Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Do đâu tin có Tái Sanh?
"Như
Lai đã nhớ lại nhiều kiếp sống trong quá khứ" -- Trung
A Hàm
---o0o---
Do đâu ta tin có tái sanh?
Đối với người Phật tử, Đức
Phật có đủ uy quyền nhất để thuyết minh vấn đề Tái
Sanh. Chính trong đêm Ngài đắc Quả Chánh Đẳng Chánh Giác, lúc
canh một, Đức Phật chứng ngộ Túc Mạng Minh là tuệ biết
rỏ những kiếp quá khứ .
Ngài nói: "Như Lai đã nhớ lại
nhiều kiếp sống trong quá khứ như thế nầy: trước hết
một kiếp, rồi hai kiếp, rồi ba, bốn, năm, mười, hai mươi,
đến năm mươi, rồi một trăm, một ngàn, một trăm ngàn
kiếp v.v... " [1]
Vào canh hai, Đức Phật chứng đắc
Thiên Nhãn Minh, nhận thấy chúng sanh chết từ kiếp sống
nầy tái sanh vào một kiếp sống khác. Ngài chứng kiến
cảnh tượng "kẻ sang người hèn, kẻ đẹp người xấu,
kẻ hạnh phúc người khốn khổ, chúng sanh hoại diệt và tái
sanh, tùy hành vi tạo tác của mỗi người".
Đó là những Phật ngôn đề cập đến
vấn đề tái sanh. Những đoạn kinh tham khảo trong kinh điển
liên quan đến thuyết tái sanh chứng tỏ rằng Đức Phật không
dựa vào một nguồn hiểu biết nào sẳn có để giải thích
chân lý hiển nhiên nầy. Ngài chỉ dựa trên kinh nghiệm bản
thân và nhận thức cá nhân của chính Ngài, một nhận thức
tuy siêu phàm nhưng mỗi chúng ta đều có thể thành đạt
nếu trau giồi rèn luyện đúng mức.
Trong bài kệ hoan hỷ (Udana) đầu tiên,
Đức Phật tuyên ngôn:
"Xuyên qua kiếp sống nầy (anekajati),
Như Lai lang thang đi, đi mãi, để tìm người thợ cất cái nhà
nầy. Phiền muộn thay những kiếp sống triền miên lặp đi
lặp lại (dukkha jati punappunam)." [2]
Trong bài kinh Pháp đầu tiên, kinh
Chuyển Pháp Luân (Dhammacakka sutta) [3] Đức Phật đề cập đến
chân lý thâm diệu thứ nhì như sau: "Chính Ái Dục dẫn
dắt chúng sanh đi tái sanh"(yayam tanha ponobhavika). Và Đức
Phật kết luận bài Pháp: "Đây là kiếp sống cuối cùng
của Như Lai. Từ đây Như Lai không còn tái sanh nữa (ayam
anyima jati natthi dani punabbhavo)."
Trong bộ Majjhima Nikaya, Trung A Hàm, có
ghi rằng, sau khi thành tựu Đạo Quả Phật, vì lòng thương
chúng sanh, Ngài dùng tuệ nhãn quan sát chúng sanh trước khi
quyết định hoằng dương Giáo Pháp. Ngài nhận thấy rằng có
những chúng sanh biết tội lỗi, sợ tái sanh, sợ mãi mãi
sanh-tử, tử-sanh trong vòng luân hồi (paralokavajjabhaya-dassavino).
[4]
Trong nhiều đoạn kinh khác nhau, Đức
Phật dạy rỏ ràng rằng có những kẻ phải bị sanh vào
cảnh khổ vì đã sống cuộc đời tội lỗi ô trược và có
người, nhờ hành thiện, tạo nghiệp lành, được tái sanh vào
nhàn cảnh.
Ngoài những tích truyện thú vị
trong Túc Sanh Truyện (Jataka), một bộ truyện có giá trị luân
lý quan trọng ghi lại các tiền kiếp của Đức Phật, hai
bộ Majjhima Nikaya (Trung A Hàm) và Anguttara Nikaya (Tăng Nhứt A Hàm)
thỉnh thoảng cũng đề cập đến những kiếp sống quá khứ
của Đức Phật.
Trong kinh Ghatikara sutta [5], Đức
Phật cũng thuật lại cho Đại Đức Ananda rằng trong một
tiền kiếp, vào thời Đức Phật Kassapa, ngài là Jotipala. Kinh
Anathapindikovada sutta [6] cũng ghi rằng liền sau khi tái sanh vào
cảnh trời, nhà triệu phú Anathapindika (Cấp Cô Độc) trở
về viếng Đức Phật đêm sau. Trong bộ Anguttara Nikaya [7], Tăng
Nhứt A Hàm, Đức Phật nhắc đến một kiếp sống quá khứ
Ngài có tên Pacetana. Trong bộ Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm, Đức
Phật kể tên vài vị Phật đã thị hiện trên thế gian trước
Ngài.
Maha-Parinibbana sutta (Kinh Đại Niết Bàn)
[8] ghi rằng một hôm Đại Đức Ananda đến bạch với Đức
Phật, hỏi thăm về số phận của một số người chết
trong làng nọ. Đức Phật nhẫn nại diễn tả trường hợp
từng người, từng hoàn cảnh.
Những trường hợp tương tợ rất
nhiều trong Tam Tạng Kinh, chứng tỏ Đức Phật giảng giải
giáo thuyết tái sanh như một chân lý có thể kiểm chứng.
[9]
Theo lời chỉ dạy của Đức Phật,
trong hàng đệ tử của Ngài có nhiều vị tu hành đúng đắn,
trau giồi và phát triển trí tuệ đúng mức, đã được
biết ít nhiều về tiền kiếp của mình trong vô lượng
kiếp sống. Tuệ giác của Đức Phật vô hạn định.
Trước thời Đức Phật, một vị
nọ người Ấn Độ Rishis, cũng nổi tiếng nhờ những phép
thần thông như thiên nhãn, thiên nhĩ, thần giao cánh cảm,
viễn giác, viễn cảm v.v...
Mặc dầu khoa học chưa tiến đến
mức am hiểu những pháp siêu thường, theo Phật Giáo, người
trau giồi thiền tập và phát triển tâm lực đầy đủ có
thể nhớ những việc xảy ra trong các kiếp quá khứ cũng như
một việc đã xảy diễn vào lúc nào trong kiếp sống nầy.
Xuyên qua những người ấy, ta có thể giao cảm trực tiếp
với những cảnh giới khác bằng tư tưởng và tri giác, không
phải bằng năm giác quan thường.
Cũng có một vài người khác thường,
nhất là các em bé, do luật phối hợp tư tưởng bất ngờ,
sực nhớ lại đoạn nào hoặc một vài chi tiết trong những
kiếp sống quá khứ [10]. Sách có chép rằng Pythagoras đã
nhớ lại tường tận cái nhẫn mà ông đã dùng trong một
tiền kiếp, lúc ấy ông vây hãm thành Troy. Trong kiếp tái
sanh làm Pythagoras, cái nhẫn ấy vẫn còn để trong một đền
thờ Hy Lạp. [11]
Có một em bé, nhờ cách nọ hay cách
kia, nhớ lại kiếp trước. Nhưng đến khi lớn lên thì em không
còn nhớ nữa. Do những thí nghiệm của các nhà tâm linh học
trứ danh, những hiện tượng ma quỷ, những sự giao cảm
giữa hai cảnh âm dương, những sự kiện mà ta thường gọi
là có một số âm linh nhập v.v... cũng đem lại một vài tia
sáng cho vấn đề tái sanh. [12]
Trong trạng thái thôi miên, có vài người
đã thuật lại những kinh nghiệm của mình ở kiếp quá khứ.
Cũng có một ít người khác, như trường hợp Edgar Casey ở
Mỹ Quốc, chẳng những thấy được kiếp trước của người
khác nhờ đó mà còn có thể chữa bệnh cho họ.
Ta có thể giải thích những hiện tượng
ấy rằng đó là nhờ người kia nhớ lại những kinh nghiệm
ở kiếp trước, hoặc có một âm linh nhập. Cách giải thích
thứ nhất có vẽ hợp lý hơn nhưng ta cũng không hoàn toàn bác
bỏ cách giải thích thứ nhì. [13]
Bao nhiêu lần tình cờ mà ta gặp
một người trước kia chưa từng gặp, nhưng trong trí vẫn
nhớ hình như đã quen biết đâu đây? Bao nhiêu lần ta mục kích
một cảnh lạ chưa từng đến, nhưng tự nhiên có cảm giác
đã quen thuộc một lúc nào [14].
Trong Chú Giải Kinh Pháp Cú có ghi
lại câu truyện hai vợ chồng người kia, khi gặp Đức Phật
thì quỳ dưới chân Ngài, bạch rằng:
"Nầy con yêu dấu, có phải chăng
phận sự con là phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già? Tại sao
bấy lâu nay con không đến thăm viếng cha mẹ? Đây là lần
đầu tiên mà cha mẹ gặp lại con."
Đức Phật giải thích rằng sở dĩ
có sự bộc khởi mối thâm tình một cách đột ngột và
bất ngờ như vậy là vì trong nhiều kiếp sống quá khứ hai
ông bà đã làm cha mẹ Ngài, và Đức Phật dạy:
"Do hoàn cảnh thân cận trong quá
khứ hay thuận lợi trong hiện tại.
Tình thâm ở thời xa xôi ấy mọc lên trở lại như hoa sen
mọc trong nước. [15]"
Trên thế gian có những nhân vật cao
siêu xuất chúng, những bậc toàn giác như Đức Phật. Có
thể nào chỉ trong một thời gian của một kiếp sống mà có
thể trau giồi trí tuệ đến mức cao siêu toàn thiện như
vậy chăng? Có thể nào có tình trạng tiến hóa đột ngột
như vậy chăng?
Ta giải thích thế nào về trường
hợp của những nhân vật như Đức Khổng Tử, Homer, Panini,
Buddhaghosa, và Plato, những bậc thiên tài xuất chúng như
Kalidasa, Shakespeare, và những hạng thần đồng như Ramanujan,
Pascal, Mozart, Beethoven v.v...?
Các bậc cao siêu xuất chúng như
vậy, dĩ nhiên đã trãi qua nhiều kiếp sống cao thượng trong
quá khứ và đã từng thâu thập những kinh nghiệm tương tợ.
Phải chăng là sự ngẫu nhiên hay hoàn cảnh thuận lợi đã
đưa các vị ấy vào trong gia đình họ?
Trong trường hợp các thần đồng hình
như cũng tạo nên những thắc mắc cho các nhà khoa học. Vài
nhân vật trong ngành y học giải thích rằng những hiện tượng
như thần đồng, phát sanh do sự phát triển khác thường
của những hạch tuyến như hạch màn mũi, từng quả tuyến và
hạch thận tuyến. Nguyên nhân sự phát triển khác thường
của các hạch tuyến ấy bên trong vài cá nhân nhất định cũng
có thể là do nghiệp quá khứ. Tuy nhiên, nếu chỉ một vài
hạch tuyến phát triển khác thường, làm sao Christian Heineken
có thể nói chuyện ngay vài tiếng đồng hồ sau khi được
sanh ra, đọc lại nhiều đoạn trong thánh kinh lúc lên một,
trả lời những câu hỏi về địa dư lúc lên hai, nói được
tiếng Pháp và tiếng La Tinh lúc lên ba, và khi lên bốn đã
theo học các lớp triết? Nếu chỉ vì có một vài hạch
tuyến phát triển khác thường thì làm sao John Stuart Mill có
thể đọc chữ Hy Lạp lúc mới ba tuổi, làm sao Macaulay có
thể viết Thế Giới Sử lúc vừa sáu tuổi, làm sao William
James Sidis đọc và viết rành chữ mẹ đẻ (Hoa Kỳ) lúc mới
lên hai, đã đọc và viết những tiếng Pháp, Nga, Anh, Đức và
chút ít La Tinh và Hy Lạp khi lên tám, làm sao Charles Bennet ở
Manchester có thể nói được nhiều thứ tiếng lúc mới ba
tuổi? Những người không phải trong giới khoa học có giải
thích được chăng các sự kiện lạ lùng ấy? [16] Các nhà
khoa học có giải thích được chăng vì sao các hạch tuyến
ấy lại phát triển khác thường trong một vài người mà không
phát triển trong người khác, hay tất cả mọi người? Vấn
đề thực sự còn chưa được giải quyết.
Thuyết truyền thống riêng rẽ không
đủ để giải thích các trường hợp thần đồng.
"Phải chi trong ông bà cha mẹ hay
trong hàng con cháu các vị ấy cũng có những thần đồng,
dầu kém hơn, thì cũng là những sự kiện để chứng minh
thuyết truyền thống."
Để giải thích vấn đề phức tạp
ấy một cách thỏa đáng ta phải thêm vào thuyết truyền
thống lý Nghiệp Báo và Tái Sanh.
Có lý do nào để tin rằng chỉ vỏn
vẹn kiếp sống hiện tại nầy mà đủ có thể quyết định
hạnh phúc vĩnh cửu hay cảnh khốn cùng vô tận trong tương
lai không? Bao nhiêu cố gắng trong kiếp sống ngắn ngủi
nhiều lắm là một trăm năm có thể là sự chuẩn bị thích
nghi cho cuộc sống vĩnh cửu không?
Nếu chúng ta tin có hiện tại và tương
lai, tất nhiên chúng ta tin có quá khứ.
Nếu có những lý do để tin rằng có
những kiếp sống trong quá khứ thì cố nhiên chúng ta không có
lý do nào để không tin rằng sau khi kiếp hiện tại tạm
thời chấm dứt chúng ta vẫn tiếp tục sống. [17]
Chính những kiếp sống quá khứ và
vị lai giải thích vì sao trong đời, lắm khi người hiền lương
đạo đức phải chịu gian lao khốn khổ và có những người
gian ác tàn bạo lại được giàu sang may mắn. [18]
Chúng ta sanh ra trong trạng thái mà chính
hành động của ta trong quá khứ đã tạo nên. Nếu trong
kiếp hiện tại, mặc dầu sống trong sạch, mà ta gặp phải
những điều bất hạnh thì nên biết rằng đó là do nghiệp
xấu của ta trong quá khứ. Trái lại, nếu đời sống nhơ
bẩn tội lỗi mà ta vẫn được an vui hạnh phúc, giàu sang,
may mắn, thì đó cũng do nghiệp tốt của ta đã tạo trong quá
khứ. Hành động tốt và xấu của ta trong hiện tại cũng
sẽ tạo quả ngay khi cơ duyên hội đủ.
Mộ văn hào Tây Phương nói:
"Dầu tin có những kiếp sống quá
khứ hay không, niềm tin nầy là giả thuyết hợp lý duy nhất
khả dĩ bắt nhịp cầu để vượt qua những cái hố trong
sự hiểu biết của chúng ta về các sự kiện trong đời
sống hằng ngày. Lý trí cho ta biết rằng ý niệm về đời
sống quá khứ và lý nghiệp báo có thể giải thích chẳng
hạn như mức độ khác biệt giữa hai đứa trẻ sanh đôi, như
làm thế nào có người như Shakespeare, với kinh nghiệm ít
ỏi, giới hạn trong một kiếp sống, có thể mô tả chính xác
một cách kỳ diệu bao nhiêu nhân vật, thuộc nhiều loại
rất khác nhau, những cảnh tượng v.v... mà thực ra ông không
thể biết được. Nó giải thích tại sao các tác phẩm của
các bậc vĩ nhân vượt lên khỏi rất xa kinh nghiệm mà các
vị ấy có thể có. Nó giải thích hiện tượng thần đồng
và sự khác biệt sâu xa giữa người nầy và người khác, trên
phương diện tâm trí, đạo đức, tinh thần và vật chất, điều
kiện, hoàn cảnh v.v... mà ta có thể quan sát ở khắp nơi trên
thế gian."
Nghiệp
Báo và Tái Sanh giải thích những gì?
Thuyết Nghiệp Báo và Tái Sanh giải
thích:
1.- Vấn đề đau khổ mà chính ta
phải chịu trách nhiệm;
2.- Tình trạng chênh lệch tựa hồ
như bất công giữa người và người;
3.- Sự hiện hữu của những bậc vĩ
nhân và những thần đồng;
4.- Tại sao hai trẻ sanh đôi giống
nhau y hệt về mặt vật chất, được nuôi dưỡng y như nhau,
mà lại có những đặc tính hoàn toàn khác biệt về mặt
tinh thần, đạo đức và trí tuệ;
5.- Tại sao trong một gia đình, nếu
theo định luật truyền thống thì con cái phải giống nhau
hết, mà trong thực tế thì lại khác;
6.- Tại sao có những người có
khiếu đặc biệt:
7.- Tại sao cha mẹ và con cái lại có
những đặc tính khác nhau về mặt đạo đức và trí tuệ;
8.- Tại sao trẻ con lại có những
tật xấu như tham lam, sân hận, ganh tỵ;
9.- Tại sao khi gặp một người nào
lần đầu tiên, ta đã có thiện cảm hay ác cảm;
10.- Tại sao trong mỗi người lại có
tiềm tàng ngủ thầm "một kho tàng đức hạnh và một
hầm tật xấu";
11.- Tại sao có sự thay đổi bất
ngờ, bậc thiện trí thức trở thành tầm thường hay kẻ sát
nhân bổng nhiên đổi tánh, sống như bậc thánh;
12.- Tại sao có trường hợp cha mẹ
hiền lương mà sanh con hung ác, trái lại cha mẹ hung dữ
lạisanh con nhân từ;
13.- Tại sao, một đàng, ta như thế
nào trong hiện tại là do ta đã như thế nào trong quá khứ, và
ta sẽ như thế nào trong tương lai là do ta như thế nào trong
hiện tại; theo một đàng khác, trong hiện tại ta như thế nào
không hoàn toàn bởi vì trong quá khứ ta đã như thế nào và
trong tương lai ta sẽ như thế nào cũng không hoàn toàn tùy
thuộc nơi chúng ta như thế nào trong hiện tại;
14.- Tại sao có những cái chết đột
ngột và có sự thay đổi bất ngờ về tài sản sự nghiệp;
15.- Và trên tất cả, thuyết Nghiệp
Báo và Tái Sanh giải thích vì sao có bậc toàn giác, những
bậc giáo chủ toàn thiện như chư Phật, với đầy đủ đức
tánh vật lý, tinh thần và trí tuệ.
Chú thích:
[1] Majjhima Nikaya, Trung A Hàm,
Mahasaccaka Sutta, kinh số 36, i, 248
[2] Dhammapada, kinh Pháp Cú, câu 153.
[3] MahaVagga, trang 10, Samyutta Nikaya,
Tạp A Hàm, câu 428. Xem Chương 6.
[4] Majjhama Nikaya, Trung A Hàm, phần i,
trang 169.
[5] Majjhama Nikaya, Trung A Hàm, phần
ii, trang 45 (kinh số 81).
[6] Majjhama Nikaya, Trung A Hàm, phần
iii, trang 258 (kinh số 143).
[7] Majjhama Nikaya, Trung A Hàm, phần i,
trang 111
[8] Digha Nikaya, phần ii, trang 91 (kinh
số 16).
[9] Xem J. G. Jennings, "The Vedantic
Buddhism of the Buddha"
[10] Trường hợp của Shanti Devi, xứ
Ấn Độ, là một thí dụ hiển nhiên. Xem tạp chí "The
Bosat", tập xiii, số 2, trang 27.
[11] William Q. Atkinson và E. D. Walyer,
trong quyển "Reincarnation and the Law of Kamma".
[12] Kinh Theregatha, Trưởng lão Tăng
Kệ, ghi rằng có một vị Bà La Mô kia "được tín đồ
khâm phục nhờ mỗi lần gõ móng tay lên trên một đầu lâu
khi biết được người chủ của cái đầu lâu ấy đã tái
sanh ở nơi nào."
Có những người biểu hiện các nhân
cách khác nhau trong các thời điểm khác nhau trong đời của
họ. Giáo sư James cũng có nêu lên một vài trường hợp đặc
biệt và thú vị trong quyển "Principles của
Psychology". (Xem F. W. H. Myers, "Human Personality and its
Survival of Bodily Death"). Sách Thanh Tịnh Đạo có ghi một
chuyện một vị trời nhập vào một người cư sĩ (Xem
The Path of Purity, phần i, trang 48).
Chính tác giả (Đ.Đ. Narada) cũng có
gặp những người ngồi đồng, làm trung gian cho giới vô hình
chuyển đạt tư tưởng và những người khác bị âm linh không
tốt nhập vào. Khi ở trong trạng thái mê thì những người
ấy làm và nói những điều mà thường họ không hề biết,
và sau khi tỉnh lại họ cũng không còn nhớ gì hết.
[13] Xem "Many Mansions", đã có
dịch ra Việt ngữ dưói tựa đề "Những bí ẩn của
cuộc đời" do dịch giả Nguyễn Hữu Kiệt, và "The
World Within" của Gina Cerminara.
[14] Chính những kinh nghiệm tương
tợ làm cho Sir Walter Scott ý thức được thuyết luân hồi.
Khi viết lại tiểu sử của Sir Walter Scott trong quyển
"Life of Scott", tác giả Lockhart có trích một đoạn
trong quyển nhật ký của ông, ngày 17-2-1828 như sau: "Chắc
chắn tôi không thể nói rõ có nên viết ra đây hay không,
rằng ngày hôm qua vào giờ cơm chiều, tôi bị cái mà tôi
gọi là ý thức có những tiền kiếp ám ảnh một cách kỳ
lạ, thí dụ như một ý nghĩ mơ hồ rằng không có việc gì
xảy ra mà ta có thể nói là lần thứ nhất. Cũng những vấn
đề ấy được đem ra thảo luận và có những người phát
biểu những ý kiến y hệt. Sự xúc động mạnh mễ đến độ
có thể tả như cái mà người ta gọi là một ảo ảnh ở sa
mạc và cơn sốt trên biển cả."
"Bulwer Lytton diễn tả những kinh
nghiệm bí ẩn khó hiểu ấy như một loại kỳ lạ thuộc
về tinh thần làm cho ta nhớ lại những nơi và những người
chưa từng gặp trước kia. Những người theo học thuyết
của Platon giải thích rằng đó là những tâm tranh đấu và
bất thỏa mãn từ kiếp sống trước, bây giờ trổi lên."
-- H.M. Kitchener, "The Theory of Reincarnation", trang 7.
Chính tác giả (Đ.Đ. Narada) đã gặp
vài người nhớ lại từng đoạn, đời sống của họ trong
kiếp trước. Tác giả cũng có gặp một vài bác sĩ trứ danh
ở Âu Châu có thể thôi miên người khác và làm cho họ nhớ
lại tiền kiếp.
[15] Xem "Buddhist Legends", tập
3, trang 108.
[16] "Ceylon Observer",
21-11-1948.
[17] "Chúng ta phải đến chổ nhìn
hiện tại như con đẻ của quá khứ và là cha mẹ của tương
lai" -- T.H. Huxley.
[18] Addison.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com