Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Sự báo ứng của Nghiệp
"Chính
Nghiệp dẫn dắt thế gian nầy" -- Atthasalini
---o0o---
Sự báo
ứng của Nghiệp là một tiến trình vô cùng phức tạp mà
chỉ có Đức Phật mới có thể am tường thấu đáo. Để
nhận thức phần nào vấn đề khó khăn ấy, ta cần phải
biết lịch trình tiến triển của dòng tư tưởng (citta vithi).
Tâm, hay thức, phần tinh túy của cái
được gọi là chúng sanh, đóng vai trò tối quan trọng trong
guồng máy phức tạp của con người. Chính tâm làm cho ta
trong sạch, cũng chính tâm làm cho ta ô nhiễm. Trong thực tế,
tâm là người thù nguy hiểm nhất mà cũng là người bạn chí
thân của con người.
Khi ngủ say, không chiêm bao mộng mị,
tâm của ta ở trong một trạng thái ít nhiều tiêu cực, tương
tợ như trạnh thái tâm của người vừa chết, hay lúc được
thọ thai. Danh từ Phật Giáo gọi loại tâm ấy là Bhavanga,
hay yếu tố của đời sống. Bhavanga cũng có nghĩa là nguyên
do tối cần, hay điều kiện tối cần để tồn tại. Phát
sanh và hoại diệt từng khoảnh khắc, luồng Bhavanga trôi
chảy như một dòng suối, luôn luôn biến đổi, không khi nào
giống hệt nhau trong hai chập tư tưởng kế tiếp.
Không phải chỉ lúc ngủ mê không
nằm mộng ta mới có loại tâm Bhavanga, mà lúc thức cũng có.
Trong đời sống, ta có loại tâm ấy nhiều hơn tất cả
những loại tâm khác. Do đó Bhavanga là điều kiện tối cần
thiết cho đời sống .
Có vài học giả cho rằng Bhavanga đồng
nghĩa với tiềm thức. Theo Tự Điễn Triết Học [1], tiềm
thức là một ngăn trong tâm mà vài tâm lý gia và triết gia
cho rằng ngăn ấy nằm cạnh phía dưới ngưỡng cửa của
thức.
Theo các triết gia tây phương, tiềm
thức và thức cùng tồn tại trong cùng một lúc [2]. Nhưng
theo Phật Giáo, hai loại tâm không thể tồn tại trong cùng
một lúc.
Bhavanga không phải là một "hạ
tầng cảnh giới" cũng không như "tâm cao thượng"
của F.W. Myer. Hình như trong tất cả nền triết học Âu Tây,
không có khoảng nào đề cập đến cái gì như Bhavanga.
Bhavanga là yếu tố chánh yếu duy trì
cuộc sống. Danh từ gần Bhavanga nhất có lẽ là "Liên
Tục Sinh Tồn", có nơi gọi là "Luồng Hộ Kiếp",
vì nó là điều kiện tất yếu cho kiếp sống sinh tồn.
Nếu không bị ngoại cảnh xâm nhập,
như lúc ngủ say không mộng mị, thì những chập tư tưởng
Bhavanga liên tục nối tiếp như dòng nước. Khi có một đối
tượng xuất hiện - vật chất hay tinh thần - thí dụ như
một hình sắc, thì luồng Bhavanga rung động trong hai chập tư
tưởng, rồi tắt. Lúc luồng Bhavanga vừa tắt thì "ngũ môn
hướng tâm" hay "ngũ khai môn" (pancadvaravajjana) phát
sanh và hoại diệt. Tác động của tâm nầy là hướng về đối
tượng, trong trường hợp nầy đối tượng là hình sắc.
Tức thì, nhãn thức (cakkhu-vinnana) thấy đối tượng, nhưng
chưa biết gì. Kế đó là "tiếp thọ tâm", hay "tâm
tiếp thâu" (sampaticchana). Tiếp theo là "suy đạc tâm"
(santirana) quan sát, dò xét đối tượng. Rồi "xác định
tâm" (votthapana) phân biệt, lựa chọn, thu nhận hay loại
bỏ. Đến đây là vai trò của tự do ý trí. Do nơi chập tư
tưởng quyết định, phát sanh tiến trình Javana, một giai đoạn
tối quan trọng, vì chính ở giai đoạn nầy hành động
thiện hay bất thiện biểu hiện. Chính Nghiệp được tạo nên
trong giai đoạn nầy.
Nếu quyết định chánh đáng (yoniso
manasikara) thì tạo thiện nghiệp. Nếu quyết định sai lầm (ayoniso
manasikara) thì tạo bất thiện nghiệp. Mặc dầu đối tượng
có đáng được ưa thích hay không, ta vẫn có thể tạo một
tiến trình Janava thiện hay bất thiện theo ý muốn. Thí dụ
như khi gặp người thù nghịch, tức nhiên là sự giận dữ
phát sanh ngoài ý muốn của ta. Nhưng bậc thiện trí thức có
thể chế ngự tâm mình, thay vì nổi giận, rải tâm Từ đến
người ấy. Vì lý do đó mà Đức Phật dạy:
"Làm ác do ta.
Làm cho ta nhơ bẩn do nơi ta.
Không làm ác do ta.
Làm cho ta trong sạch cũng do nơi ta.
Cả hai, nhơ bẩn và trong sạch, chỉ tùy thuộc nơi ta.
Không ai khác có thể làm cho ta trong sạch. [3]"
Dĩ nhiên là trong đời sống, tư tưởng
của ta bị rất nhiều yếu tố bên ngoài chi phối như giới
thân cận, tập tục, lễ nghi v.v... Trong những trường hợp
ấy thì tự do ý trí cũng bị lũng đoạn. Tuy nhiên, dầu ở
trường hợp khó khăn nào, ta cũng có đủ khả năng dùng tự
do ý chí vượt qua các áp lực bên ngoài và tạo những tư tưởng
thiện hay bất thiện. Một người thân cận có thể là yếu
tố có nhiều ảnh hưởng, nhưng chính ta phải chịu trách
nhiệm về tất cả các hành động của ta và chỉ có hành động
của ta mới theo sát ta như bóng với hình.
Javana là một Phạn ngữ rất
khó chuyển dịch ra ngôn ngữ khác. Vài học giả dịch là
"trực cảm". Danh từ "xung lực" đôi
khi cũng được dùng. Trong quyển sách nầy, Phạn ngữ Javana
được giữ nguyên vẹn.
Theo đúng nguyên căn, Javana có nghĩa
là chạy, bởi vì trong tiến trình tâm, mỗi loại thường phát
sanh trong một, hai, hay ba chập tư tưởng, chỉ có tâm Javana
phát sanh liên tiếp trong bảy chập lúc bình thường và năm
chập khi lâm chung, và tất cả bảy chập đều cùng chung
một đối tượng. Những tâm sở phát sanh trong bảy chập tư
tưởng ấy đều giống hệt nhau, nhưng năng lực thì không đồng
đều, có chập mạnh có chập yếu hơn.
Tiến trình tâm (citta vithi), hay lộ
trình tiến triển của một tư tưởng, một thời gain cực
nhỏ, chấm dứt bằng "đăng ký tâm" hay "tâm ghi
nhận" (tadalambana) trong hai chập. Như vậy, trọn lộ trình
tư tưởng có tất cả mười bảy chập.
Kinh sách thường diễn tả lịch trình
tiến triển của tâm như sau:
"Người kia nằm dưới gốc cây
xoài, lấy khăn trùm đầu lại, ngủ mê. Một ngọn gió thổi
qua làm rung động nhánh cây và một trái xoài rụng xuống
cạnh bên đầu anh chàng đang ngủ. Anh tung khăn ra và hướng
tầm mắt về phía có tiếng động. Thấy một vật, anh cầm
lên, quan sát và nhận ra đó là một trái xoài. Anh hả miệng
cạp ăn, và nuốt cùng với nước miếng. Xong, nằm xuống
ngủ lại."
Trong câu truyện, giấc ngủ say là
luồng Bhavanga yên tĩnh trôi chảy. Ngọn gió thoảng qua cây xoài
là tâm "Bhavanga vừa qua" (atiti Bhavanga ). Nhánh cây
rung động là tâm "Bhavanga rung động" (Bhavanga calana).
Trái xoài rụng là tâm "Bhavanga dứt vòng" (Bhavanga
upaccheda). Hướng về đối tượng là "ngũ môn tâm hướng"
(pancadvaravajjana). Thấy đối tượng mà chưa biết gì là
"ngũ quan thức" (panca vinnana), trong trường hợp nầy
là nhãn thức. Nhặt lên là "tiếp thọ ". Quan sát là
"suy đạc tâm". Nhận định rằng đó là một trái xoài
là "xác định tâm". Chính sự thưởng thức trái xoài
là tiến trình Javana (7 chập), va sự nuốt miếng xoài, là
"đăng ký tâm". Khi ăn xong trái xoài người kia nằm
ngủ lại, là khi trãi qua trọn lộ trình thì tâm trở lại
trạng thái Bhavanga.
Tóm lại mỗi lộ trình tư tưởng
chia làm 17 chập: 3 chập Bhavanga, 1 ngũ môn hướng tâm, 1 ngũ
quan thức, 1 tiếp thọ tâm, 1 suy đạc tâm, 1 xác định tâm,
7 chập Javana và 2 chập đăng ký, như sau:
Chập tâm |
Lộ Trình Tiến Triển Của Một Tư Tưởng |
1 |
Atita
Bhavanga |
2 |
Bhavanga
Calana |
3 |
Bhavanga
Upaccheda |
4 |
Pancadvaravajjana |
5 |
Panca
Vinnana |
6 |
Sampaticchana |
7 |
Santirana |
8 |
Votthapana |
9 |
Javana |
10 |
|
11 |
|
12 |
|
13 |
|
14 |
|
15 |
|
16 |
Tadalambana |
17 |
Trong 7 chập tư tưởng của tiến trình
Javana, chập đầu có năng lực tạo Nghiệp yếu nhất nên
trổ quả trong kiếp hiện tại, gọi là "Hiện Nghiệp"
(dittha dhamma vedaniya kamma, nghiệp có hiệu năng tức khắc
trong hiện tại). Nếu không trổ sanh trong kiếp hiện tại thì
quả ấy sẽ tiêu mất, gọi là quả không trổ sanh, hay "Nghiệp
Vô Hiệu Lực" (Ahosi).
Chập tư tưởng yếu kế đó là
chập thứ 7 của tiến trình Javana. Quả của chập nầy trổ
sanh trong kiếp sống kế liền sau kiếp hiện tại, gọi là
"Hậu Nghiệp" (upapaja vedaniya kamma, nghiệp có hiệu năng
liền kế đó). Nghiệp nầy trổ quả kế tiếp theo, cũng tự
nhiên trở nên vô hiệu lực nếu không trổ sanh trong kiếp
kế liền đó.
Quả của 5 chập tư tưởng còn lại,
từ chập 2 đến chập 6 của tiến trình Javana, có thể trổ
sanh bất cứ lúc nào trong vòng luân hồi, từ kiếp kế kiếp
hiện tại đến lúc hoàn toàn giải thoát, gọi là "Nghiệp
Vô Hạn Định" (aparapariya vedaniya kamma, quả trổ sanh
trong thời gian vô hạn định).
A.
Phân loại theo Thời gian
Như vậy, theo thời gian, Nghiệp có
thể được phân loại như sau:
1.- Hiện Nghiệp (Dittha
dhamma vedaniya kamma), quả trổ sanh trong kiếp hiện tại.
2.- Hậu Nghiệp (Upapajja vedaniya kamma), quả trổ sanh trong
kiếp kế kiếp hiện tại.
3.- Nghiệp Vô Hạn Định (Aparãpariya vedaniya kamma), quả trổ
sanh không nhất định lúc nào trong thời gian chưa đắc Quả
Niết Bàn.
4.- Nghiệp Vô Hiệu Lực (Ahosi Kamma).
Những câu chuyện thí dụ:
Hiện nghiệp
a)
Quả lành trổ sanh trong kiếp hiện tại.
Hai vợ chồng kia chỉ có một cái áo
(choàng theo lối người Ấn). Khi chồng có việc đi đâu,
mặc áo, thì vợ phải ở nhà. Nếu vợ đi thì chồng ở nhà.
Một ngày kia, chồng đi nghe Đức Phật thuyết pháp, lấy làm
thỏa thích, khởi sanh ý muốn dâng lên Đức Phật cái áo duy
nhất ấy, nhưng lòng luyến ái cố hữu của con người trỗi
dậy, và một cuộc tranh đấu diễn ra bên trong anh. Sau cùng,
tâm bố thí chế ngự lòng luyến ái. Anh hết sức vui mừng,
reo lên: "Ta đã chiến thắng, ta đã chiến thắng", và
hành động đúng y sở nguyện, dâng cái áo lên Đức Phật.
Câu truyện lọt đến tai vua. Đức
vua lấy làm hoan hỷ, truyền lệnh ban cho anh 32 bộ áo. Người
chồng có tâm đạo nhiệt thành ấy lựa ra hai bộ, một bộ
cho mình và một bộ cho vợ, còn lại bao nhiêu dâng hết lên
Đức Phật. [4]
b)
Quả dữ trổ sanh kiếp hiện tại.
Một người thợ săn dắt bầy chó vào
rừng kiếm thịt, thấy bên đàng một vị tỳ khưu đang đi
khất thực. Hôm ấy anh đi cả buổi mà không săn được gì,
người thợ săn lấy làm bực tức cho rằng vì gặp vị đạo
sĩ giữa đàng, đó là điềm xấu nên xui xẻo. Lúc trở về
lại gặp vị đạo sĩ ấy nữa, người thợ săn nổi giận
xua chó cắn, mặc dù vị tỳ khưu kia hết lời năn nỉ van lơn.
Không còn cách gì khác nữa, vị tỳ khưu bèn trèo lên cây để
tránh bầy chó dữ. Người thợ săn chưa đã nư giận, chạy
đến gốc cây, dương cung bắn lên, nhằm bàn chân vị tỳ khưu.
Trong lúc sợ hãi mất bình tỉnh và vô cùng đau đớn, vị
tỳ khưu đánh rơi cái y của mình xuống, chụp lên đầu và
bao trùm lên mình thợ săn. Bầy chó dữ thấy một người đang
lúng túng trong bộ y vàng ngỡ là nhà sư đã té xuống nên áp
lại cắn xé chủ mình. [5]
Hậu Nghiệp: Quả trổ
sanh trong kiếp kế liền, sau kiếp hiện tại.
Có người làm công cho nhà triệu phú
nọ, một người rằm, sau khi làm việc cực nhọc ngoài đồng,
chiều về thấy cả nhà đều thọ bát quan ngày ấy. Mặc
dầu chỉ còn có nửa ngày, anh liền xin thọ giới và nhịn
đói buổi chiều. Bất hạnh thay, sang hôm sau anh qua đời.
Nhờ tâm trong sạch nghiêm trì bát quan trai giới, anh tái sanh
lên cõi trời.
Vua Ajatasattu (A Xa Thế), con Vua Bình
Xa Vương (Bimbisara), liền sau khi chết, tái sanh vào cảnh khổ
vì mang trọng tội giết cha.
Nghiệp Vô Hạn Định:
Quả trổ sanh bất cứ lúc nào,từ kiếp kế kiếp hiện tại
đến lúc giải thóat hoàn toàn.
Không ai có thể lẫn thoát ra khỏi
Nghiệp nầy. Chư Phật và chư vị A La Hán cũng không thể tránh
khỏi quả dữ của những Nghiệp đã gieo trong thời dĩ vãng.
Đức A La Hán Moggallana (Mục Kiền Liên),
trong một kiếp quá khứ xa xôi, đã nghe lời người vợ tàn
ác âm mưu ám hại cha mẹ [6]. Do hành động sai lầm ấy, Ngài
đã trãi qua một thời gian lâu trong cảnh khổ và, trong kiếp
cuối cùng, bị một bọn cướp giết chết.
Đức Phật bị vu oan là giết chết
một nữ tu sĩ theo đạo lõa thể. Kinh sách chép rằng sở dĩ
Đức Phật phải chịu tiếng oan như vậy là vì trong một
tiền kiếp, Ngài đã thiếu lễ độ với một vị Độc Giác
Phật.
Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) toan giết
Đức Phật, lăn đá từ trên núi cao làm trầy chân Ngài. Kinh
sách chép rằng vào một tiền kiếp xa xôi, Đức Phật đã
lỡ tay giết người em khác mẹ trong một vụ tranh chấp tài
sản.
B.
Phân loại theo Tác động
Theo một lối phân loại khác, căn
cứ trên tác động, Nghiệp chia làm bốn:
1.- Nghiệp Tái Tạo (Janaka
Kamma)
2.- Nghiệp Trợ Duyên (Upatthambhaka Kamma)
3.- Nghiệp Bổ Đồng (Upapidaka Kamma)
4.- Nghiệp Tiêu Diệt (Upaghataka Kamma)
Theo Phật Giáo, chập tư tưởng
cuối cùng của đời sống thật quan trọng, vì trong giờ phút
lâm chung, Nghiệp lành hay dữ có năng lực mạnh nhất tạo điều
kiện cho sự tái sanh liền kế đó. Nghiệp ấy gọi là
Nghiệp Tái Tạo (Janaka Kamma).
Cái chết của một chúng sanh chỉ là
sự "sự gián đoạn tạm thời của một hiện tượng
tạm thời". Mặc dầu thể xác hiện tại hoại diệt nhưng
một hình thể khác sẽ phát sanh thích ứng tùy theo tư tưởng
mạnh nhất trong giờ lâm chung, và hình thể sau nầy không hoàn
toàn giống hình thể trước mà cũng không tuyệt đối khác.
Thể xác tan rã, nhưng luồng Nghiệp lực vẫn tồn tại.
Tiến trình tư tưởng cuối cùng ấy, gọi là "Nghiệp Tái
Tạo", quyết định cảnh giới của kiếp sống tới.
Thông thường, tiến trình tư tưởng
cuối cùng của một người tùy thuộc nơi phẩm hạnh của người
ấy trong đời sống. Tuy nhiên, cũng có trường hợp đặc
biệt mà ngoại cảnh tạo cơ hội thuận lợi hay bất lợi, làm
cho một người tốt có thể có những tư tưởng xấu, hay người
xấu có những tư tưởng tốt lúc thở hơi cuối cùng. Chính
chập tư tưởng cuối cùng ấy tạo điều kiện cho sự tái
sanh trong kiếp kế. Trong trường hợp nầy phẩm hạnh của người
kia trong đời sống không đem lại ảnh hưởng nào cho sự tái
sanh. Nhưng, như vậy không có nghĩa là quả phải có của
những hành động trong quá khứ đã tiêu tan mất. Quả ấy
sẽ trổ sanh đúng lúc và tương xứng với nhân đã gieo.
Những biến đổi bất ngờ trong lúc
tái sanh giải thích vì sao có những đứa con hung dữ, xấu xa,
trong một gia đình lương thiện và những người hiền lành
đạo đức sanh trưởng trong một gia đình hư hèn tàn ác.
Nghiệp Tái Tạo cũng có thể bị
Nghiệp quá khứ chen vào để trợ lực hay để làm suy nhược
và ngăn trở. Những ảnh hưởng và duy trì gọi là "Nghiệp
Trợ Duyên" (Upatthambhaka Kamma).
Những ảnh hưởng làm suy nhược và
ngăn trở gọi là "Nghiệp Bổ Đồng" (Upapidaka Kamma).
Theo định luật Nghiệp Báo, khả năng
trổ quả của Nghiệp Tái Tạo cũng có thể bị một Nghiệp
quá khứ khác, nghịch chiều và mạnh hơn, hoàn toàn tiêu
diệt một cách bất ngờ, cũng như một chướng ngại vật
chận đứng sức tiến của một làn tên bay đến là rơi mũi
tên xuống đất. Ảnh hưởng phản nghịch ấy gọi là "Nghiệp
Tiêu Diệt" (Upaghataka Kamma). Nghiệp nầy mạnh hơn hai
Nghiệp trên vì chẳng những gây trở ngại mà còn tiêu diệt
hoàn toàn năng lực của một Nghiệp khác.
Trường hợp của Devadatta (Đề Bà
Đạt Đa) được sanh trưởng trong hoàng tộc. Nghiệp Trợ Duyên
giúp Ngài trưởng thành trong hoàn cảnh tiện nghi, sung túc. Đến
khi manh tâm chia rẽ Tăng Già, tạo Nghiệp Bổ Đồng, do
Nghiệp nầy Ngài bị trục xuất ra khỏi Giáo Hội và phải
chịu nhục nhã. Sau cùng, Nghiệp Tiêu Diệt dẫn ông vào khổ
cảnh.
C.
Phân loại theo Báo ứng
Căn cứ trên khả năng báo ứng (vipakadanavasena),
Nghiệp có thể phân làm bốn loại:
1.- Trọng Nghiệp (Garuka
Kamma ),
2.- Cận Tử Nghiệp (Asanna Kamma ),
3.- Thường Nghiệp (Acinna Kamma ),
4.- Tích Trữ Nghiệp (Katatta Kamma ).
Loại Nghiệp đầu tiên là "Trọng
Nghiệp" (Garuka Kamma ), có nghĩa là hành động trọng yếu,
nghiêm trọng, một cái Nghiệp nặng, vì nó chắc chắn trổ
quả trong kiếp hiện tại hay kế tiếp, sau kiếp hiện tại.
Nếu là một Trọng Nghiệp thuộc về loại "thiện "thì
đó là kết quả của thiền (Jhana). Người đắc tứ Thiền
Sắc Giới chẳng hạn thì hưởng quả vị của Thiền ấy
ngay trong kiếp hiện tại hay trong kế tiếp.
Nếu là một Trọng Nghiệp thuộc
về loại "bất thiện", thì đó là hậu quả của năm
tội ác, Anantariya Kamma, Ngũ Nghịch Đại Tội, tức là: giết
cha, giết mẹ, giết một vị A La Hán, gây thương tích cho Đức
Phật, và gây chia rẽ Tăng Già.
Đức Phật có lưu ý hàng đệ tử
rằng nếu không phạm tội giết cha thì Vua Ajatasattu (A Xà
Thế) đã đắc quả Tu Đà Hườn rồi. Trong trường hợp
nầy Trọng Nghiệp bất thiện được gây ra trước, và ngăn
cản tiến bộ tinh thần về sau.
Nếu không có một Trọng Nghiệp làm
điều kiện cho sự tái sanh trong kiếp kế liền đó, thì
"Cận Tử Nghiệp"(Asanna Kamma ) là nghiệp dắt dẫn đi
thọ sanh. Cận Tử Nghiệp là hành vi cuối cùng, hay hành vi nào
mà chập tư tưởng cuối cùng nhớ đến trước khi lâm chung.
Vì lẽ ấy, trong các xứ Phật Giáo thường có tập tục
nhắc nhở người sắp lìa trần những hành vi tốt đẹp
của họ trong đời sống, giúp đỡ, khuyến khích họ tạo
một vài nghiệp lành ngay trước giờ lâm chung như đọc kinh,
niệm Phật, bố thí v.v...
Đôi khi người xấu có thể chết
một cách yên ổn và tái sanh vào cảnh giới hữu phúc nếu
họ được may mắn hồi nhớ lại, hoặc làm một điều
thiện trong giờ phút cuối cùng. Như vậy không có nghĩa là
người ấy - dầu tái sanh trong nhàn cảnh - tránh khỏi quả
dữ của nhân ác đã gieo trong quá khứ.
Mặc khác, một người lành có thể
thọ sanh trong cảnh khổ vì bất thình lình trong giờ phút
cuối cùng lại có một hành vi hay tư tưởng bất thiện.
Trong trường hợp nầy cũng vậy, nhân lành đã gieo sẽ trổ
quả đúng lúc, nhưng vì có chập tư tưởng bất thiện cuối
cùng, người ấy phải chịu tái sanh trong cảnh khổ.
Loại nghiệp thứ ba là 'Thường
Nghiệp" (Acinna Kamma). Thường Nghiệp là hành động hằng
ngày, những việc làm mà ta thường lập đi lập lại, hay thường
nhắc nhở, nhớ đến, và ưa thích hơn hết. Những thói quen,
lành hay dữ, dần dần trở thành bản chất và ít nhiều
uốn nắn tâm tánh con người. Trong khi nhàn rỗi tâm thường
duyên theo những tư tưởng, những hành vi quen thuộc một cách
tự nhiên, lắm khi vô ý thức. Cùng một thế ấy, trong giờ
phút lâm chung, trừ khi bị một ảnh hưởng nào mạnh hơn, ta
thường nhớ lại những hành vi và tư tưởng quen thuộc. Như
bác sĩ thì nhớ bệnh nhân, giáo sư thì nhớ cử tọa v.v...
Sau cùng là "Nghiệp Tích
Trữ"(Katatta Kamma ), bao gồm tất cả những trường hợp
không có kể trong ba loại nghiệp trên. Những trường hợp nào
không nằm trong ba loại nghiệp kể trên gom chung lại thành
một loại: Nghiệp Tích Trữ. Nghiệp nầy giống như cái vốn
dự trữ của một cá nhân.
D.
Phân loại theo Cảnh giới
Lối phân loại cuối cùng căn cứ trên
những cảnh giới mà quả có thể trổ sanh. Theo lối nầy
quả có thể chia làm bốn:
1.-
Những hành động bất thiện (akusala) tạo quả trổ sanh trong
Dục Giới (kamaloka),
2.- Những hành động thiện (kusala), tạo quả tái sanh trong
Dục Giới,
3.- Những hành động thiện, tạo quả tái sanh trong Sắc
Giới (rupaloka), và
4.- Những hành động thiện, tạo quả tái sanh trong Vô Sắc
Giới (arupaloka).
Những Hành Động Bất Thiện
Tạo Quả Trổ Sanh Trong Dục Giới
Có mười hành động bất thiện,
tạo nghiệp dữ. Trong 10 hành động ấy,
- Ba
biểu hiện bằng việc làm (thân nghiệp ) là: sát sanh (panatipata),
trộm cắp (adinnadana), và tà dâm (kamesu micchacara)
- Bốn
biểu hiện bằng lời nói (khẫu nghiệp) là: nói dối (musavada),
nói đâm thọc (pisunavaca), nói lời thô lỗ cộc cằn (pharusavaca),
nói nhảm nhí vô ích (samphappalapa).
- Ba
biểu hiện bằng tư tưởng (ý nghiệp ) là: tham lam (abhijjha),
sân hận (vyapada), và tà kiến (micchaditthi).
Sát sanh là cố ý giết chết một chúng
sanh. Trong Phạn ngữ Panatipata, "pana" có nghĩa là đời
sống tâm-vật-lý của một chúng sanh. Xem thường đời sống,
tiêu diệt, cắt đứt, ngăn chặn sức tiến của năng lực
một đời sống, không để nó tiếp tục trôi chảy là
panatipata.
"Pana" có nghĩa là cái gì đó
có hơi thở. Do đó tất cả những động vật - gồm cả loài
thú - đều được xem là "pana". Cây cỏ không có
phần tinh thần, tuy nhiên giới luật hàng xuất gia không cho các
vị tu sĩ xâm phạm đến đời sống của cỏ cây. Giới nầy
không áp dụng cho người cư sĩ.
Có năm chi tạo nghiệp sát sanh: 1.- Có
một chúng sanh; 2.- Biết rằng đó là một chúng sanh; 3.- Ý
muốn giết; 4.- Cố gắng để giết; 5.- Chính hành động
giết chết.
Nghiệp bất thiện được gây nên do
hành động sát sanh nặng hay nhẹ tùy tánh cách quan trọng
của chúng sanh bị giết, lành hay dữ, lớn hay nhỏ v.v...
Giết một bậc vĩ nhân hiền đức hay một con thú to lớn
tạo nghiệp nặng hay là giết một tên sát nhân hung dữ hay
một sinh vật bé nhỏ, vì sự cố gắng để thực hiện hành
động sát sanh và tai hại gây ra quan trọng hơn. Quả dữ
của nghiệp sát sanh là mạng yểu, bệnh hoạn, buồn rầu, đau
khổ vì nạn chia ly và lo sợ.
Có năm chi tạo nghiệp trộm cắp:
1.- Có một vật thuộc sở hữu của người khác; 2.- Biết như
vậy; 3.- Có ý muốn đoạt vật ấy làm sở hữu của mình;
4.- Cố gắng trộm cắp; 5.- Chính hành động trộm cắp. Quả
đương nhiên của nghiệp trộm cắp là nghèo nàn, khốn khổ,
thất vọng và làm thân nô lệ.
Có bốn chi tạo nghiệp tà dâm là:
1.- Ý nghĩ muốn thỏa mãn nhục dục; 2.- Cố gắng tiếp theo;
3.-Tìm phương tiện để đạt mục tiêu; 4.- Chính hành động
tà dâm. Quả đương nhiên của nghiệp tà dâm là có nhiều
kẻ thù, đời sống gia đình (giữa vợ và chồng) không có
hạnh phúc, tái sanh làm đàn bà hay người bán nam bán nữ.
Có bốn chi tạo nghiệp nói dối: 1.-
Có sự giả dối (không chân thật) trong lời nói; 2.- Ý muốn
làm người khác hiểu sai sự thật; 3.- Thốt ra lời; 4.- Tạo
sự hiểu biết sai lạc cho người khác. Quả đương nhiên
của nghiệp nói dối là bị mắng chửi nhục mạ, tánh tình
đê tiện, không ai tín nhiệm và miệng thúi.
Có bốn chi tạo nghiệp nói đâm
thọc: 1.- Có những người sẽ là nạn nhân của sự chia rẽ;
2.- Ý muốn phân ly những người ấy hay muốn lấy lòng một
người; 3.- Cố gắng thực hiện tình trạng phân ly; 4.- Thốt
ra lời nói đâm thọc. Quả của nghiệp nói đâm thọc là
bị chia rẽ với bạn bè.
Có ba chi để tạo nghiệp nói thô
lỗ: 1.- Một người khác; 2.- Tư tưởng sân hận; 3.- Thốt ra
lời thô lỗ. Quả của nghiệp nói thô lỗ là không làm gì
ai cũng bị ghét, tiếng nói khàn khàn.
Có hai chi tạo nghiệp nói nhảm: 1.-Ý
muốn nói chuyện nhảm nhí; 2.- Thốt ra lời nói nhảm. Quả
của nghiệp nói nhảm là thân thể không nở nang đều (có
một bộ phận nào trong mình yếu kém), lời nói không rõ ràng
minh bạch làm cho người ta không tin.
Có hai chi tạo nghiệp tham lam: 1.-
Vật sở hữu của người khác; 2.- Tâm thèm muốn, ước mong
được làm chủ vật ấy. Quả của nghiệp tham lam là không
được mãn nguyện.
Có hai chi để tạo nghiệp sân hận:
1.- Một người khác; 2.- Tư tưởng muốn tạo phiền não cho
người đó. Quả của nghiệp sân hận là thân hình xấu xa,
nhiều bệnh hoạn và bẩm tánh khó thương.
Tà kiến là thấy sự vật không đúng,
hiểu biết sai lầm, tin rằng không có quả báo.
Có hai chi để tạo nghiệp tà kiến:
1.- Nhìn sự vật một cách sai lầm; 2.- Khư khư cố chấp quan
niệm sai lầm ấy. Hậu quả đương nhiên của tà kiến là:
ham muốn thấp hèn, thiếu trí tuệ, kém thông minh, bệnh
hoạn kinh niên và có những tư tưởng đáng chê trách.
Theo Phật Giáo có 10 loại tà kiến:
1.- Tin rằng không có gì
gọi là "để bát"(dinnam). Câu nầy hàm ý là để bát
chư Tăng không đem lại lợi ích gì.
2.- Tin rằng không có gì là "cúng đường"(ittham), hay
3.- "dâng tặng"(hutam). Nơi đây cũng vậy hai câu nầy
có nghĩa là để bát cúng dường Đức Phật và chư Tăng,
bố thí vật thực và dâng tặng vật dụng đến những người
cần món ấy không đem lại lợi ích gì.
4.- Tin rằng không có nhân quả. Hành động thiện hay bất
thiện đều không gây hậu quả nào.
5.- Tin rằng không có gì gọi là "thế gian nầy", hay
6.- "Thế gian tới", tức những người sanh ở đây không
chấp nhận có kiếp quá khứ và những người ở đây
không chấp nhận một đời sống vị lai.
7.- Tin rằng không có "mẹ", hay "cha". Hai câu
nầy ngụ ý rằng đối xử với cha mẹ như thế nào cũng không
đem lại hậu quả gì.
9.- Tin rằng không có chúng sanh chết và tái sanh.
10.- Tin rằng không có những bậc tu sĩ xa lánh chốn phồn hoa
đô hội, tìm nơi vắng vẻ để hành thiền và những bậc
thiện trí thức, đức độ cao cả, đạo hạnh trang nghiêm đã
chứng đạt Đạo Quả (ám chỉ chư Phật và chư vị A La Hán
).
Nghiệp Lành Tạo Quả Trổ Sanh
Trong Lục Giới
Có 10 loại hành động tốt tạo
nghiệp lành (kusalakamma) trổ quả trong Dục Giới là:
1.- Bố thí (dana) hay là
lòng quảng đại rộng rãi;
2.- Trì Giới (sila);
3.- Tham thiền (bhavana);
4.- Lễ bái (apacayana), biết trọng người đáng kính;
5.- Phục vụ (veyyavacca);
6.- Hồi hướng phước báu (pattidana);
7.- Hoan hỷ với phước báu của người khác (anumodana), tâm
Hỷ;
8.- Nghe Pháp (dhamma savana);
9.- Hoằng Pháp (dhamma desana); và
10.- Củng cố chánh kiến của mình (ditthijjukamma).
Đôi khi thiện nghiệp thứ bẩy được
chia làm hai: "tán dương phước báu của người khác"
(pasamsa) được thêm vào cùng "hoan hỷ với phước báu
của người khác" (anumodana). Điểm thứ 10, chánh kiến cũng
được chia làm hai là qui y Tam Bảo(tisarana) và niệm (anussati).
Nếu tính như thế ấy thì mười
thiện nghiệp trở thành mười hai.
Đức khoan dung quảng đại hay "Tâm
Bố Thí" tạo quả dưới hình thức được nhiều của
cải, sự nghiệp. "Trì Giới" đem lại sự tái sanh
trong gia tộc quý phái và hoàn cảnh an lành hạnh phúc. "Tham
Thiền" đưa đến sự tái sanh trong Sắc Giới và Vô Sắc
Giới và nâng đỡ, đưa hành giả đến giác ngộ và giải
thoát. Quả của sự "Hồi Hướng Phước Báu" là được
một đời sống sung túc, dồi dào phong phú. "Hoan Hỷ
với phước báu của người khác" đem lại trạng thái an
vui, bất luận trong cảnh giới nào. "Nghe Pháp" và
"Hoằng Pháp" đem lại trí tuệ. "Kính Trọng Người
Đáng Kính"là nhân tạo quả được có thân bằng quyến
thuộc quý phái thượng lưu. "PhụcVụ" tạo quả dưới
hình thức có nhiều người theo hầu hạ và giúp đỡ. "Tán
Dương Hành Động của kẻ khác" đem lại hậu quả là
được nhiều người khen tặng. "Quy Y Tam Bảo" sớm
chấm dứt phiền não. "Niệm" đem lại hạnh phúc dưới
nhiều hình thức.
Thiện Nghiệp Tạo Quả Có Thể
Trổ Sanh Trong Sắc Giới
Sau đây là năm tầng thiền Sắc
Giới (Rupa Jhanas) [7] hoàn toàn thuộc về tâm:
1.- Tâm thiện của sơ
thiền, gồm: tầm (vitakka), sát (vicara), phỉ (piti), lạc (sukha),
và trụ (ekaggata).
2.- Tâm thiện của nhị thiền gồm: sát, phỉ, lạc, trụ.
3.- Tâm thiện của tam thiền gồm: phỉ, lạc, trụ.
4.- Tâm thiện của tứ thiền gồm: lạc và trụ, và
5.- Tâm thiện của ngũ thiền gồm: xả (upekkha) và trụ.
Mỗi tầng trong năm tầng thiền ấy
đều là nhân tạo quả tương xứng cho hành giả thọ hưởng
trong cảnh sắc giới, sau khi từ bỏ xác thân nầy.
Thiện Nghiệp Tạo Quả Trổ
Sanh Trong Vô Sắc Giới
Có bốn tầng Thiền Vô Sắc tạo
quả cho hành giả thọ hưởng trong những cảnh trời Vô Sắc:
1.- Tâm thiện đeo níu
trạng thái "không vô biên thiên"(Akasanancayatana).
2.- Tâm thiện đeo níu trạng thái "thức vô biên thiên"
(Vinnanancayatana)
3.- Tâm thiện đeo níu trạng thái "vô sở hữu thiên"(Akincannacayatana).
4.- Tâm thiện đeo níu trạng thái "phi tưởng, phi phi tưởng
thiên"(Nevasanna nasannayatana). [8]
Chú thích:
[1] Dictionary of Philosophy.
[2] Theo triết học Phật Giáo, không
lúc nào không có một loại tâm đang đeo níu một đối tượng,
vật chất hay tinh thần. Nói cách khác, tâm luôn luôn có đối
tượng. Đối tượng của tâm có thể là vật chất như
tiếng động, hình sắc hay tinh thần như một tư tưởng, tâm
Từ chẳng hạn. Mỗi chập tư tưởng phát sanh rồi hoại
diệt và, trước khi diệt, tạo điều kiện cho chập tư tưởng
kế tiếp phát sanh. Sự tồn tại của một chập tư tưởng
như vậy nhanh đến độ giác quan của con người khó có thể
ý thức được. Những nhà chú giải ghi nhận rằng trong
thời gian một cái nhoáng, có hằng tỷ tỷ chập tư tưởng
phát sanh và hoại diệt.
[3] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 165.
[4] Buddhist Legends - Dhammapadatthakatha,
phần 2, tr. 262.
[5] Buddhist Legends, trang 282.
[6] Theo một vài quyển sách, chính ông
đã giết mẹ.
[7] Theo Vi Diệu Pháp Toát Yếu,
Abhidhammatha Sangaha, Thiền Sắc Giới (Rupa Jhana) có năm tầng,
nhưng sách Visuddhi Magga, Thanh Tịnh Đạo, chỉ nêu lên bốn
tầng. Không có nhiều khác biệt giữa hai lối giải thích.
Theo Vi Diệu Pháp, mỗi tầng Thiền (Jhana) tương ứng với
một chi thiền (tầm, sát, phỉ, lạc, trụ). Trong sách Thanh
Tịnh Đạo tầnh nhị thiền không còn hai chi tầm, sát nữa mà
chỉ gồm ba chi thiền: phỉ, lạc, trụ.
[8] Để có thêm chi tiết, xem "A
Manual of Abhidhamma", tác giả Narada Thera, trang 43-56.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com