.
Chánh Pháp và Hạnh Phúc
Thích Minh Châu
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO –2001
--- o0o ---
17. CHÙA VIỆT NAM VÀ MỐI
LIÊN HỆ VỚI NỀN VĂN
HÓA DÂN TỘC
Thiền
đường Trúc Lâm, chùa Trúc Lâm, nơi tôi
có vinh dự và hân hạnh, qua lời mời của Thượng tọa Viện chủ Thích Thiện
Châu, tiếp xúc và nói chuyện cùng quý vị là một ngôi chùa mới, một ngôi
chùa Việt Nam nhưng xây dựng ở nước ngoài, ở nước Pháp, gần kinh
đô Paris hoa lệ. Phải chăng đúng theo lời dự
báo của Pháp sư Thái Hư khi qua thăm Việt Nam cách đây hơn nửa thế kỷ,
trong câu đối Pháp sư tặng chùa Quán Sứ:
Pháp luân tợ
địa Đông Tây chuyển,
Phật đạo phùng nguyên tả hữu
thông.
Tạm dịch:
Bánh xe pháp giống như trái
đất chuyển từ Đông sang Tây,
Đạo Phật trở về nguồn sẽ thông suốt cả bên trái cũng như bên phải.
Gần
đây, đọc báo tôi được biết ở các nước phương
Tây, đặc biệt là ở Mỹ, Cộng Hòa Liên Bang
Đức, ở Anh, ở Ý, Tây Ban Nha và một
phần nào ở Pháp, có phong trào xây dựng nhiều chùa Phật, Thiền viện. Thiền
đường Trúc Lâm của chúng ta là một
trong những chùa và Thiền viện đó. Phong trào
hướng về đạo Phật ở các nước phương Tây chứng
tỏ tính thiết thực hiện tại, tính nhân bản mãi mãi sống
động của đạo Phật. Ngày nào mà loài
Người còn đau khổ, chưa được an lạc, thì
loài Người còn cần tới đạo Phật, là
đạo diệt khổ và
đem lại an lạc cho loài Người, không
kể đó là người phương
Đông hay là phương Tây.
Trong câu
đối của ngài Thái Hư có hai ý, Một ý
là giáo pháp của Phật luôn luôn chuyển, trong thời gian cũng như không
gian. Đó là sự phát triển của
đạo Phật. Đó là
đạo Phật phát triển, và trong sự phát
triển đó, nó không thể không thích nghi với
thời gian và không gian. Yêu cầu của Chúng sinh nói chung, của Phật
tử nói riêng, chung quy là thoát khổ, được
vui nhưng không thể mang nhiều màu nhiều vẻ tùy theo thời gian và
không gian. Do đó, đạo Phật phải phát triển
để thích nghi với những yêu cầu mới của thời gian và không gian.
Đó là lý do hình thành các bộ phái sau
khi Phật Niết Bàn 100 năm và cũng là
lý do xuất hiện tư trào Đại thừa giáo sau này.
Thế nhưng, dù cây cổ thụ có lớn lên và phát triển cành lá sum xuê như thế
nào, thì nó cũng không thể tách rời cái gốc rễ uyên nguyên của nó
được. Đạo Phật cũng thế, càng phát
triển lại càng phải trở về nguồn thì mới có thể
đảm bảo một sự phát triển lành mạnh
đúng hướng, nhờ đó mà mãi mãi xanh
tươi. Ngài Thái Hư nói Phật đạo phùng
nguyên, trở về nguồn là theo ý tứ đó.
Phật giáo Việt Nam ở hải ngoại
có hai cội nguồn, một cội nguồn là ở Ấn Độ,
nơi đức Bổn Sư Thích Ca xuất thế. Ở đây, như quý vị đều biết, vua
Bimbisara, xứ Magadha sau khi được nghe Phật thuyết pháp tại thành
Vương Xá, đã cúng dường Phật vườn Trúc
Lâm, làm tinh xá để Phật và Tăng
chúng ở. Được vua hỏi về yêu cầu một tinh xá, Phật trả lời là tinh
xá phải ở vào nơi vắng vẻ không xa lắm, nhưng cũng không quá gần thành
phố, để cho dân chúng ai muốn, đều có thể đến
được, nhưng ban ngày không có quá đông
người, và ban đêm thì không quá
ồn ào, một nơi thoáng mát ... Và vua Bimbisara thấy vườn Trúc Lâm
rất thích hợp với tất cả những yêu cầu của Phật
đề ra cho một tinh xá. Và thế là tinh
xá Trúc Lâm được hình thành, là nơi
Phật và Tăng chúng đã trải qua sáu kỳ
an cư kiết hạ, và là nơi Phật giảng nhiều bài thuyết pháp quan trọng.
Thiền
đường Trúc Lâm của Thượng tọa Thích Thiện
Châu và quý vị cũng không quá xa, cũng không gần lắm kinh
đô Paris, mong rằng đạt được những yêu
cầu của Phật Thích Ca đề ra cho một tinh xá,
hay một Thiền đường. Và tôi chân thành và hoan hỷ cầu chúc cho
Thiền đường Trúc Lâm của quý vị làm
tròn được sứ mệnh thiêng liêng. Một
mặt phát triển đạo Phật, khế hợp với căn cơ
của thời hiện đại, mặt khác đảm bảo bản chất trong sáng của đạo, khế hợp
với những lời dạy cơ bản của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Theo tôi, đó là
cội nguồn thứ nhất của Phật giáo Việt Nam ở hải ngoại. Còn cội nguồn thứ
hai là Phật giáo Việt Nam tại nước nhà. Một nền Phật giáo Việt Nam rất tự
hào về chiều dài lịch sử của nó hơn 18 thế kỷ, về truyền thống dân tộc anh
hùng của nó, về những thành tích võ công văn
trị của hai triều đại Phật giáo Lý và Trần, là thời kỳ vẻ vang
nhất, rực rỡ nhất của toàn bộ lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Viện Nghiên cứu Phật học Việt
Nam mới được thành lập, mà tôi có vinh
dự được Giáo hội Phật giáo Việt Nam cử làm
Viện trưởng đang tập trung mọi nỗ lực nghiên
cứu để làm sáng tỏ những
đóng góp thiết thực của đạo Phật Việt Nam vào
lịch sử của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là
thời lịch sử vẻ vang của hai triều đại Lý,
Trần.
Tôi không rõ lắm ý tứ của
Thượng tọa Thích Thiện Châu yêu cầu tôi nói chuyện về các chùa cổ Việt
Nam. Phải chăng đó cũng là yêu cầu của
tất cả Phật tử Việt kiều ở Pháp, trong dịp lễ Khánh thành ngôi Thiền viện
Trúc Lâm mới mẻ, xinh đẹp này, luôn
luôn hướng về nền Phật giáo cổ kính của Việt Nam, những ngôi chùa cổ ở
Việt Nam mà do tính chất lịch sử và dân tộc lâu
đời không có một kiến trúc sư hiện đại, tài
ba nào ở Pháp có thể xây dựng lại được. Tất
nhiên, chùa Trúc Lâm của quý vị có vẻ
đẹp thanh xuân của nó, nhưng chùa Trúc Lâm ở Huế là vườn tre vườn
trúc. ở gần Paris làm sao có tre, có trúc, mà chỉ có cây maronniers. Nhưng
chùa Trúc Lâm ở Huế nơi trụ trì hiện nay của Hòa thượng Phó Pháp chủ Mật
Hiển, có thể nói là núp bóng trong vườn trúc dày
đặc. Chùa Trúc Lâm ở
đây mặc dù khá cách xa kinh
đô Paris ồn ào và hoa lệ, nhưng vẫn
không có được bầu không khi yên tĩnh,
trầm lặng của vùng đồi Nam Giao gần cố đô
Huế. Chùa Trúc Lâm ở Huế hiện còn giữ
được bảo vật từ thời Tây sơn, kinh Kim Cang Bát nhã dệt trên gấm,
theo truyền thuyết là do chính công chúa Ngọc Hân, vợ Nguyễn Huệ thêu.
Ở Huế, ngoài chùa cổ Trúc Lâm
ra, còn có nhiều chùa cổ khác, đặc biệt là
chùa Thiên Mụ, nơi trụ trì hiện nay của Hòa thượng Thích
Đôn Hậu, Phó Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt
Nam.
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
Chuông Thiên Mụ nổi tiếng cả
nước với tiếng ngân vang xa rộng của nó. Quả chuông này do chúa Hiến Tông
(Nguyễn Phúc Chu) cấp tiền đúc vào năm
Canh dần (1750). Tiếng chuông chùa Thiên Mụ biểu trưng cho sự hiện
diện của Phật giáo hằng ngày, sớm và chiều tại cố
đô Huế, trong lòng mỗi người dân tại
cố đô Huế. Thiên Mụ là bà lão nhà
Trời. Theo truyền thuyết, Cao Biền khi làm An Nam
đô hộ phủ ở nước ta, dưới đời nhà
Đường, theo lệnh vua Đường là
Đường ý Tôn (860-873), đã
đi khắp nơi ở nước ta, tìm những nơi
đất tốt có vượng khí, đều lập phép trấn yểm.
Cao Biền đã đến Thuận Hóa, xã
Hà Khê, huyện Hương Trà, thấy giữa đồng bằng
đột khởi một cái đồi hình đầu rồng,
biết là nơi linh địa, bèn cho
đào hào cắt ngang dưới chân
đồi. Đêm
đến, Biền mộng thấy một bà lão tóc bạc phơ, ngồi dưới chân
đồi than vãn và nói to: "Đời
sau, nếu có bậc minh chủ, muốn bồi đắp mạch núi lại, đem lại linh khí cho
đồi núi này, thì hãy lập chùa thờ Phật ở
đây..."
Nguyễn Hoàng khi vào Thuận Hóa,
tìm cách gây dựng thế lực, để biệt lập và
chống đối với họ Trịnh, đã
đến nơi này, nghe các bô lão kể lại
câu chuyện bà lão Trời và Cao Biền, thì rất mừng, lập tức cho xây chùa
trên núi, và tự tay viết biển chùa là "Thiên Mụ tự" (chùa Thiên Mụ - chùa
bà lão nhà Trời).
Người Việt Nam bình thường tin
ở thuật phong thủy, nhưng đồng thời cũng tin
ở Phật, Bồ-tát, và đạo Phật. Cao Biền
có tài trấn yểm, nhưng dân Việt Nam có xây chùa thờ Phật là mọi
phép yểm của Cao Biền đều bị phá hết. Ảnh
hưởng của chùa Phật là ảnh hưởng của Tam Bảo, của
đức Phật thường trú, của Chánh pháp mà
bánh xe luôn luôn chuyển động, của Tăng là
những người có trách nhiệm duy trì và hoằng dương Chánh pháp tại thế gian
này.
Ở cố
đô Huế, ngoài hai chùa Trúc Lâm và
Thiên Mụ, còn có một số chùa cổ khác như chùa Diệu
Đế, chùa Quốc Ân, chùa Từ
Đàm, chùa Báo Quốc, chùa Tường Vân,
chùa Thuyền Tôn v.v... phần lớn tọa lạc ở bờ phải sông Hương.
Thế nhưng trong cả nước, thì số
chùa cổ tập trung nhiều hơn cả là ở miền Bắc, nơi có trung tâm Phật giáo
và Phật học Luy Lâu nổi tiếng, với những cao Tăng
xuất phát từ đây sang giáo hóa ở miền Nam Trung Hoa, nơi đã tổ chức
dịch bộ kinh xưa nhất trong văn hệ Bát-nhã,
tức bộ Bát Thiên Tụng Bát-nhã và nhiều bộ kinh
Đại thừa khác.
Trong
đó thì bộ kinh thuộc văn
hệ Bát-nhã, được Lokasema, người đồng
đại với An Thế Cao dịch vào năm 172
T.L. lại là cuốn Astadasasahasrika (18.000 tụng), không phải là bộ
xưa nhất. Một sự kiện nữa đáng chú ý là
cuốn kinh Kim Cương Bát-nhã được Thiền sư
Việt Nam Thanh Biện, thuộc thế hệ thứ tư dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi,
trì tụng hằng ngày phải xuất hiện sớm hơn non hai thế kỷ so với
cuốn kinh Kim Cương Bát-nhã được ấn tống lần
đầu tiên ở Trung Hoa vào năm 868,
tháng 5 ngày 11. Lịch sử ngành in thế giới ghi nhớ ngày này, như là
ngày cuốn sách in đầu tiên ra
đời, mà
đó lại là một cuốn kinh Phật. Thế nhưng, theo cuốn "Thiền Uyển Tập
Anh" cuốn lịch sử Phật giáo xưa nhất, viết vào
đời Trần, thì Thanh Biện tịch vào năm
686, do đó điều chắc chắn là Thanh Biện
đã sử dụng một bản kinh Kim Cương
khác, có thể là đã
được chuyển thẳng từ Nam Ấn Độ sang, và
được dịch ở Việt Nam, bởi những cao Tăng Việt
Nam thông cả chữ Phạn và chữ Hán.
Chi tiết trên tuy nhỏ, nhưng
đủ nói lên tính xa xưa của
đạo Phật Việt Nam, của Trung tâm Phật học Luy
Lâu, và của những chùa tháp Việt Nam
được xây dựng vào thời bấy giờ mà kiến trúc và
điều khắc chắc là mang dấu ấn ảnh
hưởng của Ấn Độ, nhiều hơn là của
Trung Hoa. Những chùa tháp Việt Nam đó hiện
nay không còn nữa, thế nhưng bóng dáng của chúng, ảnh hưởng của
chúng tiếp tục lưu lại phảng phất trong các chùa tháp
đời Lý và
đời Trần.
Chùa tháp
đời Lý Trần hẳn là
đã được
xây dựng khá phổ biến, và có quy mô khá to lớn, cho nên Lê Văn
Hưu, sư gia đời Trần nói về chùa tháp
đời Lý, đã có những câu như:
"Xây chùa cao ngất trời, trồng
cột chùa đá chạm, chùa Phật lộng lẫy
hơn cả cung vua, dân quá nửa là Sư sãi, khắp nước chỗ nào cũng chùa chiền..."
(Thơ Văn Lý Trần tập II - 368).
Rất có thể là Lê Văn
Hưu muốn nói tới hai ngọn tháp mà Lý Thánh Tông cho xây, một ở Thăng
Long (Hà Nội), tức la tháp Báo Thiên, và hai là tháp Lạn Kha ở chùa
Phật Tích và một số tháp khác nay đều không còn
nhưng được nhắc tới trong sách sử với những
thông số chiều cao làm chúng ta ngạc nhiên, và không thể không
đặt câu hỏi: Tháp chùa Phật Tích cao
ngàn trượng? Tháp chùa Báo Thiên cao vài mươi trượng, cột
đá ở chùa Một Cột Hà Nội cao 10
trượng, tháp Chương Sơn còn để lại cạnh chân
dài 19 mét. Nếu tính đại khái 3 trượng
bằng 1 mét Tây, thì độ cao của các
tháp đời Lý quả là đáng kể vậy. Tương
truyền, khi tháp Phật Tích đang còn, thì từ ở Thăng
Long (Hà Nội), người ta có thể nhìn thấy
đỉnh tháp Phật Tích.
Tháp Báo Thiên dựng ở chùa Sùng
Khánh Thăng Long do sắc chỉ vua Lý Thánh
Tông, năm Long Thụy Thái Bình thứ năm
(l056) là một ngọn tháp 12 tầng, cao hơn 80 mét, vốn dược vua
đặt tên là
Đại Thắng Thiên Bảo Tháp, gọi tắt là
tháp Báo Thiên. Ngày xưa, nói tới bốn công trình kiến trúc và
điêu khắc lớn của Việt Nam, thì tháp
Báo Thiên là một. Khi tướng nhà Minh, Vương Thông bị quân của Lê Lợi -
Nguyễn Trãi vây hãm trong kinh thành, Vương Thông
đã cho dỡ phá tháp Báo Thiên, lấy vật
liệu để xây công sự (1414). Nền tháp to rộng
không khác gì ngọn đồi. Đến thế kỷ 18
(1791), người ta đào được ở đây, tám
pho tượng Thần Kim Cương, chia đứng trấn 4 cửa, những tượng người, tiên,
chim muông, giường ghế đều bằng đá nhiều
không kể xiết” (theo sách Tang Thương Ngẫu Lục).
Chóp tháp bằng
đồng, tương truyền là do sư Không Lộ
đời Lý vẽ kiểu và
đúc, với số đồng do Sư dùng phép thần
thông lấy được trong kho của vua nhà
Tống ở tận Nam Kinh. Số đồng lấy về nhiều đến
nỗi sư Không Lộ còn dùng để tạc tượng
Phật ở chùa Quỳnh Lâm, đúc chuông Quy
Điền cho chùa Diên Hựu, và vạc ở chùa Phổ Minh.
Đó là bốn công trình
điêu khắc lớn nhất,
đẹp nhất, nổi tiếng nhất thời bấy giờ, gọi là
"Việt Nam Tứ Đại Khí”, và do một tay
sư Không Lộ làm ra cả. Một Thiền sư đồng thời
là một kiến trúc sư, một thợ đúc đồng
có kỹ thuật, sau này được ngành
đúc đồng Việt Nam suy tôn là Tổ
đúc đồng của Việt Nam, và có
đền thờ tại phường Lò
Đúc Hà Nội. Vâng, chỉ là huyền thoại,
nhưng nó cho thấy các Tăng sĩ Việt Nam thời
Lý có nhiều tài, nhiều nghề, và giúp ích nhiều và thiết thực cho
cuộc sống của người dân.
Bài thơ vịnh tháp Báo Thiên của
Nho sĩ Phạm Sư Mạnh cũng cho chúng ta một ý niệm về
độ cao của tháp, cũng như kiến trúc tráng lệ
của nó:
"Trấn áp Đông Tây giữ đế
đô,
Hiên ngang một tháp đứng trơ vơ,
Non sông vững chãi tay trời chống,
Kim cổ không mòn đỉnh tháp nhô,
Thỉnh thoảng gió lay chuông ứng đáp,
Đến đây những muốn đầu ngòi bút,
Chiếm lấy sông xuân làm mực đề thơ..."
Những câu như
"Non sông vững chãi tay
trời chống,
Kim cổ không mòn đỉnh tháp nhô".
Hay là câu:
"Trấn áp Đông Tây giữ đế
đô".
Không những gợi cho chúng ta
một ý niệm về quy mô của tháp, mà cả về vị trí, vai trò của
đạo Phật như là một Quốc giáo, bảo vệ
quốc gia và dân tộc.
Chừng nào mà những tư tưởng cơ
bản của giáo lý đạo Phật như lòng từ,
lòng bi, hạnh trí tuệ, hạnh hiếu sinh và hiếu hòa, hạnh vô ngã vị tha vẫn
còn là những yếu tố cấu thành khắng khít của truyền thống văn
hóa của dân tộc Việt Nam, chừng nào mà
đạo Phật Việt Nam còn hòa quyện với dân tộc Việt Nam,
đất nước Việt Nam như là nước với sữa,
thì đạo Phật cũng sẽ tồn tại vĩnh cửu như là
dân tộc Việt Nam vậy.
Câu thơ của Phạm Sư Mạnh:
"Thỉnh thoảng gió lay
chuông ứng đáp".
Cho thấy tháp Báo Thiên có mắc
nhiều chuông nhỏ, mỗi lần có gió thoảng qua là có tiếng chuông reo, như là
tiếng nhạc Trời. Kiểu trang trí chuông nhỏ như thế này không còn thấy ở
các chùa Việt Nam hiện nay nữa, nhưng chắc là có phổ biến ở các chùa
đời Lý, và có thể là một kiểu trang
trí du nhập từ Ấn Độ. Khi qua Ulan Ude,
thủ đô nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
tự trị Bouriate (Thuộc Liên Xô cũ) tôi thấy các chùa lớn ở
đây đều có trang trí chuông nhỏ như vậy trên
các tháp chùa màu vàng óng ánh rất đẹp, và
mỗi lần có làn gió thổi qua, dù là nhẹ, chúng ta lại nghe tiếng chuông reo
không khác gì nhạc Trời.
Dân gian có câu:
Đất vua, chùa làng, phong
cảnh Bụt.
Phong cảnh Bụt là phong cảnh
đẹp, nhưng không chỉ đẹp mà còn có
chùa, có Tăng Ni, có tiếng chuông mõ
tụng kinh, thập phương tín đồ dập dìu
cho nên gọi là phong cảnh Bụt chăng? Hay là
phong cảnh Bụt chỉ cho một phong cảnh đẹp một
cách siêu thoát, xa trần tục.
Nhưng có
điều chắc là ở nước ta,
đặc biệt là ở miền Bắc việt Nam, những
nơi nào là cảnh đẹp đều có chùa. Chùa
hòa mình vào thiên nhiên, làm cho thiên nhiên thêm
đẹp một vẻ đẹp sinh động nhưng vẫn siêu
thoát. Hợp từ danh lam thắng cảnh, rất thông dụng ở Việt Nam hiện nay thấy
nơi nào đã là thắng cảnh là có danh
lam, tức là chùa danh tiếng. Tất nhiên, lập chùa trước hết là do nhu cầu
tín ngưỡng của dân chúng, cho nên ở Việt Nam có nhiều chùa làng, chùa chợ,
chùa ở đô thị v.v... Chùa Việt
Nam không những hòa mình vào thiên nhiên, mà còn hòa mình vào dân chúng
dân tộc. Vì chùa dựng lên là để đáp ứng nhu
cầu tín ngưỡng của dân chúng, cho nên, chỉ trừ một vài ngoại lệ
hiếm có, còn thì các chùa đều do dân chúng
góp công góp của mà lập thành. Vị Tăng
sĩ trụ trì thường chỉ đóng vai trò
hóa quyên và điều khiển việc tôn tạo. Bởi lẽ,
người dân Việt Nam tin rằng xây chùa, ấn tống kinh sách Phật là một
công đức lớn, đồng thời chùa
đối với họ là trung tâm của cuộc sống
tâm linh, mà họ rất xem trọng hơn cả cuộc sống vật chất của họ nữa.
Đó là lý do chùa trở thành một cảnh
quan kiến trúc phổ biến ở nước ta, rất tiêu biểu cho
đất nước và dân tộc ta. Hai câu thơ
dân dã:
Mái chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
đủ nói lên vì sao người
dân Việt Nam yêu quý và coi trọng chùa chiền. Thái
độ của người dân Việt Nam, ngay những Nho sĩ
kích bác đạo Phật nặng nề nhất cũng bắt buộc phải thừa nhận. Nho gia Lê
Quát viết trên văn bia chùa Thiên Phúc
ở Bắc Giang như sau:
"Học Phật lấy
điều họa phước làm
động lòng người, sao mà sâu xa bền
chắc đến thế. Trên từ vương công, dưới
đến thứ dân, hễ làm cái gì thuộc về
việc Phật, tuy đem hết gia tài cũng
không tiếc. Nếu hôm nay đem tiền của để làm
chùa, xây tháp thì hớn hở vui vẻ như trong tay
đã cầm
được cái biên lai để ngày sau
đi nhận được số tiền trả báo lại. Cho nên
trong từ kinh thành, ngoài đến châu phủ,
đường cùng ngõ hẻm, chẳng khiến mà theo, chẳng thể mà tin, hễ chỗ
nào có nhà người ở thì có chùa Phật. Bỏ đi thì
làm lại, hư đi thì sửa lại. Lâu
đài chuông trống cũng bằng phân nửa
nhà thiên hạ ở..."
Tôi cho rằng, cho
đến nay, chưa có một bài văn
bia nào nói lên được một cách sinh
động hơn tính phổ cập của tín ngưỡng Phật giáo trong nhân dân Việt Nam
bằng bài văn bia của Lê Quát,
một Nho sĩ không tán thành Phật giáo và kích bác Phật giáo. Tất nhiên,
ngày nay Phật giáo không còn có vị trí quốc giáo như dưới hai
đời Lý và Trần nữa. Nhưng cái hạt
giống tin Phật, thờ Phật, trân trọng Tam Bảo từ lâu
đã nảy mầm, có gốc rễ sâu bên trong
lòng người dân Việt Nam.
Như quý vị
đều biết, một số chùa cổ ở miền Bắc
như chùa Một Cột, chùa Vĩnh Nghiêm đã
được xây lại mới, ở trong Nam, như
chùa Nhất Trụ (Một Cột) ở Thủ Đức, chùa
Vĩnh Nghiêm ở giữa trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Chùa Vĩnh
Nghiêm ở Hà Bắc vốn xây dựng từ thời nhà Lý, về sau trở thành một Tổ
đình lớn của phái Trúc Lâm Yên Tử dưới
đời nhà Trần.
Khách hành hương từ Hà Nội lên
Yên Tử thường dừng chân ở chùa Vĩnh Nghiêm. Từ khi Pháp Loa, vị Tổ thứ hai
của phái Thiền Trúc Lâm đến trụ trì
chùa, thì chùa Vĩnh Nghiêm trở thành một trung tâm Phật giáo danh tiếng
của Giáo hội Trúc Lâm. Từ đây và ở
đây, Tôn giả Pháp Loa đã có những
quyết định quan trọng chấn chỉnh Tăng đoàn,
như ba năm một lần tổ chức sát hạch Tăng sĩ,
người tuy đã thụ giới nhưng tỏ ra không
đủ tư cách và học vấn
đều không được cấp lại độ điệp, tức một loại
chứng minh thư của Tăng sĩ thời bấy giờ. Chính Huyền Quang, sau này
trở thành vị Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, khi còn là Trạng nguyên và
làm quan, đã từng theo vua Trần Nhân
Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm nghe Pháp
Loa thuyết pháp, được giác ngộ và xin
phép vua cho từ quan xuất gia. Trong dân gian có câu:
"Ai qua Yên Tử Quỳnh Lâm,
Vĩnh Nghiêm chưa tới, Thiền tâm chưa đành".
Bản thân tôi
đã từng
được đến viếng ngôi chùa cổ này, được
chiêm ngưỡng tượng ba vị Tổ của phái Thiền Trúc Lâm,
được nhìn nhiều bức chạm gỗ rất có giá
trị nghệ thuật, cũng như nhiều bản khắc các bộ kinh
Đại thừa quan trọng, như kinh Hoa Nghiêm
v.v... đều là những bảo vật của
chùa.
Chính Trúc Lâm
đệ tam Tổ Huyền Quang cũng đã có thơ
vịnh chùa Diên Hựu tức chùa Nhất Trụ hay chùa Một Cột, một kiến trúc
độc đáo của Phật giáo đất Thăng Long. Thiền
sư thi sĩ đã tả cảnh chùa dưới trăng
thu, trên hồ lạnh, giữa tiếng chuông ngân. Chùa Vĩnh Nghiêm cũng
như chùa Nhất Trụ tại Thành phố Hồ Chí Minh nổi tiếng vì kiến trúc
đặc biệt của nó, và cũng nổi tiếng vì
kế thừa nét kiến trúc, Thiền vị và tên gọi của hai danh lam cổ tự tại Thăng
Long.
Nói
đến các chùa cổ ở miền Bắc, không thể
nào không nhắc tới cụm chùa trên núi Yên Tử.
Tôi có
đọc bài giới thiệu cụm chùa núi Yên Tử
của cụ Hoàng Xuân Hãn, đăng trong Tập San
Khoa Học Xã Hội số 5 năm 1978, do Hội
Khoa Học Xã Hội Việt Nam tại Pháp xuất bản. Sau khi giới thiệu khá
chi tiết các chùa, am, tháp trên núi Yên Tử, cụ Hoàng Xuân Hãn
đặt vấn đề nên có kế hoạch "bảo tồn,
tu chỉnh và tái tạo hệ thống kiến trúc và sử học Yên Tử như một cao
điểm của văn hóa Việt Nam, cùng các vị
trí gần như Côn Sơn, Kiệt Đặc v.v...” Cụ gợi
ý là "cùng với vịnh Hạ Long ở kề phía
Đông, Yên Tử có thể tạo thành mội hệ thống du quan quốc tế và quốc
nội".
Cụm chùa Yên Tử là biểu trưng
sinh động của phái Thiền Trúc Lâm Yên
Tử do vua Trần Nhân Tông thành lập và làm sơ Tổ. Còn các phái Thiền trước
đó đều do những người ngoại quốc hoặc Ấn Độ
hay Trung Hoa thành lập và làm sơ Tổ. Phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử,
với vua Trần Nhân Tông không những đã
kế thừa, và tiếp thu có chọn lọc sáng tạo tất cả những gì tinh hoa nhất,
tích cực nhất của các phái Thiền trước đó, mà
còn khéo kết hợp một cách thật sự nhuần nhuyễn nhu cầu tín ngưỡng của nhân
dân với nhu cầu chính trị bảo vệ nền độc lập
quốc gia và dân tộc. Tôi nghĩ rằng, nếu Trần Nhân Tông và Giáo hội
Trúc Lâm không làm tốt được sự kết hợp đó, thì
dân tộc chúng ta ắt khó chiến thắng được quân
xâm lược Nguyên Mông, đặc biệt là
trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai, mà Trần Nhân
Tông phải đích thân chỉ đạo. Tư tưởng chủ đạo
của Thiền đời Trần sớm đã do Quốc sư Trúc Lâm nói với vua Trần Nhân
Tông, khi vua Thái Tông lên núi Yên Tử, muốn xuất gia cầu Phật.
"Sơn bổn vô Phật, duy tồn hồ
tâm. Tâm tịch nhi tri, thị danh chân Phật". Nghĩa là "Trong núi vốn không
có Phật, Phật chỉ có ở trong tâm. Tâm lặng mà biết,
đó là Phật thật". Nói cách khác, hãy
tu tập tâm, rèn luyện tâm để tâm trở thành
vắng lặng, sáng suốt thì sẽ thành Phật, chứ không nhọc cầu ở
đâu bên ngoài, dù là ở trên núi, trong
chùa hay là trong kinh sách. Chùa hay kinh sách chỉ là phương tiện dẫn tới
Phật, chứ không phải là Phật thật. Phật thật chính là lòng mình,
được làm cho vắng lặng và sáng suốt.
Muốn cho lòng được vắng lặng và sáng
suốt, thì phải sống nếp sống đạo đức Phật
giáo, giữ năm giới, mười thiện, thấy vị ngọt nhưng cũng thấy mối nguy của
các dục vọng, sống luôn chánh niệm tỉnh giác, sống giữa đời mà
không lụy với đời, giữa thanh sắc mà
không vướng mắc thanh sắc, đúng như trong
kinh Kim Cang nói:
"Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm"
Nghĩa là tâm của người ngộ
đạo không trụ, không chấp trước, không vướng
mắc vào thanh sắc, vào ngoại trần, nhờ
đó mà được hoàn toàn tự do, tự
tại, thật sự giải thoát, đạt tới sự vắng lặng
sáng suốt của bậc Thánh. Tâm vắng lặng sáng suốt, đó là bí yếu nên
sức mạnh của Phật giáo đời Trần, sức mạnh của
dân tộc ta dưới đời Trần.
Phật giáo
đời Trần tạo cho người hiểu đạo sức mạnh của
nội tâm, là sức mạnh thật sự. Đó là
sức mạnh của Trần Thái Tông, khi ông tuyên bố có thể rời bỏ ngai vàng lúc
nào cũng được, như bỏ chiếc giày rách.
Đó là sức mạnh của Trần Bình Trọng,
khi ông thét vào mặt quân Nguyên, muốn dụ dỗ mua chuộc ông: "Thà làm ma
phương Nam, không thèm làm vương phương Bắc", là sức mạnh của Phạm Ngũ Lão
ngồi đan sọt giữa đường, quân lính của Trần
Hưng Đạo thọc dáo vào đùi, vẫn
ngồi yên không đứng dậy v.v...
Sức mạnh Phật giáo đời Trần còn ở chỗ
đó là Phật giáo không phải riêng của Tăng
lữ, mà là của mọi người. Trong cuốn Khóa Hư Lục, Trần Thái Tông
viết:
"Mạc vấn đại ẩn, tiểu ẩn, hưu
biệt tại gia xuất gia, bất câu Tăng tục, chỉ yếu biện tâm ..."
Ý tứ là: Không thể là ẩn dật
lớn hay ẩn dật nhỏ, không kể là xuất gia hay tại gia, không kể là Tăng
hay tục, chỉ cần biện tâm...
Biện tâm, theo Trần Thái Tông
là tu tập tâm, tìm hiểu tâm, rèn luyện tâm, từ tâm mê mờ biến thành tâm
sáng suốt, từ tâm hướng tà biến thành tâm hướng thiện, từ tâm tán loạn
biến thành tâm định tĩnh. Người nào
biết biện tâm như vậy, tức là người đó sẽ là
bậc Thánh trong đạo Phật, dù có tu ở
trong chùa (ẩn dật nhỏ), hay là sống ngoài
đời (ẩn dật lớn). Một đạo Phật hướng nội, biện tâm, một đạo Phật của mọi
người ... đó chính là sức mạnh
của đạo Phật đời Trần, của phái Thiền Trúc
Lâm Yên Tử, là những giá trị tinh thần bất hủ, là vũ khí giúp dân
tộc ta ba lần chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông,
đã từng làm mưa làm gió trên một nửa
phần Châu Á và Châu Âu, thời bấy giờ.
Trong bài thơ vịnh Yên Tử, nhà
Nho Phạm Sư Mạnh, tuy không có cảm tình với Phật giáo, vẫn thốt lên những
câu xác nhận mối quan hệ giữa Yên Tử và cuộc chiến thắng quân Nguyên Mông
dưới đời Trần:
"Nhớ xưa Trần Trung Hưng,
Khéo xoay vần trời đất,
Ngàn chiến thuyền mặt nước,
Ngàn cờ tinh đầu non,
Trở tay vựng xã tắc,
Hôi tanh sạch giang sơn,
Đến này dân bốn bể
Lâu dài ghi thắng Nguyên ..."
Viện Nghiên cứu Phật học Việt
Nam (Ban Phật giáo Việt Nam) vừa rồi có nhận
được từ ngoài Bắc hai tài liệu đáng
quý về Trần Nhân Tông:
Một là một số bức ảnh về chùa
Minh Khánh, nơi Trần Nhân Tông lui tới nhiều lần, và có
để lại một huyết thư và chín viên ngọc
Xá-lợi. Theo sử liệu, thì sau khi Pháp Loa tổ chức hỏa táng, Xá-lợi của
Trần Nhân Tông được chia làm ba phần:
một phần để ở tháp Huệ Quang trên Yên
Tử, một phần để ở tháp Phổ Minh, tại làng
Tức Mặc, quê hương nhà Trần, và một phần thứ ba
để tại Đức Lăng, hiện không rõ ở
đâu. Phải chăng Đức Lăng chính là xã
Thanh Bình, huyện Nam Thanh (Hải Hưng), nơi có chùa Minh Khánh, nơi nhân
dân đã phát hiện ra Xá-lợi của Trần
Nhân Tông, bốn đạo sắc của nhà Hậu Lê,
nói về bức huyết thư của Trần Nhân Tông để
lại chùa. Do đó, chùa
đã được
Bộ Văn hóa phát bằng công nhận là Di tích Lịch sử có ý nghĩa quốc
gia. Tôi có đem theo đây ba bức ảnh về cảnh
chùa, do Ban Trùng tu chùa gởi cho thầy Mạn
Đà La, tôi cũng xin phép giới thiệu
cho quý vị xem. Cửa chùa gọi là Trúc Lâm môn (cửa Trúc Lâm). Câu
đối hai bên cửa chùa.
"Minh Khánh thiên thu Nhân
miếu phụng,
Thanh Bình vạn cổ huyết thư hương".
Có nhắc tới Trần Nhân Tông và
bức huyết thư của ngài. Thanh Bình là tên xã và Minh Khánh là tên chùa.
Hiện nay Ban trùng tu chùa Minh Khánh đang tổ
chức tu bổ lại chùa, dựng lại tam quan và soạn một cuốn sách nhỏ
"Vua Trần Nhân Tông và chùa Minh Khánh" nhằm giới thiệu chùa, kêu gọi sự
đóng góp của đồng bào Phật tử trong
nước và hải ngoại để cho công việc trùng
tu chùa được hoàn thành nhanh chóng.
Tài liệu thứ hai mà Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam nhận được là
Viện Hán Nôm, thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Một bản thảo sưu tập
mang đầu đề “Chùa cổ Việt Nam" với gần
500 mục từ, sắp xếp theo vần ABC, dựa vào xử lý, tổng hợp 150 thư tịch
thuộc loại tài liệu cơ bản. Hiện chúng tôi đã
giao cho Ban Phật giáo Việt Nam, thuộc Viện chúng tôi
đọc và nhận xét về giá trị khoa học
của bản thảo.
Tôi hy vọng Thiền viện Trúc
Lâm, dưới sự hướng dẫn của Thượng tọa Thích Thiện Châu và sự cộng tác của
quý vị, của đông đảo các nhà Phật học
Việt kiều tại Pháp, sẽ trở thành một trung tâm Phật học có tầm cỡ quốc tế
sẽ nghiên cứu theo chiều sâu và giải quyết nhiều vấn
đề mà giới Phật học quốc tế
đang quan tâm.
Và, với tư cách Viện trưởng
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, tôi xin chính thức
đặt vấn đề phối hợp công tác nghiên
cứu giữa Thiền viện Trúc Lâm của quý vị và Viện Nghiên cứu Phật học Việt
Nam, nhằm nghiên cứu và làm sáng tỏ một loạt vấn
đề Phật học Việt Nam và quốc tế. Hình
thức hợp tác có thể là trao đổi các công trình,
tài liệu nghiên cứu, tổ chức nghiên cứu chung một số vấn
đề Phật học Việt Nam và quốc tế. Thí
dụ một số vấn đề mà hiện nay Phật giáo
Việt Nam và Ban Phật giáo chuyên môn, trực thuộc Viện chúng tôi
đang nghiên cứu và
đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo khoa
học, như "Những đặc điểm của Phật giáo Việt
Nam” (khác với Phật giáo Trung Hoa), “Thiền học của Trần Thái Tông”, “Phái
Thiền Trúc Lâm Yên Tử", "Phân kỳ và phân phái trong lịch sử Phật
giáo Ấn Độ”, “Đạo đức Phật giáo”, “Giáo dục
Phật giáo”, “Thiền Việt Nam” v.v...
Vì Thiền viện Trúc Lâm tọa lạc
gần thành phố Paris có được nguồn thông tin
cập nhật và phong phú. Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam rất mong
được Thiền viện Trúc Lâm cung cấp kịp thời và
đầy đủ những tư liệu thông tin đó.
Để kết thúc bài nói
chuyện của tôi, tôi xin thành tâm cầu chúc cho Thiền viện Trúc Lâm của
Thượng tọa Thích Thiện Châu và quý vị sẽ đóng
vai trò xứng đáng như là biểu
trưng sinh động cho nền Phật giáo của dân tộc
tại hải ngoại, tại nước Pháp, ở đây có đông đảo Phật tử Việt kiều, thường
xuyên hướng về Tổ quốc thân yêu, và Phật giáo nước nhà.
Xem phần tiếp theo
--- o0o ---
Mục Lục
|
01
|
02
|
03
|
04
|
05
06
|
07
|
08
|
09
|
10
|
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
--- o0o ---
Vi tính: Mỹ Hồ
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-02-2004
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục