật biến
hiện ra.
Tư
tưởng của chúng ta còn dơ dáy hơn gấp bội các con giòi
bọ trong cầu tiêu, nó chứa đựng toàn là những thứ tà tri
tà kiến, chẳng có chút nào chánh tri chánh kiến. Tư tưởng
càng dơ bẩn, thì càng nghĩ tới những điều dơ bẩn, thậm
chí tạo thành một thế giới dơ bẩn, đầy sự nhiễm ô,
cho nên mới biến thành ngũ trược ác thế (thế giới ác có
năm thứ không trong sạch.)
Ngũ
trược ác thế là do chúng ta có những tư tưởng không thanh
tịnh mà tạo thành. Thế giới Ta-bà này, nguyên nó không ô
trược, chính do chúng ta làm cho nó thành ô trược. Ngũ trược
gồm kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh
trược, mạng trược, năm thứ không trong sạch, đáng sợ
biết chừng nào !
Trong
tâm chúng ta có những niệm không chánh đáng, đại khái như
có niệm tật đố chẳng hạn, cùng niệm chướng ngại, thường
thường nổi lên mà chúng ta không thừa nhận, lại đem dấu
bên trong, cho là không ai biết. Kỳ thực hành vi đó còn mười
phần xấu xa hơn của bọn yêu ma quỷ quái. Nói trắng ra, nó
xấu xa đến độ có thể sánh với hành động phóng ra uế
khí và mùi xú uế xông tới tận tầng trời ba mươi ba
khiến Ngọc Hoàng Đại Đế phải bịt mũi mà chạy. Các vị
nghĩ coi! Mùi xú uế đó lợi hại hay không lợi hại? Mùi hôi
thối không thể nào chịu được.
Tư
tưởng và hành vi của mình cũng hôi thối như vậy, mà mình
không tự biết, còn tự cho mình là thanh cao, có biết đâu
rằng ta đã làm ô nhiễm cái thế giới này. Bởi đó mà có
ngũ trược ác thế.
Các
vị nên biết, chúng ta có một niệm chánh tức chúng ta đã
giúp vào cái chánh khí của trời đất; một niệm tà tức là
phát ra mùi xú uế, uế khí xông lên, trời đất không chịu
nổi. Đây không phải là lời nói chơi, một câu chuyện đùa,
chính ra là nó như thế.
Tại
sao trời làm hạn hán mà không có mưa? Vì người ta phóng ra
uế khí, xông lên tận hư không, khiến cho loài rồng chuyên làm
mưa không chịu nổi mùi uế khí, phải chạy đi nơi khác nên
không hoàn thành được nhiệm vụ của nó.
Chúng
ta học Phật pháp là để tu đạo, tu đạo là để thành
Phật; muốn thành Phật, ắt phải học Phật pháp; học Phật
pháp nhất định phải tu đạo, có tu mới thành Phật, đây
là đạo lý bất di bất dịch. Trong thời gian tu đạo thì
mọi hành động mọi tạo tác đều vượt ra ngoài phạm vi tư
tưởng cùng hành vi của thế gian. Người đời thì còn dính
mắc với sanh hoạt của gia đình, còn ham khoái lạc sung sướng,
ham thụ hưởng. Người xuất gia thì sống ngược hẳn lại,
xả bỏ khoái lạc, xả bỏ an vui, xả bỏ hưởng thụ. Người
ta nói: "Xả bất liễu tử, hoán bất liễu sanh; xả
bất liễu giả, thành bất liễu chân." Tức là: Không
xả được cái chết, không đổi được sự sống; không xả
được cái giả, không thành được cái chân. Buông bỏ cái
giả xuống thì lượm cái chân lên. Học Phật pháp, phải tu
đạo. Đạo thực ra là gì? Đạo không có hình tướng gì
cả, bởi vậy Lão tử nói rằng:
Đại
đạo vô hình, sinh dục Thiên địa. Đại đạo vô tình, vận
hành nhật nguyệt. Đại đạo vô danh, trưởng dưỡng vạn
vật. Ngô bất tri kỳ danh, cưỡng danh vị đạo. Phù đạo
giả, hữu thanh hữu trược, hữu động hữu tĩnh, thiên thanh
địa trược, thiên động địa tĩnh. Nam thanh nữ trược, nam
động nữ tĩnh, giáng bổn lưu mạt, nhi sanh vạn vật.
Trên
đây là một đoạn kinh văn trong Thanh Tịnh Kinh của Lão tử.
Lão tử phân tích nghĩa "đạo" một cách rõ ràng, có
thể dùng để tham khảo.
Truyền
thuyết trong Phật giáo thì ghi rằng Lão tử chính là hóa
thân của tôn giả Đại Ca-diếp, bởi Tôn giả ưa thích già
lão, dù già nhưng chí không già, khi đã luống tuổi rồi
vẫn còn tinh cần tu hạnh đầu-đà, thường ăn những thứ
người ta không ăn được, mặc những đồ người ta không
thèm mặc, trú ngụ tại những nơi người ta không trú được,
đây chỉ là mấy điều trong mười hai điều khổ hạnh của
Tôn giả mà người đời sau thường lấy đó làm mực thước.
Theo
truyền thuyết thì Lão tử ở trong bụng mẹ tám mươi mốt năm
trước khi ra đời. Tại sao như vậy? Bởi trong một kiếp trước
Lão tử từng học kinh Dịch nên ít nhiều có sự tâm đắc,
và đối với Bát-tự về thời điểm sanh, ông nghiên cứu
kỹ để chọn lựa thời gian nào ra đời tốt đẹp nhất, căn
cứ theo sự phối hợp của năm, tháng, ngày, giờ (bốn yếu
tố thời gian này tính theo cả can và chi, nên gọi là
Bát-tự [tám chữ]), lúc đó ông mới ra đời. Có điều,
gặp được năm tốt thì tháng lại không tốt, gặp được
tháng tốt thì ngày lại không tốt v.v.. cứ như thế ông
chờ tới tám mươi mốt năm mà không kiếm ra được một
thời điểm cát tường. Khi ông ra đời, đầu tóc đã bạc,
râu đã bạc, nhưng tinh thần lại trẻ, đúng là "hạc
phát đồng nhan" (tóc trắng như hạc, dung nhan thì trẻ),
không có vẻ gì là già lọm khọm. Bởi vậy, người đời
gọi ông là Lão tử.
Lão
tử sanh vào thời Đông Châu, đồng thời với Khổng tử.
Sử ký chép rằng: "Khổng tử hỏi Lão Đam (Lão tử) về
l, khi về có cái cảm thán (người đó) cũng giống như
rồng." Triều đại nhà Châu, Lão tử có làm chức
Thủ-tạng-lại (người coi thư viện), về sau ông cỡi trâu
xanh, khi đi qua cửa quan Hàm Cốc, bị quan Lệnh doãn Hỷ
nhận ra, ông này đến cầu mà học được đạo. Lão tử
nói hai thiên Đạo Đức Kinh, thiên trên nói về đạo, thiên
dưới nói về đức, tổng cộng hơn năm ngàn lời. Về sau
không ai biết tung tích gì nữa.
Lão
tử nghiên cứu thiên văn học, lại nghiên cứu địa lý học,
đối với nhân văn ông cũng nghiên cứu, do đó ông viết ra
bộ kinh gọi là Thanh Tịnh Kinh. Kinh văn như sau :
Đại
đạo vô hình, sinh dục thiên địa: Vũ trụ lớn rộng như
vậy, nhưng lại do đạo mà sanh ra. Nếu không có đạo, thì
trời đất, trăng sao v.v.. đều không có, tất cả chỉ là
một cái thể hỗn độn. Bởi có đạo nên mới có trời, đất,
vạn vật, rồi có Tiên, Phật, thánh nhân.
Rốt
cuộc đạo là cái gì? Đạo không có hình tướng, nhưng có
tác dụng "sinh sinh bất tức, hóa hóa vô cùng." Đạo
cũng là cái O (vòng tròn), vậy mới có thể sanh trời, sanh đất,
sanh vạn vật, sanh Tiên, Phật, Thánh nhân. Cái đó đều do
từ tính chất của cái O mà ra.
Đại
đạo vô tình, vận hành nhật nguyệt: Đại đạo thì không
có tình cảm, đối trước vạn vật thì bình đẳng; không
giống như con người, hành động trong tình cảm, có nhân
tình, có ái tình. Người xuất gia cũng có đạo tình - quý
vị thấy đó! Tu đạo phải nên dứt tình, phải vô tình,
một chút cảm tình cũng nên bỏ, tức là "quét hết
thẩy tình, đoạn hết thẩy dục." Có người nói: "Như
vậy là giống như cây cỏ bất nhân hay sao?" Không phải
vậy. Đó là hiện tượng vượt pháp thế gian.
Mặt
trời là tinh hoa của yếu tố dương, mặt trăng là tinh hoa
của âm, cả hai đều vận hành bất tuyệt trong quỹ đạo,
do đó mới có bốn mùa là xuân, hạ, thu, đông, chi tiết hơn
thì phân ra thành hai mươi bốn tiết, bẩy mươi hai hậu.
Tiết và hậu đều phát sinh từ sự vận hành của mặt trăng
và mặt trời vậy.
Đại
đạo vô danh, trưởng dưỡng vạn vật: Đại đạo không có
tên, nhưng hết thẩy vạn vật đều từ trong đại đạo mà
sanh ra và lớn lên. Cảnh giới này, càng nghiên cứu càng
thấy nó ảo diệu vô cùng.
Khi
tôi mới mười sáu tuổi, tôi đã từng làm bài kệ sau đây:
"Vạn vật nhân đạo sanh, đắc giả tự thông linh, ngộ
triệt cá trung lý, Bồ-đề bất giảm tăng," đại ý như
thế này: Hết thẩy mọi thứ đều do đạo mà sanh ra. Ai
muốn thì sẽ có trí huệ, sẽ thông đạt mọi thứ không
trở ngại, và hết thẩy đều sáng tỏ. Có tam thân, tứ trí,
ngũ nhãn, lục thông. Tại sao Phật lại được như thế?
Bởi vì Phật đắc đạo, đã được khai ngộ, đã chứng
Phật quả. Chúng ta tại làm sao không được như thế? Bởi
vì chúng ta bị tập khí ràng buộc một cách kiên cố, khiến
cho thủy chung không hề có sự canh cải để đổi mới, nên
không biết phân biệt rõ ràng. Nếu như có trí huệ, tự
nhiên sẽ có nhận định phân minh về các diệu lý, biết đạo
giác ngộ là không tăng cũng không giảm, vì tới đây là đã
đạt được quả vị vô học.
Ngô
bất tri danh, cưỡng danh vị đạo: Lão tử nói rằng: "Ta
không biết tên của nó là gì, ấy là ta miễn cưỡng đặt
cho nó một cái tên, gọi là 'Đạo' mà thôi!" Tiếp theo
Lão tử giải thích như sau:
Phù
đạo giả! hữu thanh hữu trược, hữu động hữu tĩnh: Cái
đạo này, có thanh, cũng có trược. Thanh tịnh đến cực điểm
thì hóa ra trược, trược đến cực điểm thì hóa ra thanh.
Cái đạo này, tánh chất của nó là tự nhiên, giống như hơi
điện vậy nó có động có tĩnh, động là dương và tĩnh là
âm, cho nên có câu: "nhất dương nhất âm chi vị đạo,"
một dương với một âm là đạo.
Thiên
thanh địa trược, thiên động địa tĩnh: Trời thì thanh,
khí thanh bốc lên tạo thành bầu trời; đất thì trược,
khí trược chìm xuống thành ra đất. Trời thì động, có
mặt trăng mặt trời vận hành, các sao di động, đều là động
cả. Đất thì tĩnh, núi sông, đất rộng, và nhà cửa đều
ở trạng thái tĩnh.
Nam
thanh Nữ trược, Nam động Nữ tĩnh: Phái nam thì thuộc về
thể thanh tịnh, phái nữ thì thuộc thể ô trược. Nam thì động,
chủ về phía ngoài, gây dựng sự nghiệp, đi bôn ba khắp nơi.
Nữ thì tĩnh, chủ về bên trong, giúp chồng dạy con, quản
lý gia đình. Vợ chồng phân công hợp tác, tạo nên gia đình
tốt đẹp. Nay thì nam nữ bình quyền, kinh tế bình đẳng,
thậm chí đi đến chỗ đồng tính luyến ái, cái đó chính
là phản lại luật âm dương của trời đất, tạo thành tai
vạ, ắt đọa địa ngục.
Giáng
bổn lưu mạt, nhi sanh vạn vật: Từ gốc đi tới ngọn, vào
trong luân hồi lục đạo, sanh ra làm người hay chẳng phải
người, đó là các loại động vật hữu tình, rồi trăm
ngàn thứ kỳ lạ, cái gì cũng có cả. Nói về con người
chẳng hạn, ta thấy biết bao nhiêu loại chủng tộc, mầu da
không giống nhau, tướng mạo và thân hình cao lớn khác nhau,
tính tình cũng chẳng giống nhau nữa, tóm lại, có rất
nhiều tướng trạng khác biệt. Các loài động vật khác,
thì cứ suy ra khắc biết, cũng nhiều điều dị biệt. Vạn
vật là nói chung, bao gồm cả chúng sanh hữu tình và vô tình.
Hữu tình là các loài động vật, chúng sanh vô tình là các
loài thực vật và khoáng vật.
Các
vị hãy nghĩ lại cho kỹ, nếu như chúng ta không tu đạo
một cách đàng hoàng thì chi bằng chúng ta đừng xuất gia.
Sống tại gia, chúng ta còn có thể ăn uống, vui chơi, tùy
hứng, không bị bó buộc, không gặp trở ngại. Khi đã xuất
gia, lại không chịu tu hành, thì xuất gia như vậy rốt cuộc
là để làm gì? Há chẳng phải là ngu si lắm sao? Nói cho đúng
ra thì quả là đáng thương lắm! Xuất gia thì chỉ một
việc tu hành, mới không uổng công, không lãng phí thời giờ,
mới không phụ cái tâm nguyện lúc bắt đầu. Hãy hiểu cho
thấu mục đích xuất gia của mình, đó là sự khai ngộ, là
thành Phật. Nếu nửa đường lùi bước, sanh tâm thoái
chuyển, thì như vậy, ở trên sẽ có lỗi với chư Phật, cha
mẹ, các vị thầy tổ đã kỳ vọng nơi mình, ở dưới sẽ
đắc tội với chúng sanh đã có lòng gởi gắm. Chúng sanh
đương hy vọng chúng ta sẽ cứu độ họ thoát khỏi biển
khổ, nhưng nếu như trong trường hợp vừa nói, chúng ta đã
làm cho họ hoàn toàn thất vọng rồi !
43.
Nơi Chánh Pháp Trụ Thế
Nước
sông Ni-la vẫn chảy hàng ngày; Vạn Phật Thánh Thành vẫn
hàng ngày giảng
pháp.
Bởi nguyện cho chánh pháp trụ thế, nguyện chuyển thời
mạt phát trở thành chánh pháp cho nên ngày ngày phải giảng
kinh thuyết pháp không có lúc nào là ngưng nghỉ. Để tiếp
tục huệ mạng Phật, để hoằng dương Phật giáo cho huy
hoàng, để cho pháp âm truyền bá khắp thế giới, khiến cho
đông đảo chúng sanh được nhiều lợi lạc, mà Vạn Phật
Thánh Thành phải đứng ra làm Phật sự, nhận lãnh trách
nhiệm này. Do đó Vạn Phật Thánh Thành là đạo tràng của
chánh pháp trụ thế.
Phàm
những ai trú tại Vạn Phật Thánh Thành đều phải có thiện
căn thâm hậu, nếu không, sẽ không trú được chỗ này. Có
được hoàn cảnh tốt đẹp như vậy, ắt chúng ta phải cố
gắng tu đạo, dụng công làm việc đạo. Phải ráng chịu
khổ, chịu cực, phải có tâm khí không lay chuyển, phải có
ý chí sắt đá, mới đủ khả năng gánh vác việc đạo, và
hoằng dương chánh pháp tại các nơi, cải thiện lòng người,
đó là sứ mạng của Phật giáo đồ vậy.
Có
người do đức hạnh chưa đủ, thiện căn còn mỏng, nên sau
khi đến Vạn Phật Thánh Thành thì ngày ngày chất đầy
vọng tưởng, thấy ở đây quá khổ sở, mỗi ngày ăn một
bữa, cơm nước đạm bạc, công khóa nặng nề, quy củ
nghiêm ngặt, tự cảm thấy không chịu nổi và cuối cùng
không qua được thử thách, bèn đổi ý không ở nữa, phải
bỏ nơi thanh tịnh này.
Vạn
Phật Thánh Thành là đạo tràng chuyển bánh xe chánh pháp
tại Tây phương, không có ngày nào mà ở đây không dụng
công. Mưa to gió lớn cũng vẫn dụng công làm việc đạo,
không bao giờ gián đoạn. Người có đạo tâm, đến đây
thì cảm thấy đúng là chỗ họ phải tới, còn người không
có đạo tâm đến Vạn Phật Thánh Thành như cảm thấy như
ngồi trên tấm thảm đinh, không lúc nào an ổn. Cùng một nơi
mà hai cảnh giới, chẳng qua vì thiện căn khác biệt, có
nông có sâu.
Người
ở Vạn Phật Thánh Thành đều có khả năng chịu khổ chịu
cực, ai ai cũng phát Bồ-đề tâm, vì đều là những Phật
giáo đồ chân chánh. Ngày ngày họ chiến đấu với gian khổ,
vì pháp quên mình. Người chuyên về phiên dịch thì suốt
ngày cặm cụi, chẳng vì danh hay vì lợi. Nay đương thời
pháp hội Hoa Nghiêm, buổi tối nào cũng có khóa giảng Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (pháp sư Hằng Thật chủ
giảng), chưa có lúc nào ngưng nghỉ. Đó chính là hiện tượng
chánh pháp trụ thế.
Có người đến Vạn Phật
Thánh Thành bèn có cảm tưởng quen thuộc như khi trở về
nhà của mình, không muốn bỏ đi nới khác. Ấy cũng vì Vạn
Phật Thánh Thành là đạo tràng của chánh pháp, là nơi pháp
hỷ sung mãn. Vị thân sinh của một vị tu ở đây (Liêu cư sĩ)
đã từng nói như sau: "Người đến Vạn Phật Thánh
Thành này, xấu đến đâu cũng thành tốt. Muốn xấu lại cũng
không được nữa." Phải là người đã từng trải trong
xã hội, mới có những nhận định như vậy, thật là đáng
quý!
Từ
ngày 3 đến ngày 9 tháng 4 năm 1982, tại Điện Vạn Phật
44.
Cảnh Giới Của Thời Đại Chánh Pháp
[^]
Vào thời Chánh pháp thì các Thánh nhân đều thị hiện tại thế gian để hỗ trợ cho Phật hoằng dương chánh pháp. Lúc đó, các đệ tử đã xuất gia với Phật từ vô lượng kiếp đều theo Phật tu hành. Các Thánh nhân đã chứng quả đó đều phát nguyện: theo Phật đi khắp nơi để chuyển pháp luân và độ chúng sanh. Có câu rằng: "Một vị Phật hoằng hóa, một ngàn vị Phật hộ trì." Sau khi Phật nhập Niết-bàn, các vị Thánh nhân đó cũng thay nhau đi vào cõi Tịnh độ Thường Tịch Quang.
Năm trăm năm sau khi đức Phật nhập diệt, căn cơ của người tu hành không còn được sắc bén như trước, căn lành không đủ dầy, cho nên mới biến thành thời Tượng pháp - nghĩa là thờ phượng tượng đức Phật mà thôi. Đó là thời kỳ người ta xây chùa, tạo tháp, đúc tượng Phật, nhưng lại quên mất sự kiến tạo huệ mạng và pháp thân, cho nên mỗi ngày người tu càng xa lìa thời Chánh pháp và chuyển sang Tượng pháp.
Thời đại Tượng pháp kéo dài một ngàn năm, nay cũng đã qua rồi và chúng ta đương ở thời mạt pháp. Trong thời Tượng pháp, người ta vẫn tu theo Chánh pháp, không ai phỉ báng hay công kích pháp, người ta xử sự trong hòa bình, không có sự tranh cãi. Chẳng phải theo lối "Tăng báng Tăng, Phật pháp diệt" mà "Tăng tán Tăng, Phật pháp hưng." Thời Chánh pháp thì không có sự tán thán, nhưng cũng không có phỉ báng. Thời Tượng pháp thì có tán thán, không có phỉ báng, nhưng đến lúc mạt pháp thì chỉ có phỉ báng mà không có tán thán.
Trong thời mạt pháp ai ai cũng nói Phật giáo là mê tín, là chuyên sùng bái các tượng hình, cho đến ngay cả tín đồ Phật giáo cũng theo đuôi mọi người, ai nói sao thì nói vậy, không hiểu cái gì cho rõ rệt, không minh bạch chân lý. Đó là điều chứng minh Phật giáo đã tới lúc mạt pháp, lúc mà không ai còn hiểu thấu Phật pháp nữa.
Bởi ai ai cũng không rõ Phật pháp cho nên có một số người chuyên bới lông tìm vết phê bình Phật giáo những điều không hay, còn những cái gì hay họ chẳng biết tới, khiến cho chân lý trong Phật giáo bị tiêu ma. Người tại gia không hiểu chân lý, đến kẻ xuất gia cũng không minh bạch, nhất loạt hồ đồ, ai nói sao thì nói vậy và kẻ mù dẫn dắt người mù.
Bài kệ tụng sau đây
hay vô cùng, xin nói ra đây để chúng ta cùng tham khảo:
Nguyện
tiêu tam chướng trừ phiền não,
Nguyện
đắc trí huệ chân minh liêu
Phổ
nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế
thế thường hành Bồ-tát đạo.
Tôi
xin sơ lược giải thích như sau:
Nguyện
tiêu tam chướng trừ phiền não: Tam chướng là
nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng, ba chướng
này ta phải tiêu trừ cho sạch, chớ không phải chúng ta chỉ
nói ở cửa miệng. Phải tiêu trừ! Phải tiêu trừ! Mà kỳ
thực chẳng muốn tiêu trừ. Tóm lại là che dấu khuyết điểm
của mình, nuôi dưỡng khuyết điểm đó, không dám đưa
chúng ra ánh sáng một cách đàng hoàng, rút cuộc nghiệp chướng
mỗi ngày một sâu, mỗi ngày một nặng, phiền não chướng
mỗi ngày một gia tăng.
Nguyện
đắc trí huệ chân minh liêu: Nếu ba chướng không
bị tiêu trừ cho sạch, thì không thể có trí huệ chân chánh.
Nếu có trí huệ thật thì không bao giờ làm chuyện điên đảo.
Dùng trí huệ chớ không phải dùng vô minh để xử lý mọi
việc, lúc đó mới gọi là sáng tỏ một cách chân chánh,
còn như biết một mà hiểu chỉ một nửa thì chẳng phải
là sáng tỏ thật.
Phổ
nguyện tội chướng tất tiêu trừ: Tôi nguyện
diệt trừ ba chướng, chẳng phải chỉ riêng cho tôi mà còn
cho chúng sanh nữa. Đó là bổn nguyện của tôi, và thường
xuyên tôi lấy đó làm nguyện lực để hành sự.
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo: Tuy tôi chẳng phải là Bồ-tát, nhưng tôi nguyện đời đời kiếp kiếp làm những gì mà các Bồ-tát thường làm trong đạo Bồ-tát. Tôi học tập Bồ-tát nên tu pháp môn này. Bồ-tát chẳng phải tu một ngày mà thành, mà là từng ngày một tu thành. Đức Phật Thích-ca, Ngài tu phước huệ trong ba tăng kỳ, tu tướng tốt trong trăm kiếp, trải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp, một thời gian dài như vậy, công đức của Ngài mới viên mãn, phước huệ mới đầy đủ, nghĩa là "tam giác viên, vạn đức bị," Ngài mới thành bậc Lưỡng Túc Tôn.
Phát nguyện rồi thì phải tuân thủ ngay, chẳng thể có tâm tự tư, tự lợi, tâm tranh luận, tâm tham dục, tâm mưu cầu, tâm nói dối. Không có sáu loại tâm này là có ngay chánh pháp, đổi mạt pháp ra chánh pháp. Nếu ngược lại, thì chính là mạt pháp, chuyển chánh pháp thành mạt pháp. Nếu như lấy sáu tông chỉ trên để xử lý mọi việc thì tức thời có công bình, có sự vô tư, mọi sự chánh đại quang minh. Tu đạo thì nhất định tới chỗ thành tựu, cả mười phương chư Phật thường xuyên ủng hộ chúng ta. Xin quý vị lưu ý! Chính là pháp này đó, ngoài ra không có pháp nào khác. Các vị hãy chiếu theo nó mà dụng công là không sai.
Chúng ta tu đạo phải biết chịu khổ, chịu khó nhọc. Chớ ham tiện nghi, chớ nên tinh khôn giả dối, mà phải thực thà tiến bước. Nhớ kỹ điều này! Chớ ham ăn ngon, chớ ham mặc đồ quý, chớ tham nhà đẹp, hết thẩy mọi thứ đều không tham lam, càng không ham hưởng thụ. Được như vậy thì thời chánh pháp sẽ trụ tại thế gian.
Thời chánh pháp, ai ai cũng tu hành. Thời mạt pháp, chẳng ai tu hành. Nếu mọi người chịu tu hành thì mạt pháp đổi thành chánh pháp. Trong lúc tu, không thể để các dục niệm quấy nhiễu, nếu có dục niệm thì lại rơi vào mạt pháp. Cho nên, vấn đề hết sức khẩn yếu ở đây là không thể có các tâm tranh, tâm tham, tâm cầu, tâm ích kỷ, tâm tự lợi và tâm nói dối.
45.
Giải Thích Về Cấu Tạo Của Chữ “Đạo”
Chữ
'Đạo' gồm vạn hữu bao la, nhiệm mầu không thể nói được.
Đúng là: "Vạn vật nhân đạo sanh, đắc giả tự thông
linh, ngộ triệt cá trung lý, Bồ-đề bất giảm tăng."
Hôm qua giảng ý nghĩa của "Đạo," hôm nay giảng đến
sự cấu tạo của chữ "Đạo."
Sự
cấu tạo của văn tự Trung quốc thật là mỹ lệ vô cùng,
mỗi chữ là một họa đồ. Sự cấu tạo dựa theo sáu phương
cách, đó là tượng hình, chỉ sự, hội ý, hài thanh, chuyển
chú và giả tá.
Giải
thích một cách giản lược thì chữ Đạo thuộc về lối tượng
hình và hội ý. Chữ Đạo này do chữ "tẩu" và
"thủ" ghép lại. Tẩu nghĩa là hành - đi - cũng là tu
hành. Không tu hành thì làm sao đạt đạo được? Thủ là
cái đầu, cũng có nghĩa là bậc nhất. Tu hành là một điều
khẩn yếu bậc nhất, nếu chẳng tu hành thì không thoát được
vòng sanh tử.
Giải
thích một cách tường tận, thì có thể nói như sau: Trên đầu
của chữ Đạo có hai cái chấm (`'), hai chấm này biểu thị
pháp, chấm bên trái là dương, chấm bên phải là âm. Dương
tượng trưng trời, âm tượng trưng đất. Dương là càn, âm
là khôn, trời đất là càn khôn. Dương thuộc nam, âm thuộc
nữ. Tuy nhiên, trong dương có âm, trong âm có dương, cho nên
đàn ông không phải đời nào cũng là nam, có lúc cũng sanh
làm thân người nữ. Đàn bà không phải lúc nào cũng mang
thân nữ, cũng có lúc làm thân nam. Vậy là thiên biến vạn
hóa, nhiệm mầu không thể nói hết.
Hai
chấm vừa nói là tượng trưng cho trời đất, cho mặt trăng
mặt trời, cho hai khí âm dương. Thân người có điện âm và
điện dương, huyết là âm, khí là dương. Khí là vô hình,
huyết thì hữu hình. Hai chấm đó ảo diệu vô cùng, kể ra
không hết được.
Hai
chấm này có thể nói chính là vô cực và thái cực. Vô cực
là chân không, thái cực là diệu hữu. Do vô cực mà sanh
thái cực, thái cực động sanh ra dương, thái cực tĩnh sanh
ra âm. Động mà tới cực điểm thì thành tĩnh, tĩnh tới
cực điểm thì thành động, đây là quy tắc tự nhiên.
Dưới
hai chấm là chữ nhất (- ); nguyên nó chẳng phải là chữ
nhất (- ), nó vốn là một cái vòng vô cực ( O ) - vì chưa
phải là cực điểm nên chỉ là một cái vòng ( O ). Nếu tu
thành công thì vòng vô cực này sẽ là Đại viên kính trí,
nếu không thành công thì nó là vô minh.
Chữ
nhất (-) nguyên là chữ ( O ). Đến thời điểm thì cái ( O )
mở ra, làm thành chữ nhất (-). Khi biến thành chữ nhất, là
lúc bắt đầu có số mục. Khi còn là cái ( O ), thì chưa có
số mục, về điểm này quý vị hãy đặc biệt lưu ý: Số
mục chưa có là chữ ( O ), khi đã có số mục thì biến
thành chữ nhất.
Chữ
nhất này, sanh ra trời, sanh ra đất, sanh ra muôn vật, sanh ra
tiên, Phật, thánh nhân. Hết thẩy mọi thứ đều do chữ
nhất mà sanh ra. Chữ ( O ) thì chẳng có gì hết, đó là chân
không. Chữ nhất sinh ra tức biến thành Diệu hữu, lúc đó
cái gì cũng có hết. Cái nhiệm mầu từ không ra có thành
diệu hữu, từ có ra không thành chân không. Lẽ đạo về
chân không và diệu hữu thật là nhiệm mầu vô cùng.
Vậy,
chúng ta phải kiếm ở đâu để có cái đạo nhiệm mầu
không thể nói hết đó? Xin trả lời: Đó là chữ "tự."
Do đó dưới chữ nhất, nói ở trên, là chữ "tự,"
hàm ý rằng cầu đạo chẳng thể hướng ở ngoài để tìm
kiếm, vì hướng ngoại thì chẳng kiếm ra chánh đạo, mà
phải chiếu soi ngược lại - hồi quang phản chiếu - tự
cầu ở nơi mình.
Đối
với cảnh giới [nhiệm mầu] đó thì trong nhà Nho có câu:
"Duy tinh duy nhất, doãn chấp quyết trung." Theo Đạo-học
thì đó là "Bảo nguyên thủ nhất," còn Phật-giáo
thì nói: "Vạn pháp quy nhất." Có câu: "Vạn pháp
quy nhất, nhất quy hợp," chữ "hợp" ( ) gồm
chữ nhân ( ), chữ nhất ( ) và chữ khẩu ( ), hàm ý rằng
chẳng có gì có thể nói ra được, cũng là ý nghĩa ngậm ( )
miệng lại.
Đó
là lúc lìa lời nói, lìa văn tự, lìa tâm suy nghĩ, là cảnh
giới "ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt,"
tức là nơi dứt đường ngôn ngữ, nơi tắt đường tâm tưởng,
vậy là chẳng còn gì hết. Có người cho rằng: "Như
vậy chẳng hóa ra là người gỗ sao?" Chẳng phải vậy.
Người gỗ thì chẳng có tâm, ở đây thì có tâm, nhưng là
tâm vô vi, "vô vi nhi vô bất vi" - chẳng làm gì mà
cái gì cũng làm. Đạo lý này chẳng thể kiếm thấy ở bên
ngoài, mà phải chiếu soi ngược lại mình , cầu nơi chính
mình, lúc đó mới tới được Đạo.
Thiền
tông có câu kệ như sau:
Vạn
pháp quy nhất, nhất quy hợp
Thần
Quang bất minh cản Đạt-ma
Hùng
Nhĩ sơn tiền quỵ cửu tải
Chỉ cầu
nhất điểm đóa Diêm-la
Dịch
nghĩa là: Vạn pháp quy về một, một thì về chỗ hợp - góp lại.
Thần Quang không hiểu rõ đuổi theo Đạt-ma. Trước núi Hùng
Nhĩ quỳ chín năm, chỉ cầu một điều là trốn được Diêm
Vương.
Hôm
nay tôi giảng công án này để chứng minh rằng cầu pháp
chẳng phải là chuyện dễ dàng. Người ta phải có tâm dám
xả bỏ thân này mới mong tìm được chánh đạo.
Tổ
Bồ-đề Đạt-ma đến Quảng Châu, rồi lên bộ (Người từ
Ấn-độ đáp thuyền đi tới Trung-hoa). Khi ghé Kim Lăng (Nam
Kinh), Tổ đi ngang qua chỗ của Pháp sư Thần Quang, lúc Pháp sư
đương giảng kinh.
Tổ
bước ra hỏi: "Ông làm gì ở đây?"
Thần
Quang đáp: "Tôi đương giảng kinh."
Tổ
hỏi: "Giảng kinh để làm gì?"
Đáp:
"Để thoát sanh tử."
Tổ
nói: "Pháp vốn không thể nói, không có pháp để nói.
Cái ông giảng thì đen là chữ, trắng là giấy, vậy làm sao
thoát được sanh tử?"
Thần
Quang nghe xong, giận lắm, nói: "Cái tên Ma Vương này! Ngươi
dám đến đây báng Phật, báng Pháp, báng Tăng, há có lý nào?"
Nói
xong Sư cầm chuỗi hạt bằng sắt ném mạnh vào mặt Tổ.
Bồ-đề Đạt-ma không kịp đề phòng nên bị chuỗi hạt
ném trúng, gẫy mất hai cái răng cửa. Tổ có ý nghĩ rằng:
"Nếu ta nhổ răng xuống đất, thì địa phương này sẽ
bị hạn hán trong suốt ba năm (số là nếu răng của một
vị thánh mà rớt xuống đất, chư thiên sẽ bắt tội, và
phạt không cho mưa rơi xuống vùng đó). Tổ thấy bất nhẫn,
không nỡ để cho dân chịu cảnh khổ vì hạn hán, nên Ngài
nuốt luôn hai cái răng vào bụng. Sau này trong điển cố
thấy có ghi lại câu: "Gẫy răng cửa nuốt luôn với máu"
(đả lạc môn nha hòa huyết thôn).
Vốn
tu hạnh nhẫn nhục ba-la-mật, Tổ không nói gì hết, ra khỏi
giảng đường của Ngài Thần Quang, qua sông Trường-giang
rồi đi về hướng núi Tung-sơn thuộc Hà Nam. Lúc bấy giờ,
Diêm Vương sai quỷ vô thường đi mời Pháp sư Thần Quang
tham gia tiệc yến.
Quỷ
vô thường nói với Sư: "Ông có phải là Thần Quang
không?"
Đáp:
"Phải!"
Quỷ
vô thường nói: "Vua Diêm-la mời ông đi uống trà."
Thần
Quang nghe xong bèn nói rằng: "Trong lúc ta giảng kinh, hoa
trời rơi xuống, đất mọc sen vàng, ta phải chết sao?"
Quỷ
vô thường đáp: "Dĩ nhiên là ông phải chết!"
Thần
Quang hỏi: "Ai có thể không chết?"
Quỷ
bèn cho biết như sau: "Chỉ có cái ông hòa thượng da đen
vừa bị ông đánh gẫy răng cửa, mới là người không chết
mà thôi."
Lúc
đó Thần Quang liền năn nỉ quỷ vô thường: "Cư sĩ Vô
Thường, xin ông từ bi, phương tiện gia ân cho tôi, để tôi
được chạy theo vị hòa thượng da đen kia học pháp bất
tử, có thể được chăng?"
Quỷ
vô thường chấp nhận lời yêu cầu này, và Thần Quang liền
ngày đêm hướng về phía Bắc đuổi theo Đạt-ma. Cuối cùng,
Thần Quang tới núi Hùng Nhĩ, thấy Tổ ở trong hang núi quay
mặt vào vách đá nhập định, Sư hướng tới Tổ đảnh
lễ sám hối, quỳ chín năm, mới học được pháp bất tử.
Ngày sau thành Tổ thứ hai của Thiền tông.
Chữ "tự" nói ở
trên có nghĩa là tự cường không nản, phải tự mình cố
gắng, dụng công tu hành, mới có thể đạt được lẽ thực.
Cho nên, ở phía bên phải của nó có chữ "tẩu,"
biểu thị ý nghĩa hành trì, có như vậy mới có cảm ứng,
mới có chỗ thành tựu. Nếu chẳng thực hành thì dù hiểu
đạo lý cũng thành vô dụng. Đúng là: "Nói một trượng
chẳng bằng làm một thước."
Tôi
thường nói: "Đạo thị hành đích, bất hành hà thành đạo.
Đức thị lập đích, bất lập ná hữu đức," cũng cùng
một nghĩa như vậy.
46.
Thất Tình Lục Dục Làm Chướng Ngại Tâm Tu Đạo
[^]
Chúng ta là người tu hành
quyết phải mang tất cả những vọng tưởng thất tình lục
dục quét cho sạch một phen, thanh toán chúng cho hết. Chúng ta
phải hiểu rằng thất tình là hòn đá tảng buộc chân chúng
ta. Các vọng tưởng về thất tình sẽ làm ngăn cản sự
chuyên tâm tu đạo của chúng ta, khiến cả ngày bị vọng tưởng
lăng xăng, gặp cảnh thì tâm động, có chút định lực nào
gom góp được thì bị tiêu hao mất, há chẳng uổng bao nhiêu
công phu lâu nay đã tham thiền tĩnh tọa hay sao?
Bất
cứ nam hay nữ đều phải tận diệt Thất-tình. Thế nào
gọi là Thất-tình? Đó là hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục -
mừng, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, ham dục; được giới
thiệu một cách giản dị như sau:
Hỷ:
Không nên mừng, mừng thì tình sẽ động.
No:
Không
nên giận, giận thì tình sẽ động.
Ai:
Không
nên bi ai, bi ai cũng động tình.
Cụ:
Không nên sợ hãi, sợ hãi cũng động tình.
Ái:
Không
nên sanh tâm tham ái, bởi tham ái làm cho tình động.
Ố:
Không nên có lòng chán ghét, chán ghét làm cho tình động.
Dục:
Không nên có dục niệm, dục niệm sẽ làm cho tình động.
Nếu
nặng tình cảm về các loại Thất-tình nói trên, hành giả
sẽ bị hoàn cảnh chi phối. Nếu Thất-tình có thể lay
chuyển được mình, thì định lực sẽ bị tiêu ma, ta sẽ
bị làn gió của các loại hoàn cảnh làm cho phiêu bạt, tâm
bị lay động, không còn làm chủ được nữa và, khi không
có chủ tức thành điên đảo.
Chúng
sanh tại địa ngục làm bất cứ chuyện gì cũng là làm trong
sự điên đảo, bởi lý do quá si mê và thiếu trí huệ. Làm
cái gì cũng là sai quấy. Chúng ta ở thế gian nếu làm sai
quấy thì cũng chẳng khác gì chúng sanh trong địa ngục, nghĩa
là làm những gì không đúng với pháp, có mục đích ích kỷ
tự lợi thì đó là địa ngục. Hoan hỷ điều này, hoan hỷ
cái kia, buồn giận vì điều này, buồn giận vì điều nọ.
Còn làm việc với những loại cảm tình đó là còn sống
trong cảnh địa ngục. Các vị hãy chú ý! Hãy nhớ kỹ!
Phải đoạn trừ Thất-tình và Lục-dục. Lục-dục tức là
sáu thứ dục do sáu căn mang lại. Sáu căn còn có tên là sáu
tên giặc, vì chúng chuyên ăn cướp tự tánh trân quý của
chúng ta. Bởi vậy chúng ta phải cẩn thận giữ gìn các cửa
của sáu căn kẻo đồ châu báu bị cướp mất.
47.
Chín Pháp Giới Chúng Sanh Đều Điên Đảo
Điên
đảo nghĩa là gì? Đó là thấy khổ cho là vui, cho phải là
trái, cho vô thường là thường tồn. Còn có nghĩa như trường
hợp tâm tư bất định, trong đầu thì loạn tưởng, thấy
việc nghĩa chẳng làm, thấy lợi thì chạy theo. Nói tóm lại,
không phân biện trắng đen, không rõ điều chân giả, đều
gọi là điên đảo.
Câu
nói: "Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo" chính là định
luật của nhân quả. Đầu tiên là sự mê hoặc, khởi tâm
sai lầm rồi theo đó tạo nghiệp. Tạo xong nghiệp thì nhận
kết quả - quả báo, đó là lẽ tự nhiên. Quả báo là
chẳng thể nghĩ bàn, mà chúng sanh tạo nghiệp cũng là điều
chẳng thể nghĩ bàn. Lúc đầu tiên sanh ra mê hoặc, cũng là
điều chẳng thể nghĩ bàn. Lý do là các loại sự vật, tất
cả đều chẳng thể nghĩ bàn, do đó khiến cho chúng sanh
thảy đều quay cuồng, bối rối, không biết đâu là đầu
mối, như thế nào là thích đáng.
Trong
số các chúng sanh tại chín pháp giới (tức pháp giới của
hàng Bồ-tát, của Duyên-giác, Thanh-văn, trời, a-tu-la, người,
súc sanh, quỷ đói, địa ngục), có chúng sanh thông minh và
có chúng sanh ngu si. Chỉ riêng Phật, vì có trí huệ đại
viên kính nên hoàn toàn là thông minh và không có ngu si vô
minh.
Từ
nhãn quan của pháp giới Phật mà nhìn xuống thì các chúng
sanh trong pháp giới Bồ-tát rất điên đảo. Những hành động
mà hàng Bồ-tát làm và tự cho là đúng, cũng chỉ là điên
đảo dưới cặp mắt của Phật.
Từ
pháp giới của hàng Bồ-tát nhìn xuống pháp giới duyên giác
thì họ thấy giống như đám con trẻ, hành động gì cũng
chẳng chân chánh, cũng đều điên đảo cả. Nhìn lên thì
Bồ-tát lại chẳng biết gì trong pháp giới Phật, họ chỉ
biết tường tận về pháp giới Duyên-giác, cho nên mới có
câu nói: "Sơ địa không biết nhị địa, thập địa
không biết đẳng giác," nghĩa là không biết được
tầng pháp giới cao hơn mình. Gọi là biết nhưng chỉ là
hiểu tình hình một cách sơ lược, tường tận thì không
biết nổi.
Tại
pháp giới Duyên-giác mà nhìn vào tầng Thanh-văn, thì chúng
sanh ở đây là điên đảo. Nhưng nhìn lên các tầng Phật và
Bồ-tát thì họ lại không biết rõ. Tại sao? Bởi họ chưa
đủ định lực. Định lực của Duyên-giác chỉ đủ để
quan sát được các nhân duyên trong phạm vi của tám vạn đại
kiếp trở về, còn nhân duyên ngoài tám vạn đại kiếp thì
họ không thể nào quan sát tới.
Tại
pháp giới Thanh-văn mà nhìn về chư thiên thì ở đây là điên
đảo. Chư thiên được hưởng phước trời nhưng đối với
nhãn quan ở bậc trên thì họ vẫn hành sự một cách điên
đảo.
Tại
pháp giới trời nhìn cảnh a-tu-la thì a-tu-la điên đảo,
chúng sanh ở đây không tu tập đức hạnh, chỉ biết đấu
tranh. Đấu tranh là chẳng phải điên đảo thì còn là gì
nữa?
Từ
pháp giới của a-tu-la mà nhìn về chư thiên thì họ không
hiểu biết gì nhiều, nhưng nhìn về thế gian nhân loại thì
họ biết một cách tường tận. A-tu-la thấy loài người điên
đảo, trôi nổi trong sanh tử mà không biết khổ, lấy khổ
làm vui, tham luyến không muốn bỏ, trông thật đáng thương.
Tại
pháp giới của loài người, thì không ai biết được cảnh
giới của a-tu-la ra sao, cũng không biết gì về đời sống
của chư thiên, hay pháp giới của các bậc thuộc hàng Tứ
thánh, nhưng đối với pháp giới của loài thú thì lại
biết rõ rệt. Họ thấy súc sanh quá hồ đồ, điên đảo,
không biết sự việc gì khác ngoài các vọng tưởng về ăn
và dục.
Súc
sanh nhìn về quỷ đói thì nhận thấy quỷ đói điên đảo,
chúng vì miếng ăn mà khổ não, nhưng tới khi ăn thì đồ ăn
là lửa, chúng không nuốt được.
Tại
pháp giới quỷ đói nhìn sang pháp giới địa ngục thì thấy
chúng sanh ở địa ngục điên đảo. Chúng sanh ở đây đã
tạo ác nghiệp phải thọ ác báo, mà lại không biết sửa đổi,
cải ác ra thiện.
Tại
pháp giới địa ngục thì chúng sanh hoàn toàn không hiểu
biết gì, sống trong mê, chết cũng trong mê, chỉ biết riêng
lấy mình, không biết tới ai khác. Địa ngục là biển khổ
mênh mông, không còn có đường nào sáng sủa.
Tất
cả chúng sanh trong chín pháp giới thảy đều điên đảo.
Chỉ có Phật là đi đến rốt ráo, thành tựu Phật quả,
nên không còn điên đảo nữa. Bởi các lý do này, chúng ta tu
học Phật pháp là cốt chứng được trí huệ chân chánh, để
khỏi phải lên xuống trong phạm vi chín pháp giới nói trên,
và để vượt lên trên nữa, tới cõi Tịnh độ Thường
Tịch Quang, để được cùng trú chung một nơi với chư Phật.
Tại
pháp giới địa ngục, mỗi ngày có hàng vạn chúng sanh được
sanh ra rồi chết đi, trăm ngàn sự điên đảo, khổ sở
không thể nói hết. Tại sao vậy? - đây ác nghiệp ngập
trời nên chúng sanh phải đền tội. Trong cảnh vạn phần điên
đảo không có được nửa phần không điên đảo, do đó lìa
khỏi được pháp giới này thật là khó khăn vô kể.
So
với cảnh quỷ đói thì tuy quỷ đói ăn không đủ no, lúc
nào cũng đói, nhưng địa ngục còn khổ hơn nhiều. Trong
vạn phần điên đảo của quỷ đói, hoặc có thể có nửa
phần, hay một phần không điên đảo (các con số này đưa ra
để so sánh, chớ không có nghĩa tuyệt đối).
Tại
pháp giới của loài súc sanh thì trong vạn phần điên đảo
có một phần hay một phần rưỡi không điên đảo, tỷ như
loài dê còn biết chút tình quỳ xuống khi bú, loài quạ còn
có cái nghĩa bú mớm cho con, súc sanh mà biết hiếu đạo.
Loài thú nào được mười phần không điên đảo, có thể
gặp cơ hội đi lên theo nẻo đường thiện. Hơn nữa như
loài chó biết giữ nhà, gà gáy sáng, con tằm nhả tơ, ong
gây mật, ngựa kéo xe, trâu kéo cầy, cũng là giúp ích cho
nhân loại, có chút ít công lao, thì tương lai có thể thoát
khỏi được kiếp thú.
Tại
pháp giới của loài người trong vạn phần điên đảo, thản
hoặc có mười phần hay năm mươi phần, tối đa không quá
một trăm phần, là không điên đảo. Trong lúc không điên đảo,
người ta làm việc công đức, hoặc lạy Phật, hoặc niệm
Phật. Khi điên đảo thì vọng tưởng lăng xăng, ham danh đoạt
lợi, đấu tranh kiên cố. Tại sao trong vạn phần điên đảo
lại chỉ có trăm phần không điên đảo? Đại khái như khi
lạy Phật chẳng hạn, lúc đó không điên đảo. Nhưng có
những lúc thân đương lạy Bồ-tát mà tâm lại cầu Bồ-tát
gia hộ, mong Bồ-tát ban cho trúng số, phù hộ cho được bình
an; thậm chí, có kẻ chẳng chịu học hành mà cũng cầu Quán
Thế Âm Bồ Tát phù hộ cho đỗ trạng nguyên, đó chính là
điên đảo.
Tại
pháp giới của a-tu-la, chúng sanh cũng có khoảng trăm phần
không điên đảo, có thể trên dưới số đó chút đỉnh,
bởi vì a-tu-la tuy được hưởng phước trời, nhưng lại tự
cho là chưa đủ, và vì tâm tham nên thường đấu tranh phương
hại tự do của kẻ khác.
Tại
pháp giới chư thiên, thì ở dây có thể có một ngàn phần
không điên đảo. Họ có công phu thiền định, một đường
hướng đi lên, nghĩ tới ăn là có đồ ăn, nghĩ tới mặc
là có quần áo mặc, tâm tưởng tới cái gì là có cái đó,
do đó ít có sự điên đảo.
Tại
pháp giới Thanh-văn, trong vạn phần điên đảo thì có
khoảng hai ngàn phần không điên đảo, nhân vì các bậc này
tu Tứ-đế - khổ, tập, diệt, đạo - họ hiểu thấu các lý
vô thường, không, vô ngã, do đó ở đây ít điên đảo hơn.
Tại
pháp giới Duyên-giác, trong vạn phần điên đảo có thể có
tới ba ngàn phần không điên đảo. - đây các vị Duyên giác
vì quán thập nhị nhân duyên mà ngộ đạo, hiểu hết thảy
mọi thứ là như huyn, cho nên các vị này hoàn toàn không
chấp trước vào một thứ gì.
Tại
pháp giới Bồ-tát, trong vạn phần điên đảo, có thể có năm
ngàn phần không điên đảo, do đó vẫn còn năm ngàn phần
kia điên đảo. Bồ-tát chuyên tu lục độ vạn hạnh, nhưng
vẫn còn một phần vô minh nên chưa tới độ rốt ráo.
Tại
pháp giới chư Phật, cả vạn phần điên đảo đều không
có, bởi Phật đã viên mãn ba giác ngộ, vạn đức tròn đầy;
chẳng có vọng tưởng, không có điên đảo, Phật là vô thượng
chánh đẳng chánh giác.
Quý
vị phải nghiên cứu kỹ đi! Tại sao chúng ta ở thế giới
này chưa thanh toán được phiền não, mà vẫn còn ở nơi
hỗn tạp đợi chết? Kẻ xuất gia không ra vẻ người xuất
gia, tại gia thì không chịu tu hành! Còn chờ đợi tới thời
điểm nào nữa mới chịu tu? Đời này là ngũ trược ác
thế, lưu luyến sanh tử có ích lợi gì?
Quý
vị! Hãy tha thiết vấn đề sanh tử, hãy mau phát tâm Bồ-đề,
đừng tạo thêm những chuyện điên đảo nữa. Quay đầu
lại đi! Ráng lên, "biển khổ
không bờ, quay đầu là bến."
48.
Học Thần Thông Để Báo Thù ?
[^]
Milarepa là người Tây Tạng. Động cơ khiến y tu đạo chẳng phải để cứu độ chúng sanh mà để báo thù cho cha mẹ. Cũng vì lúc khởi đầu mục tiêu không chánh đáng nên y mới lạc vào đường trắc trở, khiến cho tư tưởng và hành vi chẳng khác gì A-tu-la. Ý muốn thường xuyên của y là tiêu diệt người ta, trừ mình y ra, đó là điều trái hẳn với đạo. Người tu đạo không thể mang tâm sân hận, nuôi chí báo thù, nếu không sẽ biến thành quyến thuộc của Ma vương.
Về sau, do công tu mang lại chút ít thành tựu, y dùng mật chú và thần thông để báo thù rửa hận. Kết quả thì thù đã trả xong, hận đã được rửa sạch. Có điều những hành vi của y không những làm trở ngại việc tu đạo, mà còn phản lại tinh thần từ bi của người tu. Phàm là người tu đạo, phải lấy từ bi làm gốc, mà tùy nghi hành động. Y thì trái ngược hẳn lại, trong tâm chỉ có sự cống cao ngã mạn, không coi ai ra gì, chẳng riêng đối với người tại gia mà còn khinh thị đối với hạng xuất gia nữa. Cái đó là do y chỉ biết một mình y, ngoài ra không biết tới ai khác. Y đã có những loại ý tưởng đó thì chẳng ai nói gì cho y hiểu được.
Dụng công tu đạo bằng tâm oán hận thì dù tu trong bao lâu cũng vẫn còn tư tưởng thù hận. Y dùng mật chú và thần thông để làm công việc báo cừu và rửa hận, nhưng có biết đâu như vậy là đã sai lầm nhân quả, tương lai sẽ phải chịu quả báo. Hành động như vậy là do quan niệm sai lầm, và tôi nghĩ rằng y cũng biết điều đó. Tuy nhiên, biết thì có biết, mà tâm tưởng đã bị sân hận chi phối rồi, đâu còn tự mình làm chủ được nữa, do đó mới hành động điên đảo, và kết quả đã đưa y vào cảnh giới ma vương, thật là nguy hiểm.
Ai ai cũng biết làm việc thiện là đúng, nhưng không ai muốn làm. Tại sao? Bởi làm việc thiện thì chẳng thấy gì hay. Như giữ giới chẳng hạn, là một điều tốt, nhưng không ai giữ giới cả. Theo đúng quy củ là tốt, nhưng mọi người không theo.Tất cả đều biết rõ không giữ giới, không giữ quy củ là không đúng, nhưng cứ phạm lỗi hoài, hết thẩy mọi thứ đều như vậy, suy ra khắc biết. Chẳng qua cái đó là do căn cơ hạ liệt và lười biếng mà phát sanh ra. Cái đó, nói cho ngay, không có gì là cao thượng là đạo đức cả. Có câu nói: "Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt," hạng người nói trên không muốn đi lên, mà chỉ muốn đi xuống (hạ đạt), đúng là không có thuốc chữa.
Tôi thường nói:
Tu đạo như đăng bách xích can
Hạ lai dung dị thượng khứ nan.
Nghĩa là: Tu đạo cũng giống như leo lên cây sào cao trăm thước, leo xuống thì dễ, leo lên thì khó. Hôm nay tôi nêu ra tà tri tà kiến của Milarepa để chúng ta cảnh giác. Nói tóm lại, tu đạo phải có lòng "vô duyên từ," có tư tưởng "đại bi đồng thể," học hỏi tinh thần của Tiên Nhẫn-nhục (một trong những tiền thân của đức Phật), khoan thứ mọi người mới xứng đáng là đệ tử Phật.
Hiện nay, tuy khoa học có nhiều sự tiến bộ, đã đưa người lên được mặt trăng, một thế giới khác, nhưng cũng không thấu hiểu hết tình huống của nó. Cái thế giới nguyệt cầu với thế giới địa cầu của chúng ta không giống nhau. Thế giới của chúng ta trải qua bốn tướng là Thành, trụ, hoại, không và các thế giới khác cũng có bốn tướng như vậy, chỉ có khác là bốn tướng đó không phát sanh đồng thời với nhau. Tại thế giới này thì tướng hiện tại là thành, thì thế giới kia đương có tướng trụ, thế giới kia nữa là tướng hoại, hoặc là tướng không; do đó, không cùng chung một tướng, nên chúng ta không biết rõ tình huống của các thế giới khác.
Không
những không biết rõ các thế giới khác ra sao mà ngay thế
giới này, chúng ta cũng không có sự hiểu biết minh bạch.
Khi ông Kha-luân-bố chưa phát hiện ra "Tân thế giới,"
nghĩa là chưa ai biết tới Tây bán cầu này chẳng hạn, người
ta chỉ nghĩ rằng Trời thì tròn, đất thì vuông. Sau khi khám
phá ra Tân thế giới, người ta mới chứng minh được quả
đất là tròn, do đó người ta mới gọi nó là địa cầu.
Bây
giờ, ai ngồi trong phi thuyền không gian mà ngắm cảnh địa
cầu, thấy nó cũng giống như trái banh lơ lửng giữa không
trung, xem cũng lý thú!
Gọi
là "Tân thế giới" nhưng nó chẳng phải "Tân"
(mới) mà là "Cựu" (cũ). Chưa phát hiện ra thì tưởng
nó không có, khi phát hiện rồi thì gọi là Tân, đó chẳng
qua bởi sự chấp trước vào tâm phân biệt của mọi người
mà thôi. Con người ta, trong tư tưởng, trong nhãn quan có sự
phận biệt mới cũ, kỳ thực mọi sự đều nằm trong sự
biến hóa của bốn tướng Thành, trụ, hoại, không.
Thế
giới có Thành, trụ, hoại, không, thì con người cũng có
Thành, trụ, hoại, không, đủ cả bốn tướng. Từ lúc sanh
ra có mặt với đời, đến khi đi học, đó là thời kỳ
thành. Học hỏi xong thì thực hành theo chí hướng, đó là
thời kỳ trụ. Về sau thì già yếu, đó là thời kỳ hoại.
Hết già là chết, chết tức là thời kỳ không. Thành, trụ,
hoại, không tức là sanh, bệnh, lão, tử.
Sau
thời kỳ sanh thì đến thời kỳ bệnh. Ai cũng có bệnh của
người ấy. Có người bảo: "Pháp sư ơi! Không thể nói
chung chung như vậy được. Có người thân thể không được
khoẻ mạnh, họ có bệnh, nhưng có người thân thể khang
kiện, họ đâu có bệnh gì?" Quí vị thấy thân thể họ
không có bệnh, nhưng trong tâm họ có bệnh, nói tóm lại
không có ai mà thân tâm lại không có bệnh. Cứ cho rằng
thân và tâm cả hai đều không bệnh, nhưng đâu phải vĩnh
viễn như vậy. Về phương diện sinh lý có thể chắc là
không bệnh, nhưng tâm lý thì có chắc hay không? Ít nhiều cũng
phải có, chẳng có bệnh nhỏ thì cũng là loại bệnh do tập
khí, do chấp trước mà sanh ra, những thứ không nhận ra
chúng, không xả bỏ chúng được, như vậy là bệnh rồi.
Nhận không ra, buông xả không được tức chẳng thể giải
thoát.
Đi
về không tự chủ, sanh tử không tự do, tức là có bệnh.
Không làm chủ được mình, không giữ cho mình được trẻ
mãi không già, không bao giờ chết, đó cũng là bệnh. Nếu
mà làm chủ được chính mình, nghĩa là có thể bảo thân
này phải luôn luôn trẻ trung khỏe mạnh, không bao giờ mắt
bị hoa, tai bị điếc, tóc bị bạc, răng bị long. Quý vị
có làm được vậy không? Nếu không làm được là có bệnh.
Có
người nói: "Ngày nào tôi cũng vận động, thân thể
rất khỏe mạnh, tay chân nhanh nhẹn, đi mau lẹ như bay,
chẳng đau bệnh gì." Vậy anh có dám bảo đảm sẽ trẻ
mãi, sẽ sống mãi không già? Sợ rằng không giữ được như
vậy đâu! Vì sao? Vì trong tâm anh có bệnh. Bệnh gì? Bệnh
tham, bệnh sân, bệnh si. Tham không biết chán, càng nhiều
càng tốt. Tham cầu mà không được bèn nổi nóng, lúc đó
trí huệ không lấn át được tâm tình, đầu óc thành hồ đồ.
Những vụ giết người, đốt nhà cửa cũng từ chỗ đó mà
ra, như vậy chẳng phải bệnh là gì?
Thời
gian niên thiếu báo hiệu một sự bắt đầu của già nua. Cũng
như thế, bệnh chính là khởi thủy cho sự chết. Nói chung,
con người là một tiểu thiên địa, nên cũng có bốn tướng.
Hiểu thấu được ý nghĩa này thì không còn chấp trước
vào cái túi da hôi này, không âu yếm nó như một thứ quý
giá. Nếu thật tình không chấp vào thân thể này thì đó là
vô ngã chân chánh, vậy là thiên hạ thái bình, chẳng còn
chuyện gì phiền phức.
Con người ở trên thế gian này, chỉ biết có cái thế giới nhỏ nhoi này mà thôi, cho nên muốn tìm hiểu cho đến tận cùng nó như thế nào. Nhưng, nghiên cứu đi nghiên cứu lại, rồi cũng thế, khi đến thì hồ đồ, ra đi cũng hồ đồ. Vừa hiểu được minh bạch thì đã ôi thôi! Ra đi! Chờ kiếp sau vậy! Tới kiếp sau lại tiếp tục nghiên cứu, nhưng nghiên cứu thêm chẳng được bao nhiêu thì quỷ vô thường đã tới, lại mời đi gặp Diêm Vương. Kiếp này mà việc sanh tử không lo nghiên cứu cho xong thì thử hỏi còn chờ đến bao giờ nữa? Tôi hy vọng quý vị coi trọng vấn đề này để dụng công nghiên cứu một phen, chớ để nó trôi qua uổng phí, phải nhớ rằng:
Dịch
nghĩa là: Thân người khó được nay đã được, Phật pháp khó được
nghe nay đã được nghe, kiếp này nếu chẳng độ được
thân này, thì đến kiếp nào mới độ được?
Chúng
ta phải coi đó là điều cảnh giác, thường xuyên lấy đó
làm cái gương soi lại chính mình.
Nói
xa xôi hơn thì có vô lượng thế giới mà chúng ta không thể
biết được rõ ràng, điều này chẳng cần phải nhắc lại.
Riêng giữa người với người, còn biết bao nhiêu vấn đề
mà chúng ta cũng chẳng hiểu thấu. Tại sao vậy? Vì vọng tưởng
quá nhiều. Lý do gì mà vọng tưởng lại nhiều như vậy?
Vọng tưởng từ đâu mà tới? Không ai biết. Thậm chí sự
nóng giận, tham sân si, cũng ở đâu mà tới vậy? Nói chung
không thể biết. Tự chúng ta có vấn đề gì, có nhiều hay
ít? Hiểu thấu tới đâu? Tất cả đều không biết.
Những
điều nói trên chẳng phải dễ gì mà biết cho tường tận,
mà chính chúng ta cũng chẳng muốn biết chúng cho tường tận.
Vì cớ gì ? Bởi vì cả ngày chúng ta chỉ biết tranh danh đoạt
lợi, nên chẳng có thời giờ nào nghiên cứu các vấn đề
đó. Thản hoặc có người tỉnh ngộ muốn nghiên cứu mình
ở đâu mà đến, chết rồi đi về đâu? nhưng do không gặp
được Thiện tri thức hướng dẫn, chỉ biết tu trong sự mù
quáng, không nắm được yếu lý của sự tu hành, nên cuối
cùng đã uổng phí công phu, tệ hơn còn bị tẩu hỏa nhập
ma nữa. Cho nên tu đạo chẳng phải là một chuyện dễ
dàng.
Chẳng
cần nói qua phạm vi các thế giới khác, chỉ riêng thế
giới này, giữa người với người mà cũng toàn là những
vấn đề chúng ta không nắm vững. Vấn đề của bản thân
chúng ta, chúng ta cũng chưa nghiên cứu rõ thì làm sao nghiên
cứu được vấn đề của người khác? Vấn đề của ta và
của người chưa minh bạch thì vấn đề về các thế giới
làm sao cho minh bạch? Làm sao mà giải quyết được? Vậy thì
chẳng giải quyết nữa ư? Không phải vậy! Nhất định là
phải giải quyết! Nếu không, thế giới sẽ bị hủy diệt.
Giải quyết cách nào? Cách duy nhất là chuyên tâm tu đạo,
chứng quả ngũ nhãn, lục thông, thì tự nhiên sẽ hiểu hết
những điều bí ẩn của vũ trụ, thông suốt luôn một lần.
Khi đã biết rõ nội tình, thì có thể cải thiện nhân tâm,
trừ bỏ ba độc tham, sân, si. Lúc đó mọi vấn đề đều
được giải quyết trực tiếp, thế giới sẽ hòa bình, vĩnh
vinh không còn tranh chấp, thế giới sẽ không bị hủy
diệt. Nếu ai không tin, xin hãy nhắm mắt lại rồi nghiền
ngẫm. Nếu chiến tranh thứ ba trên thế giới mà bùng nổ,
thử hỏi hậu quả sẽ ra sao? Mọi người ắt hiểu rằng
kết quả là tình trạng "Đồng quy ư tận," cùng về
chỗ tận diệt. Lúc đó chính là thời kỳ không kiếp.
Trong
hàng Bồ-tát có Đại Bồ-tát, giầu có sang trọng, có nhà
cửa trang hoàng lộng lẫy, với đủ các loại vật dụng tinh
mỹ phục vụ cho đời sống. Giầu sang như vậy, nhưng nếu
có ai muốn đến cầu xin thứ gì, Đại Bồ-tát bèn cho ngay
không chút ngần ngại. Bồ-tát tu pháp môn bố thí thì hoàn
toàn không để ý gì đến gia đình của mình, vì trong tâm đã
sớm lìa hẳn quan niệm về gia tộc. Bồ-tát đã hiểu thấu
ý niệm không về gia đình, vì gia đình chẳng qua là do nhân
duyên hòa hợp mà có, duyên hết thì lại phân ly, có gì đâu
mà phải chấp trước? Bồ-tát vốn đã nhàm chán tất cả
của cải trong nhà, từ động sản đến bất động sản,
cùng những thứ vật dụng hàng ngày. Trong sự sanh hoạt thường
ngày, vốn đã không ham thỏa mãn ngũ dục, không mặc đồ đẹp,
ăn đồ ngon, cho nên trong tâm không bị ràng buộc về các nhu
cầu vật chất. Vốn hiểu rằng gia đình cũng sẽ tới lúc
phân tán, chớ không thể tồn tại mãi, do đó Đại Bồ-tát
thường tỏ ra lạnh nhạt trong tình cảm đối với gia đình,
chỉ muốn ly khai hẳn với cuộc đời thế tục, để xuất
gia tu đạo, cầu giải thoát khỏi vòng tam giới. Đến người
thân trong gia đình, như vợ thì coi như cái gông đeo cổ, con
là cái xích buộc chân. Tình nhi nữ chính là cái còng, một
khi tay bị khóa thì còn nhúc nhích gì được? Thân thể mỗi
cá nhân đều bị trói buộc như vậy, ngay cả hít thở cũng
không tự do, còn nói gì đến ước mong được tự tại?
Tình huống như vậy có cái gì để chúng ta luyến tiếc nữa?
Bồ-tát
khám phá ra điều đó, bèn buông bỏ hết, và để thoát ra
khỏi cảnh bức bách của gia đình nên mới xa lánh cuộc đời
thế tục và tu học hạnh Bồ-tát. Tám vạn bốn ngàn pháp
môn mà đức Phật dạy cho thế gian để tu tập là con đường
dẫn tới đạo quả Bồ-đề, và để trang nghiêm tự thân.
Vứt bỏ những vật ngoại thân như tiền tài mà chẳng hối
tiếc. Những tác phong như vậy của Bồ-tát đều được mười
phương chư Phật tuyên dương và tán thán như sau: "Hay
lắm! Hay lắm! Thiện nam tử! Ông thật là tinh tấn, phát tâm
Bồ-đề rộng lớn như vậy, làm những việc người ta không
làm được, vứt bỏ gia tài nhà cửa, những cái người đời
không vứt bỏ được, hết thảy mọi thứ mình có đều mang
bố thí cho người mà không hối hận, không luyến tiếc,
không chấp trước, những việc thật khó làm." Bồ-tát
thấy có người đến cầu xin mình thì cảm thấy trong lòng
hoan hỷ vô cùng, cho là mình hết sức may mắn mà gặp được
cơ hội để thực hiện đại bố thí.
Xuất
gia là một việc khó. Xá kể chi việc cắt tóc cạo râu, đắp
áo cà-sa, nói vài câu "cơ phong," mở miệng ra nói
về Phật về Pháp, nói đạo lý trong kinh sách, hoặc ngồi
yên nhắm mắt tham thiền. Những hành vi đó có thể gọi là
mặc áo Phật, ăn cơm Phật, biểu diễn vai trò của kẻ
xuất gia. Nếu quả như lời nói đi đôi với việc làm, một
lòng tha thiết từ bi đối đãi với người với vật, trước
mặt sau lưng lúc nào cũng vậy không sai trái đạo, được như
vậy mới đúng là kẻ xuất gia.
Xuất
gia có ba loại:
Thân
xuất gia, tâm không xuất gia.
Tâm
xuất gia, thân chưa xuất gia.
Thân
tâm đều xuất gia.
Trong
số xuất gia cũng ba loại trình độ, tùy theo công phu tu trì
mà đoán định.
Xuất thế tục: Đây là
nói chung về các đệ tử xuất gia; các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
Sa-di, Sa-di-ni.
Xuất
phiền não vô minh:
Đây là nói về cảnh giới tu trì của quý vị đã xuất gia,
tự mình tu tự mình biết chứng tới đâu, có điều xuyên
qua tác phong nói, nín, động, tĩnh của mình, người ngoài cũng
có thể biết được. Một cá nhân xuất gia tu tập thì mỗi
ngày tập khí càng giảm thiểu, sự biểu hiện của tham, sân,
si cũng bớt dần, như lời cổ đức nói: "Từng phần
phá vô minh, từng phần pháp thân chứng." Quý vị này đều
tỏ ra cố gắng xông ra khỏi vô minh phiền não và hướng
tới con đường Bồ-đề.
Xuất
khỏi tam giới: Đây là mục tiêu tối hậu của người
xuất gia và cũng là của hết thảy bẩy chúng trên đường
tu học Phật đạo. Mục tiêu đạt được chính là thời điểm
đoạn trừ sanh tử một cách vĩnh vin, rồi sau đó do
nguyện lực của mình mà tự do đi về trong chín pháp giới
để độ hóa chúng sanh, đạt được cái an lạc đệ nhất
của người xuất gia.
Bồ-tát còn phát nguyện
rằng tất cả chúng sanh có thể thoát ra ngoài sự trói buộc
của gia đình, để nhập vào gia đình của chư Phật, tu học
các pháp môn do Phật chỉ dạy, và siêng năng tu phạm hạnh.
Bồ-tát lại nguyện rằng hết thảy chúng sanh từ bỏ hết
tâm tham lam keo bẩn, biến thành tâm hoan hỷ ưa hỷ xả bố
thí, lấy sự ban bố tài vật làm niềm vui, vĩnh viễn
không sanh tâm thối chuyển. Lại nguyện cho hết thảy chúng
sanh lìa những quan niệm về gia đình thế tục, không màng
tới những gì gọi là thăng quan tiến chức, dương danh hiển
thân, cùng những pháp thế gian về nối dõi tông đường,
lại càng không tham đồ bất nghĩa, tích trữ đầy nhà, của
quý đầy kho, những thứ đó đều là mầm mống sanh ra tai
ương ác nghiệp. Người xưa nói: "Đa tàng tất hậu vong."
Chứa cho nhiều, mất càng thảm. Lại có câu: "Thân biên
vô ái vật, tự vô phiền não sanh," bên mình không có
vật quý, phiền não vốn chẳng sanh. Người xưa nói quả là
không sai, cuối cùng lúc ra đi cũng chỉ hai bàn tay không.
Bồ-tát dạy cho chúng sanh nên bớt dục vọng, sống cho hồn
nhiên trung thực, tự nhiên niềm vui sẽ phát sanh.
Bồ-tát lại nguyện hết
thảy chúng sanh mau mau vượt ra ngoài phiền não do đời sống
thế tục trói buộc, học Phật pháp tu hạnh thanh tịnh, để
mai sau được hội nhập trong nhà của Phật, cùng ở với
Phật một nơi. Lại nguyện hết thảy chúng sanh học được
pháp cứu cánh viên dung vô ngại, loại trừ hết sự chướng
ngại của các pháp ô nhiễm, và được thanh tịnh tự tại.
Lại nguyện hết thảy chúng sanh, lìa khỏi tình cảm yêu thương
của gia đình, tuy thân còn tại gia, nhưng lòng không còn
chấp vào tình cảm quyến thuộc. Lại nguyện hết thảy
chúng sanh, biết khéo léo khuyên răn và hướng dẫn những ai
còn đắm đuối trong tình cảm gia đình, khiến họ hiểu được
gia đình chỉ là một tổ hợp giả tạm do nhân duyên tạo
nên để lòng họ bớt sự chấp trước. Bồ-tát nêu lên đạo
lý về nhân sanh mà Phật đã giảng dạy để chỉ dẫn cho
số người mê lầm không ra khỏi được các pháp thế tục
về gia đình, khiến họ tin theo Phật pháp, tu học Phật pháp,
minh bạch Phật pháp, không còn vướng mắc sự trói buộc
của gia đình. Lại nguyện hết thảy chúng sanh, tuy thân còn
gởi lại với gia đình, nhưng tâm thường tùy thuận theo trí
huệ của chư Phật, thực hành làm việc đạo, an trú trong
bất động. Lại nguyện hết thảy chúng sanh, tuy nay chưa
xuất gia, còn sống đời cư sĩ, nhưng tâm nguyện của họ đã
đặt vào nơi chư Phật, và có thể phổ cập tới vô lượng
vô biên chúng sanh, để tất cả đều phát tâm hoan hỷ, phát
tâm Bồ-đề rộng lớn. Đó là đại Bồ-tát trong hàng
Bồ-tát, khi bố thí nhà cửa đã vì chúng sanh mà thực hiện
hồi hướng thiện căn. Chính là mong cho chúng sanh thành tựu
được những điều trong các đại nguyện của Bồ-tát, cùng
với các loại thần thông và trí huệ.
Lược
trích từ Hoa Nghiêm Kinh Đệ Lục Hồi Hướng Giảng Từ
--- o0o ---
--- o0o ---
Nguồn: www.quangduc.com