Sự truyền bá đạo
Phật
Thích Ðức Nhuận
---o0o---
I.- KHI PHẬT
CÒN TẠI THẾ
Khi đức Phật còn tại thế, ngài đã đi nhiều nước trong xứ Ấn Độ để giáo
hóa chúng sanh, trước tiên ngài độ cho các ông Kiều Trần Như, sau đó
Phật độ cho ba anh em ông Ca Diếp là Ưu Lâu Tần La Ca Diếp, Na Đề Ca
Diếp, Già Da Ca Diếp cùng 1000 đồ đệ của họ, vua Tần Bà Xa La nước Ma
Kiệt Đà xây Trúc Lâm Tịnh Xá ở ngoài Vương Xá thành và Linh Thứu Tịnh Xá
ở núi Kỳ Xà Quật để Phật giảng đạo, nơi đây ngài đã độ cho ông Đại Ca
Diếp, Xá Lợi Phất và ông Mục Kiền Liên với 250 đồ đệ của hai ông Xá Lợi
Phất và Mục Kiền Liên. Lúc nầy đã có trên 1250 vị đệ tử xuất gia trong
Giáo đoàn của Phật.
Khi vua Tịnh Phạn bệnh, đức Phật trở về thăm, ngài đã giáo hóa cho phụ
vương, thâu nhận những đệ tử như con ngài là La Hầu La, em khác mẹ là
Nan Đà, Đề Bà Đạt Đa, A Nậu Lâu Đà.
Sau đức Phật đi tới Vương Xá thành, nước Kiều Tất La, có Thái Tử Kỳ Đà
và Trưởng Giả Tu Đạt Đa cùng xây Kỳ viên tịnh xá cũng còn gọi là Kỳ Đà
Cấp Cô Độc viên để cúng dường Phật làm nơi thuyết pháp, còn nhiều nước
khác cũng xây Tịnh xá cho Phật thuyết pháp, nhưng hai nơi ngài thường An
cư Kiết hạ và thuyết pháp đó là Trúc Lâm Tịnh xá và Kỳ Viên Tịnh xá.
Sau khi Phật thành đạo được 5 năm thì vua Tịnh Phạn mất, đức Phật nhận
cho kế mẫu là bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề và Công chúa Gia Du Đà La xuất gia,
đây là hai phụ nữ đầu tiên được Phật thu nhận làm đệ tử và đến lúc đó
trong Giáo đoàn của ngài có đủ tứ chúng, hai chúng xuất gia: Tỷ Khưu, Tỷ
Khưu Ni, hai chúng tại gia: Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di.
Có 10 đệ tử trứ danh của Phật gọi là Thập đại đệ tử, đó là Xá Lợi Phất
bậc đại trí tuệ, Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất, Đại Ca Diếp tu định
đệ nhất, Ca Chiên Diên nghị luận đệ nhất, ( giai cấp Bà La Môn ), A Nan
Đà đa văn đệ nhất, A Nậu Lâu Đà thiên nhãn đệ nhất, La Hầu La mật hạnh
đệ nhất ( giai cấp Sát Đế Lỵ ), Tu Bồ Đề giải thông đệ nhất, Phú Lâu Na
biện tài đệ nhất ( giai cấp Tỳ Xá ), Ưu Ba Ly trì luật đệ nhất ( giai
cấp Thủ Đà La ).
Những vị hộ pháp trứ danh có Vua Tần Bà Xa La, vua A Xà Thế nước Ma Kiệt
Đà, vua Ba Tư Nặc nước Kiều Tất La, Trưởng giả Tu Đạt thành Xá Vệ, bên
nữ có Hoàng hậu Vi Đề Hi, vợ vua Tần Bà Xa La, mẹ vua A Xà Thế, bà Mạt
Lợi, bà Thắng Man, bà Thiện Sinh vợ của Trưởng giả Tu Đạt...
Về cách thức thuyết pháp, Phật hay dùng phương pháp đối thoại và thí dụ
để cho ngườI nghe dễ hiểu, về nội dung tuỳ theo trình độ căn cơ mà Phật
thuyết pháp từ thấp cho tới cao, từ nông cạn cho tới thâm sâu, từ phàm
phu trở thành Phật.
II.- SAU KHI
PHẬT NHẬP NIẾT BÀN
1.- Các lần kiết tập kinh
điển
Sau khi Phật tịch diệt 7 ngày, trong Tăng chúng có người cho rằng: " Lúc
Phật còn tại thế, giới luật ràng buộc, nay Phật đã nhập Niết Bàn rồi, tự
do hành động, không bị giới luật ràng buộc nữa ". Do đó Tôn Giả Ca Diếp
đã được đức Phật truyền Y, Bát nên ngài xướng lên mở Đại Hội Nghị để kết
tập những lời Phật đã dạy. Vua A Xà Thế cho xây Tịnh xá trong hang Thất
diệp ở nước Ma Kiệt Đà của ngài, để làm Hội trường kết tập. Hội nghị có
500 vị đã chứng quả A La Hán tham dự, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp làm thượng
Thủ, ngài Ưu Ba Ly được cử tụng giới luật, ngài A Nan được cử tụng lại
các Pháp của đức Phật. Sau khi tụng xong, đại chúng thảo luận và thừa
nhận là đúng lời Phật đã nói. Hai tạng Kinh, Luật có từ đó. Lần kết tập
nầy có tên là " Vương Xá thành kết tập " hay " Ngũ bách kết tập ", đã
kéo dài trong 7 tháng, toàn bộ nội dung không có ghi chép.
Phật nhập Niết Bàn được 100 năm thì có lần kết tập kỳ II, nguyên nhân vì
trong Tăng chúng chia làm hai khối, một khối chủ trương quý trọng lối
truyền thừa và hoà hợp gọi là " Bảo Thủ ", một khối lại hướng về phong
phú và tự do gọi là " Tân Tiến ", họ có đưa ra 10 điều luật canh tân. Do
đó, Trưởng Lão Da Xá đã vận động mở Hội Nghị, có 700 vị Tỳ Kheo họp tại
thành Phệ Xá Lỵ, Phía Đông và Phía Tây mỗi bên cử ra 4 vị đại biểu để
chủ tọa việc điều giải các dị kiến, Trưởng Lão Ly Bà Đa nêu ra từng
điều, trong 10 điều của phái Tân tiến, để hỏi là hợp pháp hay phi pháp,
Trưởng Lão Tát Bà Cu Ma y cứ vào giới luật trả lời từng điều là phi
pháp. Và Hội Nghị cũng đã họp tụng suốt 8 tháng Kinh tạng và Luật tạng.
Một số lớn Tăng chúng phía Đông thuộc khối Tân Tiến không hài lòng về 10
điều phi pháp trên, được đại chúng ủng hộ, thành lập riêng một cuộc hội
họp ở nơi khác để kết tập Kinh điển, gọi là Đại kết tập hay Đại chúng
kết tập. Giáo Đoàn Phật giáo đã chia thành Thượng Tọa bộ là phái bảo thủ
và Đại chúng bộ la phái canh tân. Phật giáo đã phân phải từ đây.
Khoảng 218 năm, sau khi phật nhập Niết Bàn tức là năm 254 TTL, Giáo Đoàn
Phật Giáo đã chia thành nhiều phái, ngoại đạo trà trộn tư tưởng vào, gây
nhiều mối phân tranh, trong chúng không hòa hợp, Vua A dục (ASOKA - lên
ngôi năm 272 và mất năm 232 TTL), là một vì vua mộ đạo, vua muốn chỉnh
đốn lại đạo Phật nên ngài đã mở cuộc khảo hạch Tăng già, đuổi ra khỏi
Giáo đoàn những người không thông giáo lý. Vua thỉnh Ngài Mục Kiền Liên
Đế Tu (Moggaliputta Tissa) làm chủ tọa và triệu tập 1000 cao tăng dự Đại
Hội kết tập Kinh Điển tại Hoa Thị Thành. Kỳ kết tập nầy có ngài Đế Tu
đưa ra " Thuyết sự " (Kathàvattnu), do ngài sáng tác, để thuyết minh sự
lý luận giửa ngoại đạo với Phật Giáo, nó trở thành Luận Tạng. TAM Tạng
kinh điển có từ đây. Lần kết tập kỳ III, nầy cử hành trong 9 tháng, cũng
không có ghi chép kinh điển. Vua A Dục còn có công truyền bá Phật giáo
qua Tích Lan, Miến Điện và Thái Lan.
Tương truyền rằng Vua Ca Nhị Sắc Ca - KANISHKA (78BC-101AC) là một vị
vua mộ đạo Phật, mỗi ngày vua thỉnh một vị Tăng vào cung để nghe Pháp,
đích thân duyệt lãm kinh điển, thấy nhiều chỗ nghĩa lý không giống nhau,
đem hỏi Hiếp Tôn Giả (Pàrsva). Ngài Hiếp Tôn Giả giảng rằng, vì Phật
giáo có nhiều phái khác nhau nên giáo nghĩa khác nhau; Vua biết thế liền
cùng Hiếp Tôn Gìa tổ chức kết tập kinh điển. Trước hết vua chiêu tập
500 vị học giả tinh thông Tam Tạng kinh điển, hội họp tại Tịnh xá Hoàn
lâm nước Kasmitra. Ngài Thế Hữu (Vasumitra) làm Thượng thủ và có các
Đại Đức Pháp Cửu (Dhamatràtà), Diệu Âm (Ghosa), Giác Thiên (Buddhadeva)
và Hiếp Tôn Giả. Hội nghị kết tập kỳ IV nầy, lần đầu tiên khắc vào bảng
đồng, những bài giải thích về Kinh, Luật và Luận gồm 300.000 bài tụng
với 6.600.000 chữ, phài xây một ngôi nhà để tàng trữ kinh. Hội nghị kéo
dài trong 12 năm.
Năm 1870, cách Phật Nhập Niết Bàn 2414 năm, tại Mandalay Miến Điện có
một Đại Hội kết tập kinh điển kỳ V.
Sau 2498 năm Phật Nhập Niết Bàn, tại thạch động Maha Pasana Guha cách
Kinh Đô Rangoon 12 cây số ngàn, thuộc Miến Điện đã khai mạc Hội nghị kếp
tập kỳ VI từ 21-5-1954 đến 25-5-1956, lần nầy có thảy 2500 Tỳ kheo của
các nước Phật giáo trên thế giới tới dự, dướI sự chủ tọa của vị Tăng
Thống Phật Giáo. Thể thể thức lần nầy cũng như lần đầu, ngoài chủ tọa,
có hai vị Thượng Tọa " Vấn, Đáp " các đoạn Kinh, Luật, Luận.
2.- Phật Giáo ở xứ Ấn Độ
Ấn Độ là nơi đức Thế Tôn giáng sinh, ngài đã đi nhiều nước miền Bắc Ấn
Độ, để hóa độ chúng sinh trong 50 năm, sau khi Phật Nhập Niết Bàn, Tăng
chúng đã tiếp nối truyền bá giáo lý của Phật, lại có những thời kỳ được
Vua A Dục, Ca Sắc Nhị Ca hộ đạo, làm cho Phật giáo hưng thịnh, về sau
vào đầu thế kỷ VIII, Hồi bắt đầu đánh phá miền Trung Ấn và đến năm 1203,
Hồi giáo đem đại quân tiến vào chiếm Trung Ấn, mục đích thành lập đế
quốc Hồi Giáo và bành trướng đạo Hồi nên họ rất tàn ác, phá hủy chùa
tháp, đốt kinh điển, hảm hại Tăng ni, Các vị cao tăng phải chạy sang
lánh ở Tây Tạng hay ẩn thân vào rừng sâu núi thẳm, Phật giáo Ấn Độ đi
đến lúc suy vong.
Vào khoảng năm 1876, Phật Giáo Tích Lan được chấn hưng, nhờ sự hô hào
của Đại Tá Hải Quân Mỹ Henry Stealle Ocott ( 1832-1907 ), người đã sáng
chế ra lá cờ Phật Giáo Thế giới-. Sau đó năm 1921, có nhà Phật học Tích
Lan uyên thâm, Anagarika Dharmapala (từng theo giúp việc cho Đại Tá
Ocott), ông sang thăm viếng các Phật tích, thấy tình hình Phật Giáo Ấn
Độ đã suy tàn, ông quyết định cần phải phục hưng, nên đứng ra lập Hội
Đại Bồ Đề (Maha Bodhi Society of India), từ Hội nầy Phật giáo Ấn Độ đã
phục hưng. Theo tài liệu của Liên Hiệp Quốc năm 1957, Ấn Độ có 392
triệu dân, có chừng 4 triệu Phật Tử.
III.- PHẬT
GIÁO TRUYỀN BÁ RA NƯỚC KHÁC
Phật giáo từ Ấn Độ, truyền sang phương Bắc, dùng kinh điển chữ Phạn, còn
gọi là Bắc Tông hay Đại Thừa, trước tiên truyền vào Tây Tạng vào khoảng
giữa thế ký III, rồi từ đó truyền sang Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên
và Việt Nam. Riêng ở Việt Nam, thuở ban sơ có nhiều vị sư Ấn Độ theo
lái buôn, họ đi đường biển sang truyền đạo trực tiếp ở Việt Nam trước
công nguyên.
Dưới triều đại vua A Dục, nhà vua phái Trưởng Lão Mahida (con vua A Dục
đã xuất gia), đem Phật Giáo truyền sang Tích Lan, sau lại có con gái vua
A Dục mang một cây Bồ Đề giống, nơi đức Phật thành đạo đến trồng ở Tích
Lan, Phật giáo theo đây gọi là Nam phương hay Nguyên Thủy, kinh điển
dùng chữ Ba Ly, từ đây Phật Giáo truyền sang Miến Điện, Thái Lan, Lào,
Campuchia và Việt Nam.
Ngày nay Phật Giáo lan truyền khắp thế giới, người ta ưa chuộng đạo Phật
vì Giáo lý hợp với tinh thần tự do, khoa học và nhất là phương pháp
Thiền, một phương pháp đã lôi cuốn người Tây Phương để tu tập.
-- o0o --
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
05-10-2001
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục