.
THỰC
TẠI HIỆN TIỀN
Viên Minh
--- o0o ---
THAY
LỜI NÓI
ĐẦU
[03]
ĐI VÀO KINH BÁT
NHÃ
Trước khi đi vào
kinh Bát Nhã, chúng ta sẽ thảo luận về những
điểm liên quan. Ví dụ: thế giới là gì?
Người ta thường tưởng rằng, bên ngoài là thế giới, bên
trong là tôi. Tôi và thế giới bên ngoài là hai thực tại khác biệt nhau.
Không phải vậy, thế giới là gồm tất cả cái
đang hiện hữu bên trong chúng ta với toàn thể cái hiện diện bên
ngoài. Chữ Loka trong Pāli là thế
gian, nó mang toàn bộ nghĩa này: bên trong cũng Loka mà bên ngoài cũng
Loka. Nội tại và ngoại tại chỉ là một. Nếu có ai chưa rõ thì tôi xin
được hỏi, cái gì ở bên ngoài? Bên
ngoài có phải bên ngoài toàn bộ cái tôi đây
không? Không phải, mình tạm nói, thế giới toàn bộ cái tôi và bên
ngoài. Nhưng trên thực tế chẳng có gì là bên trong, chẳng có gì là bên
ngoài cả. Tôi xin ví dụ: khi tôi nói cái tay rồi tôi
đưa tay lên thì cái tay bỗng trở thành
đối tượng của mắt, vậy nó là sắc, là
thuộc lục trần. Mà lục trần thì nó đã
trở thành bên ngoài mất rồi, phải không?
Bây giờ mình ví dụ cái tâm chứ gì. Tôi
đang sân, tôi thấy cái sân. Vậy cái sân đã
trở thành đối tượng của ý. Sân là
pháp, đối tượng của ý cũng thuộc lục trần.
Vậy thì sân bên trong đã chạy
ra bên ngoài rồi. Vậy tâm cũng không phải bên trong. Thật ra chẳng có gì
là trong, chẳng có gì là ngoài cả. Xin quý vị nhớ cho
điều đó.
Tôi nói vậy không phải là lý luận.
Đây là sự thật. Sở dĩ tôi nói thế là
phá bỏ cái biết quy định về sự phân biệt
trong ngoài.
Thế giới là gì? Thế giới là toàn bộ lục căn,
lục trần và lục thức, tức là 18 giới:
Căn |
Trần |
Thức |
↕
Nhãn
Nhĩ
Tỷ
Thiệt
Thân
Ý |
↕
sắc
thanh
hương
vị
xúc
pháp |
↕
nhãn thức
nhĩ thức
tỷ thức
thiệt thức
thân thức
ý thức |
18 giới |
Giới là lãnh vực riêng biệt.
Bây giờ chúng ta sẽ xem nó vận
động như thế nào mà phát sanh lắm
chuyện như vậy.
Pháp là một sự vận động liên
tục, miên tục, luôn luôn mới lạ nên chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng với
một cái nhìn tinh tường mới thấy nó được.
Không phải chỉ đơn giản như ta viết lên bảng: "khi mắt thấy sắc
thì một cái biết của mắt phát sanh, đó là
nhãn thức". Không máy móc như vậy. Con mắt nó cứ chớp chớp liên tục,
có cái thấy nào của nó mà giống nhau đâu,
phải không? Không phải pháp, khi mà nó
đã "nhậm trì tự tánh" rồi, là nó cứ
đứng yên một chỗ
đâu. Nó luôn luôn uyển chuyển, biến đổi và
sinh động. Thế đấy!
Trong kinh Bát Nhã có
đoạn: vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp, nãi chí vô ý thức giới chính là 18 giới, là cái chỗ mà
chúng ta đang xét sự vận động của nó đây.
Trong các bộ kinh chính thống của cả Nguyên Thủy, Tiểu
Thừa và Đại Thừa đều chỉ nói sáu thức. Mãi
đến 900 năm sau Đức Phật Niết Bàn,
luận sư Thế Thân mới đề cập đến Mạt-Na Thức và
A-Lại-Da Thức trong môn Duy Thức Luận của Ngài.
Ở đây tôi xin nói thêm
một tí rằng, sở dĩ truyền thống Abhidhamma Nguyên Thủy không nói
đến 2 thức này, vì không xem
đó là những tâm riêng mà chỉ là những
giai đoạn đóng vai trò tác dụng trong
tiến trình của một tâm mà thôi.
Khi một tâm sinh khởi, luôn luôn sinh khởi theo một
tiến trình. Trong tiến trình của tâm đó lại
có nhiều yếu tố duyên khởi mang một tác dụng khác nhau. Mạt-na
không phải là một tâm (thức) mà nó là một phần của Javana trong
tiến trình tâm [*]. Còn A-lại-da cũng không phải là một tâm (thức)
mà chỉ là vai trò Tadālambana
và Bhavanga ở cuối tiến trình tâm mà thôi.
Điều này tôi sẽ xin trình bày kỹ trong
những buổi hội thảo sau. Ở đây tôi chỉ xin
lưu ý một điểm là khi xem Mạt-na như một tâm, người ta dễ lầm nó
như một thành phần có sẵn, trong khi Javana có thể khởi, có thể
không khởi tùy duyên, tùy mỗi người. A-lại-da cũng vậy, khi xem
đó là một tâm, mà lại căn
bản tâm nữa người ta dễ lầm với một bản thể luận thường kiến, và
mặc dù luận sư đã cố tránh, người sau
vẫn chấp lấy nó như là bản tâm, một ý niệm khác về
Đại Ngã hay, linh hồn này bất biến.
Đó là
điều chúng ta cần phải lưu ý để khỏi rơi vào ngoại
đạo tà kiến.
[*] Javana là Tốc hành tâm (tâm
Đổng Lực), Tādalambana
là Đồng sở duyên (tâm Mót hay tâm
Thập Di), Bhavanga là Hữu Phần (hay tâm Hộ Kiếp ).
Trong kinh Lăng Nghiêm,
khi có người hỏi làm thế nào để thoát ra khỏi
những điều trói buộc. Đức Phật bảo lấy cái khăn, gút 6 gút, rồi dạy Ngài
A-Nan: "Làm sao người ta có thể gỡ ra được
6 cái gút này?" Ngài A Nan đáp: "Bạch
Đức Thế Tôn, mình gút như thế nào thì
mình tuần tự gỡ ra như vậy thôi!".
Sáu cái gút ấy chính là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý
cột với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp bằng sự trung gian của nhãn
thức... ý thức. Nói là 18 nhưng thật ra chỉ có 6. Sáu cái này khi mà cột
lại thì nó tùm lum hết trơn, phải không? Cho nên người ta nói là:
"Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện
Lục căn tài
động thị vân già".
Nếu mà lục căn mà
bị vọng động, bị loạn lên một cái thì
liền lập tức thế giới thân-tâm-cảnh bị mây vô minh, ái dục che phủ hết
trơn. Còn nếu mặt trời tuệ mà sáng suốt chiếu soi thì: "Chơn giác vô
công, căn trần hà tội?". Cái
mà mình gọi là giác ngộ thì nó chẳng có công lao gì hết và cái căn
trần (lục căn, lục
trần) nó chẳng có tội lệ gì. Mắt tiếp xúc với sắc có tội gì
đâu? Mắt tiếp xúc với sắc sở dĩ gọi rằng tội
là vì do mình vọng khởi tùm lum mà thôi.
Bây giờ chúng ta cùng nhau xem xét sự vận
động của thế giới ấy. Mình tạm coi thế
giới ấy có bên trong và bên ngoài. Con người mình
đây là bên trong và xung quanh là bên
ngoài, tạm gọi là thế giới thân-tâm-cảnh đi
cho dễ nói.
SỰ VẬN ĐỘNG CỦA 18 GIỚI
Khi mắt tiếp xúc với sắc, xúc ấy chỉ thành hình khi có
sự cộng tác của nhãn thức:
Mắt + sắc + nhãn thức → Xúc
Vậy khi nói mắt tiếp xúc với sắc xin quý vị hiểu cho là
nói toàn bộ sự vận hành tập khởi trên. Sự vận
động ấy cuối cùng ghi lại một hình ảnh về sắc, hình ảnh
đó gọi là pháp. Cũng vậy, hình ảnh ghi
lại về thanh, hương, vị, xúc (vật thể sờ
được bằng cảm giác của thân, khác với chữ xúc vừa nói trên)
đều gọi là pháp. Chữ pháp dùng
đây chỉ giới hạn trong nghĩa "tiền
trần lạc tạ ảnh tử", tức là hình ảnh rơi rớt lại của sắc, thanh,
hương, vị, xúc. (Có một điều đáng lẽ chưa
nói ở đây, nhưng tôi cũng xin mở ngoặc một chút để quý vị có một khái niệm
thôi, rằng thực ra pháp không phải chỉ là "tiền trần lạc tạ ảnh tử"
như Duy Thức liệt vào sắc pháp).
Đối tượng của ý cũng không phải chỉ là pháp.
Theo Abhidhamma Nguyên Thủy, đối tượng của ý
gồm có:
Đối tượng của Ý |
Tiền trần (sắc, thanh, hương, vị,
địa, hỏa, phong) |
Sắc thô |
Pháp |
- Tịnh sắc căn (mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân) |
- Tế sắc + "tiền trần lạc tạ ảnh tử"
- Tâm
- Tâm sở
- Niết Bàn
- Khái niệm |
|
Sự trình bày này rất vi tế, nếu có một dịp khác chúng
ta sẽ nói rõ hơn, bây giờ xin quý vị đừng
quan tâm.
Đến đây, vấn đề bắt đầu quan trọng, bắt đầu sự vận động
của toàn diện con người mình đây. Khi
mắt thấy sắc và ta thu nhận hình ảnh của sắc
đó, thì việc gì xảy ra? Rồi kế tiếp
đó là gì?
Có người hỏi:
- Có phải cảm thọ không?
- À, đúng. Đó chính là
cảm thọ. Cảm thọ này có 3 loại là: khổ, lạc và xả.
Khi mắt tiếp xúc sắc, xúc ấy tạo cho ta một cảm giác
khó chịu, ấy là khổ thọ. Nếu xúc ấy làm cho ta dễ chịu thì lạc thọ. Nếu
cảm giác là bình thường không khó chịu, không dễ chịu, tức không khổ,
không lạc, ta gọi là xả thọ. Có phải đúng vậy
không? Đấy là sự thật, sự kiện đang
diễn ra chứ không phải là do lý luận mà có, không phải do ai
đó lập ra bằng quan niệm của lý trí, mà
sự thật ấy diễn ra trong mọi chúng ta, và ai cũng có thể cảm nhận
được, thấy được. Tôi xin lập lại:
Khi mắt thấy sắc → |
- khó chịu: khổ thọ
- dễ chịu: lạc thọ
- bình thường: xả thọ |
Có ai phản đối sự vận hành
đó không? Có ai phản đối sự kiện đó không?
Có người hỏi:
- Đồng ý là sự thật
ấy ai cũng có thể thấy ngay nơi chính mình, nhưng xin thưa, cũng là thấy
sắc nhưng có người khi thấy sắc ấy lại khổ, có người khi thấy sắc ấy lại
lạc. Cũng là sự thật, nhưng sự thật làm người này vui, mà người kia lại
khổ. Vậy đâu là sự thật? cái nào là
thực?
- Câu hỏi đó hay lắm. Đó
chính là điều mà tôi
đang định nói tới. Toàn bộ sự vận hành
này của 6 căn, 6 trần và 6 thức
đến khổ thọ, lạc thọ hoặc xả thọ phát sanh hoàn
toàn tự nhiên thụ động. Hoàn toàn thụ
động nên gọi là vô nhân. Vô nhân là vì
nó không tạo tác, không gây ra nhân. Nó chỉ là kết quả thụ
động.
căn
trần |
+ thức → |
- khổ
- lạc
- xả |
= |
vô nhân dị thục
(không tạo nghiệp) |
Thí dụ: khi bật đèn
100 watt lên, thì người ta đau mắt thấy khó
chịu (khổ), người mắt bình thường thấy dễ chịu (lạc).
Vậy độ sáng của ngọn đèn là sự kiện
khách quan (trần cảnh), còn con mắt (căn)
và cái thấy (thức) thì chủ quan nên dĩ nhiên mỗi người nhìn một
khác. Yếu tố đau mắt hay không đau mắt là
kết quả của cái thân do nhân quá khứ. Nhân quá khứ có thể tội hay phước
nhưng hiện tại chỉ là quả không có tội gì cả. Người khó chịu hay người dễ
chịu không có sai gì cả, cả hai đều thọ nhận
đúng nhân quả của họ.
- Trở lại vấn đề, khi mắt
thấy sắc thì bao nhiêu thức khởi lên, có ai biết không?
- Dạ, hình như có thân thức.
- Anh nói đúng, nhưng
không phải hình như mà là có thân thức hợp tác vào thật sự. Thế anh
có nghĩ là có ý thức nữa không?
- Dạ, hình như có. Khi con nghe một bản nhạc hay hay
con thấy màu xanh, đó có phải ý thức chen vào
không?
- Anh lại nói hình như, tức là anh chưa quan sát kỹ.
Đúng là có ý thức cộng tác vào nữa.
Trường hợp anh thấy màu xanh đó là một
tiến trình riêng của ý thức rồi. Nó là tưởng tượng hay liên tưởng rồi.
Vậy thì khi mắt thấy sắc, không phải chỉ có nhãn thức
khởi lên mà còn có cả thân thức và ý thức cùng khởi nữa.
Mắt thấy sắc gồm → |
Nhãn thức
Thân thức
Ý thức |
Cũng vậy,
Tai nghe tiếng gồm → |
Nhĩ thức
Thân thức
Ý thức |
Mũi ngửi hương gồm → |
Tỷ thức
Thân thức
Ý thức |
Lưỡi nếm vị gồm → |
Thiệt thức
Thân thức
Ý thức |
Riêng thân và xúc chỉ có → |
Thân thức
Ý thức |
Chúng ta phải quan sát cho kỹ mới thấy rõ sự vận hành
của nó.
Khi mắt thấy sắc thì chỉ có xả thọ thôi. "Cái thấy" chỉ
có thọ xả, còn thân thức mới có khổ hay lạc. Xin lưu ý
điều đó. Cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái
nếm hoàn toàn không thọ khổ, lạc chỉ thọ xả. Còn thân xúc mới thọ
khổ hay lạc:
Mắt → sắc → mắt thấy: thọ xả
Tai → thanh → tai nghe: thọ xả
Mũi → hương → mũi ngửi: thọ xả
Lưỡi → vị → lưỡi nếm: thọ xả
Thân → xúc → thân xúc giác: thọ lạc, khổ (đôi
khi muội lược gần như xả)
Như vậy, khi mắt thấy sắc, do
đèn chói thì thấy khó chịu, cái thấy
của mắt không khó chịu mà xúc giác của con mắt khó chịu. Xúc giác của con
mắt thuộc về thân. Khi nghe âm thanh khó chịu, thì cái nghe không khó chịu
mà xúc giác của lỗ tai thuộc về thân khó chịu. Cũng vậy là mũi và lưỡi.
Tôi nói thêm điều này một chút. Khi ta
ăn vô một miếng ớt mà cay. Nhưng mà
cảm nhận khó chịu là chức năng của thân thức
nơi lưỡi. Chúng ta phải chiêm nghiệm rõ
để thấy pháp vận hành bằng không sẽ
rất lầm lẫn. Ví dụ có người nghĩ rằng: "chà, tôi
ăn cái ni nó cay ri, có lẽ là do cái
tâm của tôi, vậy tôi phải bỏ cái tâm cay này
đi!". Cay là cái chuyện của thiệt thức và cảm giác khó chịu là
chuyện của thân thức chứ tâm đâu có cay mà
bỏ tâm cay? Cay chỉ mới là vị giác và của xúc giác. Và mặc dù có ý thức
nhưng vẫn còn tự nhiên thụ động (vô
nhân) chứ chưa phải là tạo tác của tâm. Vậy
đâu có tâm gì cần phải bỏ, trừ phi
biết cay sinh tâm bực tức. Vậy cần phải thấy sự vận hành
đó cho đúng đắn, kẻo lầm.
Còn trong ý thì có khổ, lạc không? Ở nơi ý, xin quý vị
phải lưu tâm. Cái khổ của ý gọi là ưu, cái lạc của ý gọi là hỷ. Nhưng
điều này chúng ta sẽ nói sau.
Trở lại sự vận hành. Khi mắt thấy sắc,
đèn chói, khó chịu, mắt
đau - khổ thọ. Khổ thọ không ở nơi nhãn
thức, nơi cái biết của mắt, mà chính là thân thức nơi con mắt khổ. Khi khổ
thọ chỉ có thân thức là khổ chứ không có ai khổ cả. Nhưng thường chúng ta
hay đồng hóa nó với cái tôi, như là
cái khổ toàn diện, khi nói "tôi khổ" thì khổ là thực còn "tôi"
chỉ là ảo tưởng mà thôi.
KHỔ → PHI HỮU ÁI → KHỔ KHỔ
Bây giờ chúng ta đi sâu
hơn một chút nữa. Khi cảm giác khổ phát sanh, chúng ta thường có phản ứng
như thế nào?
Khi khổ phát sanh, thường bản ngã có ý chống lại cái
khổ, nghĩa là muốn lẫn tránh hay loại trừ cái khổ. Theo danh từ nhà Phật,
thì ước muốn loại trừ ấy gọi là phi hữu ái: muốn hủy diệt cái khổ hay
không muốn khổ tồn tại, cho nên phi hữu ái thuộc về
đoạn kiến.
Khổ phát sanh → ước muốn loại trừ = phi hữu ái.
Chúng ta thử xem xét, phân tích lại thử coi, cách tu
hành của chúng ta có đúng không?
Chúng ta đang khổ, muốn tu
hành cho hết khổ. Coi chừng rơi vào phi hữu ái! Phải không?
Tôi đang ở trong cõi trần gian
đau khổ, cho nên tôi muốn tu mau
để lên cõi Thiên
Đàng, Cực Lạc, ở
đó sẽ không còn khổ nữa. Vậy là rơi
vào phi hữu ái, có đúng không? Và khi
mà rơi vào phi hữu ái thì sao? Phi hữu ái xen vào cái khổ, thì cái khổ sẽ
chồng lên cái khổ, nên gọi là khổ khổ,
đúng không?
Tôi sẽ ví dụ: trời đang
nóng, thấy nóng khó chịu quá, tôi bực bội, tôi quay quắt, rồi than: "Trời
ơi! Sao trời nóng nực khổ thế này!". Như vậy là sao? Như vậy là mũi
tên khổ mới bắn dính ở nơi thân, đã
ghim vào tâm rồi. Vậy là khổ chồng chất lên khổ.
Tôi đang đợi một người nào
đó mà chưa thấy
đến. Tôi nóng nảy, bồn chồn: "Sao
chưa tới kìa! Sao chưa tới kìa!". Vậy có phải là cái khổ tâm lý gia tăng
và chồng chất lên không?
Vậy khi có khổ, nếu ta muốn khẩn trương loại trừ nó,
thì cảm giác khổ tâm lý càng gia tăng lên,
nghĩa là đem phi hữu ái mà chồng lên
khổ thì thành ra khổ khổ.
Khổ thọ (sinh lý) + phi hữu ái = khổ khổ (tâm
lý).
- Nhưng bây giờ quý vị nghĩ cho kỹ xem, cái khổ
đó có thực không?
- Dạ, thưa Thầy, không có thực.
- À, đúng như vậy. Cái khổ
đó không có thực.
Nhưng xin thưa: không thực nhưng mà thực, bởi nó di hại
lên chính cái thân này, khi mình bực bội, tức giận, dẫu là ảo nhưng mà tim
mình lại đập loạn lên, thần kinh căng
thẳng. Như vậy thì có khổ thật, nhưng khổ thật này lại do cái khổ
ảo giác tạo ra. Ví dụ: tôi đang đứng như thế
này, đang ngắm nhìn về phía
trước, bất thình lình có người đánh sau vai.
Nhìn lại, thì thấy cái anh chàng hôm qua mới
đánh lộn với mình, tôi còn thù nó vì
nó mới đánh tôi gãy mấy cái răng
còn đau. Quý vị nghĩ sao về cái đập
sau vai đó? Cái đập đó thật là rất
đau, rất khổ, rất tức, rất bực, rất hận. Có đúng không? Nhưng nếu nhìn
lại thấy một người bạn rất thân mà lâu ngày chưa gặp lại, thì cái
đánh đó lại cảm nghe rất nhẹ nhàng, êm
ái mà cũng rất là thân thương. Vậy thì cảm giác
đó, cái cảm giác mà nếu mình tính
được trọng lượng, giả sử 500 gram cho cú đánh
đó, thì với người thù của mình, mình rất khổ, nó không phải là
500gr mà lại 1.000gr. Nhưng với người thân thương thì chẳng những cú
đánh không đau đớn gì,
đã không khổ mà nó biến ra vui, ra lạc
nữa! Vậy trong đó, con số 500gr đo được là
thực, còn 500gr thêm vào là ảo giác. Hoặc cảm giác khổ
đó giảm xuống số không, rồi lại biến hóa qua
lạc thì cũng toàn là ảo giác do tâm lý tạo ra cả. Tuy vậy ảo giác
đó lại xem ra rất thực đối với chúng ta, đến
nỗi nó sẽ in dấu thành cảm thọ thực trên thân! Cho nên nếu mình
thực sự nhìn thẳng vào cái khổ đó, thì
cần gì tu cho thoát khổ? Có đúng không? Tại
sao phải tu cho thoát khổ làm chi! Ta cứ việc nhìn rõ, nhìn thẳng
vào cái khổ thì ta liền thấy cái khổ đó chỉ là
ảo giác, không có thực. Tại ta không chịu nhìn thẳng, không biết nhìn
thẳng cho rõ ràng.
Đấy là chuyện khổ, còn chuyện ý muốn diệt khổ? Ý
muốn diệt khổ có đúng sự thật không? Xin
thưa, ý muốn đó cũng là một ảo tưởng, một vọng niệm. Ví dụ: câu
chuyện đợi người hồi nãy. Mình
đợi hoài sinh ra nóng nảy, bực bội.
Nhưng người kia có thể có trường hợp khách quan xảy ra là xe bị nổ lốp, bị
kẹt đường... nên
đến trễ mất 5 phút. Thật ra nếu đợi 5 phút mà
tâm mình bình thản thì có sao đâu. Nhưng ở
đây do tâm đợi chờ bực bội nên 5 phút
đã biến thành 50 phút, phải không?
Có người thấy thành phố ồn ào, bụi bặm, mệt mỏi chán
nản quá, muốn đóng cửa một ngày. Một
ngày nằm nghĩ yên tịnh trong phòng, quý vị thấy khỏe ru, an lạc vô cùng.
Nhưng nếu quý vị bị công an bắt bỏ bót một ngày thì quý vị sẽ thấy sôi
sùng sục, tù túng không chịu nổi. Tại sao vậy? Cũng một ngày chớ mấy? Cũng
như nhau sao một bên thì khỏe khoắn lạ lùng và một bên như lửa
đốt gan ruột? Đó là thực hay giả? Vậy
thì phi hữu ái là một ảo tưởng, vọng niệm. Còn cái cảm giác do ảo tưởng
này chồng chất lên trên cái khổ đó là
thực hay giả? Nó cũng giả. Nó là ảo giác. Vậy chuyện tức cười của chúng ta
là khởi lên một ảo tưởng để rơi vào
một ảo giác, rồi lại khởi lên ảo tưởng toan trốn chạy ảo giác
đó!
Người đời, những kẻ túy
sinh mộng tử, đã đành như thế.
Nhưng tiếc thay nhiều người tu hành cũng chẳng hơn chi, phải không? Họ tu
để trốn chạy cái khổ trong một số ảo tưởng
của họ. Tu như vậy sai 100%, có đúng không?
Cảm giác + ảo tưởng = ảo giác.
(khổ) → (muốn lánh khổ) → (khổ hơn)
LẠC → HỮU ÁI → HOẠI KHỔ
Chúng ta vừa nói đến khổ.
Bây giờ chúng ta đề cập đến lạc.
Khi có cảm giác lạc thì ta thường muốn giữ cái lạc
đó lại. Giữ cái lạc đó lại là rơi vào
hữu ái, lòng ham muốn cái lạc đó tồn tại mãi.
Cho nên hữu ái thuộc về thường kiến.
Ví dụ: khi quý vị hành thiền,
đắc được hỷ lạc, thấy người thoải mái, thích
thú. Và rồi ngày nào cũng muốn lặp lại trạng thái
đó. Vậy là hữu ái. Có
đúng không? Không đúng xin quý vị cứ cãi,
đừng chấp nhận một cách bừa bãi hoặc
chấp nhận mà không suy xét, thẩm tra. Cứ việc nói thẳng ra giùm cho.
Khi quý vị có một cảm giác lạc phát sanh, quý vị liền
khởi lên ý muốn giữ cho cái lạc đó tồn tại.
Giống như có cái đẹp, muốn giữ cái đẹp đó lại. Chuyện gì xảy ra?
Tôi xin có thí dụ: có một cô gái
đẹp, thi được giải hoa hậu. Thế nên
ngày nào cô cũng soi kiếng. Hôm nọ thấy một vết mụn trên mặt, cô thấy khổ
sở vô cùng hoặc thấy sút một cân hoặc tăng lên
một cân là cô đau khổ không chịu nổi. Trái
lại, một cô gái khác buôn gánh bán bưng ở chợ, mọc một lần 2, 3 cái mụn mà
cô ta chẳng thấy khổ sở chi hết. Lại nữa, vì lo cho mẹ và các em nên cô ta
quần quật lam lũ nắng mưa, không nề hà gian khổ nên có sút mấy cân cô ta
cũng chẳng thấy khổ chi cả, trái lại còn thấy niềm vui trong lòng vì
đã lo cho mẹ và em. Tại sao vậy? Tại
vì cô ta có giữ cái gì cho mình đâu. Còn
cô hoa hậu vì cố giữ cái đẹp nên khổ.
Do đó, cố giữ cái lạc cho tồn tại là
khổ.
Nhưng ngay khi cái lạc
đang tồn tại mà nơm nớp lo sợ nó mất
đi cũng khổ. Có anh chàng nọ cưới một cô gái cực
đẹp, đẹp tuyệt trần. Quý vị biết sao không?
Anh ta khổ sở quá chừng. Anh ta khổ hơn người lấy vợ nhan sắc bình
thường, chỉ vì anh ta sợ ngày sợ đêm,
hễ cô vợ đi đâu vắng mặt một chút là
anh ta như lửa đốt. Cô vợ nói chuyện với ai là
anh ta ghen ngược, ghen xuôi, v.v... Như vậy, cái lạc
đang có cũng khổ vì sợ lạc bị mất.
Người tu thiền định hôm
kia đắc được hỷ lạc, hôm nay cứ ngồi để mong lặp lại và kéo dài
thời gian hỷ lạc ấy, vì thích thú quá mà, tức là rơi vào hữu ái, là cái
khổ mong cho lạc tồn tại.
Người tu ấy chắc chắn là thua xa người
đang khổ mà an nhẫn, trầm tĩnh và thấy
rõ cái khổ ấy một cách trọn vẹn có phải không? Một người chạy trốn cái khổ
vào sâu trong rừng để cố gắng thiền định, đắc
được hỷ lạc, rồi cố giữ hỷ lạc ấy thì còn thua xa cô gái buôn thúng
bán bưng an nhiên kham nhẫn để nuôi mẹ giúp
em. Tu như vậy thì có chạy 10 kiếp cũng không kịp người kia, chẳng
phải thế sao?
Pháp vốn tự nhiên, đến đi
tự tại, người giác ngộ được pháp tánh đó và sống trọn vẹn với pháp
tánh đó gọi là Như Lai, là Thiện Thệ.
Ngược lại:
Muốn kéo dài lạc → khổ
Sợ lạc mất đi → khổ
- Thế còn nếu lạc tồn tại quá lâu thì sao? Xin hỏi quý
vị?
- Thưa, chán ngắt! Chán ngắt!
- À mọi người trả lời
đúng. Tồn tại quá lâu thì sinh ra chán ngắt, không chịu nổi, và nó
trở nên cái khổ, cho nên:
Lạc kéo dài quá lâu → khổ
Thế mà có biết bao người tu hành chỉ mong muốn
được thường tồn, cực lạc, đại ngã, mỹ
tịnh chi chi đó cũng chỉ là hữu ái
mà thôi.
Ví như có người ở thôn quê mãi
ăn cơm độn khoai, độn sắn, hôm nọ lên
thành phố người ta đãi cho anh ta một
tô phở. Ngon quá, anh ta khen "Ôi! Tô phở thật là thiên
đàng". Nghe khen, người ta
đãi cho anh ta 1 tô nữa, 1 tô nữa, 1
tô nữa... cho đến 10 ngày như vậy.
Đến lúc đó, anh ta đâm sợ hãi,
đòi về cho bằng
được. Vì sao vậy? Vì tô phở "thiên
đàng"
đã biến thành tô phở "địa ngục".
Vậy khi hữu ái chồng lên cái lạc, nó sẽ biến lạc thọ
thành hoại khổ:
Lạc thọ (sinh lý) + hữu ái = hoại khổ (tâm lý).
XẢ → DỤC ÁI → HÀNH KHỔ:
Chúng ta đã nói
đến khổ và lạc, nay chúng ta thử xem
xét về cảm giác xả. Không cảm thọ lạc cũng không cảm thọ khổ, một cảm giác
bình thường, không khổ không lạc mà quý vị đã
biết là xả thọ. Cái xả thọ đó có khổ không?
- Thưa không.
- Anh trả lời đúng.
Nhưng, trên thực tế, ít ai chịu
được cảm giác xả quá bình thường, quá
trầm lặng, quá yếu ớt đó. Xả không phải là
khổ nhưng người ta thường xem nó là khổ, và thích
đi tìm cảm giác mạnh.
Ví dụ: đang đi tới đi lui
với cảm giác bình lặng như thế này một hồi, rồi bỗng khởi lên ý
nghĩ: "Chà! Chán quá, bây giờ mà mình đi
coi xi-nê thì thú biết mấy!". Phải không? Nghĩa là mình không
thích yên (xả), ưa khởi tâm đi tìm
cái thú, cái vui, cái lạc, chén rượu, cuộc cờ, tán gẫu với một người bạn,
v.v... để mà giết thì giờ,
để mà lấp cho
đầy cái trống trải, để mà chạy trốn
cái cảm giác bình thường, phải không?
Do đó, lúc ta ở trong
trạng thái bình thường, thì chẳng bao lâu, ta liền cho cái bình
thường kia là khổ. Đúng thế không? Ta không
chịu nổi trạng thái bình thường vì nó dễ trở nên nhàm chán, buồn
nản. Ta có khuynh hướng đồng hóa xả với khổ,
để rồi chạy đi tìm cái lạc.
Có anh chàng nọ đi qua chùa
Huyền Không, hồi đó chùa còn ở
đèo Hải Vân, Lăng
Cô, thấy cảnh chùa sao mà "thiền" quá, các vị sư ở
đây sao mà thanh thoát quá, hiền hòa
quá! Bèn về nhà xin phép cha mẹ cho đi tu.
Đến xin tôi, tôi đồng ý. Nhưng anh ta tới ở đâu được 3, 4 ngày chi
đó rồi anh ta than: "Trời ơi! Sao
mà buồn quá, chán quá!" rồi anh ta xin về.
Đúng thôi. Chính cái êm
đềm đó, cái bình thường
đó người ta thường không chịu nổi.
Vì không chịu nổi cái trạng thái bình thường của xả
thọ, tâm chúng ta cứ khởi lên hoài, cứ cố tìm bắt một cảm giác khác, một
trạng thái khác, không chịu yên. Chúng ta vì không giữ
được tâm trong trạng thái bình thường,
nên mới khởi lên một cái tâm để tu để đắc,
khởi lên một cái tâm để tìm cái
lạc thú, niềm vui, mơ tưởng, ước vọng v.v...
đây chính là cái lăng xăng tạo tác,
chính là hành. Hành này bị điều động
bởi dục ái. Dục ái gồm có 3 loại: trong đối tượng hiện tại, dục ái nắm bắt
sắc, thanh, hương, vị, xúc. Trong đối tượng quá khứ, dục ái nắm bắt hình
ảnh pháp trần, kỹ niệm bằng hồi tưởng. Trong
đối tượng tương lai dục ái nắm bắt hình ảnh ước mơ bằng tưởng
tượng. Vậy cái khổ ở đây vi tế hơn, cái khổ
chính sự lăng xăng tạo tác (hành) của dục ái nên gọi là hành khổ.
Xả thọ (sinh lý) + dục ái = hành khổ (tâm lý).
Để minh họa tôi xin kể một câu chuyện: có một anh chàng
khi không rủ bạn đi buôn. Anh bạn hỏi:
- Đi buôn để làm
gì?
- Để có tiền.
- Có tiền để làm
gì?
- Để sắm nhà, sắm
xe, có vợ đẹp, con xinh, ăn ngon, mặc đẹp,
nghĩa là để có hạnh phúc chứ gì
nữa.
- À, nếu vậy thì anh cứ đi
đi, tôi không đi đâu, vì mặc dù tôi không có những thứ
đó nhưng tôi đang hạnh phúc kia mà!
Hạnh phúc, người ta thường
đòi hỏi là phải cần có điều kiện gì
gì đó, chứ ít ai hiểu rằng, đôi khi chẳng cần
có gì cả mà vẫn hạnh phúc. Hạnh phúc là cái mà khi ta cần nắm bắt
lại không được, nhưng khi ta không cần nó nữa
thì nó lại đến ngay lập tức.
Ông kia phải đi kiếm tìm,
tạo tác lăng xăng là ông cần
ăn ngon mặc đẹp. Còn ông này thì
đâu có cần thế, vì ông ta
ăn gạo lứt muối mè mà. Nhưng biết
đâu chính người ăn gạo lứt muối mè lại
đang hạnh phúc, còn ông kia,
điều kiện là phải
ăn ngon mới hạnh phúc, nên ông ta phải
nổ lực, phải đổ mồi hôi sôi nước mắt để kiếm
tiền. Phải không? Hạnh phúc mà có điều
kiện thì còn khổ hơn cái khổ vô điều
kiện, phải không?
Cho nên không chịu nổi trạng thái bình thường (thọ
xả) nên phải lăng xăng tạo tác. Cái khổ
của lăng xăng tạo tác, chính là hành khổ vậy. Tóm lại:
- Càng nôn nóng diệt khổ càng sinh thêm khổ khổ do
phi hữu ái hay sân đem lại.
- Càng cố gắng duy trì lạc càng sinh thêm hoại khổ do hữu ái hay
tham đem đến.
- Càng lăng xăng tạo tác càng
sinh thêm hành khổ do dục ái hay si xúi giục.
Nhưng tất cả những cái gọi là phi hữu ái (sân),
hữu ái (tham), dục ái (si) bị
điều động bởi một cái chung đó là vô minh.
Hẳn quý vị đã thấy
rõ tất cả khổ đó là do vô minh và ái
dục cả, phải không? Kinh Lăng Nghiêm
nói: "Tri kiến lập tri tức vô minh bổn", tức là lấy cái thấy,
biết mà chồng chất lên cái thấy, biết hoặc nắm giữ, thiết lập cái
thấy, biết đấy là gốc của vô minh.
Đúng quá, phải không?
Đang khổ, đúng ra khi đó chỉ việc thấy cái khổ thôi thì
đâu có vấn đề gì, nhưng mình lại khởi
lên cái tâm muốn diệt khổ. Đó chính là
vô minh, là tri kiến lập tri rồi.
Cũng vậy khi khởi lên dục ái, hữu ái, phi hữu ái là ta
đã bị vô minh
điều động. Coi chừng sự tu hành của
chúng ta có bị rơi vào dục ái, hữu ái, phi hữu ái không? Chúng ta phải
nhìn ra sự thật đó, nếu không luống công vô
ích.
Ví dụ: có người đang tinh
tấn hết sức mình để tham một công án,
mong rằng đạt được tự tánh vì nghe nói kiến tánh thành Phật! Nhưng
kiến tánh thành Phật là một chuyện hoàn toàn khác, còn anh ta thì
đem hết tâm tư để tham công án vì một
vọng cầu. Vậy anh ta chỉ hoặc là bị chi phối bởi dục ái, hữu ái và phi hữu
ái, hoặc cả 3 mà anh ta không thấy. Vì sao? vì anh ta
đang chán thực tại, nên nôn nóng muốn
đạt sở cầu "tự tánh", vậy là
phi hữu ái rồi!
Anh ta tham lam muốn sao
đạt cho được tự tánh đó, tức là hữu ái và dục ái, vì bây giờ anh ta
đang khởi tâm lên
để nắm bắt, để sở hữu, để ngã hóa cái
gọi là "tự tánh" ấy.
Cũng vậy, chúng ta lên trên núi thật cao
để thiền định, để luyện chú... chi chi đó. Để
làm gì vậy? Để chỉ rơi vào quỹ
đạo của dục ái, phi hữu ái hoặc hữu ái, hoặc
cả 3. Vì vậy, chúng ta đạt được khổ
khổ, hoại khổ và hành khổ mà thôi, chứ không thể nào
đạt được giác ngộ, giải thoát. Mà dục
ái, hữu ái và phi hữu ái là ảo tưởng nên đó là
phi pháp. Khổ khổ, hoại khổ và hành khổ là ảo giác, nên nó cũng là phi
pháp (thế gian pháp).
- Dục ái
- Hữu ái
- Phi hữu ái |
Ảo tưởng → |
Hành khổ
Hoại khổ
Khổ khổ |
Ảo giác |
Tập Đế |
|
Khổ Đế |
|
Các cảm giác khổ gọi là khổ thọ, và các loại ái
đối với các loại thọ gọi là tập
đế, tức là nguyên nhân của sự khổ. Còn
3 cái khổ ảo giác do chính ảo tưởng của các ái sinh ra gọi là khổ
đế, tức là kết quả của vô minh, ái
dục:
Khổ Thọ ≠ Khổ Đế
(Cảm giác tự nhiên vô nhân) ≠ (ảo giác do ảo tưởng của nhân các
ái gây nên)
Quý vị nhớ cho thế này,
đừng hiểu lầm, trong đạo Phật vẫn có thiền định, vẫn sử dụng thiền định.
Nhưng khi nào mình thấy rõ thiền định
ấy là pháp. Khi nào mà thấy tâm mình như vậy, sử dụng như vậy, khi
ấy mới là thiền định. Còn ham muốn
thiền định để đạt thiền lạc hay đạt pháp
thuật thần thông gì đó, thì
đều là sản phẩm của vô minh và ái dục
vậy.
Bây giờ còn 15 phút để
chúng ta hội thảo, ai có thắc mắc gì không? Buổi sau chúng ta sẽ
đi tiếp đề tài này. Lưu ý là tất cả
các buổi hội thảo, các đề tài nó nối
kết với nhau thật chặt chẽ. Quý vị cố gắng theo dõi từ
đầu đến cuối, nếu không có gì bất khả
kháng.
Vừa rồi, chúng ta nói đến
sự vận hành của nội giới và thế giới bên ngoài, tức là 18 giới.
Những buổi sau, chúng ta sẽ triển khai rộng ra sự vận
động ấy.
Có người hỏi:
- Hồi nãy thầy nói phi hữu ái, hữu ái và dục ái là ảo
tưởng và khổ khổ, hoại khổ, hành khổ là ảo giác. Ảo tưởng, ảo giác
đều là phi pháp, không thực. Vì sao
Đức Phật lại gọi là
đế tức là chân lý, sự thật (sacca)?
- Câu hỏi hay lắm! Như vậy là tại tôi nói không hết ý
không rõ. Nhưng trước đây tôi có nói thấy
vọng như thực tướng tức là chơn. Cái mà ảo tưởng, ảo giác tạo ra
đều là phi pháp, là vọng, không có
thực. Nhưng chính ảo tưởng, ảo giác lại có xảy ra, nên khi chúng ta thấy
nó đúng thực tướng nó lại là thực, là
chân, là pháp.
Ví dụ: tôi nói "anh nói dối" thì có nghĩa
điều anh nói ra là dối nhưng việc anh
nói dối là một sự thật. Đúng không? Cũng vậy,
đối tượng hay lý tưởng của các ái là ảo tưởng nhưng chính các ái
lại là hiện tượng tâm lý có thật. Và ảo giác là ảo nhưng sự kiện tâm lý
đó là cảm giác có xãy ra thực.
Hơn nữa trong Tứ Diệu Đế
mặc dù đều là Sacca nhưng có 2
loại khác nhau. Khổ đế và tập
đế thuộc về tục đế, còn
đạo đế và diệt
đế thuộc về chân đế. Tục đế chỉ thực trong
thế gian chứ không thực trong chân lý rốt ráo. Còn nói phi pháp là
để phân biệt với chánh pháp chứ cả hai đều là
pháp cả.
Khi chúng ta sân mà chúng ta biết chúng ta
đang sân thì tôi nghĩ rằng sẽ không có
cái gọi là "chúng ta đang sân".
Nếu giây phút ta đang sân đó, ta chú tâm, ta
biết rõ cái tâm sân thì làm sao có sân
được? Điều này, lần sau tôi sẽ nói rõ hơn. Nhưng ở
đây tôi chỉ xin nói rằng: tu hành
chính là thấy ngay cái pháp thực tại, cái Sanditthiko. Thấy ngay pháp thực
tại chớ đừng bỏ lỡ bất cứ một pháp nào.
Nếu quý vị bỏ lỡ một pháp nào thì quý vị sẽ học lại nhiều kiếp nữa. Quý vị
đang sân, quý vị muốn dẹp cái sân đó bằng
cách ngồi thiền được hỷ lạc thì còn nhiều kiếp nữa quý vị mới học
ra được cái sân đó. Sân là một pháp,
vậy mà mình không thấy ra được bản chất của
nó thì không bao giờ giác ngộ được cả.
Khoa học bây giờ nếu họ biết sấm sét là gì, giông bão
là gì, động đất là gì, thì họ có thể
sử dụng sấm xét, giông bảo và động đất vào
những việc có ích cho con người. Tại sao năng
lượng mặt trời người ta có thể sử dụng được? Nếu sợ ánh nắng mặt trời mà
ta cứ trốn trong bóng mát thì đời nào
người ta sử dụng được năng lượng mặt trời?
Cho nên những cái gì đến và
đi trong cuộc đời chúng ta, đều là bài
học của pháp. Chúng ta phải học cho trọn vẹn, cái
đó chính là giác ngộ
đấy. Còn chúng ta nếu cứ trốn tránh
hoặc chạy theo ý muốn riêng của mình thì muôn
đời không bao giờ thấy được pháp, mà chỉ bị
điều động bởi dục vọng của bản ngã mà
thôi. Có đúng không quý vị? Không đúng thì
cứ phản đối, xin cứ tự nhiên cho.
Có người hỏi:
- Thế tôi niệm A-Di-Đà
để lên cảnh Tây Phương là sai à? Thế
xưa nay người ta tu Tịnh Độ là sai hết
trơn sao? Thầy phỉ báng người ta à?
- Xin thưa là không, tôi không có phỉ báng.
Điều đó chỉ đúng cho một số người. Nếu số
người đó mà họ niệm A-Đi-Đà
đến chỗ "nhất niệm" rồi thì họ
sẽ thấy rằng lúc đó chỉ còn pháp
để thấy mà thôi, không còn lên Tây
Phương Cực Lạc làm gì nữa cả. Vì sao vậy? Vì "tùy kỳ tâm tịnh tức Phật
độ tịnh", khi tâm mình tịnh rồi
thì tâm mình chính là tịnh độ, chứ còn
đòi lên tịnh
độ làm gì nữa?
Xin nhớ cho thế này, pháp của các vị Tổ, chứ không phải
pháp của Phật, là vì lòng từ bi thương chúng sinh mà phải vận dụng ra. Cái
đó có đúng không? Cái đó là nói dối
đấy! Tôi nói thẳng là nói dối
đấy! Vì cái
đó không phải là pháp. Pháp là
Sanditthiko, Akāliko... chứ đâu phải đợi đến
chết rồi mới lên được cõi Tịnh
Độ? Vậy làm sao mà "thiết thực hiện
tiền" và "không có thời gian" cho
được.
Kinh Pháp Hoa, có nói: cái
đó là vì cha thương con nên giả bộ nói xe trâu, xe hươu, xe nai tầm
bậy tầm bạ rứa để cho những đứa con ham chơi
nó ra khỏi nhà lửa thôi. Phải không? Còn khi mà chúng ra khỏi nhà
lửa rồi thì chúng sẽ biết vì sao cha mẹ lại lừa dối mình.
Chúng ta thường thường có cái tự ái gọi là "tự ái
pháp môn". Chúng ta không chịu vượt lên một bậc, vượt lên trên cái "vận
dụng" đó để mà tu thẳng vào sự
thật. Điều đó chúng ta làm
được. Đừng cứ mãi "tự ti" hoặc
"tự tôn" ôm giữ mãi pháp môn của mình, không dám, không chịu tu
thẳng để vượt lên,
để thấy sự thật. Cái đạo, nếu mình
chưa thấy thì mình phải tu theo pháp môn phương tiện cách này cách kia,
nhưng khi thấy rồi thì mình chỉ có việc tu thẳng mà cũng
đạt được kinh Di-Đà nói là cảnh Tây
Phương Cực Lạc. Vì sao vậy? Vì "nhất cú Di-Đà
vô biệt niệm, bất lao đàn chỉ
đáo Tây Phương", khi niệm Phật
đến chỗ không còn tạp niệm (vô
biệt niệm) nữa thì cũng khỏi nhọc công (bất lao)
đi lên Tây Phương (đáo
Tây Phương) làm gì, Tây Phương Cực Lạc là vậy, là cái
pháp thực tại vắng bóng tạp niệm .
Ở đây chúng ta không xuyên
tạc tông phái. Có những người vì trình độ
không thể thấy pháp sự thật được thì khuyên họ cứ tiếp tục tu pháp
môn phương tiện.
- Còn 5 phút nữa. Có ai hỏi gì nữa không?
Có người hỏi:
- Con nghe Sư nói, nếu mình cứ
để tâm bình thường,
đừng khởi vô minh ái dục gì hết, như
vậy có thể nói là mình được đạo. Nếu như mình
khởi tâm lên để tu, để mong đạt được cái này,
cái kia, tức nhiên sẽ rơi vào dục ái, hữu ái và phi hữu ái. Ở
đây, có vấn đề giả dụ một người ngu, họ chẳng
khởi tâm tu tập hay khởi tâm để đắc cái này cái kia chi cả, tâm họ
cũng bình thường vậy thôi. Trường hợp ấy có khác gì với trường hợp của
người trí? Sự khác nhau giữa hai việc không khởi tâm của kẻ trí và người
ngu như thế nào?
- Vâng, câu hỏi của anh rất hay.
Đó là vấn
đề quan trọng. Chúng ta nên đặt ra
những câu hỏi như thế, chớ có thụ động. Tôi xin trả lời. Vấn đề của chúng
ta không phải là khởi hay không khởi, mà là chúng ta bị chạy theo
cái khởi đó, hay là chúng ta thực sự
khởi nó? Khi một người thấy pháp mà khởi tâm dụng pháp thì hoàn toàn khác
với người không thấy pháp mà khởi tâm! Hai cái
đó khác nhau, hoàn toàn khác nhau. Còn
nói rằng người ngu không khởi, thì cái đó
không đúng. Không có người ngu nào mà không khởi tâm cả. Người ngu
thì khởi tâm tầm bậy tầm bạ nữa là khác. Tuy nhiên, cũng có trường hợp
không khởi trong trình trạng si mê, gọi là vô ký. Nó lại khác, nhưng lưu ý
thế này, si mê cũng là một loại khởi tâm (môn tâm học Phật giáo
Abhidhamma nói rất rõ các loại tâm này).
Khi tâm không khởi, cũng là một loại tâm khởi! Nên nhớ
như vậy. Khởi là cái gì? Tâm không phải như vật chất mà có lên có xuống?
Tâm mình không khởi nó cũng vậy thôi. Khởi không phải chạy lên chạy xuống.
Nằm yên cũng một loại khởi. Ví dụ: cố gắng giữ tâm thật
định. Vậy là khởi tâm rồi gì nữa? Có
đúng không? Xin quý vị nhớ cho điều quan
trọng này. Chính khi tâm khởi mà mình biết rõ nó, thì
khi ấy tâm lại không khởi. Còn nếu như khi tâm không khởi mà
không biết, thì chính tâm đang ở
trạng thái si mê. Cái đó thấy rất
rõ chứ không phải lý luận đâu. Người nào
có thấy tâm mình rõ ràng thì đều nhận ra điều
đó.
Ngài Huệ Năng nói: "Đối
cảnh tâm sổ khởi". Đối cảnh tâm cứ
khởi nhiều đi. Trong kinh Nguyên Thủy,
Đức Phật cũng dạy vậy: "chớ bắt cái tâm không khởi, hãy khởi tâm
thiện, tăng trưởng tâm thiện"...
Vậy pháp có thể, tướng và dụng. Cái dụng tức là mình
khởi lên để làm cái này cái kia
đủ thứ. Nhưng vấn đề là mình phải biết
nó, phải thấy pháp, nếu không, hoặc là chạy trốn, hoặc là chạy bắt cái này
cái kia thì lại khác. Vấn đề là phải
thấy pháp.
Có người hỏi:
- Hễ muốn là rơi vào dục ái, hữu ái, phi hữu ái, thậm
chí muốn tu cũng vậy. Nếu có thế thì người ta cứ sống
đừng muốn gì cả sao? Người ta
đừng muốn tu sao?
- Thưa, ông cụ hỏi rất
đúng. Điều này cần phải được phân biệt
rõ ràng. Cụ có nghe rõ không? À, rõ há. Vậy tôi xin trả lời:
Thưa cụ, có 3 loại ý muốn. Loại ý muốn mà chúng ta vừa
đề cập ở trên thuộc về ý muốn bị
điều động bởi vô minh đó là dục ái,
hữu ái, phi hữu ái. Ý muốn nào lọt vào quỹ
đạo này đều là nguyên nhân của
luân hồi sinh tử trong tam giới cả.
Còn loại ý muốn thứ hai là ý muốn tự nhiên thụ
động do điều kiện phát sinh một cách tất yếu,
như đói muốn ăn, mệt muốn nghỉ, ngồi mỏi muốn đi, đi mỏi muốn đứng... Nếu
loại ý muốn này được thực hiện đúng
mức thì nó chính là "bản năng"
của sự sống, rất cần thiết. Nhưng thiếu cảnh giác nó sẽ trở thành loại thú
vật, và nếu đẩy nó đi quá xa, nó trở thành
loại thứ nhất, lọt vào quỹ đạo vô minh ái
dục.
Loại thứ ba là ý muốn tích cực
được hướng dẫn bởi trí tuệ, bởi
người đã thấy pháp hay giác ngộ. Ý
muốn này trở thành cái dụng của đạo.
Nếu không có ý muốn này thì sẽ rơi vào "trầm không trệ tịch". Các
bậc Thánh vẫn có ý muốn này nhưng dưới dạng duy tác (kiriyā).
Riêng về ý muốn tu hành cũng có 2: hoặc thuộc loại thứ
nhất, hoặc thuộc loại thứ hai. Ý muốn tu hành theo loại thứ nhất thì rơi
vào vô minh, ái dục, còn theo loại thứ hai thì do thấy (chánh kiến)
hoặc tin (chánh tín) mà tu hành thì không sai, do
đó được gọi là tùy pháp hành và tùy
tín hành.
Tóm lại chỉ có ý muốn do vô minh ái dục
điều động mới cần được chiếu phá, viễn ly và
đoạn tận mà thôi.
--- o0o ---
[ Mục
Lục ] [
1 ] [
2]
[ 3
] [
4 ] [
5
] [ 6
] [
7 ] [
8 ]
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 1-10-2004
|
|
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục